NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
VI. TỔNG QUÁT
24. ĐỊA VỊ CỦA PHỤ NỮ TRONG PHẬT GIÁO
- Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda
Thái độ
xã hội đối với
phụ nữ đã được
đánh dấu bởi sự kỳ thị hậu thuẫn bởi
thành kiến và
ảnh hưởng tôn giáo. Cho nên, kỳ thị
phụ nữ chắc chắn là nét chung của tất cả các
xã hội.
Thành kiến và trở ngại phải đương đầu của người
phụ nữ đều
tương tự giống nhau tại Phi Châu, Á Châu, Mỹ Châu hay AÂu Châu. Đó là một sự làm cho bất lực
đặc biệt mà người
phụ nữ phải nếm trải
căn bản của nó là
thành kiến tôn giáo. Khái niệm về sự bất lực cơ bản của
phụ nữ bắt nguồn
từ tôn giáo. Ở đây, người
phụ nữ được
mô tả là người đàn bà
quyến rũ, và
mọi người luôn được
cảnh cáo phải
đề phòng họ trong hầu hết các
tôn giáo trên
thế giới.
Một số
thành kiến xã hội căn cứ vào tín ngưỡng bình dân. Theo một số huyền thoại
tôn giáo, người đàn ông được
giới thiệu là con của
Thượng Đế. Điều lạ lùng là người đàn bà không bao giờ được
ban cho địa vị tương tự là con gái của
Thượng Đế.
Trong những nhóm
tin tưởng có
linh hồn, có những người giữ khái niệm là
linh hồn chỉ
hiện hữu nơi người đàn ông mà không ở nơi
phụ nữ. Những ai cho rằng
phụ nữ có
linh hồn lại không có
lòng tin rằng
linh hồn của
phụ nữ không bao giờ có thể
tìm thấy một chỗ trên
thiên đàng sau khi chết. Đó là một số
niềm tin lạ lùng cho thấy
rõ ràng bản chất của sự kỳ thị
phụ nữ lan tràn trên
thế giới này.
Phụ nữ được
gán cho những đức
tính xấu nhất của
nhân loại. Họ bị coi như là nguồn gốc của
tội lỗi trên
thế giới, thậm chí đến nỗi bị
quở trách vì những
bất hạnh mà người đàn ông phải đương đầu trên
thế giới này và cả
thế giới bên kia!
Nghi Thức và
Nghi LễTrong một số
giáo phái,
phụ nữ bị cấm không được
thi hành một số
nghi thức và
nghi lễ trên cơ sở vì họ là đàn bà! Có một
thời kỳ họ bị cấm không cho đọc kinh! Hình phạt với những người không
tuân theo là bị cắt lưỡi.
Ngoài ra, họ còn bị làm cho nản trí để không vào các nơi
thờ cúng. Ngay cả khi họ được phép
tham gia tu tập, sự
tham gia chỉ được
hạn chế tại nhà riêng,
liên quan đến các
lễ nghi trong
gia đình. Ngay
hiện tại, tuy nhiều
chướng ngại đã được dẹp, những
trở lực và bế tắc trong việc
nâng cao ánh
sáng trí tuệ và
tinh thần phụ nữ vẫn
hiện hữu trong nhiều mức độ .
Ranh Giới Giữa Nam và Nữ
Theo
lịch sử,
thái độ xã hội đối với
phụ nữ có thể
truy nguyên từ thời
tiền Phật Giáo vào thời
văn hóa Vệ Đà lúc
sơ khai chẳng hạn như Rigveda. Có bằng chứng cho thấy
danh dự và
kính trọng mà người
phụ nữ trước đây được hưởng trong nhà. Từ góc độ
đạo giáo,
phụ nữ có thể tiếp cận
kiến thức cao nhất của cái
tuyệt đối hay Brahma (
Thánh Thiện).
Tuy nhiên,
thái độ phóng khoáng này thay đổi với thới gian. Đó là do
ảnh hưởng và
địa vị thống trị của các thầy tu và việc tập tục
nghi lễ như
thủ đoạn của các thầy tu này và việc đem
hy sinh súc vật. Kinh thánh được
giải thích theo cách mới, và
nữ giới được coi như thấp hơn nam giới cả về
tinh thần lẫn
vật chất.
Lằn
ranh giới giữa người đàn ông và người đàn bà biểu hiện trong
phạm vi xã hội và
gia đình, nơi
phụ nữ tương đối thấp hơn. Chẳng hạn,
phụ nữ bị hạ giá coi như một
sở hữu như một đồ vật.
Địa vị của
phụ nữ là ở nhà, và bị điều động theo
sở thích và
ý muốn nhất thời của người chồng.
Phụ nữ không những phải làm các việc lặt vặt trong
gia đình mà cũng còn phải lo toan đại
gia đình.
Thí dụ, một số
Bà La Môn lấy vợ và sống với vợ, nhưng lại cho rằng các đồ ăn nấu bởi người vợ
bất tịnh không đáng ăn! Từ những
trường hợp như vậy, một huyền thoại được
xây dựng.
Phụ nữ bị
bêu xấu là
tội lỗi, người ta nghĩ rằng đường lối
duy nhất để họ khỏi làm điều ác là làm cho họ luôn luôn bận bịu với
nhiệm vụ làm mẹ và những bổn phận trong
gia đình.
Có một
niềm tin là phải có một đứa con để nối dõi
tông đường thi hành các "lễ nghi cho tổ tiên".
Niềm tin truyền thống này cho là chỉ có con trai mới
gánh vác được những
nghi thức mà họ nghĩ rằng
cần thiết hầu đem
an lạc và
an ninh cho cha ông
sau khi chết. Cũng có
niềm tin cho rằng người đã chết có thể
trở về thành
ma quỷ để hãm hại
gia đình. Cho nên khả năng để sinh con trai
hết sức là quan trọng với một
phụ nữ thành gia thất. Mặt khác nếu người đàn bà không có con, hay không sanh được con trai, người đó sẽ bị thay thế bằng một người vợ thứ hai hay thứ ba - thậm
chí phải ra khỏi nhà vì
niềm tin ấy! Xét từ góc độ tầm quan trọng
liên hệ đến việc sinh con trai với một
phụ nữ có
gia đình,
chúng ta hiểu
đời sống của một người có
gia đình thật bất trắc
tùy thuộc vào việc người ấy có sinh được con trai không!
Tuy nhiên điều này không có nghĩa là
đời sống phụ nữ không chồng ít bất trắc gì hơn những người chị có
gia đình của họ.
Hôn nhân được coi như một phước báu
thiêng liêng. Nhưng một người con gái không lấy chồng bị khinh miệt bởi
xã hội và là
mục tiêu cho họ
công kích.
Về
tinh thần, trong
lãnh vực tu tập tôn giáo,
địa vị mà
phụ nữ đã có lần được hưởng cũng bị khước từ. Theo họ, họ tin là
phụ nữ không có khả năng lên
thiên đường dù có
công đức. Hơn nữa,
phụ nữ không thể tự mình
thờ cúng. Họ cũng tin rằng
phụ nữ chỉ có thể lên
thiên đường khi phục tùng
tuyệt đối người chồng - thậm chí nếu người chồng là một người ác. Đồ ăn do người chồng ăn dư còn lại thường là đồ ăn của người vợ. Những
thí dụ trên đây cho thấy mức độ bất
bình đẳng giữa nam và
nữ giới.
Địa Vị Của Người
Phụ Nữ Được
Tuyên Bố Bởi
Đức PhậtTrái ngược với những tập quán
mù quáng cản trở sự phát triển
tinh thần như vậy,
Phật Giáo có thể được cho là ít kỳ thị nhất trong
thái độ đối với
phụ nữ. Không có chút
nghi ngờ gì cả
Đức Phật là
vị đạo sư đầu tiên cho
phụ nữ cơ hội
bình đẳng,
giải phóng trong
lãnh vực phát triển
tinh thần. Tuy rằng đôi khi Ngài cũng có nói đến khuynh hướng
tự nhiên và và những nhược điểm của
phụ nữ nói chung. Nhưng Ngài cũng
ngợi khen tài năng và khả năng của
nữ giới. Ngài thực sự
dọn đường cho
phụ nữ tiến đến
một đời sống
tôn giáo hoàn toàn. Điều này ngụ ý,
phụ nữ có thể phát triển và
thanh tịnh tâm mình như nam giới và đạt
hạnh phúc Niết Bàn như nam giới. Điều này được
chứng minh nhiều bởi những lời chứng của các Nữ
Tu Sĩ (
Ni Giới) trong thời
Đức Phật.
Lời dạy của
Đức Phật đã có
tác động lớn
quét sạch những
niềm tin dị đoan và những
nghi thức và
nghi lễ vô nghĩa - gồm cả sự hiến tế
súc vật khỏi tâm của nhiều người. Khi
Đức Phật khám phá ra
bản chất thực sự của
đời sống và cái chết,
giải thích về
hiện tượng tự nhiên vận hành vũ trụ cho những người này, họ bắt đầu hiểu. Kết quả là
chấm dứt và
sửa chữa những bất công và
thành kiến đang lan tràn trong
xã hội. Như vậy khiến người
phụ nữ sống
cuộc đời theo đường lối riêng của mình.
Mặc dầu Đức Phật đã
nâng cao địa vị của
Phụ nữ trong
xã hội, Ngài cũng vẫn vạch ra những dị biệt về
xã hội và
tâm lý hiện hữu giữa nam và
nữ giới. Điều này
chứng tỏ đường lối của
Đức Phật rất
thực tế do sự
quan sát của Ngài.
Lời khuyên của Ngài, đưa ra đôi lúc trong ánh sáng của sự
quan sát của Ngài rất
thực tiễn. Nhiều
trường hợp này đã được
miêu tả rõ ràng trong các Kinh Anguttara Nikaya và Samyutta Nikaya. Được
ghi nhận rằng bổn phận người đàn ông là
tìm kiếm kiến thức không bao giờ
chấm dứt. Người đàn ông phải
cải tiến và ổn định kỹ năng và tài thủ công nghệ và
chuyên cần vào công việc của mình. Người ấy cũng phải có khả năng
tìm ra những
phương tiện để
duy trì và giữ vững
gia đình. Mặt khác, bổn phận của
phụ nữ là
coi sóc nhà cửa và chồng.
Kinh
Anguttara Nikaya chứa đựng
lời khuyên rất có
giá trị cho những người con gái trước khi đi lấy chồng. Nhìn thấy trước những khó khăn phát xuất với bên chồng,
Đức Phật đã đưa ra những
lời khuyên về mọi mặt đối với
cha mẹ chồng,
phục vụ cha mẹ chồng trong
tình thương yêu như chính
cha mẹ mình. Người vợ cũng phải
trân trọng và kính nể
thân quyến và bè bạn bên chồng như vậy bầu không khí
thuận thảo và
hạnh phúc sẽ được tạo nên trong
gia đình khi mới về nhà chồng. Họ cũng được khuyên dạy phải
tìm hiểu bản tính người chồng, xác định
hoạt động,
tính nết,
tâm tính của chồng, và trở nên luôn luôn hữu ích và
cộng tác khi mới về nhà chồng. Họ nên
lễ phép, tử tế và
ý tứ trong sự giao tế với người làm. Người vợ phải
dành dụm tiền kiếm được của người chồng và phải biết sự
chi tiêu trong
gia đình cần được tính toán và
duy trì. Đó là
lời khuyên có
giá trị vô tận của
Đức Phật.
Đức Phật cảm nhận
an lạc và hòa hài trong
gia đình ở một mức rộng lớn là do người đàn bà. Ngài cho
Phụ nữ lời khuyên về
vai trò trong đời sống lứa đôi rất
chính xác và
thực tiễn. Ngài
liệt kê một số các đức tính tốt hàng ngày mà người
phụ nữ nên làm hay không nên làm. Vào nhiều dịp,
Đức Phật khuyên người vợ:
- Không nên nuôi tư tưởng tội lỗi đối với chồng;
- Không nên độc ác, thô bạo hay lấn át chồng;
- Không nên phung phí mà nên tằn tiện sống trong phạm vi lợi tức kiếm được;
- Nên canh chừng và gìn giữ tài sản và của cải do người chồng vất vả kiếm được;
- Luôn luôn đức hạnh và trong sạch trong tâm và hành động;
- Phải trung thành và không nuôi tư tưởng hay hành động ngoại tình nào;
- Phải nên cẩn trọng về lời nói và lễ phép trong hành động;
- Phải nên tử tế, cần cù và siêng năng;
- Phải nên quan tâm và từ bi với chồng và thái độ đối xử với chồng phải như người mẹ thương yêu và bảo vệ đứa con trai của mình;
- Phải nên nhũn nhặn và lễ độ;
- Phải nên trầm tĩnh, bình tĩnh và hiểu biết - phục vụ không những như một người vợ mà cũng như người bạn và người cố vấn cho chồng khi cần thiết.
Trong thời
Đức Phật tại thế, các
đạo sư các
tôn giáo khác cũng nói về bổn phận và nghĩa vụ của người vợ đối với người chồng. Họ
nhấn mạnh đến bổn phận
đặc biệt của người
phụ nữ là phải sinh con cho người chồng và
phục vụ chồng
trung thành, tạo
hạnh phúc gia đình. Điều này cũng
tương tự quan điểm của Đạo Khổng.
Tuy nhiên, bổn phận của người vợ đối với chồng đặt ra bởi
tiêu chuẩn kỷ luật của Đức
Khổng Tử lại không
nhấn mạnh đến bổn phận và nghĩa vụ của chồng đối với vợ.
Lời dạy của
Đức Phật không
thiên vị về phía người chồng. Trong Kinh Sigalovada,
Đức Phật nói
rõ ràng cả bổn phận của người chồng đối với vợ và ngược lại. Về phần người chồng, người chồng phải
trung thành,
lịch sự và không khinh miệt. Bổn phận người chồng là
trao quyền cho người vợ; và
thỉnh thoảng cung cấp đồ trang sức cho vợ. Cho nên,
chúng ta chứng kiến thái độ vô tư biểu lộ bởi
Đức Phật đối với cả nam lẫn
nữ giới.
Đức Phật cũng chỉ rõ những điều
cản trở và
bất lợi mà người đàn bà phải chịu. Chẳng hạn như
gian nan và khổ cực lúc phải xa nhà vào ngày cưới để về nhà chồng và nỗi thương đau phải tự mình gánh chịu để
thích nghi với môi trường mới đầy khó khăn và trở ngại. Thêm vào đó là cái
đau đớn và đau tâm
sinh lý mà người đàn bà phải
chịu đựng trong lúc kinh kỳ, mang thai và sanh nở. Tất cả những điều này tuy là những
hiện tượng tự nhiên chỉ
miêu tả những dị biệt
bất lợi và
hoàn cảnh xẩy ra giữa người đàn ông và người đàn bà.
Lời dạy của
Đức Phật về
bản chất thực sự của cuộc sống và cái chết - về nghiệp và về những nẻo luân hồi- đã thay đổi
thái độ đối với
phụ nữ trong
thời kỳ đó. Điều này cũng
đặc biệt như vậy đối với sự quan trọng lớn lao gắn với việc sanh con trai.
Phật Giáo không bao giờ đồng
quan điểm với
quan điểm Bà La Môn là con trai
cần thiết cho người cha để lên
thiên đường.
Đức Phật dạy theo Nghiệp Luật, ta phải chịu
trách nhiệm về hành động và
hậu quả của chính ta.
Hạnh phúc của cha hay ông không
tùy thuộc vào hành động của người con hay người cháu. Mỗi
cá nhân phải chịu
trách nhiệm về hành động của chính
cá nhân ấy. Cho nên không có
nguyên nhân nào cho người đàn bà
lập gia đình phải
lo âu chỉ vì
không sinh được con trai để
thi hành những
nghi lễ cho
tổ tiên. Điều này cũng có nghĩa con gái cũng tốt như con trai.
Có thể rằng trong
thời kỳ đầu
Phật Giáo, con gái không lấy chồng, không bị ngược đãi. Người con gái đó có thể ở nhà
săn sóc đầy đủ
cha mẹ, các anh em chị em còn nhỏ hơn mình. Người con gái đó có quyền
sở hữu tài sản to lớn.
Đức Phật không gán sự quan trọng vào việc sinh con trai. Trong một dịp
Hoàng Đế Kosola đang cùng với
Đức Phật, thì được tin báo một đứa con gái của
Hoàng Đế được sinh ra.
Mong mỏi một con trai,
Hoàng Đế không vui.
Nhận biết như vậy,
Đức Phật đã
ca ngợi phụ nữ, nêu cao những
đức hạnh của người
phụ nữ như sau:
"Một số
phụ nữ thực ra còn
tốt hơn nam nhân. Hãy
nuôi dưỡng bé gái, hỡi vị chúa công . Có những
phụ nữ khôn ngoan,
đức hạnh, được
hết sức kính nể là bà mẹ vợ, là những người
trong trắng. Từ những người cao thượng như thế sanh đứa con trai
dũng cảm, một chúa tể cả vương quốc, sẽ cai trị cả nước của vua."
Đức Phật mở cửa cho
phụ nữ tham gia vào
lãnh vực tôn giáo cho họ được nhập vào Đoàn thể
Tỳ Kheo Ni, Đoàn Thể
Ni Giới. Việc này
mở rộng những
con đường thênh thangcủa
văn hóa,
xã hội và những cơ hội về
đời sống công cộng cho
phụ nữ. Nó cũng dẫn đến
công nhận hoàn toàn tầm quan trọng của
phụ nữ trong
xã hội, và làm như vậy
nâng cao địa vị của người
phụ nữ.
Mặc dù có một vài
bình luận châm biếm có đề cập trong
Tam Tạng Kinh Điển về những mưu chước và cách đối xử của
phụ nữ, nhưng
Đức Phật cũng có ghi trong Kinh Samyutta Nikaya nhiều nét
đặc biệt chuộc lỗi của họ. Được biết rằng trong một số
hoàn cảnh,
phụ nữ được coi như khôn ngoan và
sáng suốt hơn nam giới, và
phụ nữ cũng được coi như có khả năng
chứng đắc hay đạt
thánh quả sau khi tiến bước vào
Bát Chánh Đao cao quý. Mặc dù một số không vừa ýù, qua sự
quan sát kỹ lưỡng,
chúng ta thấy những gì
Đức Phật nói về
phụ nữ vẫn có giá trị ngày nay. Vây nên, trong việc
bộc lộ bản chất của
phụ nữ - như khi
Đức Phật nói đến
trường hợp Hoàng Đế Kosala sinh con gái thay vì con trai -
Đức Phật không chỉ nhằm vảo nhược điểm mà còn vào
tiềm lực của
phụ nữ.
Đức Phật cho thấy
rõ ràng phụ nữ có khả năng
hiểu biết giáo lý của Ngài và có thể
tu tập giáo lý này để đạt
tinh thần ở mức độ nào đó. Điều này cho thấy
rõ ràng do
lời khuyên của
Đức Phật cho nhiều
phụ nữ vào nhiều dịp và
hoàn cảnh khác nhau.
Đức Phật dạy bài học
vô thường cho Khema, người đẹp kiêu kỳ tự đắc. Khema là vợ của Vua
Bình Sa Vương.
Lúc đầu bà này không chịu đến gặp
Đức Phật vì bà này nghe thấy
Đức Phật thường nhắc đến sắc đẹp bên ngoài bằng lời lẽ
coi thường. Một hôm, bà ta ghé thăm
tu viện chỉ để vãng cảnh. Dần dà, Bà bị
lôi cuốn tới
giảng đường nơi
Đức Phật đang
thuyết pháp.
Đức Phật dùng
thần thông biết được
tư tưởng của Bà và tạo
ảo ảnh một người mệnh phụ ngồi trước bà. Khema đang ngắm nghía sắc đẹp của mệnh phụ này thì
Đức Phật biến người đàn bà này đang
đẹp đẽ thành người trung niên rồi thành người già, và
cuối cùng té xuống đất răng gẫy,
tóc bạc, và da nhăn. Sự thay đổi này khiến Hoàng Hậu Khema
nhận thức được cái
phù phiếm của sắc đẹp bên ngoài và cảm
nhận thấy cái phù du của
cuộc đời. Bà
suy nghĩ: "Một
thân hình như
vậy mà trở thành tàn tạ như vậy sao? Thì
thân hình của ta cũng sẽ như vậy ư?"
Nhận thức được
hậu quả như vậy, Hoàng Hậu Khema đắc
thánh quả A La Hán, và với sự
đồng ý của
Bình Sa Vương, Bà đã
gia nhập Ni Đoàn
Tỳ Kheo Ni.
Với các
phụ nữ quá
xúc động và đau buồn về sự mất người
thân yêu,
Đức Phật nói về sự không
tránh khỏi cái chết như
diễn tả trong
Tứ Diệu Đế Cao Quý. Ngài cũng trích dẫn nhiều ngụ ngôn
nhấn mạnh về điểm này. Cho nên, với Visakha, một mệnh phụ
đa sầu đa cảm có một đứa cháu chết,
Đức Phật đã nói như sau:
"Từ thương yêu sinh sầu khổ,
Từ thương yêu sinh sợ hãi,
Với người không còn luyến ái,
Thì không còn sầu khổ, ít sợ hãi"
Sự
thiết lập Đoàn
Tỳ Kheo Ni -- Ni Đoàn -- vào năm
hoằng pháp thứ năm của
Đức Phật,
dọn đường hoàn toàn tự do tôn giáo cho
phụ nữ. Sự
thành công với nhiều chư ni xuất sắc rất lẫy lừng trong việc
nghiên cứu và
tu tập Giáo Pháp. Đứng về mặt
thế giới,
Phật Giáo vươn cao. Bài
thánh ca về Chị Em (Therigatha)
gồm có 77 bài thơ
tác giả là các Ni là niềm tự hào của nền
văn hóa Phật Giáo.
Các ni không bị
giới hạn bởi
Đức Phật trong việc dạy và
thuyết giảng Giáo Pháp.
Tỳ Kheo Ni Đoàn sản sinh một số các nhà
dẫn giải Giáo Pháp và
thuyết pháp lẫy lừng như Sukha, Patacara, Khema, Dhammadinna, và Maha Pajapati (người mẹ
nuôi dưỡng Thái Tử Tất Đạt Đa). Theo
Phật Giáo, con trai không phải là
cần thiết để người cha để được lên
thiên đường, con gái cũng tốt như con trai, nếu được
tự do sống một
cuộc đời độc lập. Cho
phụ nữ được
tích cực chia sẻ
hoạt động vào
đời sống tôn giáo,
Đức Phật đã giúp đỡ
nâng cao địa vị phụ nữ trong đời sống
thế tục.
Tuy nhiên cho phép phụ nữ vào
đời sống tôn giáo quả là quá
tiến bộ trong thời ấy. Vì lẽ
bản chất của sự
cải tiến quá
tiến bộ đối với sự
suy nghĩ của
thời đại ấy, người dân đã không thể tự
thích nghi nên gây ra thoái trào. Cho nên
Tỳ Kheo Ni Đoàn chỉ
duy trì được một
thời gian ngắn vì họ không làm chủ được
tình hình. Những người
Bà La Môn với
ưu tiên của họ trong
hệ thống đẳng cấp
xã hội bị
đe dọa cũng là một
yếu tố khác làm
suy yếu Ni Đoàn. Những người
Bà La Môn này tuyên truyền chống đối "thái độ mới" cho
phụ nữ tự do tôn giáo.
Tại Sri Lanka, Ni Đoàn phát triển
cho đến năm 1017 Tây Lịch đời
Hoàng Đế Mahinda IV. Sau đó Ni Đoàn tan rã và không còn
tái lập được. Nhưng Ni Đoàn được
giới thiệu vào Trung Hoa bởi những Ni Sinhalese, và vẫn còn
tồn tại cho đến ngày nay cũng giống như
Nhật Bản.
Tuy nhiên theo
truyền thống Đại Thừa,
ni giới chỉ đóng môt
vị trí phụ thuộc không thể bằng các tăng được.
Tiến Tới Bình Đẳng và
Tự DoSự
tiến tới thời đại tiên tiến của thế kỷ thứ 19 và 20 khác xa thời
Đức Phật.
Giải phóng phụ nữ, tìm
tự do và
bình đẳng đạt được bước tiến dài,
đặc biệt ở
Tây Phương. Việc này do kết quả những
xu hướng và
tư tưởng hiện đại, và
giáo dục tiên tiến cho
phụ nữ ở tất cả
địa vị học hành cao cấp.
Susan B. Anthony, người Hoa Kỳ
tiên phong trong việc
tranh đấu bình đẳng cho
phụ nữ từ năm 1848, hơn 148 năm qua. Từ đó, các
phong trào và
tranh đấu với
mục tiêu rộng lớn hơn, đã tiến lên với nhiều
phụ nữ tiên phong và nhiều tổ chức
phụ nữ. Những
phụ nữ này
tin tưởng là phái nữ có một
vai trò trong tình đoàn kết
ái quốc với phái nam góp phần
xây dựng một thế giới
tốt đẹp hơn qua một
xã hội và một
quốc gia tốt đẹp hơn.
Từ năm 1848, có những
phong trào bình dân được tổ chức để đòi hỏi
giáo dục bình đẳng, quyền chính trị
bình đẳng, và kinh tế
bình đẳng cho phái nữ. Ở phương Tây,
địa vị phụ nữ được
nâng cao bởi những
hoàn cảnh phát sanh bởi cuộc
cách mạng công nghiệp,
phong trào nhân đạo, và
phong trào phụ nữ đòi
bình đẳng. Nhưng, tại Á Châu và những nước khác,
công nghiệp kém phát triển, những sự thay đổi được đem đến do những nhà cải tổ có nguồn gốc
tôn giáo.
Trong năm, sáu chục năm qua, có một sự
gia tăng đều đều số
phụ nữ tham gia vào kinh tế,
xã hội cũng như
đời sống chính trị tại các nước của họ. Sự
thành công như vậy
đạt được bởi phái nữ
mới đây trong các lãnh vực- khoa học
xã hội, kinh doanh, kinh tế và cả trong
lãnh vực chính trị - được
mô tả như
phi thường.
Mỉa mai thay, tuy một số
phụ nữ đã
tiến tới tột cùng trên vũ đài chính trị như giữ chức
thủ tướng tại nước của họ, nhưng tại một số nước khác, những
phụ nữ đương thời lại chưa có quyền công dân - quyền bầu cử! Mặc dù, hầu hết các nước bây giờ đã
áp dụng thái độ công bằng hơn, và đã tạo những cơ hội về
giáo dục và nghề nghiệp cho
phụ nữ,
kinh nghiệm không vừa ýù và sự kỳ thị mà họ đã đưa lên
với nhau cùng với sự
ganh đua và
sợ hãi vẫn là
thái độ phỏ biến ngày nay
Thực ra nếu nói là một số
hình thức kỳ thị vẫn còn
tồn tại đối với phái nữ là nói không đúng
sự thật.
Hành động quốc tế
nâng cao địa vị phụ nữ bắt đầu bằng một phương thức nhỏ bé với Hội Quốc Liên nay đã giải tán sau Thế Chiến Thứ Nhất. Sau này
Hiến Chương Liên Hiệp Quốc đi
xa hơn nữa qui định nguyên tắc
bình đẳng và
tự do cho tất cả
phụ nữ. Một Ủy Ban về
thể chế phụ nữ, một
cơ quan của
Liên Hiệp Quốc
điều tra vấn đề kỳ thị giới tính và
bàn cãi về những câu hỏi
liên quan đến quyền chính trị của
phụ nữ; bình dẳng về lương bổng cũng như
bình đẳng về
việc làm,
địa vị phụ nữ trong luật tập tục, quốc tịch
phụ nữ khi lấy chồng; cơ hội
giáo dục và kinh tế cho
phụ nữ; giúp đỡ kỹ thuật và sự
tham gia của
phụ nữ.
Tuy nhiều việc đã được
hoàn tất qua các
phong trào phụ nữ đòi quyền bầu cử, những tổ chức
phụ nữ quốc tế đấu tranh cho sự
tham gia rộng rãi hơn của
phụ nữ vào các
lãnh vực xã hội, kinh tế, và chính trị, nhưng
vấn đề thực sự
tự do vẫn chưa
giải quyết được.
Tự Do Trong
Ý Nghĩ Phật GiáoTự do thực sự phải là
tự do hoàn toàn thoát khỏi mọi
hình thức của
ràng buộc. Nó chỉ có
thể đạt được do sự phát triển
tinh thần đúng cách và
thanh tịnh tâm của chính mình - tẩy sạch tất cả những dấu vết của
tham sân si. Không có
bàn luận công khai,
biểu tình hay
hiến chương quốc tế có thể mang lại
tự do hoàn toàn. Những việc này chỉ có
thể đạt được do
chuyên cần của chính mình và sự chú ý vào việc
tu tập thường xuyên về thiền như
Đức Phật dạy.
Đức Phật, trong khi
xúc tiến nguyên nhân về
phụ nữ, được coi như người đầu tiên
giải phóng phụ nữ, và là người
vận động cho
lối sống dân chủ. Chính trong
Giáo Pháp Phật Giáo,
phụ nữ không bị khinh miệt và
hạ phẩm giá mà
địa vị còn được nâng lên như phái nam trong
phương diện tinh thần cố gắng để
đạt trí tuệ và
giải thoát.