NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
V. TU HÀNH PHẬT GIÁO
22. GIỚI HẠNH (SILA)
- Hòa Thượng Phra Sasana Sobbana - Thái Lan
Giới hay hạnh kiểm
đạo đức à nguyên tắc
cư xử của
con người tạo cuộc sống có
trật tự và hòa bình trong
cộng đồng.
Luật lệ của hạnh kiểm
luân lý tìm thấy ở mọi
tôn giáo. Những luât lệ này có thể giống nhau về
tiêu chuẩn hạnh kiểm ở mức độ nhiều hoặc ít
tùy theo chúng bắt nguồn từ vị thầy hay
hệ thống tôn giáo nào.
Thường thường những
luật lệ này
bao gồm những bản
liệt kê những hành động phải
tiết chế, ngụ ý những hành động nào không nằm trong sự cấm đoán là được phép. Một
thí dụ là
năm giới của người
Phật Tử, đó là không giết
chúng sinh, không được lấy bất cứ thứ gì nếu thứ ấy không được cho bởi chủ nhân, không
tà dâm, không
nói dối hay nói lời
tội lỗi, không dùng những chất say,
nguyên nhân đầu tiên gây ra
sơ xuất .
Năm giới này là nguyên tắc
căn bản của
Phật Giáo hầu hết
mọi người đều biết đến. Theo
thông lệ những giới này được giảng cho họ trong hầu hết các cuộc lễ để họ tự
tuyên bố chính thức ý định giữ các giới này. Người dân trong các
quốc gia Phật Giáo nhìn thấy hay nghe các thầy tu nói ra những giới này từ khi họ còn nhỏ và chưa hiểu những giới này. Bởi vậy cho nên, đó là điều
lợi ích khi xét qui mô mà
đa số nhận thức được sự quan trọng của giới và điều mà họ nghĩ về giới, nhất là hầu hết các giới
ấn định tiêu chuẩn đạo đức khác biệt lớn với cái
lề thói thường ngày của
con người. Một số người
ủng hộ giới trong khi một số người khác không
ủng hộ, một số người
tu tập giữ những giới như sau:
Giới Thứ Nhất: Sự cấm
lấy đi mạng sống không những chỉ cho
loài người mà cho tất cả các sinh vật thuộc mọi loại, cả lớn lẫn bé, từ con sâu con kiến. Mỗi ngày, một số lớn
súc vật bị giết để làm
thực phẩm, người
ăn thịt nhiều, trong khi những người
ăn chay lại ít. Trong
lãnh vực khoa học, nhiều con vật được dùng trong nhiều công cuộc khảo cứu và thử nghiệm. Trong
lãnh vực hành pháp, vũ khí được
sử dụng để
diệt tội phạm. Những
cơ quan bảo vệ luật pháp trừng phạt kẻ
phạm pháp. Những kẻ hiếu chiến
sử dụng vũ khí để giết hại lẫn nhau. Những hành động kể ra trên đây là những
thí dụ không bị coi là bất
hợp pháp hay đi ngược lại lề lối hàng ngày trên
thế giới.
Thực ra, người ta còn có thể cho là sai khi cấm làm những hành động đó, như
trường hợp cảnh sát hay quân
nhân không làm tròn
nhiệm vụ cảnh sát hay quân sự. Ngày nay, nhiều
động vật bị cấy những
vi trùng, và nhờ những
vi trùng, những mầm bệnh, và nhiều loại
vi trùng đã được
khám phá. Hầu hết mọi thứ đều chứa
vi trùng - ngay cả đến nước uống. Tuy có một phần lớn những
bất tịnh được ngăn lại bởi máy lọc,
vi trùng vẫn qua được. Cho nên
vô số vi trùng vào trong cuống họng ta với mỗi ngụm nước. Cũng giống như vậy với thuốc men, bất cứ lúc nào thuốc men được dùng đến,
vô số vi trùng bị giết. Những
vi trùng có được coi như
chúng sinh (trong
ý nghĩa của giới thứ nhất ) hay không phải là chúng sinh? Nếu như vậy, không ai có thể
hoàn toàn tuân theo giới này được.
Ngoài ra một số người có
quan niệm là người không giết mạng sống con vật cũng nên không
ăn thịt, vì nó khuyến khích người giết và người ăn, tội cũng không kém gì người giết.
Giới Thứ Hai: Lấy bất cứ thứ gì mà không được cho bởi chủ nhân hay
trộm cắp cũng sai ngay cả về mặt pháp lý.
Tuy nhiên, chẳng hạn có ngoại lệ về
tài sản của kẻ địch trong
trường hợp chiến tranh.
Giới Thứ Ba: Gian dâm là sai. Người
phạm tội gian dâm không còn được kính nể và không được ai
tin cậy.
Tà dâm dính líu tới những người mà mối
liên hệ vợ chồng phải tránh theo tập tục, hay với những người cấm bởi
pháp luật, hay bởi Pháp, là sai. Cho nên
ép buộc bằng
phương tiện vũ lực hay tài chánh một người đã có
gia đình hay người chưa có
gia đình ưng thuận là
tà dâm.
Mục đích của giới thứ ba là
gìn giữ sự
kính trọng gia đình và mỗi người
liên hệ để
bảo vệ tính cách thiêng liêng bất khả
xâm phạm.
Ngoài ra,
kính trọng người, nơi ăn chốn ở, và
tài sản phải là một tập
quán hành xử, như đã ghi trong sách: "Đạo Đức của người lương thiện", chẳng hạn như sau: "Không được vào nhà khi không được mời. Không được nhìn trộm vào phòng người ta từ bên ngoài". Rất
thích đáng cho
chúng ta áp dụng cung cách lấy từ những giới hay
luật lệ luân lý, tất cả những
luật lệ ấy nhằm vào khuyến khích hành xử
lương thiện và ngăn chặn
tính cách lỏng lẻo
vô kỷ luật.
Giới Thứ Tư: Nói dối thường được coi là sai.
Tuy nhiên, người ta rất
ít khi nói thực
với nhau và
lời nói của họ khó mà có thể tin được. Đôi khi họ không thể nói được
sự thật, chẳng hạn, họ phải
nói dối để
thoát khỏi bị hại, và
bác sĩ nói dối để giúp đỡ
tinh thần bệnh nhân.
Nói dối vào những
trường hợp như vậy có thể là trái ngược với Giới, nhưng không hẳn là trái ngược về
mục đích. Giới này
mục đích là đem
lợi ích hỗ tương bằng cách gắn vào
sự thật và tránh sự
xúc phạm bằng
lời nói. Giống như vậy, lời
phát biểu làm hại
hạnh phúc người khác, chẳng hạn
lời nói hiểm độc,
sỉ nhục, hay
phỉ báng nhằm
nhạo báng người khác và khoe khoang mình là người
đáng tin, có thể là sự thực nhưng những lời như vậy bị coi là sai vì chúng
trái với Giới. Được biết chính
Đức Phật nói điều
tin cậy là điều hữu ích và đem
lợi lạc. Ngài đặt ra Giới
chống lại nói dối, làm nản
lời nói hiểm độc, không
đứng đắn và
vô ích.
Giới Thứ Năm: Mặc dầu luật cấm dùng các chất say, sự
tiêu thụ chất say không giảm và những nhà máy cất rượu vẫn
hoạt động mạnh mẽ. Những tiệm rượu vẫn được mở cả đêm ngày. Tại các cuộc
tiếp tân, hội chợ
vân vân.. người ta vẫn uống rượu để
kích thích cuộc vui nếu không họ sẽ chán nản và ít người đến. Rượu
trở thành lợi nhuận tức mang lại một số doanh thu to lớn mỗi năm.
Thực hành được coi như đúng với người này lại sai với người khác; có thể cả hai ngược lại với giới, như trình bày ở cái ví dụ trước đây. Tất cả những điều này cho thấy ta càng ngày càng không hiểu giới, không
công nhận sự quan trọng của giới và không cảm nhận
ý nghĩa của giới cho một cuộc sống trên
thế gian này. Cho nên đó là
lý do tại sao
quan điểm sai và đúng sau đây đều có những người
biện hộ:
1. Những nguyên tắc của giới nên được
sửa đổi cho
phù hợp với những người có nghề nghiệp trong cuộc sống
bình thường. Chẳng hạn, một số người
cảm thấy Giới Thứ Nhất phải thay đổi
cho phép giết theo luật định, nghĩa là chỉ khi giết mà không được luật
cho phép thì mới bị cấm mà thôi. Hơn nữa, Giới Thứ Tư, theo họ nghĩ, nên được
linh động và
nói dối được
cho phép khi
nói dối để
bảo vệ mình và người khác. Cũng vậy với Giới Thứ Năm uống chất say được
cho phép vào những dịp nào đó và không được
thái quá.
2. Nguyên tắc của Giới phải để nguyên vẹn nhưng không ai
cần thiết phải
để ý đến giới. Nếu những ai hành động
tôn trọng luật pháp họ được coi như những người
vừa ý. Xét cho cùng luật là một loại giới. Luật được đặt ra để
bảo đảm hòa bình và
hạnh phúc cộng đồng, tuy rằng nó không
hoàn toàn căn cứ trên nguyên tắc
tâm lý và
luân lý hữu lý những điều là
nền móng của Giới, một điểm mà ta bàn đến sau này.
3. Nguyên tắc của giới phải nên để nguyên bất khả
xâm phạm, nhưng được
lưu ý và giữ từng lúc một
tùy theo hoàn cảnh cụ thể.
Đa số người
Phật Tử thuộc loại người hành động theo đuờng lối này. Họ không thay đổi nguyên tắc của
giới luật vì họ
tin tưởng hoàn toàn vào giới và
giữ giới tùy từng dịp. Chẳng hạn, một số
Phật Tử không uống rượu trong một
thời gian nào đó, nhưng rồi họ lại bắt đầu uống
trở lại. Nếu họ là dân chài lưới, buôn cá, họ không
giữ Giới Thứ Nhất, vì nếu
giữ giới này, họ không thể đánh cá hay bán cá, nhưng họ có
thể không giết hại con vật khác. Nếu họ là những sinh viên y khoa, họ không thể giữ
hoàn toàn Giới Thứ Nhất, nếu họ
giữ giới này, họ không thể
sử dụng động vật trong công cuộc khảo cứu và thử nghiệm, nhưng họ vẫn
giữ giới này bất cứ lúc nào có thể
thi hành được, có nghĩa là khi
giữ giới không trở ngại đến nghề nghiệp và việc
thi hành bổn phận của họ.
4. Nguyên tắc của Giới nên được giữ không thay đổi và phải
triệt để thi hành. Rất ít người giữ
quan điểm này. Nguyên tắc này có một số
hoài nghi về
vi trùng, và những ai không
triệt để tuân theo Giới có thể có sự
nghi ngờ hoặc do tò mò hoặc cho rằng
Giới không thể
thi hành được. Để quyết đ?nh
vi trùng phải hay không phải là một
chúng sinh (trong
ý nghĩa của Giới ), ta nên xét đến
cuộc đời Đức Phật. Bất cứ lúc nào
Đức Phật lâm bệnh, Ngài
cho phép Bác Sĩ Jivaka Komarabhacca
áp dụng chữa trị bên ngoài hay cho Ngài uống thuốc. Những thầy tu cũng được phép dùng hay
áp dụng cách chữa trị để chữa bệnh. Cho nên,
chúng ta có thể
kết luận Giới Thứ
Nhất không áp dụng về
vi trùng. Nếu
áp dụng,
chúng ta không thể ăn hay uống gì được, ngay cả thở nữa. Giới phải là những
luật lệ về hạnh kiểm mà bất cứ ai cũng có thể theo được trong một cách thức bình thuờng
thực tiễn và không cần đến dụng cụ như kính hiển vi. Việc
sử dụng những dụng cụ này dành riêng cho những người làm nghề y khoa hay khoa học.
Về việc
tiêu thụ thịt như
thực phẩm, chính các
Phật Tử cũng chia thành hai phái. Một phái cho rằng
ăn thịt thì cũng không kém
tội lỗi như hành động của người giết. Họ cho rằng nếu thịt không được dùng làm
thực phẩm, thì không có
nguyên nhân phải giết chóc
súc vật, cho nên
tiêu thụ thịt chịu
trách nhiệm trực tiếp về việc giết,
vì vậy ăn thịt là sai.
Giới Luật hay kỷ luật
cho phép các thầy tu
ăn thịt trong ba
trường hợp, đó là: nếu họ không thấy và không nghe thấy tiếng kêu của con vật
bị giết, và
không có lý do nào để
nghi ngờ là giết để cho họ ăn cũng như
chống lại sự giết hại để đem bán. (Cũng có
luật lệ cấm thầy tu
ăn thịt sống hay mười loại thịt bị cấm trong do có thịt hổ và thịt voi). Theo phái này,
nhà sư thuộc trường phái
Phật Giáo Nguyên Thủy, không được
lựa chọn và
tự do ăn thịt. Họ có thể dùng rau và thịt
cung cấp không phạm vào ba
trường hợp ghi trên được
tuân hành và thịt không phải là một loại bị cấm. Các thầy nhận bất cứ thứ gì dâng cho quý thầy, dù là rau hay thịt đúng loại. Điều này không
trái với Giới, vì lẽ tấm
lòng nhân hậu của những người
Phật Tử như vậy, nhất là các thầy tu tràn ngập với lòng
lương hảo và
từ bi vô bờ bến đối với loài vật. Không bao giờ họ là
nguyên nhân để
súc vật bị giết. Hơn thế nữa, để
đối lập với
quan điểm rằng
ăn thịt là sai, họ đưa ra
lập luận như sau: Nếu
tiêu thụ thịt sai về mặt
đạo đức thì việc dùng da, xương, sừng cũng phải cấm. Việc
sử dụng này phải coi như sai. Cả hai phái vẫn còn
mâu thuẫn về
vấn đề này, và một số thành viên của họ vẫn còn có các
lập luận. Nhưng có một số người không
lý luận, để
toàn bộ vấn đề tùy thuộc lương tâm của
cá nhân. Ta không nên bắt người khác phải
chấp nhận quan niệm riêng của mình. Làm như vậy gây ô nhiểm
tinh thần, cho nên phải tránh.
Câu hỏi được nêu lên là vì
mục đích mà
Đức Phật hy vọng phục vụ nhân loại bằng cách đặt ra Giới
ấn định sự
tiết chế không
thỏa hiệp mà chỉ có một số ít người có thể
tuân hành, phải
chấp nhận là không ai cho là có thể biết được thâm ý của Ngài.
Ý định đúng của Ngài là làm như vậy;
tuy nhiên ta có thể thu thập
lý do từ nhiều nguyên tắc nêu trong Pháp.
Đức Phật dạy
chúng ta so sánh ta và người khác bằng cách nói: "Tất cả
chúng sinh đều
sợ hãi trừng phạt và cái chết. Mạng sống quý giá với tất cả
chúng sanh (cũng như với
chúng ta). Hãy đặt
chúng ta vào chỗ của chúng,
chúng ta hiểu rằng
chúng ta,
cá nhân, không nên giết mà cũng không nên khiến người khác giết". Trên nguyên tắc của Pháp,
Đức Phật muốn
chúng ta hiểu,
thâm nhập cảm nghĩ của người khác là tất cả
chúng sinh quý
đời sống cũng như
chúng ta quý và đều
sợ hãi cũng không kém gì nhau về cái chết. Đó là
lý do tại sao, như một
vấn đề công lý đơn giản,
Đức Phật đã đặt ra Giới Thứ Nhất. Giới Thứ Hai được hình thành là để khuyến åkhích
tôn trọng lẫn nhau về quyền
sở hữu của mỗi người. Giới Thứ Ba khuyến khích sự tương kính
gia đình của nhau. Giới Thứ Tư
bảo vệ quyền lợi hỗ tương bằng
sự thật. Giới Thứ Năm giúp
chúng ta tránh bất cẩn và sao lãng. Nếu
chúng ta muốn
giữ gìn cẩn thận của cải,
gia đình,
tín ngưỡng,
chúng ta không nên
xâm phạm quyền của người khác.
Tất cả những Giới và
luật lệ hạnh kiểm đều căn cứ
duy nhất vào nguyên tắc của một nền
công lý toàn hảo. Chúng cho thấy sự
kính trọng đời sống,
nhân quyền,
tài sản,
vân vân... của
Phật Giáo với
mọi người. Đó là
sự thật thế gian hay
quy ước. Nếu
Đức Phật thiết lập Giới
linh động và có thể
áp dụng theo lời
mong ước của đ?i chúng, thì giới ấy không
phù hợp với
bản chất của một nền
công lý toàn hảo. Chính Đức cũng cho thấy chính Ngài
thiếu từ bi với những con vật mà việc giết chúng được
cho phép. Điều này không
phù hợp với
đặc tính của
Đức Phật tràn đầy
từ tâm với tất cả
chúng sinh. Một
lý do khác đã nói ở phần đầu là
Giới khuyến khích "một
lợi ích đặc biệt". Đó có nghĩa là
hậu quả tối thượng của sự
tôn trọng giới là
giải thoát khỏi tất các
ô trược. Giới là
bước đầu tiến tới mục đích ấy. Giữ được tất cả giới, dù rằng chỉ có
năm giới, có thể
tiến tới một mức độ cao hơn mà ở đó
lợi ích "rất đặc biệt"
đạt được. Điều có lẽ quan trọng
đặc biệt về giới là
khám phá ra tại sao người ta chú ý hay không chú ý đến việc
giữ giới. Một số
lý do ấy như sau:
1. Do sự khắt khe của Giới:Thí dụ cấm
lấy đi mạng sống của một
chúng sinh.
Giả sử những
luật lệ hạnh kiểm đặt ra trong đường lối
thích nghi hơn,
khoan dung một số
vi phạm chúng ta đã bàn, thì như vậy giới được nhiều người hay ít người tuân theo?
Rõ ràng, không ai dám
bảo đảm sẽ xẩy ra ra sao vì lẽ ta có
cảm tưởng chung là
luật lệ tinh thần,
đặc biệt những luật
liên quan đến những điều theo
ý nghĩa thế gian hoặc
ý nghĩa pháp lý bị coi là sai, lại luôn luôn bị
vi phạm dù là giới thứ nhất hay bất cứ giới nào khác. Điều này
chứng tỏ sự
giữ giới không phải là do sự khắt khe. Thông thường, khuynh hướng
tự nhiên của ta là theo tất cả những hành động đem
tiện nghi và
thuận lợi cho chính mình. Mọi
quốc gia đều có
luật lệ của
quốc gia ấy và mọi
tôn giáo đều có
giới luật của
tôn giáo ấy. Cả đến một số luật rất
linh động và dễ
thích nghi,
vẫn có thể chỉ có một số ít dân chúng
vi phạm luật lệ ấy. Cho nên
lý do vi phạm nằm trong chính
cá nhân ấy;
Đa số có khuynh hướng
tự nhiên không
lưu ý hay thay đổi luật cho
phù hợp để
thuận lợi cho họ và có
đủ khả năng để làm như vậy.
2. Do chính những cá nhân:Rồi tại sao
cá nhân vi phạm luật, dù việc này thường được coi là sai theo luật pháp?
Nguyên nhân của sự
cư xử như vậy
bao gồm chính trong
cá nhân con người và
chắc chắn là do tham, sân và si, sinh ra từ trong tâm như những
ô trược và đến lượt lại
vắng bóng sự
xấu hổ và kinh sợ
tội lỗi. Cho nên khi thay đổi
cần thiết, thay đổi không phải là ở nơi nguyên tắc của giới mà là sự thay đổi của tâm có nghĩa là
giảm thiểu ô trược hơn là làm
tăng chúng lên trong đường lối biết
xấu hổ và sợ
tội lỗi - biết
xấu hổ và kinh sợ gây
tội lỗi phát hiện trong tâm. Bằng cách hành xử như vậy, khả năng
giữ giới của
chúng ta sẽ trở nên to lớn hơn.
Giữ giới tốt hơn không có nghĩa là
tiết chế mọi thứ bắt phải làm theo.
Tiết chế từ điều đuợc coi như sai
theo quan niệm trần tục hay theo pháp lý chính nó là hạnh kiểm có thể
chấp nhận được.
3. Do Sự Cần Thiết:Như những
trường hợp sau đây:
Vi phạm Giới Thứ Nhất để
bảo vệ tài sản của mình,
đời sống,
quốc gia,
tôn giáo, vua chúa, như xẩy ra tại chiến địa hay khi ta phải
giải quyết với
tội phạm hay kẻ địch.
Vi phạm Giới Thứ Hai để giữ mạng sống của mình vì đói hay thực sự
nghèo khổ. Dường
như không có
lý do nào để
vi phạm Giới Thứ ba vì
giữ giới này
chắc chắn không giết ai cả.
Vi phạm Giới Thứ Tư vì
hạnh phúc của chính mình. Nhiều
trường hợp nói ở trên có thể kể là
trường hợp cần thiết,
thí dụ, nếu một người làm nghề đánh cá hay
một sinh viên y khoa.
Khi ta tự hỏi, chẳng hạn, liệu có cần thực sự để giết hay trộm cướp, ta hiểu rằng
trường hợp này rất hiếm. Kết quả là cả đến
ý định không
vi phạm giới, đến
chừng mực ngoại trừ khi không thể làm gì khác được, và phải
tôn trọng sự
cần thiết cho phép khiến
chúng ta hiểu
năm giới có thể giữ được, đến một mức độ rộng lớn không khó khăn và mất mát
mối lợi trần thế nào cả.
4. Do Sự Thiếu Hỗ Trợ Và Bổ Sung Pháp.Thiếu sự bổ sung Pháp vào mỗi giới cũng có thể là
nguyên nhân của sự
vi phạm.
Tâm từ hay
lòng từ ái phải được trau dồi như một khía cạnh bổ sung của Pháp cho Giới Thứ Nhất.
Samma-avija hay
Chánh Mạng phải được
thực hành như khía cạnh bổ sung của Pháp cho Giới Thứ Hai.
Santutthita hay sự
mãn nguyện với một người
hôn phối là một khía cạnh của Pháp phải được phát triển để bổ sung cho Giới Thứ Ba. Tính
tin cậy là một khía cạnh của Pháp phải được
tuân hành để bổ sung cho Giới Thứ Tư.
Lưu ý và
Thận trọng phải được
gắn bó như một khía cạnh để bổ sung Giới Thứ Năm.
Giải thích một số bổ sung của
Pháp như sau: Chẳng hạn,
tâm từ bổ sung Giới Thứ Nhất,
tâm từ hiện hữu nơi mọi
chúng sinh,
xua đuổi tất cả
ý muốn làm hại. Không nói gì đến
tâm từ hay
lòng từ ái
bộc lộ bởi
cha mẹ cho con cái,
tâm từ đối với
gia súc như chó và mèo cũng đủ
mang đến sự chăm sóc to lớn cho chúng. Không có
tâm từ nhưng thay vào bằng
sân hận và
ganh ghét, những
gia súc này dễ dàng bị
tiêu diệt.
Chánh Mạng bổ sung Giới Thứ Hai có thể
giải thích như sau . Nếu một người lười biếng trong
việc làm hay
áp dụng một
cách sống sai lầm cho cuộc sống của mình, người đó khó có thể giữ được Giới thứ hai. Vì
chúng ta hàng ngày phải ăn, mỗi người
chúng ta phải có
thực phẩm cho mình, cho nên phải có một
phương tiện để sống, một
phương tiện chính đáng cho việc này.
5. Do Sự Vắng Mặt Của Người Lãnh Đạo giữ Giới.Đây là một
câu chuyện minh họa, có một
phương ngôn trong Kinh Jataka có thể
tóm tắt lại như sau: "Khi một đoàn trâu bò
di chuyển, nếu con đầu đàn
đi lạc, cả đoàn trâu bò bị lạc. Cũng như vậy với
con người. Nếu người
lãnh đạo được
chỉ định thực hành không đúng Pháp hay không
chính đáng,
quần chúng cũng
thực hành như vậy. Cả
quốc gia đau khổ nếu người
lãnh đạo không
tôn trọng Pháp. Khi cả đoàn trâu bò
di chuyển, nếu con đầu đàn đi đúng đường, cả đoàn trâu bò cũng đi đúng đường. Nếu người
lãnh đạo được
chỉ định tôn trọng Pháp,
quần chúng cũng làm như vậy. Cả
quốc gia sẽ
vừa lòng nếu người
lãnh đạo giữ Pháp. Câu nói của
Phật Giáo rất
rõ ràng. Cách hành xử của người
lãnh đạo là một
hậu quả to lớn cho
quần chúng vì họ không
tránh khỏi theo gương của người ấy.
Những
lý do trên về việc liệu có muốn hay không muốn
giữ giới, mỗi
lý do có thể có
ý nghĩa với giới.
Tóm lại, dù Giới được giữ hay không được giữ bởi những
cá nhân trong
xã hội,
tùy thuộc vào việc
giữ giới có mang lại sự
thỏa mãn phù hợp với tầng bậc
xã hội của họ hay không.
Trong
phương diện ấy, một số nói lên
ý kiến rằng Giới có thể coi như nguyên tắc
căn bản áp dụng trong một đường lối
thích hợp sẽ
phù hợp với
tình trạng của riêng mỗi người. Điều được coi như
thích hợp tức
phù hợp đúng với
mục đích của giới chỉ khi nó được
áp dụng không có
thành kiến của người khác và không phải
ưu tiên cho mình, vì
mục đích của giới là để tránh làm hại người khác.
Ngoài ra, chúng là những
bước đầu tiến đến tập trung (định) và
tuệ giác. Vì
giữ giới không phải là cứ
giữ giới đơn thuần mà phải
phù hợp với
mục đích, nó sẽ khác biệt theo một cách nào đó
tùy theo tình trạng hay nghề nghiệp của mỗi
cá nhân. Chẳng hạn, người
bình thường giữ giới mong ước hòa bình và đem
mãn ý cho tất cả
gia đình và
quốc gia, có
hình thức này, với các
nhà sư mong ước đạt bình diện cao của Pháp lại là một dạng thức khác.
Tuy nhiên cả hai dạng thức dẫn đến
mục tiêu mà vì nó việc
giữ giới được
thiết lập. Hơn nữa, Giới hay
luật lệ hạnh kiểm
luân lý cũng là
yếu tố chính của sự phát triển
quốc gia,
sức mạnh mang nền
phồn thịnh kinh tế và sự
mãn ý thông thường. Không có giới, năng suất của
cá nhân sẽ có khuynh hướng
bị loại bỏ và tự
tiêu diệt. Nơi mà năng suất của một
cá nhân cao nhưng có hại cho người khác, không giúp gì thêm cho
cộng đồng. Đúng hơn là hiệu suất của
cộng đồng giảm thiểu và quả là rất khó khăn trong việc phát triển
tiến bộ và
thịnh vượng chung. Cả đến từ
quan niệm này, có thể nhìn thấy nhiều người
giữ giới theo đường lối
thích hợp với
tình trạng riêng của họ, với hiểu rằng Giới có thể mang
phồn thịnh cho
cộng đồng.
Thông thường, người dân trong các xứ
Phật Giáo biết làm sao
giữ giới hay
luật lệ tinh thần. Họ cũng biết
năm giới không phải là
cản trở thịnh vượng của một
cá nhân hay xứ sở.
Nguyên nhân lo lắng không nằm trong
thực tế là nhiều người
triệt để giữ giới, mà là trong
thực tế quá nhiều người
vi phạm giới. Việc này đi xa đến nỗi những hành động ấy phải nên tránh vì chúng thường bị coi như có hại theo
pháp luật lại vẫn rất
phổ thông. Điều quan trọng
cần phải làm lại cho đúng là ở nơi
cá nhân hay
hoàn cảnh như đã được đề cập tới. Nếu mỗi người hành xử trong đường lối
giảm thiểu những
ô trược và sản sinh đủ "biết
xấu hổ - kinh sợ tội lỗi" trong tâm, và nếu
đồng thời có những
hoàn cảnh tạo
mãn ý và
thoải mái,
như tự do thực thi
chánh mạng của một người trong bầu không khí hòa bình và
an ninh, và khả năng nuôi
sống đầy đủ cho mình và
gia đình, thì không có
nguyên nhân vi phạm giới và người ta sẽ chú ý
giữ giới và Pháp bổ sung, như trau dồi
tâm từ (
lòng từ ái) đối với người khác và
chuyên cần theo đuổi chánh mạng (
lối sống chánh đáng). Nếu những nhà
lãnh đạo và giới chức
hành chánh ở mọi cấp bực đều cũng chú ý đến giới, nếu họ chuẩn bị để
tôn trọng giới và không
thi hành nhiệm vụ của họ trong một đường lối có hại, mà trong đường lối mang
lợi ích cho
hạnh phúc người dân, nếu mọi khu vực của
cộng đồng đều cùng
duy trì hành xử tốt như vậy,
tiêu chuẩn của
luân lý chắc chắn sẽ
cải thiện, vì
căn bản tâm của mỗi
cá nhân đều
mong ước được
tốt đẹp, cho nên người dân thực sự nhìn thấy
lợi ích của Giới. Nếu
sinh nhai của một người trở nên khó khăn hay nguy hiểm, những
giải pháp trong những
trường hợp bất ngờ này phải là
ưu tiên số một. Trong
Phật Giáo,
Đức Phật dạy
lợi ích hiện tại cần phải được
lưu ý đầu tiên, chẳng hạn bằng cách
chuyên cần và làm việc để kiếm sống. Rồi sau đó, Ngài khuyên dồng thời nghĩ đến
lợi ích tương lai, chẳng hạn, bằng cách có
niềm tin và
tôn trọng Giới.
Khi có một sự
phản đối kịch liệt về
tình trạng suy đồi bắt nguồn từ sự không
tôn kính giá trị tinh thần, thanh niên cũng như người lớn tuổi kêu gào phải
gìn giữ các
giá trị ấy như đang xẩy ra trong
hiện tại. Nhưng
lý do trình bày trong những chương này phải được ghi nhớ bởi tất cả
chúng ta, nắm tay nhau để cùng
cải thiện tình hình bằng cách
giải quyết nguyên nhân thực sự. Những
đạo sư tôn giáo chỉ có thể
chỉ đường. Nhiêm vụ này không thể làm bởi một nhóm người. Tất cả mọi khu vực của
cộng đồng phải cùng nhau
hợp tác phù hợp với
nhiệm vụ của mình. Tất cả
mọi người trong
chúng ta phải
thi hành nhiệm vụ của
chúng ta với
lòng thành thật. Mỗi người phải xét cách hành xử của mình và
cố gắng loại bỏ hạnh kiểm
bất thiện bằng cách
giữ Giới.
Lúc ấy tôn trong
luật lệ hạnh kiểm
luân lý không khó, việc này có thể làm được nhờ một thầy tu
truyền Giới hay tự mình
giữ Giới không
cần phải qua các
nhà sư. Điều quan trọng là sự
quyết tâm tôn trọng Giới, đó là
tiết chế một số hành động. Tuy sự
tiết chế này có
thể không đầy đủ trong
ý nghĩa giữ giới toàn vẹn, và có thể
áp dụng đối với những hành động coi là sai và
bất thiện trong
ý nghĩa trần thế và
pháp luật,
tuy nhiên còn
tốt hơn là không
tiết chế gì cả.
Giới luật hoàn hảo được truyền thụ đầy đủ trong mọi
phương diện là sự
thọ trì không có nghĩa phải
hoàn toàn đúng ngay từ lúc bắt đầu. Không ai có thể
thực hiện được như thế. Sự
thực hành giữ giới phải từ từ, từng
bước một, từ giai đoạn thấp nhất đến giai đoạn cao. Cho nên tại sao những lời sau đây được
sử dụng:
"Tôi cam kết thi hành luật lệ rèn luyện để giữ mình khỏi phạm vào hạnh kiểm thế này thế nọ".
Thực chất là
đồng ý rèn luyện về Giới hay
luật lệ luân lý. Nó cũng có nghĩa là sự
giữ Giới vẫn chưa được toàn hảo. Nó cũng giống như sự
nghiên cứu bất cứ một ngành học nào. Nếu ta còn học một đề tài, có nghĩa là ta chưa biết đề tài đó tới chỗ toàn bích. Bất cứ ai biết được
trọn vẹn thì không
cần phải huấn luyện nữa. Một người đang học không phải chịu
trách nhiệm về cái
ngu muội của điều mà người ấy chưa học.