NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
VI. TỔNG QUÁT
23. CON ĐƯỜNG PHẬT GIÁO ĐI ĐẾN ỔN ĐỊNH KINH TẾ
- Hòa Thượng Pannasha Maha Nayaka Thera
Chữ "Manussa",
con người, có nhiều nghĩa khác nhau theo từ nguyên học đặt ra bởi những
học giả đông phương trong
quá khứ. Trong khi theo
đại chúng và
truyền thống tổng quát của người
Ấn Độ truy nguyên từ chữ "Manu" tức huyền thoại
tổ tiên của
loài người, trong
kinh điển Phật Giáo tìm thấy nguồn gốc từ 'mannasa-ussannataya-manussa' -
con người vì lẽ do sự phát triển cao độ của tâm (so với
tình trạng tinh thần kém mở mang, thô sơ và
thấp kém của loài vật). Theo
tư tưởng Phật Giáo con người được xếp hạng là
chúng sinh cao nhất do tiềm năng rộng lớn của tâm
con người.
Kautilya's
Arthasastra và Brhaspati's
Arthasastra - hai chuyên luận
nổi tiếng về kinh tế - cả hai đều được viết sau đời
Đức Phật. Cả hai đều có nét
đặc biệt chung - và đó là - dưới nhan đề 'Arthasastra', cả hai
tác giả đều viết về chính trị và kinh tế, bỏ qua
yếu tố quan trọng nhất của
đạo đức và mở mang
tinh thần của chính
con người.
Theo
ngôn ngữ Pali, '
attha' (Sanskrit: '
artha') - có nhiều hơn một nghĩa theo
Phật Giáo, từ này có nghĩa
thành công được dùng trong hai mức khác nhau, có nghĩa là attha' nghĩa
thành công, và uttammastha' có nghĩa
thành công siêu phàm. Nghĩa sau
liên quan đến sự phát triển
trí tuệ và
tinh thần của
con người do kết quả
nhận thức rõ
kiến thức siêu trần của
Tứ Diệu Đế trong việc
chinh phục cái ngã và đạt mức độ
tinh thần toàn hảo
A La Hán.
Nói chung, từ '
Attha' là
thành công liên quan đến nhiều khía cạnh của sự phát triển xã hội-kinh tế của
con người như kinh tế, chính trị,
giáo dục,
sức khỏe,
luật lệ và
luân lý trong
xã hội. Nó cũng nói đến sự
tiến bộ xã hội do sự thống nhất
hòa hợp của tất cả các
yếu tố trên, đóng góp cho sự
thịnh vượng và sự chung sống hòa bình của một dân tộc.
Ngoại trừ
trường hợp quản trị
hợp pháp của Đoàn Thể
Tăng Già, không có bài giảng nào của
Đức Phật đề cập
chủ đề trên từ những
yếu tố về sự
tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên đọc qua một số bài giảng (hay Kinh) có thể
triển khai quan điểm hoàn toàn phù hợp và đầy đủ
lập trường của
Đức Phật về mỗi
chủ đề trên
lấy ra từ nhiều bài
thuyết giảng của Ngài. Một
hệ thống kinh tế
xã hội căn cứ vào nguyên tắc và
thực hành Phật Giáo rất dễ dàng hình thành để
phù hợp với
xã hội tiến bộ hiện đại ngày nay.
Trong
thời gian gần đây, nhiều sách đã được viết về đề tài kinh tế và
lý thuyết kinh tế, tất cả đều từ
quan điểm Tư Bản hay
Xã Hội chủ nghĩa. Không có một
hệ thống nào
lưu ý đến hay xét đến sự phát triển
nội tâm của
con người, một
yếu tố quan trọng trong sự phát triển
xã hội. Vậy nên đã có sự hủy diệt nhanh chóng
giá trị con người và
tiêu chuẩn hành xử của tất cả tầng lớp trong
xã hội. Khoa học và kỹ thuật đã đạt những bước tiến khổng lồ đem người lên cung trăng, và chẳng bao lâu nữa sẽ
tiến tới đem
con người viếng thăm những hành tinh khác. Nhưng những nỗi lo sợ là nếu cái đà
thoái hóa của
tinh thần tiếp tục thì không bao lâu không có thể
phân biệt hành động của
con người với hành động của con vật. Sự
sợ hãi này không phải
vô căn cứ.
Quả thật là một thảm kịch lớn nếu
con người quay về thú tính, dù chỉ ở một trong những khía cạnh của cách hành xử thuộc về những con vật
thấp kém. Như vậy, điều
thế giới ngày nay cần là một
hệ thống kinh tế
xã hội vững vàng mang lại
vị trí cao nhất cho việc phát triển
tinh thần con người và việc trau dồi
giá trị nhân loại.
Đức Phật sống trong một
xã hội hỗn độn và rối rắm bởi 62
quan điểm bất đồng và 108 loại
tham dục. Có hàng trăm người đi tìm lối
thoát khỏi những
quan điểm rrối rắm này. Một dịp,
Đức Phật nhận được câu hỏi sau: (Kinh Jataka)
"Bên trong rối rắm và bên ngoài rối rắm -
Thế giới này rối rắm trong một mớ rối,
Ai là người thành công gỡ được mớ rối này?"
Đức Phật giải thích tất cả những rối rắm này đều có tâm như người
đi trước báo hiệu:
"Khi người trí, gây dựng tốt trong đức hạnh,
Phát triển ý thức và hiểu biết,
Khi một tỳ kheo hăng hái và khôn ngoan.
Người như vậy thành công trong việc gỡ rối này."
Nhận thức được sự quan trọng của những
yếu tố bên ngoài trong
nỗ lực của
con người về việc tự mình
gỡ rối từ mớ rối
nội tâm,
Đức Phật đưa ra nhiều bài
thuyết giảng về những
phương cách và
phương tiện để khắc phục rối rắm bên ngoài. Một số
giáo lý của Ngài chỉ có
ý nghĩa với các thầy
tỳ kheo. Một số những
giáo lý khác chỉ có nghĩa với các người
cư sĩ. Phần còn lại có
ý nghĩa cả với các thầy
tỳ kheo và
cư sĩ, măc dù trong
trường hợp cuối cùng, bài giảng trực tiếp nhắm vào các
tỳ kheo. Trong một bài giảng, Ngài
chấp thuận cho các
tỳ kheo được nhận bốn món
vật dụng cần thiết, đó là y áo,
thực phẩm nơi nghỉ và thuốc men.
Con người có thể sống không có những máy móc
hiện đại ngừa thai, nhưng để
đời sống tiếp tục, bốn thứ
cần dùng này rất thiết yếu.
Tài sản cho một người để có bốn thứ tất yếu đó và
đạt được những nhu cầu khác.
Con Đường Cao Quý
Bát Chánh Đạo được sắp xếp vào
giá trị chính đáng, hành động
chính đáng, giúp
con người đạt
cứu cánh cao nhất. Về ổn định kinh tế và
hạnh phúc,
hệ thống Phật Giáo nhấn mạnh đến ba
yếu tố trong kinh Vyaggapajja:
- Uthana Sampada - Tạo dựng của cải do khéo léo và nỗ lực nghiêm túc.
- Arakkha Sampada - Bảo vệ của cải và tiết kiệm
- Samajivikata - Sống trong phạm vi khả năng của mình.
1. Utthana Sampada -Khi khuyến khích tạo dựng
của cải,
Đức Phật nhắc nhở đến sáu công việc
thịnh hành lúc bấy giờ:
- Nông nghiệp
- Thương mại
- Chăn nuôi trâu bò
- Quốc phòng
- Công chức
- Dịch vụ
Ấn Độ là một xứ nông nghiệp
chiếm ưu thế. Cho nên trong các bài
thuyết giảng nói đến nông nghiệp. Chẳng hạn trong Kinh Sadapunnappava-ddhana, có ghi
cung cấp phương tiện dễ dàng tiến dẫn thủy nhập điền luôn có
công đức. Trong Kinh Samyutta Nikaya
ghi nhận tài sản vĩ đại nhất cho nông nghiệp là trâu bò, trong khi Kinh Nipatta, trâu bò cho
con người sữa, bơ lỏng, sữa đông đặc, bơ và sữa nước, nhiều dinh dưỡng
giá trị, được
mô tả như những người bạn tốt nhất của xứ sở. Trong những nước đang phát triển, nước và
năng lượng lấy ra do trâu bò
cung cấp là những nhu cầu
căn bản cho nông nghiệp.
Trong bài
thuyết giảng về
hạnh phúc cho người
cư sĩ (
gia đình và
xã hội) (
Gahapati Sukha), trước nhất ghi sự
thỏa mãn của người
cư sĩ bắt nguồn từ sự
sở hữu của cải bằng các
phương tiện chính đáng (
atthi sukha).
Tuy nhiên,
Đức Phật cảnh cáo con người đừng nên có khuynh hướng trở nên
nô lệ trong việc
tích lũy của cải vì lợi ích cho riêng mình. Việc này sẽ dẫn đến khổ đau
vật chất và
tinh thần sau này.
Phương tiện đủ cho cuộc sống của mình và gia dình, giúp đỡ
thân quyến và bạn bè, và phân phát cho những người
thiếu thốn và những người đáng được giúp đỡ, sẽ dẫn đến sự
mãn ý và
thỏa mãn nội tâm.
Việc làm này đưa đến kết quả mở mang
trí tuệ và
tinh thần cho
con người.
Trong kinh '
Kutadanta'
Đức Phật cho thấy hòa bình,
thịnh vượng, không có
tội ác đến với một xứ sở ra sao, do sự phân phát
đồng đều của cải cho dân chúng.
Ngài nói: 'Này các
Bà La Môn,
xưa kia có một vị Vua tên là Vua Vương Quốc Rộng Lớn (Maha Vijita), hùng mạnh với
của cải vĩ đại và
tài sản rất nhiều
vàng bạc đầy kho, cận thần
vui vẻ, hàng hóa và
ngũ cốc, kho báu và kho vựa đầy ắp. Nhà Vua ngồi
một mình suy nghĩ và trở nên
lo lắng với
ý nghĩ: "Ta có mọi thứ mà
con người có thể
vui hưởng. Tất cả cái vòng tròn rộng lớn của trái đất này là của ta,
của cải do ta chiến thắng.
Vậy thì nếu ta chịu một sự
hy sinh to lớn đem dâng hiến, ắt hẳn
bảo đảm cho ta niềm
sung sướng và
hạnh phúc dài lâu"'.
Thế rồi ông cho gọi vị
giáo sĩ người
Bà La môn và nói với vị
giáo sĩ này tất cả những gì ông nghĩ. Ông nói: "Này Ông
Bà La Môn, ta đành phải
hy sinh lớn để hiến dâng - vậy
giáo sĩ hãy chỉ cho ta phải làm sao - để có thể giữ
của cải và
hạnh phúc của ta lâu dài".
Người
Bà La Môn này, tức vị
giáo sĩ liền thưa với vị
hoàng đế: "Thưa Ngài, nước của Ngài bị quấy phá và
cướp bóc. Có những giặc cướp có vũ trang từ ngoài nước đến cướp phá làng mạc và thành thị, gây mất
an ninh trên các
con đường. Thế mà bấy lâu, Hoàng thượng vẫn để nguyên, lại còn đánh thuế mới, quả thực Hoàng thượng đã hành động sai. Nhưng có lẽ Hoàng thượng nên nghĩ như thế này: Ta sẽ
chấm dứt những trò chơi của các kẻ vô lại này bằng cách làm
suy giảm và
xua đuổi chúng, bằng phạt vạ,
gông cùm và tử hình! Nhưng sự
phóng túng của chúng đâu có được
thỏa mãn để làm như vậy. Những đứa còn lại chưa bị
trừng phạt vẫn có thể
đe dọa vương quốc. Nay có một
phương pháp có thể
áp dụng để
chấm dứt sự
lộn xộn này. Bất cứ ai trong vương quốc của Ngài tự tận tụy giữ trâu bò và nông trại,
Hoàng đế cho họ
thực phẩm và
hạt giống ngũ cốc. Bất cứ ai trong vương quốc của Ngài, tự tận tụy trong nghề buôn bán,
hoàng đế hãy
cấp cho họ tiền bạc và
thực phẩm. Những người ấy có thể
theo đuổi nghề nghiệp, họ sẽ không còn
đe dọa vướng quốc của Ngài nữa; thu thập của nhà vua sẽ
tăng trưởng; nước sẽ
thanh bình và
an lạc, và dân chúng, người người đều
vui vẻ với nhau và
hạnh phúc, bế con trong tay mà múa hát, sống trong nhà cửa mở toang.
Này Ông
Bà la môn, nhà Vua Vương Quốc Rộng Lớn,
chấp nhận lời của Vị
Giáo Sĩ và làm đúng như vị
giáo sĩ ấy nói. Những người ấy
theo đuổi nghề nghiệp của mình, không còn
quấy rầy vương quốc. Thu thập của nhà vua
tăng trưởng. xứ sở trở nên
thanh bình và
an lạc. Và dân chúng, người người
vui vẻ với nhau sung sướng, bế con trong tay múa hát, họ vui sống trong nhà cửa mở toang.
Cho nên nhà Vua Vương Quốc Rộng Lớn cho gọi
giáo sĩ và nói: "Sự
lộn xộn nay đã
chấm dứt. Nước nay trong an lạc! (- Đối Thoại của Đức Phật- Phần 1, trang 175 & 176).
2. Arakha SamapadaĐiều này có nghĩa là
hạnh phúc trần thế bắt nguồn từ sự
bảo vệ liên tục của cải (
đạt được chính đáng) khỏi trộm cướp, cháy, lụt
vân vân... Bởi
Đức Phật đã
tán dương đức hạnh cần kiệm,
yếu tố này có thể được
xem xét trong phần này.
Vay mượn
thịnh hành trong thời
Đức Phật. Những người như Anathapindika (
Cấp Cô Độc) là chủ ngân hàng thời bấy giờ.
Kinh điển Phật Giáo nhắc đến ông ta cho nhà nước vay cũng như cho
thường dân vay.
Tuy nhiên,
Phật Giáo không chấp thuận cho vay
quá mức như một
phương ngôn nói: "Vay mượn làm cùn lưỡi dao của nông nghiệp"-
Đức Phật tán thành
một đời sống không
nợ nần (
anana sukha) dẫn đến
hạnh phúc của người
cư sĩ.
Trong Kinh Samanaphala,
Đức Phật so sánh Samanaphala (hay kết quả của
đời sống ẩn dật) với
hạnh phúc nơi một người
mang nợ thoát khỏi nợ nần, và giúp đỡ
gia đình con cái bằng tiền
dành dụm của mình. Sự quan trọng của việc
để dành tiền kiếm được được
nhấn mạnh trong đường lối này. Nói chung Ngài hướng dẫn
chi tiết về cách
sử dụng tiền kiếm được. Nhưng trong Kinh Sigalovada, Ngài
đặc biệt khuyên nhủ Sigala, một trùm
tư bản lớn, hãy chia tiền kiếm được ra làm bốn phần và tiêu một phần cho việc
chi tiêu hàng ngày cho mình và
gia đình. Hai phần đầu tư vào việc buôn bán, và phần thứ tư
để dành một bên để
sử dụng trong lúc khẩn cấp.
3. SamajivikataĐiều này là điều thứ ba trong ba nguyên tắc
căn bản trong
hệ thống kinh tế
Phật Giáo. Một người nên tiêu
vừa phải theo
tỷ lệ lợi tức của mình, không nhiều quá mà cũng không ít quá. Trong bài
thuyết giảng về
hạnh phúc của người nội trợ, tiêu pha đúng cách và khôn ngoan là một trong bốn
yếu tố dẫn đến
hạnh phúc.
Trong kinh "Pattakamma" một người
nên chi tiêu
của cải của mình theo
chi tiết như sau:
- Chi tiêu về thực phẩm, quần áo và các nhu cầu khác
- Nuôi cha mẹ, vợ con và người làm
- Chi tiêu về thuốc thang và những trường hợp khẩn cấp khác
- Chi tiêu về mục đích từ thiện
- Chi tiêu để thi hành các việc sau
- Đối xử với thân quyến
- Đối xử với khách
- Cúng dường để tưởng nhớ đến người đã khuất
- Dâng lễ vật cúng dường Chư Thiên
- Trả thuế và lệ phí nhà nước đúng kỳ hạn.
Đức Phật tán dương cuộc sống
đơn giản, cuộc sống
đơn giản dẫn đến việc
mở mang tâm trí con người. Một
xã hội tiến bộ là do tâm của
cá nhân phát triển. Quản trị một
xã hội như vậy dễ dàng hơn, khi
luật lệ và
trật tự được
thiết lập tốt đẹp. Biết được như vậy, những nhà vua tại Sri Lanka
quảng bá nhiều về nội dung của Kinh "Ariyavamsa". Trong kinh này,
Đức Phật thuyết giảng sự
lợi ích cho các thầy tỳ-kheo, các thầy được khuyến khích
mãn nguyện với:
- Y áo mà các thầy nhận được (dù thô hay mịn màng)
- Đồ cúng dường (thực phẩm) các thầy nhận được (dù không ngon hay ngon)
- Nơi ở mà các thầy nhận được (dù đơn sơ hay sang trọng)
- Thiền (phát triển tâm)
Mãn ý với ba điều trên đây có thể làm
giảm thiểu nền kinh tế khó khăn, và
đồng thời in sâu vào tâm khảm những
thói quen và
giá trị của một cuộc sống
đơn giản. Do
thiền tâm con người tự phát triển cả
trí tuệ lẫn
đạo đức, kết quả sẽ làm
giảm bớt những
rối loạn và bất ổn
xã hội, những
tư tưởng này phát sinh
trước tiên trong tâm
con người rồi
trở thành hành động. Hòa bình và
tiến bộ của một nước như vậy được
bảo đảm.
Trong
thế giới hiện đại mặc dù
tiến bộ rất cao về khoa học và kỹ thuật, với sự mở mang nhanh chóng về
kiến thức, nhưng phát hiện thấy những sự sa đọa dẫn
giá trị con người đang diễn ra. Ngày nay, chính trị, kinh tế, và
hệ thống giáo dục là những thứ quan trọng hơn trong việc nước. Trong
lãnh vực này, điều đáng xét là những
hệ thống chính trị, kinh tế,
giáo dục phải được thay đổi để
ưu tiên phải là việc phát triển
giá trị con người.
Phật Giáo là cả hai
con đường giải phóng và
lối sống. Về
lối sống Phật Giáo tác động qua lại với kinh tế, chính trị,
tín ngưỡng xã hội và sự
tu tập của người dân. Bây giờ là lúc đúng nhất để cho
thế giới biết một trong những khía cạnh
xã hội trong
phạm vi cơ cấu
Đạo Đức Phật Giáo và nguyên tắc
căn bản của
Phật Giáo. Sự
tiến bộ của một nước
tùy thuộc chủ yếu vào sự
tiến bộ của từng
cá nhân. Trên 2500 năm trước đây,
Đức Phật sinh ra trong một
xã hội phức tạp rối rắm trong nhiều
quan điểm về
đời sống và
tư tưởng. Nhờ
Phật Giáo có thể gỡ được sự rối rắm này về
quan niệm và
giảm thiểu sự
rối loạn. Ngày nay cũng vậy, trong cái
xã hội hỗn loạn này,
niềm tin tưởng chung là
Phật Giáo có thể chiếu sáng đường đi tới
xuyên qua cái tăm tối của sự
hỗn loạn ấy.