NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
II. ĐỨC PHẬT VÀ GIÁO LÝ CỦA NGÀI
9. NHỮNG CÔNG NĂNG VĨ ĐẠI CỦA PHÁP
- Tiến Sĩ K.Sri. Dhammananda
Lời Phật dạy thường được gọi là Pháp
(Dhamma hay Dharma). Lời dạy này chẳng phải là một
khám phá hay một
ức đoán truyền thuyết với sự
quanh co thần học. Đó là
Chân Lý lan tràn trong
Vũ trụ, là sự
khám phá duy nhất của một
đại đạo sư giác ngộ.
Tuy nhiên,
Phật giáo là
thuật ngữ hiện được dùng cho Pháp và được đặt tên sau khi
khám phá ra.
Đức Phật Cồ Đàm,
nhận thức ra
Chân Lý và
phổ biến chân lý này cho
thế giới.
Chắc chắn có sự khó khăn cho một người
bình thường thấu triệt được đúng vì tâm ý họ còn bị
vẩn đục bởi
ảo tưởng.
Có nhiều
công năng trong Pháp khiến Pháp
tuyệt vời và toàn bích trong
ý nghĩa cao cấp nhất của
thuật ngữ này.
Tuy nhiên có ba khía cạnh về Pháp cần được
ghi nhận. Khía cạnh thứ nhất là
lý thuyết phải được học trong sự
thanh tịnh ban sơ. Khía cạnh thứ hai là sụ
áp dụng thành thực, sự
thực hành lời
giáo huấn, sống theo lời dạy của
Đức Phật bằng cách tránh tất cả
tội lỗi, làm điều thiện và
thanh tịnh tâm ý. Khía cạnh thứ ba là phát triển
trí tuệ,
đạt được sự
hiểu biết hoàn toàn về sự thực của những
hiện tượng.
Trong số nhiều các
công năng, sáu
đặc tính nổi bật ghi trong các bản văn có căn cứ đích xác. Những Pháp
Đức Hạnh này được tụng trong các khóa
tụng niệm hàng ngày của người
Phật Tử. Kệ
bình dân bằng tiếng Pali
giải thích những Pháp
đức hạnh ấy như sau:
Svakkhata Bhagavata Dhammo, Sanditthiko, Akaliko, Ehipassiko, Opanayiko and Paccatam Vedittabo Vinnuhi.
Chi tiết về những đặc diểm
nổi bật này được
miêu tả và
giải thích như sau:
1. Svakkhato Bhagavata Dhammo
Thuật ngữ này có nghĩa là Pháp được
khám phá ra và
công bố bởi
Đức Thế Tôn. Pháp này được coi như
công năng chung của tất cả ba khía cạnh
Giáo Lý, gọi là
lý thuyết, sự
tu tập chân thành và
thấu triệt hoàn toàn trong khi phần
từ ngữ còn lại
liên quan với
siêu trần(lokuttara) gồm có tám giai đoạn đạt
thánh quả và
Niết Bàn -
coi như cứu cánh tuyệt đối của Phật Giáo.
Pháp được
giải thích cặn kẽ bởi
Giáo Chủ. Phần đầu xuất sắc, phần giữa xuất sắc và phấn cuối cũng xuất sắc. Không có
mâu thuẫn, không có sự tự ý thêm vào và cũng không chệch hướng. Cũng như mỗi giọt nước trong biển cả chỉ có một vị, vị của muối mặn,
Pháp chỉ có một, chỉ có một vị bất cứ lúc nào, vị
hạnh phúc Niết Bàn.
Pháp chân thật cả chữ lẫn ý.
Môn học về Pháp bắt đầu với Giới (Sila) tức
hạnh kiểm tốt, với Định (Samadhi),
ý thức của tâm
thanh thản, và với Huệ hay
Trí Huệ (Panna) phát sanh sau khi
đạt được Định.
Muốn đạt
kiến thức về Pháp phải bắt đầu với việc
nghiên cứu Pháp bằng cách nghe những bài
thuyết trình thông thái giải thích cặn kẽ sự
phức tạp của nó và hiểu thấu
phương pháp để
áp dụng vào
thực tiễn. Do sự
tu tập kiên trì, ta có thể
loại bỏ những
ô trược tinh thần đưa đến kết quả tâm trở nên
thanh thản,
bình tĩnh và
hạnh phúc.
Hoàn tất được
trạng thái tinh thần như vậy sẽ
dọn đường cho việc
đạt được kiến thức cao hơn gọi là
tuệ giác hay
tuệ minh sát (Vipassana).
Kiến thức nội tâm này khi phát triển
vững vàng tức đạt
vinh quang hoàn hảo của sự
chứng đắc rực rỡ, điều có
thể đạt được ngay trong hiện đời.
Lời
giải nghĩa của
Đức Phật về
chúng sanh và
thế giới tạo thành kiểu mới nhất về
tư tưởng con người.
Căn cứ vào sự
khám phá trên
căn bản sự
hiểu biết hữu lý, không dính dấp gì đến
truyền thuyết thời đại,
Đức Phật đi sâu vào cốt tủy Pháp và
xuất hiện với sự
khám phá về sự
hiểu biết nằm dưới tất cả sự
hiện hữu có thể
nhận thức bằng
giác quan. Không
độc tài hay
độc quyền, Ngài
tuyên bố Pháp-
giáo lý thay
thế cho tất cả
giáo lý khác.
Pháp không liên quan gì tới bất cứ cái gì gọi là
thần thông tối thượng, nhưng được trình bày bởi
Đức Phật trên cơ sở
cá nhân, tức người này đến người kia
cho phép hành giả nhận định và suy ngẫm cho chính mình những
phương cách để đạt
giải thoát không cần tìm đến sự giúp đỡ bên ngoài. Pháp có trên
hoàn vũ, và là một
lợi ích sống còn cho
nhân loại tở bất cứ nơi nào trên
thế giới vào bất cứ lúc nào.
Thật
ý nghĩa Ngài đưa ra sự
giải thích hữu lý và khoa học riêng của Ngài về tất cả những
ngôn ngữ triết lý trước khi chúng được đem
sử dụng trong
giáo lý của Ngài về Pháp. Chẳng hạn trước
Đức Phật, Nghiệp chỉ có nghĩa là hành động, nhưng nay có nghĩa mới là
ý muốn đằng sau hành động.
Pháp cao thượng không ngừng
tố cáo sự bất công như chế độ đẳng cấp khắc nghiệt,
nô lệ và kỳ thị
thân phận thấp hèn về phụ nữõ.
Đức Phật chẳng bao giờ là nhà
độc tài mà là
vị Đạo Sư
dân chủ.
Bắt đầu với Ba
nơi Nương Tựa (Tirana), và
cuối cùng dẫn đến việc
đạt được hạnh phúc Niết Bàn,
tín đồ của
Đức Phật thấy mình
hết sức an ổn dưới sự hướng dẫn và
che chở của Pháp đuợc
tuyên bố là - Savakkhato.
2. Sanditthiko
Sanditthiko đem
ý nghĩa là nếu Pháp được
nghiên cứu kỹ, và mang ra
thực hành chân thành, kết quả
lợi ích sẽ nhìn thấy ngay tại chỗ và ngay tức khắc. Chẳng hạn, ngay cả một người ác, có thể là một
tai họa thực sự cho chính hắn và
xã hội, tìm nương tựa nơi Đúc Phật và Pháp, và bắt đầu một cuộc sống mới, tất cả những khó khăn và
lầm than sẽ
chấm dứt. Như đã được
chứng minh bằng
cuộc đời Hoằng Đế
A Dục Vương (Asoka), sau khi
đi theo Phật Giáo, ông đã thay đổi từ một người cầm quyền
độc ác gọi là Candasoka thành một người
chánh đáng Dhammasoka.
3. Akaliko
Akaliko ngụ ý
hậu quả lợi lạc từ việc
tu tập Pháp không bị
chậm trễ. Pháp, mặc dù khoảng
thời gian dài từ khi được
tuyên bố đã
trôi qua, vẫn như mới và không hề hấn gì. Pháp
tiếp tục tồn tại song song với
tư tưởng khoa học mới nhất. Nếu có
chân lý,
chân lý ấy không bao giờ
lỗi thời. Pháp là
Chân Lý ấy không bao giờ
già nua theo
thời đại vì nó
miêu tả sự thật nằm dưới tất cả
hiện tượng hiện hữu trong
luân hồi.
Tóm lại, Pháp nói rằng
thế gian là bất
toại nguyện và chính cái tham này là
nguyên nhân không tránh được về
tình trạng các
biến cố hiên nay.
Biện pháp cứu chữa sự
bất mãn này là
loại bỏ lòng tham qua sự
tu tập tám
yếu tố khéo léo gọi là
Bát chánh Đạo.
4. Ehipassiko
Ehipassiko là
công khai mời tất cả
mọi người đến xem,
điều tra,
nghiên cứu kỹ lưỡng Pháp, và
nếu cần phê bình trước khi
chấp nhận vì không có điều gì là
hoang đường hay huyền bí cả. Pháp
trong sạch và
trong suốt như
pha lê. Nó nguyên chất như vàng thoi. Chính
Đức Phật đã
tuyên bố: "Đừng
chấp nhận điều gì tôi nói, chỉ vì
kính trọng tôi mà
chấp nhận là không nên. Cũng như vàng nguyên chất chỉ biết chắc khi đem thử lửa hay mài rũa bằng đá mài, giống như vậy,
Pháp chỉ nên
chấp nhận sau khi đã
nghiên cứu kỹ lưỡng." Sự khẳng
định không hề sợ sệt này
cho phép nghiên cứu kỹ càng
giáo lý chứng tỏ sự vĩ đại của
Đức Phật, và
chân lý vững chắc của
Giáo Pháp tuyệt vời.
5. Opanayiko
Opanayiko có nghĩa là tất cả những ai
trung thành với
Giáo Pháp, sẽ bước vào
con đường dẫn đến hòa bình và
hạnh phúc trường cửu. Pháp
cho biết có bốn tầng
thánh quả đạt được bằng cách phát triển theo thứ tự
lớp lang. Pháp dẫn
môn đồ từ tầng này đến tầng kia
cho đến khi
giải thoát hết tất cả những
ràng buộc và
gông cùm của cuộc sống.
6. Paccattam Veditabbo Vinnuhi
Nhóm từ trên ngụ ý Pháp được lĩnh hội bởi người trí. Không ai có thể
thâm nhập Pháp thay
thế cho người khác, giống
như không ai có thể làm cho người khác hết khát trừ khi chính người khát phải uống nước.
Quan sát thấy có hai khía cạnh có
ý nghĩa trong
thuật ngữ này: thứ nhất, đạt
giác ngộ có
tính cách cá nhân, thứ nhì,
Giáo Pháp chỉ có thể
thấu triệt bởi người trí.
Đức Phật không phải là vị
cứu thế mà là vị thầy - Người thầy chỉ
con đường cho người khác theo. Phần còn lại là do
cá nhân liên hệ phải
giữ giới.
Giữ Giới (Sila),
tu tập Thiền Định
(Samadhi), tập trung
tư tưởng và sau đó phát triển huệ
(Panna),
trí tuệ trực giác giúp cho
cá nhân thành công trong việc
giải thoát bằng
nỗ lực của chính mình.