NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
IV. PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT PHẬT GIÁO
TRƯỚC CÁC KHÓ KHĂN
18. PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN ĐẠI
- Tiến Sĩ Ananda Guruge
Đề tài nói trên đây
gồm có những phần: Thế nào là
đời sống hiện đại?
Phật Giáo là gì? Và vài trò của
Phật Giáo trong đời sống hiện đại?
Đời sống hiện đại chính tự nó rất khó để định nghĩa. Ta có thể nói
đời sống hiện đại có
đặc điểm nổi bật bởi
thực ra thế giới càng ngày càng nhỏ hơn,
con người có quyền hay
phương tiện đến
với nhau, bức tường ngăn cách về
truyền thông đã không còn, chỉ trong khoảnh khắc ta có thể biết được
tin tức xẩy ra bất cứ nơi nào trên
thế giới, ta có
thể tham gia vào
đời sống rộng lớn
tiêu biểu của
thế giới mà ta không bao giờ tưởng tượng được. Đó là một khía cạnh của
đời sống hiện đại.
Liên quan đến đời sống hiện đại phải kể đến những
lãnh vực khoa học và kỹ thuật.
Con người trong hoài bão
chinh phục thiên nhiên, bệnh tật, những
chướng ngại thiên nhiên, đã
hoàn thành một số kỳ công về kỹ thuật
phức tạp làm tâm giật mình kinh sợ. Đó là một khía cạnh khác của
đời sống hiện đại. Điểm thứ ba có lẽ là khía cạnh
xáo trộn nhiều của
đời sống hiện đại:
thế giới càng gần nhau hơn, bức tường
chướng ngại truyền thông đã bị phá vỡ,
tiến bộ về khoa học và kỹ thuật tiến nhanh,
chúng ta phải đương đầu vối một số khó khăn về kinh tế và chính trị
đối lập,
ô nhiễm,
bùng nổ dân số, tài nguyên hiếm hoi, và sự
sử dụng bừa bãi tài
nguyên không thể thay thế được. Với những khó khăn trên,
xuất hiện hàng loạt các
vấn đề khác được gắn thẳng cánh là "sinh tồn".
Văn Minh Hiện Đại Có Thể
Sống Sót Không?
Về
vấn đề này, ta cũng có thể thêm vào khía cạnh
luân lý - một câu hỏi về đạo đức- và hỏi: "Đến một mức độ nào, trong tiến trình
hiện đại hóa và
chinh phục thiên nhiên,
chúng ta đã đi trệch khả năng
chinh phục chính mình? Có phải sự
tranh đấu sinh tồn có nghĩa là
con người hiện đại phải
trở thành nô lệ cho
ích kỷ,
ràng buộc bởi
tham dục và
ý thức bốc đồng của chính mình? Có phải
chúng ta đã mất đi tất cả những thứ về
giá trị đặc biệt của
con người như việc tương quan giữa
cá nhân, sự
lo lắng chăm sóc cho
hạnh phúc,
tinh thần vị tha đối với người khác? có phải
chúng ta đã mất những điều đó?
Vậy thì khi nghĩ đến
đời sống hiện đại, ta có thể nghĩ với một mức
lạc quan cao độ, và
đồng thời, một mức độ
bi quan tương đương. Ta có thể
hết sức vui sướng là
chúng ta có thể sống ngày nay ở một
thời đại hầu
như không có gì là
con người không
chinh phục được. Có lẽ, vẫn còn một số bệnh tật là mối thách thức
con người. Có thể, vẫn còn một số nơi chốn trong
vũ trụ mà
con người muốn đến, và
con người vẫn chưa phát triển được kỹ thuật để đến đấy. Nhưng hình như tất cả những thứ đó đều trong tầm tay của
con người. Với sự
lạc quan về khả năng của
con người, thì về phía
bi quan,
chúng ta, trong tiến trình đó, đã mất mát một cái gì đó. Hãy để cả hai việc này trong tâm.
Phật GiáoVậy thì chúng ta hãy nhìn vào
Phật giáo xem
Phật Giáo là gì.
Chúng ta hiểu
Phật Giáo như thế nào? Có thể có nhiều thứ đối với nhiều người khác nhau. Có người cho rằng đó chỉ là
đời sống của
Đức Phật, tấm gương của
Đức Phật và những người
đệ tử gần gũi nhất của Ngài đặt ra - đó là kỳ công
quang vinh của một người, một người đứng trước
công chúng tuyên bố con đường giải thoát. Đó là một loại
Phật Giáo. Với số người khác,
Phật Giáo có nghĩa là
học thuyết quần chúng như đã ghi trong
văn học Phật Giáo đương nhiên gồm nhiều tập và gồm vài nghìn trang ghi các lời của
Đức Phật. Và trong đó
miêu tả một triết
lý cao quý, sâu sắc,
phức tạp và
uyên bác về
cuộc đời. Rồi
căn cứ vào lời dạy của
Đức Phật, vào sự
tu tập trong
thời kỳ Đức Phật tại thế, nảy sanh một nền
văn hóa xúc tích, một nền
văn hóa đã lan rộng khắp Á Châu từ 2500 năm qua, và các dân tộc từ những tầng lớp
xã hội khác nhau có nền tảng
xuất thân khác nhau ở những
quốc gia ấy đã đóng góp vào
sự trường tồn của Phật Giáo. Một số lớn
giáo phái và trường phái, hay
hệ thống triết lý, đã phát triển, và tất cả, đúng hơn đã
hoạt động dưới
danh hiệu Phật Giáo. Rồi đến một định nghĩa khác về
Phật Giáo: đó là một loại
nghi thức phát sanh chung quanh
học thuyết của
Đức Phật do
giáo lý và
cách sống được
thuyết giảng bởi
Đức Phật,
trở thành một
tôn giáo. Dù
Đức Phật muốn hay không muốn,
giáo lý của Ngài
thành tôn giáo, một
tôn giáo mà người dân
chấp nhận nguyện
trung thành có
nghi thức riêng, có tổ chức, đường lối hay
tiêu chuẩn để
quyết định cái gì làm đúng và cái gì làm sai. Nay lại có một loại
Phật Giáo khác. Nếu ta lấy một trong những khía cạnh riêng rẽ, và thử khảo sát
tác động của cái gọi là
Phật Giáo trong đời sống
hiện đại, thì
chắc chắn quả là một công việc lớn lao.
Với tôi,
Phật Giáo là tất cả những thứ này. Đó là
Đức Phật và
đời sống của Ngài,
học thuyết,
văn hóa đã phát triển quanh nó và đã
dự phần đóng góp, và
nghi lễ liên quan. Một khi ta lấy việc này đem
so sánh với một khối lớn
kinh nghiệm của
con người, đem lọc kỹ càng thành một dạng
thức tinh túy nhất và đem trình bày cho
chúng ta thì mỗi
chúng ta có thể chọn phần
thích hợp, phần
lôi cuốn chúng ta sẽ thấy cái độc đáo
phi thường của
Phật Giáo. Lúc
tại thế, chính
Đức Phật thường
nhấn mạnh điểm này. Không
cần thiết phải là một
học giả mới biết mọi thứ.
Phật Giáo không giống một
môn học như toán mà bạn phải học các định lý và các
phương pháp để
giải đáp những loại tính. Nếu bạn biết
nền móng,
căn bản thì sự
nghiên cứu chi tiết uyên thâm không phải là một
điềm báo trước quan trọng để
tu tập. Cho nên ngoài thứ này,
văn hóa,
tôn giáo hay
văn chương rộng lớn
Phật Giáo, hay một khối lớn
kinh nghiệm đến với
chúng ta là
Phật Giáo, mỗi trong
chúng ta sẽ thấy điều gì
thích đáng cho
đời sống, cho loại khó khăn của
chúng ta.
Một
Học Thuyết Vô TậnTôi thường băn khoăn không hiểu sao
Phật Giáo được gọi là "Akalika" có nghĩa là "vô tận" - lúc nào cũng
tồn tại. Tôi càng thấy sự thay đổi trong
văn hóa Phật Giáo hay
Đạo Phật, tôi càng thấy phải làm sao
tiếp tục thích ứng với nhu cầu ở mọi
lãnh vực, dân số,
cá nhân, tôi càng thấy bức
thông điệp của
Đức Phật truyền đạt lúc nào cũng có
giá trị bất diệt. Cho nên nếu
Phật Giáo có sự
áp dụng ngày nay, và nếu
Phật Giáo có một vị thế
trong đời sống
hiện đại thì đó là vì sự
liên quan thích đáng vô tận, bắt nguồn từ một tập hợp các
giá trị bất diệt. Nói về
đặc điểm bất diệt là một cách
hết sức nghịch lý trong việc trình bày hay
miêu tả một
tôn giáo có nguyên lý
học thuyết vô thường ở ngọn nguồn. Cái
đặc tính vô tận bắt nguồn từ
thực tế được hiểu là mọi thứ đều
tiếp diễn không ngừng, nhưng
tiếp tục trong một luồng, trong một tiến trình thay đổi và
tiến hóa không ngừng. Vậy nên
Phật Giáo có thể
thích nghi với mọi
thời gian và mọi nền
văn minh. Cho nên
chúng ta có thể, không một
ngần ngại, tiếp cận với bất cứ một khía cạnh nào của
Phật Giáo như một điều gì
thích hợp và có thể
áp dụng với
chúng ta ngày nay.
Những
vấn đề gì khiến
Phật Giáo vô tận? Xin để tôi lấy một vài điều. Điều trước nhất là sự
thừa nhận trách nhiệm của một
cá nhân.
Đức Phật là một trong các
vị đạo sư
phi thường giải phóng con người khỏi tất cả những
ràng buộc - những
ràng buộc của mối quan hệ
siêu nhân, một
Thượng Đế, sự
sáng tạo,
tội lỗi hay bất cứ một
đặc điểm từ một người nào đó (ngoài điều chính bạn đã làm). Cho nên,
Đức Phật nói mỗi người là vị
chủ tể của chính mình, người đó
ban hành ra nguyên tắc mà sự
áp dụng trở nên mạnh mẽ hơn vì
con người bắt đầu càng thấy
tin tưởng hơn trong việc
kiểm soát chính mình và môi trường chung quanh. Vậy, nếu ngày nay với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật,
con người cảm thấy đã đi đến điểm mà
trí thông minh của mình làm cho mình cao hơn bất cứ ai khác, và
cho phép mình
giải quyết bất cứ khó khăn nào
hiện có, liệu
vật chất hay
đạo đức, hay chính trị, hay bất cứ gì đi nữa, sẽ không phải là nguyên tắc
con người là vị
chủ tể của chính mình mà
con người phải chịu
trách nhiệm trước chính mình vì bất cứ gì mình làm ra mình
thừa hưởng -
trở thành một trong những cách thức quan trọng nhất để
xem xét chính mình?
Vậy nên cách
giải quyết căn bản làm
con người thoát khỏi tất cả những xiềng xích,
tinh thần và các mặt khác, là một trong những
học thuyết rất quan trọng của
Phật Giáo đóng góp vào tính
vô tận của
tôn giáo này.
Chúng ta càng
tiến bộ,
con người càng có nhiều
tiến bộ, thì việc
cần thiết của
con người là phải
xác nhận chính mình là vị
chủ tể của mình.
Con người càng xác quyết chính mình là vị
chủ tể của mình, lại càng phải nhớ lại lời
Đức Phật dạy: "
Atta hi attano natho".
Tự Do Tư TưởngRồi đến một
học thuyết khác không kém phần quan trọng:
Học thuyết về tâm mở rộng-
tự do tư tưởng.
Phật Giáo không những
giải thoát chúng ta khỏi
Thượng Đế hay sự
ràng buộc siêu nhiên mà còn
giải thoát chúng ta khỏi
tín điều.
Chúng ta hãy mường tượng
thời gian Đức Phật thuyết giảng. Đó là một
thời gian mà nhiều
giáo lý của các
tôn giáo khác
đang thịnh hành và
Ấn Độ ở vào thế kỷ thứ 6 trước Tây Nguyên là một nơi được chú trọng nhất về cuộc sống. Các
đạo sư tôn giáo đưa ra nhiều loại
học thuyết ganh đua với nhau để có nhiều người theo đạo của mình. Ngoài những
giáo lý mới, còn có những
hệ thống đạo lý thâm căn cố đế. Trong tất cả những
hệ thống tôn giáo này,
lý thuyết rêu rao là: "Chúng tôi đã
tìm ra con đường". "Con đường này là
con đường chính đáng". "Bạn đến đây, bạn sẽ được cứu độ". Vào giữa lúc này,
Đức Phật xuất hiện và nói: "Đừng tin vào sách vở nói.
Đừng tin vào những gì các bậc thầy dạy nói.
Đừng tin vào truyền thống nói.
Đừng tin vào điều gì chỉ vì điều đó là của
quyền thế hay của một người nào đó. Hãy tự mình
kinh nghiệm điều đó. Bạn phải tự
suy nghĩ. Hãy tự mình
nhận thấy đúng hay sai. Một khi
nhận thức thấy đúng hãy làm theo." Chính điều này là một
phương cách rất mạnh:
con người được
hoàn toàn tư do, điều mà
con người tranh đấu để có,
tự do tư duy. Nếu dưới chế độ
phong kiến, trước khi các
tiến bộ hiện nay
đạt được,
chúng ta không có quyền được tự
suy nghĩ, khi các
tiến bộ ngày nay đang diễn ra,
chúng ta càng xác quyết quyền (
tự do suy nghĩ) càng nhiều hơn nữa.
Chúng ta sẽ
cảm thấy tin theo sau những
cuộc điều tra nghiên cứu của chính
chúng ta, và sau khi
chúng ta đã có thể
xem xét tỉ mỉ những nguyên tắc, những
thực tế, những điều thuận và nghịch. Điều này
chúng ta coi như một
quyền bất khả xâm phạm. Đó là một
học thuyết thứ hai có thể
áp dụng vào thời
hiện đại, và tương lai phải
tiếp tục.
Vai Trò Của
Phật GiáoĐến một câu hỏi quan trọng nhất - Ngoài phần hỗ trợ cái mà
con người muốn khẳng định về
bản thân trong
hiện tại và tương lai,
Phật Giáo sẽ
tiếp tục có một
vai trò sửa sai không? Với câu hỏi này thấy có một khía cạnh quan trọng nhất mà tất cả
chúng ta phải
lưu tâm ngày nay. Trong khi
con người có những
tiến bộ này,
chúng ta cũng thấy
áp lực của
đời sống hiện đại - sự
cạnh tranh để sống còn, sự
cạnh tranh nhằm làm
tốt hơn người khác, sự
ham thích sống
cuộc đời ganh đua về kinh tế, chính trị,
văn hóa, hoặc bất cứ
hình thức nào -
mang đến căng thẳng. Để
giảm bớt những
căng thẳng này,
con người lại càng phát triển nhiều
hình thức vui chơi giải trí và nghỉ ngơi. Kết quả
bề ngoài có vẻ được chút ít thư giãn nghỉ ngơi để
giảm bớt căng thẳng, nhưng hình như họ càng ngày càng sa vào vòng
tội lỗi. Vì
căng thẳng, ta lại tham đắm vào một loạt
hoạt động thoát ly thực tế, và vì những
hoạt động đào thoát này mất quá nhiều
thì giờ, ta lại phải bắt cho kịp tiến trình sống còn nên càng sa vào giai đoạn
căng thẳng trầm trọng hơn. Kinh tế càng
tiến bộ lớn mạnh bao nhiêu, chính trị càng
sáng tỏ bấy nhiêu, ta lại càng phải cần đến thuốc giảm đau và thuốc an thần để làm
nhiệm vụ bình thường. Bạn phải uống một viên thuốc để thức, một viên để ngủ, một viên để thư giãn và
vân vân... Kiểu
hiện đại hóa này đã thành mốt ở chỗ nào
căng thẳng con người lên tới chỗ thấy rằng tất cả những gì mà
con người đã
đạt được là không còn dùng được, là ở trong một
tình trạng nghiêm trọng. Thêm vào những
áp lực này, nảy sanh một khía cạnh khác trong đó với
thời gian rảnh rang dồi dào mà
con người đạt được ngày nay do
thoát khỏi sự làm việc
cực nhọc, lại phải đương đầu với một khó khăn khác - đó là sự chán chường. Cho nên với một bên là
áp lực căng thẳng, bên kia thì chán chường,
xuất hiện một loạt
tình trạng phức tạp làm
con người thực sự
không hạnh phúc. Ngày nay người ta có thể hỏi:
Phải chăng con người đang sống thực sự
hạnh phúc, hay ở trong
tình trạng mà
ít nhất nhận thức thấy rằng mặc dù đã
đạt được mọi thứ, họ đã mất một cái gì dưới
hình thức của những khía cạnh
căn bản của đời sống? Ai là người bị trách cứ?
Phải chăng chúng ta trách khoa học?
Chúng ta trách kỹ thuật?
Chúng ta trách
hệ thống chính trị?
chúng ta trách
hệ thống kinh tế do ta
thừa hưởng hay do ta phát triển? Hay
chúng ta trách cứ chính chúng ta?
Bạn Là Vị
Chủ Tể Của Chính Bạn
Quay về lối nhìn của
Đức Phật vào
vấn đề, bạn sẽ nói, bạn nắm
phương tiện cuộc sống trong tay bạn. Bởi lẽ bất cứ gì sai, bạn đều phải chịu
trách nhiệm, bạn là vị
chủ tể của chính bạn. Bạn để nó chạy như vậy -
cho phép nó
thoát khỏi sự
kiềm chế trong tay bạn. Quả là dễ dàng để trách cứ một người: "Bạn để cơ hội
trôi qua, bạn đã để mất cơ hội từ tay bạn". Nhưng cái đó có giúp ích không? Cái vĩ đại của
Phật Giáo nằm trong sự việc này, nó không dừng lại sau khi đặt
trách nhiệm cho bạn và không nói: Bây giờ đó là như thế. Nay
chúng ta tìm thấy thủ phạm. "Tiến tới giai đoạn
kế tiếp nói rằng: "Nơi đây có một ít thứ có thể làm được".
Nếu một người cứ loay hoay nhìn vào đủ loại
biện pháp tôn giáo,
tâm thần,
tâm lý liên can để cứu người hay để chữa chạy
trạng thái căng thẳng này và chán chường bên kia, bạn sẽ thấy có rất nhiều
biện pháp nhưng không một
biện pháp nào lại không
tốn kém,
thực tiễn như những hưóng dẫn
đơn giản của
Phật giáo tiến dẫn. Ta có thể đặt câu hỏi: "Có phải một người khi
trở thành Phật Tử thì sẽ không còn bị
căng thẳng hay chán chường
trong đời sống
hiện đại nữa phải không?
Trả lời câu hỏi này rất khó vì không ai
trở thành một
Phật Tử. Không có ai mang cái nhãn hiệu
Phật Tử. Vì
Phật Giáo không phải là một trong những triết lý ấy hay
lối sống hay
tôn giáo - Tôi dùng từ "tôn giáo" vì không có một hạng nào khác để có sắp vào cho ngang bằng - trong đó cần có một nhãn hiệu. Khi
Đức Phật còn
tại thế, dân chúng tìm đến Ngài, nghe Ngài và nếu họ thấy
vừa lòng với Ngài họ nói: "Tôi nương tựa nơi Ngài, nơi
Giáo Pháp của Ngài, và nương tựa nơi Đoàn thể
Tăng Già,
cộng đồng, những
đệ tử theo
cách sống ấy". Cả đến ngày nay tất cả thứ đó
cần thiết cho bất cứ ai tự gọi mình là
Phật Tử. Vì đã
tin theo điều mà
Đức Phật dạy
thích hợp với khó khăn của
đời sống, ta
cảm thấy đó là
lối sống có thể
theo đuổi vì có
lợi ích, bằng cách nương tựa nơi Phật, Pháp và
Tăng Già. Với
lòng tin vững chắc trong tâm này, người ấy
trở thành người
Phật Tử không
cần phải nghi lễ,
nghi thức của một loại nào, ghi danh, hay những đòi hỏi
pháp luật nào khác. Đó là điều mà F.I. Woodword, một trong những dịch giả tài giỏi về
chuyển ngữ những lời của
Đức Phật gọi là "một-tôn-giáo -do-chính-bạn-làm-ra".
Ngày nay có nghĩa gì khi có cả hàng nghìn người
chưa bao giờ đặt chân tới một ngôi chùa Phật,
chưa bao giờ tham gia nghi thức đã phát triển trong các
quốc gia Phật Giáo, nhưng ai là người mà tâm của mình đã nhìn thấy
giá trị bức
thông điệp của
Đức Phật và ai là những người sống một
cuộc đời theo đúng
giáo lý của
Phật Giáo.
Thực ra,
chúng ta thấy
đa số dân cư trên
thế giới nguyện
trung thành với
Đức Phật vì
lý do này hay
lý do khác. Đó là một trong những điều
phi thường mà ta có thể coi hầu như là một
vi diệu.
Lối SốngLối sống do
Đức Phật thuyết giảng rất là
đơn giản. Đối với người
cư sĩ nó
gồm có năm giới đơn giản: không giết, không trộm cướp, không
tà dâm, không
nói dối, và không dùng các chất say - quả là một cụm giới rất
đơn giản. Nhưng
lối sống Phật Giáo mà
Đức Phật miêu tả chưa
chấm dứt với loại giới này. Để
đơn giản hóa trong một
phương cách khiến bất cứ ai cũng có thể hiểu được, có ba điều mà mỗi người
cố gắng làm được gọi trong tiếng Pali là
Dana (
Bố Thí),
Sila (
Trì Giới), và
Bhavana (
Thiền Định).
Dana (
Bố Thí) có nghĩa là hào phóng,
rộng rãi - hành động cho. Rất quan trọng
Phật Giáo bắt đầu với
Bố Thí như một hành động
đạo hạnh thứ nhất mà ta phải
thi hành nhằm đưa mình vào
con đường chính đáng, vì
bố thí là một hành động
hy sinh. Để có thể cho một cái gì, tâm bạn phải sẵn sàng
từ bỏ cái mà bạn có đó, cái mà bạn
quý trọng, cái mà bạn
luyến ái. Cho nên bạn phải đương đầu với
nguyên nhân lớn nhất của tất cả các khó khăn trong tiếng Pali được gọi là
Lobha (tham) hay
tham dục hay
tham lam. Thật
lý thú được thấy
lối sống được trình bày cho
chúng ta trong cái cách từng
bước một chúng ta có thể loại trừ được những nhược điểm và
đặc điểm của
con người chính nó gây
căng thẳng và chán chường đang làm ta bực dọc ngày nay. Hào phóng là
chống lại tham dục, lòng tham,
bản chất bám níu.
Giới
liên quan chặt chẽ tới một số
giới luật,
đạo đức hay hạnh
luân lý.
Đức Phật biết rõ người ta không thể đặt ra
điều lệ và
quy tắc cho
mọi người trong cùng một đường lối. Cho nên có một số
luật lệ cho người
cư sĩ. Thêm một số
luật lệ nữa cho những ai muốn sống một
cuộc đời đạo hạnh, và nhiều hơn nữa cho những thầy tu tự nguyện dấn thân vào
con đường nghiêm ngặt về kỷ luật và
thanh tịnh. Cho nên Giới là một thứ
tăng trưởng dần dần, để mỗi người làm quen cái có thể theo được trong
hiện tại.
Trong giới hay hạnh
luân lý, hay
giáo lý đạo đức của
Đức Phật,
chúng ta quay về với
học thuyết đầu tiên: chúng không phải là điều răn, chúng không phải lệnh truyền từ trên, chúng không phải lệnh ban bố bởi
Đức Phật, những mệnh lệnh phải
tuân theo. Mỗi một
giới luật mà
chúng ta, người
Phật Tử giữ là lời chính mình
tự hứa hoàn toàn tự nguyện. Và cách mà các giới ấy nói là: 'Tôi tự nguyện giữ kỷ luật không
sát sanh, trộm cắp"
vân vân..., vì tôi là
chủ tể của số phận của tôi, và chính tôi
quyết định cuộc sống mà tôi nên theo.
Đức Phật như một người
dẫn đường đã cho thấy một số nhược điểm
căn bản hay những
lầm lẫn mà ta
cần phải tránh.
Nguyên nhân thứ hai trong hầu hết các
vấn đề mà
chúng ta có là
hận thù của
chúng ta, hay oán hờn người khác. Tiếng Pali được gọi là
Dosa.
Sila (giới) là một trong những
thuốc giải độc cho
nguyên nhân thứ hai này về tất cả các nhược điểm của
chúng ta. Khi
chúng ta giữ giới,
chúng ta kiểm soát hay đúng hơn là
chúng ta hoàn toàn loại bỏ nguyên nhân của
hận thù.
Đức Phật là một trong những người rất biết về những
hậu quả của
hận thù. Ngài đã nhìn thấy những người đã tự hủy hoại do
hận thù. Điều mà đã khiến Ngài khẳng định
sân hận không
dập tắt được
sân hận, càng
sân hận bao nhiêu thì khốn khổ bấy nhiêu. Bạn ghét tôi, tôi ghét bạn: Tôi ghét bạn nhiều hơn, bạn ghét tôi nhiều hơn và
sân hận cứ
thế tăng đến điểm cả hai bạn và tôi đều tự bị thiêu đốt trong mối
sân hận lẫn nhau, và theo
Đức Phật cách
duy nhất là một trong hai người phải ngưng. Vì lẽ không có một bên hay
tốt hơn cả hai bên đều
cố gắng đều chiến thắng
sân hận bằng
tình hữu nghị, chiến thắng bằng không
sân hận, sự
liên tục của
sân hận,
sân hận nối tiếp sẽ không bao giờ
chấm dứt.
Phương cách đối phó này
căn cứ vào toàn bộ học thuyết về cuộc sống
đạo đức trong
Phật Giáo. Vì lẽ đời
đạo hạnh đánh phá
nguyên nhân yếu kém thứ hai của
chúng ta được gọi là
sân hận, trong
Phật Giáo chúng ta có
học thuyết rất
lợi ích và
vô tận về
lòng từ ái.
Lòng từ ái là nền tảng của
Phật Giáo, (
nền móng trên đó
học thuyết của
Phật Giáo được
xây dựng) không phải
Đức Phật chỉ coi điều đó như một nguyên tắc
đạo đức đơn giản. Ngài đã lý giải nguyên tắc của
lòng từ ái trong cuộc sống cao thượng.
Rồi đến
lòng từ bi -
Karuna.
Lòng trắc ẩn phát sanh dễ dàng hơn. Bạn thấy người nào gặp khó khăn, bạn thấy ai cần đến sự giúp đỡ của bạn, tim bạn, tình
yêu thương của bạn hướng tới người đó và bạn vội vã giúp người ấy. Đức tính
vội vàng giúp đỡ người-
cảm thấy áy náy vì người khác
đau khổ, đó là một khía cạnh khác của
lòng từ ái.
Rồi đến khía cạnh thứ ba, một khía cạnh khó khăn hơn để
thực hành, khía cạnh này đòi hỏi
tình thương và chịu
đau khổ lớn lao được gọi là
Mudita - lòng
hoan hỷ, đó là chia sẻ
hạnh phúc của người khác -
quét sạch trong tâm tất cả những dấu vết của
ganh ghét và
thèm muốn, để bạn có thể vui với
hạnh phúc của người khác, của người láng giềng và ngay cả của
kẻ thù.
Cuối cùng là khía cạnh thứ tư của
lòng từ ái và đó là sự
thanh thản hoàn toàn, tâm xả ly,
Upekkha. Bạn không còn bạn, không còn thù, không ai hơn, không ai kém. Bạn
tuyệt đối không còn
phân biệt người này với người kia, và bạn
hoàn toàn hòa đồng vào cái
tính thống nhất với tất cả
chúng sinh, tất cả sự vật, tất cả
hoàn cảnh. Cho nên một khi bạn có thể sống một
cuộc đời với bốn
đặc điểm này
chi phối hành động của bạn thì không còn chỗ cho
sân hận, không có chỗ cho hơn thua, không có chỗ cho
tranh đua. Cho nên nguyên tắc thứ hai của giới sẽ chịu
trách nhiệm về chuỗi khó khăn mà
chúng ta sẽ có thể có.
Điều
nghĩa lý nhất sau cùng, điều mà bạn sẵn sàng tiến hành ngay, đó là
Bhavana -
thiền định.
Thiền định có nghĩa là huấn luyện tâm. Tiếng này theo từ nguyên học tự nó có nghĩa là mở mang- sự phát triển của tâm.
Đức Phật tin, và là một người
tuyên bố sớm nhất là mọi thứ bắt nguồn
từ tâm con người (
nhất thiết do tâm tạo). Tổ chức mà tôi
miêu tả có lời mở đầu trong
Hiến Pháp: "Vì chiến tranh khởi đi
từ tâm con người, thì chính nơi tâm
con người có thể
kiến tạo được hòa bình". Điều này
phản ảnh dòng đầu của câu kệ thứ nhất trong
Kinh Pháp Cú.
Tâm thanh tịnh, tâm được huấn luyện, tâm mở mang, tâm được
kiểm soát theo
ý muốn, tâm
buông lung dẫn đến những điều
căng thẳng và chán chường, nhưng tâm biết
cảnh giác, biết tự phát triển, tự
khám phá, và trong lòng nó
bí ẩn của
đời sống, khó khăn của
cuộc đời và sự thực của
đời sống, là kho tàng vĩ đại của
con người.
Tôi không
ngạc nhiên ngày nay có sự say mê ở bộ phận
thế giới có sự phát triển kỹ thuật cao độ về tất cả
các loại thiền định. Không có gì là quan trọng về chuyện ai
thuyết giảng cái gì hay triết lý nào, hay kỹ thuật nào đem
ứng dụng. Nhưng sự thực vẫn là người ta bắt đầu
nhận định được lúc tĩnh lặng tập trung, lúc
suy nghĩ thâm sâu, lúc
chức năng của tâm được
kiểm soát đúng cách, là một
yếu tố cần thiết cho
hạnh phúc của
con người.
Từ 2500 năm qua,
Đức Phật đã dạy đường lối này.và không có gì khác cần cho
con người ngày nay thì
con người cần
an lạc trong tâm.
Con người muốn
thoát khỏi căng thẳng và chiến đấu
chống lại chán chường. Và tôi nhìn thấy câu
trả lời trong
Phật Giáo, nhất là ba
pháp Bố Thí,
Trì Giới và
Thiền Định.
Hãy nhìn vào nguyên tắc riêng của
Đức Phật như
căn bản hay sự khởi đầu
cuộc đời đạo lý của Ngài.
Chúng ta biết nhiều người nghèo
trở thành giàu, nhưng nơi đây
trường hợp người giàu
trở thành nghèo, đi
tìm kiếm, như
chúng ta có thể nói,
an lạc trong tâm - đó là phước báu vĩ đại nhất. Kết quả người ấy nhìn vào chính mình, rồi dạy người khác sự
cản trở lớn, nguồn gốc của tất cả khó khăn, là sự luyến chấp.
Cho nên, nếu hôm nay có một người nào đó đến nói rằng: "Tôi có thể đưa bạn thẳng đến
Niết Bàn chỉ trong một phút" Tôi nghĩ rằng hầu hết
chúng ta đều có lòng
tha thứ. Người nào đó sẽ nói: "Tôi có thể chờ đến khi con gái tôi lấy chồng không?" Một người khác lại nói: "Tôi có thể chờ đợi đến
Đại Hội Thiện Hữu Phật Giáo Thế Giới chấm dứt không?" Tôi không thể đợi đến khi
hoàn thành nhiệm vụ ở Bangkok?"
Chúng ta đều có lúc thích hơn khi
mục tiêu tối hậu đến.
Dù
quyết định của bạn ra sao để
tiến tới mục tiêu, có một điểm mà
chúng ta không
thoát khỏi.
Chúng ta không thể chối bỏ sự thực tất cả những phát triển
hiện đại không có gì để tiến dẫn mà
bất an,
tranh giành cũng như
căng thẳng và chán chường
kết liên với chúng.
Phật Giáo đưa ra một số ít
phương pháp đơn giản hữu hiệu để chiến đấu với chúng. Với điều này tôi
cảm thấy Phật Giáo có một
vai trò trong đời sống, một
vai trò mà trong các nước
Phật Giáo giữ một phần quan trọng.
Trách nhiệm của
chúng ta là chia sẻ
tư duy,
kiến thức và
kinh nghiệm của
chúng ta càng nhiều càng tốt để
cuối cùng chúng ta đều nhìn thấy
thông điệp của
Đức Phật, bức
thông điệp đem
lợi ích cho
nhân loại, không ngưng
tiến tới nhân loại ở khắp thôn cùng xóm vắng, ở khắp
mọi nơi trên
thế giới.