NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
VI. TỔNG QUÁT
30. THÁI ĐỘ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC
- Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda
Mục đích của bài này là đem sự
hiểu biết thấu đáo về
tôn giáo, tính
khoan dung trong
tôn giáo,
ý nghĩa nền tảng
sâu xa của nó từ
quan điểm Phật Giáo và để hiểu
Phật Giáo đối với các
tôn giáo khác ra sao.
Ý nghĩa sâu xa của
tôn giáo tiềm ẩn là có thể
gìn giữ và
kính trọng tôn giáo của mình mà không trong một đường lối nào lại không
kính trọng hay bất lịch sụ đối với
tôn giáo khác. Vì
mục tiêu này,
chúng ta phải thiếtù lập mối
hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau
hợp tác và
khoan dung giữa tất cả những nhà làm
tôn giáo hầu đạt sự
hòa hợp tôn giáo.
Người ta thường nói đến
khoan dung trong
tôn giáo và sự quan trọng của nó, nhưng rất ít, nếu có, chỉ ra một
con đường thực tiễn để
đạt được sự
khoan dung tôn giáo.
Hy vọng, đọc kỹ bài này,
độc giả có thể có được
bức tranh rõ ràng về
khoan dung trong
tôn giáo và sẽ
nỗ lực vận động khoan dung tôn giáo.
Chúng ta nên
cố gắng loại bỏ cái gọi là phức cảm tự tôn
ưu việt hơn người, nghi kÿ lẫn nhau,
thành kiến tôn giáo, những động cơ
vị kỷ, hãy vì điều thiện tổng quát và đừng đề cao
tôn giáo của mình. Cho nên sự hiểu thấu
tôn giáo tốt hơn khoan dung tôn giáo nhiều.
Vậy, hiểu thấu
tôn giáo tốt hơn khoan dung tôn giáo nhiều. Tất cả các
nhà tôn giáo đều làm việc cho
sự nghiệp chung
giải phóng và
giác ngộ con người. Sự tìm cầu
giải phóng và
giác ngộ tức sự
đi tìm chân lý.
Bất hạnh thay, trong
chúng ta, có nhiều
niềm tin và
tu tập lố lăng được
miêu tả hay
diễn tả như
Chân Lý, mà
thực ra chúng không phải là
Chân Lý. Là những
tín đồ tôn giáo thực sự,
chúng ta phải có
can đảm và sự
tin chắc để
chấp nhận điều
rõ ràng là một
quan niệm sai lầm và
cố gắng sửa chữa nó cho
phù hợp với khoa học và
lẽ phải đồng thời đúng với những đòi hỏi của
Chân Lý.
Nhiệm vụ của
chúng ta sẽ thất bại nếu
chúng ta cứ cố
bám víu vào điều mà
chúng ta biết không phải là
Chân Lý.
Chúng ta cũng
sai lầm, nếu
chúng ta thực hành khoan dung tôn giáo mà
chúng ta khoan dung mà không vạch ra điều thất bại hay
thiếu sót của nó không
phù hợp với
Chân Lý. Trong lúc tìm
Chân Lý chúng ta phải
loại bỏ thái độ tranh đua và phải đoàn kết tay trong tay để đạt
mục tiêu cao thượng của sự
hòa hợp tôn giáo cho
hạnh phúc của
nhân loại.
Mặc dầu Đức Phật vạch ra rằng không có
giá trị đạo lý trong nhiều sự
tu tập tại
Ấn Độ vào thời của Ngài, Ngài vẫn
lịch sự khuyên bảo các
tín đồ đem đồ
cúng dường hay
thực phẩm đến các
Bà La Môn hay những người
khất sĩ khác và hỗ trợ họ bất chấp họ thuộc
tôn giáo nào.
Đức Phật khuyên các
tín đồ không nên làm
đau đớn hay gây thương tích cho thầy tu
Bà La Môn hay một
Bà La Môn. Nơi đây Ngài coi những
nhà sư và
Bà La Môn là những người
đạo giáo. Lại nữa,
Đức Phật nói nếu một người
lừa đảo một
Bà La Môn, hay một
nhà sư hay một người
khất sĩ, bằng cách
nói dối, đó là
nguyên nhân người ấy sẽ bị
đe dọa. Như vậy, khuyên các
tín đồ của Ngài theo đường lối ấy,
Đức Phật đối đãi với tất cả không chút kỳ thị.
Mục đích của
Phật Giáo là hướng dẫn
mọi người sống một
cuộc đời cao thượng không làm hại bất cứ ai, trau dồi các đức tính
nhân đạo nhằm
duy trì phẩm giá
con người, tỏa chiều lòng
lương hảo rộng mở không chút kỳ thị,
rèn luyện tâm tránh
tội lỗi,
thanh tịnh hóa tâm nhằm đạt hòa bình và
hạnh phúc.
Phật Giáo là một
tôn giáo dạy người ta "sống dĩ hòa vi quý".
Trong lịch sử thế giới, không có một bằng chứng nào cho thấy những người
Phật Tử can thiệp hay gây
tổn thất cho bất cứ
tôn giáo nào trên bất cứ nơi nào trên
thế giới với
mục đích truyền đạo. Người
Phật Tử không coi sự
hiện hữu của các
tôn giáo khác làm trở ngại cho sự
tiến bộ và hòa bình của
thế giới.
Thông diệp của
Đức Phật là
lời mời tất cả nắm tay nhau trong tình
huynh đệ cùng chung một
mục đích làm việc trong
sức mạnh và
hòa hợp vì
phúc lợi và
hạnh phúc nhân loại. Ngài không chọn ai, và cũng không coi Ngài là người được chọn.
Những nhà
truyền giáo đầu tiên của
Đức Phật là các vị
A La Hán - những người toàn hảo và
thánh thiện. Họ là những
con người cao thượng, do chính
nỗ lực từ bỏ trần tục, huấn luyện
tinh thần họ
trở thành bậc
toàn thiện. Trước khi gửi các
đệ tử của Ngài đi, Ngài khuyên họ theo đường lối sau:
"Này các vị tỳ-kheo, hãy tiến lên cho sự
lợi lạc cho nhiều người, cho
phúc lợi nhiều người,
từ bi cho
thế giới; đem điều thiện,
lợi lạc, và
phúc lợi của cho
chư thiên và người. Này các
tỳ kheo hãy
tuyên bố học thuyết tối thượng, giảng dạy
một đời sống
thánh thiện, toàn hảo và
thanh tịnh."
Theo
lời khuyên trên,
Đức Phật muốn nói cho ta biết sự khác biệt giữa thiện và ác. Ngài muốn dạy
con người làm sao dẫn đến
lối sống chính đáng,
hạnh phúc và
an lạc. Ngài không bao giờ khuyên các
đệ tử của Ngài đi đổi đạo người ta từ đạo này sang đạo nọ.
Ý kiến của Ngài về đổi đạo là tiến
dẫn đường lối sống đạo lý chính đáng và cao thượng.
Đức Phật không
phê bình hay
chỉ trích bất cứ một
tôn giáo nào, thay vào đó Ngài
soi sáng mọi người bằng cách chỉ cho họ cái
phù phiếm khi
đi vào những
cực đoan của sự
tự hành xác, sự
đam mê lạc thú (nhục dục) và tránh những
dị đoan và những sự
tu tập vô nghĩa dưới
danh nghĩa tôn giáo.
Tôn Giáo Thực Sự
Về câu hỏi thế nào là một
tôn giáo thực sự,
Đức Phật đã đưa ra câu
trả lời phóng khoáng là ở bất cứ nơi đâu
giáo lý về
Tứ Diệu Đế và
Bát Chánh Đạo được thấy, và nơi nào mà ta có thể
tìm thấy những
tín đồ thuần túy đạt được sự mở mang
tinh thần, nơi đó là một
tôn giáo thực sự. Ngài không nói chỉ có
Phật Giáo là một
tôn giáo thực sự, nhưng Ngài
cổ võ con người chấp thuận và
kính trọng sự thực bất kỳ nơi đâu. Đó có nghĩa là
chúng ta không nên
lơ là giáo lý hữu lý của các
tôn giáo khác. Một
thái độ như vậy cho thấy rõ
Đức Phật không bao giờ có
thành kiến với các
tôn giáo khác và cũng chẳng bao giờ
cố ý độc quyền chân lý tôn giáo. Ngài chỉ muốn vạch ra một thứ -
Chân Lý, và tất cả
giáo lý của Ngài đều căn cứ trên Tứ Diệu Đế- đó là khổ hay bất
toại nguyện,
nguyên nhân của khổ,
chấm dứt khổ, và
con đường dẫn đến
chấm dứt khổ.
Bất cứ lúc nào khi
Đức Phật khuyên nhủ các
đệ tử của Ngài hành động hay tránh xa thứ gì, Ngài luôn luôn đòi hỏi họ làm như vậy không chỉ cho
phúc lợi và
hạnh phúc cho chính họ mà còn cho
phúc lợi và
hạnh phúc của người khác. Ngài nói: "Nếu điều đó tốt cho bạn và cho người khác, nên làm, nếu điều đó hại cho bạn và hại cho người khác, không nên làm".
Như một nhà
cải cách xã hội,
Đức Phật đã
tìm ra gốc rễ
sâu xa của
đau khổ nhân loại - tham, sân và si,
ăn sâu vào tâm khảm
con người. Cho nên chỉ do tâm
con người mà sự
cải cách thực sự mới có thể có
hiệu quả. Những
cải cách đặt ra trên
thế giới bên ngoài bằng
sức mạnh chỉ có thể
tồn tại một
thời gian ngắn, nhưng nếu chúng nẩy sinh từ sự thay đổi trong
tâm thức con người mới
lâu dài hơn.
Những khuynh hướng tham sân và si
cuối cùng phải được kh?c phục và thay thế bằng
sức mạnh của
rộng lượng,
từ ái và
trí tuệ. Chỉ do sự
thanh tịnh tinh thần mới có
thể đạt được hòa bình và
hạnh phúc một cách hữu hiệu nhờ vào
tôn giáo.
Phật Giáo trở thành đoàn
truyền giáo đầu tiên mà
thế giới biết đến. Gần 2300 năm trước đây, nhờ những
nỗ lực cao thượng của
Hoàng Đế A Dục trị vì
Ấn Độ (268 - 305
trước Công Nguyên) - khi tới đỉnh cao của
quyền uy trần tục, đã
từ bỏ lưỡi gươm bạo lực, đem hết
thì giờ vào việc
nâng cao Phật giáo và
văn hóa Phật Giáo. Ngài gửi các nhà
truyền giáo, kể cả người con trai và người con gái của Ngài, đến khắp tất cả xứ sở được biết như
thế giới thời đó để
truyền đạt thông điệp của
Đức Phật. Đúng theo
truyền thống cao thượng của
Đức Phật, Ngài không bao giờ quên dặn dò những nhà
truyền giáo là không nên
chỉ trích hay
coi thường tôn giáo khác trong khi
thuyết giảng về
Phật Giáo.
Lời khuyên này được khắc vào bia đá A Dục bằng chữ
Bà La Môn - những
di tích này vẫn còn được thấy ngày nay tại Sarnath, Benares tại
Ấn Độ.
Những câu sau đây trong sắc lệnh của nhà Vua:
"Ta không nên chỉ tôn vinh
tôn giáo riêng của mình và chì trích các
tôn giáo khác. Ta nên
kính trọng tôn giáo của những người khác vì
lý do này hay
lý do nọ. Làm như vậy, ta đã giúp đỡ
tôn giáo của chính mình phát triển và cũng là giúp ích các
tôn giáo khác. Hành động ngược lại ta đã đào huyệt cho
tôn giáo của chính mình và cũng làm hại
tôn giáo khác. Bất cứ ai tôn vinh
tôn giáo mình và
chỉ trích tôn giáo khác, tưởng rằng làm như vậy là
sùng bái tôn giáo mình nghĩ rằng "ta sẽ tôn vinh
tôn giáo của chính ta". Nhưng ngược lại, chính ta đã làm
tổn thương nghiêm trọng tôn giáo của chính ta. Nên
hòa thuận thì
tốt hơn: Hãy lắng nghe tất cả, và sẵn sàng nghe với
thiện chí những
học thuyết giảng dạy bởi các
tôn giáo khác."
Các dân tộc Á Châu hẳn có nhiều
lý do tri ân vị vua vĩ đại này. Là nhà cầm quyền, Ngài làm bổn phận hậu thuẫn mọi
tôn giáo hiện hữu không chút kỳ thị.
Hòa Hợp Tôn GiáoNguyên tắc
tôn giáo dành cho
toàn thể nhân loại. Nếu bất cứ nhóm nào trong
nhân loại không theo những
đức hạnh vĩ đại dạy bởi
tôn giáo - như
nhân từ,
kiên nhẫn,
khoan dung và
hiểu biết, quả là khó khăn cho người khác sống hòa bình.
Lẽ tự nhiên người xảo quyệt và
ích kỷ lợi dụng bất cứ loại
đức hạnh nào, nhưng, hãy để tất cả những
nhà tôn giáo ngày nay, ghi nhớ rằng những kẻ chiến đấu và làm đổ máu dưới
danh nghĩa tôn giáo, đã không
đi theo nguyên tắc
tôn giáo và không
phục vụ chính nghĩa của
nhân loại. Họ chiến đấu cho
lợi lạc cá nhân riêng tư hay
quyền lực dưới
danh nghĩa tôn giáo. Những người thực sự
tu tập không có lý do gì dùng võ lực, họ
giải quyết những khó khăn qua đường lối hòa bình. Một
tôn giáo thực sự không bao giờ tán đồng bất cứ một
hình thức bạo động nào trong bất cứ
hoàn cảnh nào.
Đồng thời, không nên gây kỳ thị
chủng tộc khi mà
chúng ta tu tập tôn giáo của
chúng ta.
Phật tử sống và làm việc với những người
tôn giáo khác mà không có một
hành vi thù địch. Không những thế, người
Phật Tử chưa bao giờ làm đổ máu giữa những
giáo phái khác biệt hay
tôn giáo khác
vì lợi ích tôn giáo.
Ngày nay vì những hành động tàn bạo đã được thực thi và đang
tiếp diễn (đến một mức nào đó) dưới
danh nghĩa tôn giáo, nhiều người đã trở nên vỡ mộng khi nói đến
từ ngữ "tôn giáo"
Duy vật chủ nghĩa,
đạo đức giả, và
cuồng tín đội lốt dưới
chiêu bài tôn giáo, đã gây nên những thảm họa to lớn
trong lịch sử nhân loại.
Giá trị thực sự của
tôn giáo đã nhanh chóng biến mất
từ tâm con người vì họ đang tìm cầu thuyết huyền bí và
hoang đường. Những
tôn giáo vĩ đại đã được
thiết lập trên
thế gian đang phân tán thành nhiều
vô số dạng thức; và thậm chí một số người đã ra mặt
chế diễu tôn giáo. Thời điểm đã tới cho những
nhà tôn giáo ngày nay ngồi lại cùng nhau để tiến dẫn
giá trị đạo lý đúng theo toàn cảnh của nó, thay vì chỉ
lập luận và cãi vã về những khác biệt trong
lý tưởng và
thần thoại tôn giáo .
Tôn giáo không nên bị
giới hạn chỉ vào
thờ cúng và
cầu nguyện.
Tôn giáo không phải chỉ là một
phương tiện trên môi mép mà là một
phương tiện trung gian thực tiễn cho
con người hành động
vô hại,
phục vụ nhân loại, làm điều thiện, và đạt
giải thoát, hòa bình và
hạnh phúc thực sự.
Tôn giáo khác nhau có thể có
niềm tin và
quan điểm khác nhau về sự bắt đầu và
chấm dứt cuộc đời, cùng những
giải thích dị biệt về
sự giải thoát tối thượng. Nhưng
chúng ta không nên
tiến tới những
vấn đề bất hòa ấy để tạo
mâu thuẫn,
đối đầu,
xung đột,
sân hận và hiểu nhầm.
Có quá thừa đủ những
đức hạnh thông thường thuộc
lãnh vực lý thuyết và
thực hành mà các
nhà tôn giáo có thể
giới thiệu dưới
danh nghĩa tôn giáo để người dân có một
lối sống chính đáng, hòa bình và có
văn hóa.
Chúng ta không cần
coi thường hay khiển trách
tôn giáo này
tôn giáo kia. Nếu
chúng ta làm như vậy,
chúng ta dọn đường cho những nhóm
chống tôn giáo đang chờ đợi để
chế diễu và
chỉ trích tất cả những
tôn giáo.
Chúng ta không nên hành xử như vậy cho thấy
thái độ thù nghịch với những người cùng làm
tôn giáo. Nếu
chúng ta làm như vậy, người ta sẽ nói
tôn giáo khuyến khích
nhân loại chia rẽ.
Người
Phật Tử không bị cấm không được tỏ niềm
kính trọng với các
đạo sư tôn giáo khác, họ cũng không bị
hạn chế gì trong việc đi thăm các nơi
thờ phượng và
tham dự các khóa lễ không phải là
Phật Giáo. Họ cho thấy họ
hợp tác hoàn toàn trong khi vẫn giữ nguyên tắc
căn bản Phật Giáo.
Phật Giáo khuyến khích sự
hợp tác và
hiểu biết giữa những
giáo phái. Theo
quan điểm Phật Giáo, nhãn hiệu
tôn giáo không phải là khía cạnh quan trọng nhất để một người được coi là có
đạo lý, mà là một người sống một
cuộc đời đáng kính không hại ai mới có thể coi là người có
đạo lý.
Những ai thấy những
sai lầm và
phê bình Phật Giáo có thể làm như vậy trên một mức độ ở bề mặt thôi. Họ có thể
phê bình những tập
tục truyền thống, những cung cách và tục lệ, nhưng không thể
công kích giáo lý thiết lập bởi
Đức Phật, vì những
giáo lý ấy lúc nào cũng tốt trong tất cả mọi
thời gian. Họ có thể đem bất cứ một
giáo lý nào ra
xem xét nếu họ muốn trắc nghiệm.
Phương pháp sử dụng để trình bày
giáo lý của
Đức Phật rất hòa bình và hữu lý.
Đức Phật kêu gọi qua
lẽ phải và
kinh nghiệm.
Giáo lý được trính bày
trong sáng,
đơn giản rất
ấn tượng,
thoát khỏi sự hẹp hòi và
cuồng tín có
tính chất quốc gia trong
tôn giáo. Những
giáo lý ấy sản sinh người
trong sạch và
điềm đạm.
Phương pháp trình bày này
quét sạch nghi kÿ và
niềm tin dị đoan. Như vậy
giáo lý của
Đức Phật thuyết phục tâm can và đầu óc những người tha thiết tìm cầu
chân lý.
Thái độ khoan dung và
hiểu biết của
Phật giáo đã
thuyết phục nhiều nhà
tư tưởng vĩ đại,
triết gia, duy lý, và những nhà
tự do tư tưởng và cả đến những người theo thuyết 'không thể biết' đều cảm nhận
Phật Giáo là một
lối sống hòa bình.
Theo
Đức Phật,
con người tự chia rẽ vì lòng
ích kỷ to lớn. Khi tính
ích kỷ này
bị khuất phục, sự tương quan
lành mạnh của
nhân loại sẽ phát triển. Sự tìm
cầu hòa bình và đường
lối sống hòa hợp bắt đầu từ bên trong chứ không phải bên ngoài.
Nếu những
nhà tôn giáo ngày nay không thể cùng ngồi lại
với nhau để làm việc trong
hòa hợp, không kỳ thị và
thù nghịch lẫn nhau, hòa bình mà ta nói chỉ ở trong
giấc mộng mà thôi.
Là những người làm
tôn giáo chân chính và
chân thành, xin hãy nắm tay nhau để
củng cố nỗ lực để
xóa bỏ tất cả những gì
mâu thuẫn và kỳ thị trong
giáo lý của
chúng ta và hãy
cố gắng đến mức tối đa đưa ra những
giá trị tinh thần chungnơi
tôn giáo vì lợi ích và
hạnh phúc của
nhân loại bất kể đến
chủng tộc và
tín ngưỡng.
Chúng ta nên nhớ rằng
tôn giáo hiện hữu cho
lợi ích của
nhân loại và
tôn giáo không nên bị
sử dụng sai lầm một cách
cuồng tín trong bất cứ đường lối nào để đạt
lợi dưỡng cá nhân hay
vinh quang cho chính mình.
Hãy Cùng Nhau Đoàn Kết
Tất cả những
nhà tôn giáo doàn kết, không
sử dụng quân phiệt
tôn giáo. Xin hãy để cho họ
chấm dứt tất cả những tàn bạo và giết chóc dưới
danh nghĩa chiến tranh. Xin hãy để cho họ đoàn kết để cho
con người tự do tìm
tôn giáo tùy theo niềm tin sở thích của người đó. Hãy để cho họ đoàn kết để loại đi
tôn giáo độc quyền. Xin hãy để cho họ đoàn kết để không
sử dụng tôn giáo chỗ chợ búa để đổi đạo người khác bằng cách
áp dụng các
phương pháp đáng
nghi ngờ. Xin để cho họ đoàn kết để
kính trọng niềm tin của các đạo khác và những sự
tu tập chừng nào mà những sự
tu tập và
niềm tin ấy
vô hại và không lừa dối dân chúng. Xin hãy để cho họ đoàn kết để
quét sạch thái độ thách đố của sự
cạnh tranh tôn giáo không
lành mạnh, xin hãy để những
nhà tôn giáo đoàn kết để
loại bỏ những tệ nạn và
lề thói vô luân thường thấy trong
xã hội hiện đại. Xin cũng để cho họ đoàn kết để đưa ra một
lối sống ôn hòa giữa những
tín đồ và khuyên những người này đừng đi đến
cực đoan.
Những vị khai sáng của mỗi
tôn giáo đều có
mục tiêu căn bản là đoàn kết cho
nhân loại - để
nuôi dưỡng hòa hợp,
thiện chí, và
hiểu biết giữa tất cả các dân tộc trên
thế giới.
Theo bước chân các vị khai sáng, nhiều nhà
lãnh đạo tôn giáo, cũng đã
tìm cách phát triển lòng
kính trọng sâu xa đối với
niềm tin của người khác.
Bất hạnh thay,
tuy nhiên, một số
tín đồ của
tôn giáo, vì
lý do ích kỷ, và do sự bất-khoan-dung và
tâm địa hẹp hòi, đã
chống lại cốt tủy thực sự của
Tôn Giáo và đã tạo nên
hỗn loạn,
quan niệm sai lầm, kỳ thị và bất-khoan-dung.
Chúng tôi tha thiết
hy vọng bằng cách
nhận thức được những
sự kiện này,
nhân loại một ngày nào đó sẽ đoàn kết trong tình
huynh đệ tôn giáo để cùng làm việc cho
hạnh phúc của tất cả.
Trong
phân tách cuối cùng, sự
kính trọng tôn giáo của người khác nẩy sinh từ
lòng tin tưởng mà ta có trong
sức mạnh thực chất của
tôn giáo mình.