NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
I. QUAN ĐIỂM ĐẠI CƯƠNG PHẬT GIÁO
2. BỨC THÔNG ĐIỆP BẤT DIỆT
- Hòa Thượng Piyadassi Mahathera
Một số người thích gọi
giáo lý của
Đức Phật là một
tôn giáo, một số khác lại gọi là triết lý, và cũng có người nghĩ rằng là cả hai
tôn giáo và triết lý.
Tuy nhiên, nói cho đúng hơn có thể gọi là "Lẽ Sống". Nhưng cũng không có nghĩa
Phật Giáo chỉ là một nền
đạo đức. Hầu như
trái lại,
Phật giáo là
con đường huấn luyện
luân lý,
tinh thần và
trí thức hầu dẫn tới
tâm trí hoàn toàn được
tự do. Chính
Đức Phật gọi
giáo lý của Ngài là "
Dhamma-Vinaya" (Pháp-Luật),
Học Thuyết và Kỷ Luật. Nhưng
Phật Giáo, trong
nghĩa hẹp không thể gọi là
tôn giáo, vì
tôn giáo có nghĩa là 'hành động hay hạnh kiểm
biểu lộ niềm tin sự
sùng kính, và
ham muốn làm
vừa lòng đấng
thần linh có
quyền năng nào đó,
tu tập hay
thực hành lễ nghi và sự
tuân thủ ngụ ý
công nhận đấng
quyền năng vô hình giám sát số phận của mình, và ta phải phục tùng, tôn thờ và lễ bái'.
Phật giáo không phải là một
tôn giáo như vậy.
Trong
tư tưởng Phật Giáo, không có sự
nhận thức hay tin chắc có sự
hiện hữu của
Đấng Sáng Tạo dưới bất cứ dạng thức nào có quyền thưởng phạt các
hành vi thiện ác của người mà Đấng đó tạo ra. Người
Phật Tử nương tựa nơi
Đức Phật (Buddham suranam gacchami) không phải trong niềm
hy vọng được
Giáo Chủ cứu vớt.
Đức Phật chỉ là một vị Thầy chỉ
con đường và hướng dẫn
tín đồ tự
giải thoát.
Một cái bảng cắm trên đường đi,
thí dụ, một tấm biển báo ở chỗ về,
chỉ dẫn quan sát bước chân đi của mình.
Chắc chắn bảng đó không mang người bộ hành đến nơi muốn đến được.
Một
bác sĩ khám bệnh và cho toa thuốc, phần người bệnh là thử nghiệm toa thuốc đó.
Thái độ của
Đức Phật đối với
tín đồ cũng giống
thái độ của người thầy
hiểu biết và
từ bi hay thầy thuốc.
Sự
thờ cúng cao cả nhất là
tri ân những
tinh hoa của
nhân loại, những người có
tâm hồn vĩ đại và
dũng cảm với sự
hiểu biết uyên bác sự thật,
quét sạch vô minh và nhổ hết gốc rễ
ô trược. Người nhìn thấy
chân lý là người cứu giúp thực sự, nhưng người
Phật Tử không cầu nguyên họ. Họ chỉ tôn thờ những người đã
tìm ra Chân Lý vì đã chỉ
con đường đi đến
chân hạnh phúc và
giải thoát.
Hạnh phúc là điều mà ta phải tự dạt lấy; không ai có thể làm cho ta
tốt hơn hay
xấu hơn. 'Thanh tịnh hay không thanh tịnh'
tùy thuộc chính ở ta. Người ta không thể
thanh tịnh hay
ô nhiễm người khác.
Đi Tìm Chân LýTrong khi lúc
lâm chung nằm trên giường giũa hai
cây Sa La tại Kusinara,
Đức Phật tám mươi tuổi nhìn thấy nhiều hoa dâng cho Ngài, Ngài liền dặn dò
Đại Đức Anan: Này
A Nan, những ai sống
cuộc đời chính đáng, đúng theo Pháp- những người đó chính là những người vinh danh, tôn thờ và kính quý
Như Lai (Đấng
Đại Giác) với tấm lòng
kính trọng cao quý nhất. Cho nên, này
A Nan, nên sống một
cuộc đời chính đáng, sống theo đúng Pháp. Vậy nên bạn nên tự
rèn luyện.
Đức Phật khuyến khích sống theo đúng Pháp cho thấy
rõ ràng có sự tối quan trọng trong việc huấn luyện ý, khẩu và thân, chứ không phải chỉ
dâng hoa cho
Đấng Giác Ngộ. Sự
nhấn mạnh là về
đời sống chính đáng.
Về phần
Phật Giáo có phải là một triết lý hay không còn
tùy thuộc vào sự định nghĩa tù này, và
phải chăng có thể định nghĩa nó bao trùm tất cả
hệ thống tư tưởng triết lý là đáng khả nghi. Theo từ nguyên học, Triết lý có nghĩa là
yêu (Gr philein)
trí tuệ (sophia).
'Triết lý là vùa nhằm tìm trí tuệ vừa là trí tuệ được tím thấy'. Trong
tư tưởng Ấn Độ, triết lý gọi là darsana, cái nhìn
chân lý.
Tóm lại,
mục đích của triết lý phải là
tìm ra chân lý tối hậu.
Phật Giáo cũng chủ trương tìm
chân lý. Nhưng không phải chỉ là
lý luận có
tính cách ức đoán, môt cấu trúc
lý thuyết, hay chỉ thâu thập và tồn trữ
kiến thức.
Đức Phật nhấn mạnh đến khía cạnh
thực hành giáo lý của Ngài, sự
áp dụng kiến thức vào đời sống- hướng vào
đời sống chứ không phải chỉ
xem xét nó ở
đời sống không thôi.
Đối với
Đức Phật,
toàn bộ giáo lý chỉ là để hiểu
bản chất bất toại nguyện của
hiện tượng sống và mở mang
con đường dẫn đến
tránh khỏi bất
toại nguyện. 'Đó là triết lý của Ngài'.
Trong
Phật Giáo,
trí tuệ có tầm quan trọng nhất vì
thanh tịnh đ?n qua
trí tuệ, qua
hiểu biết. Nhưng
Đức Phật không bao giờ chỉ
tán dương trí thức. Theo Ngài,
kiến thức phải đi đôi tay trong tay với
tâm thanh tịnh, với
luân lý ưu tú (Vijjacaranasampanna).
Trí tuệ đạt được bằng sự
hiểu biết và sự phát triển chất lượng của đầu óc và tâm là
trí tuệ bậc nhất
(bhavanamaya panna). Đó là
kiến thức dành dụm được không phải chỉ là sự
ức đoán, sự
hợp lý hay
lý luận chỉ có
bề ngoài. Như vậy,
rõ ràng Phật Giáo không phải chỉ là
tình thương mà cũng chẳng phải đem lại sự
tìm kiếm sau
trí tuệ, cũng chẳng phải
sùng bái (
mặc dầu họ có
ý nghĩ và tác phong về
nhân loại), nhưng mà là sự khuyến khích việc
áp dụng thực tiễn giáo lý dẫn
tín đồ đến
vô tư,
giác ngộ, và
giải thoát cuối cùng.
Mặc dù
chúng ta gọi
giáo lý của
Đức Phật là
'Phật Giáo", vì thế gộp nó vào
'học thuyết' và
'học thuật', nhưng không phải là
vấn đề chúng ta dán nhãn gì cho nó. Gọi nó là
tôn giáo, triết lý,
Phật Giáo hay bất cứ nhãn hiệu nào mà bạn thích. Những nhãn hiệu ấy không có
ý nghĩa gì với người
đi tìm chân lý và
giải thoát.
Khi Upatissa và Kolita (sau này
trở thành Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên, hai
Đại Đệ Tử của
Đức Phật) đang đi
tìm kiếm học thuyết giải thoát, gặp Ngài Assaji (
A Tư Đà, một trong năm
đệ tử đầu tiên của Đức
Giáo Chủ) đang đi
khất thực. Upatissa
hết sức cảm kích
phong độ cao quí của vị
Trưởng Lão này. Nghĩ rằng bây giờ chưa phải là lúc
tìm kiếm hỏi han, Upatissa liền theo Ngài Assaji đến chỗ Ngài nghỉ; Upatissa
đến gần, chào Ngài và hỏi Ngài về
giáo lý của
Đức Bổn Sư. Ngài Assaji, vốn người
ít nói, từ tốn
trả lời: "Ta không thể
dông dài giải thích giáo pháp và
giới luật, nhưng ta có thể
vắn tắt tóm lược ý nghĩa". Upatissa
trả lời:Vậy này
Đạo Hữu,
ý nghĩa sao phải nhiều lời. Lúc bấy giờ, Ngài Assaji lập lại câu kệ
bao gồm toàn thể giáo lý nhân quả của
Đức Phật:
"Về các pháp phát sanh do nguyên nhân
Như Lai đã chỉ dạy nguyên nhân ấy
Nguyên nhân chúng chấm dứt, Như Lai cũng chỉ dạy
Đó là giáo huấn của Bậc Đại Hiền Triết"
Upatissa tức khắc
lãnh hội ý nghĩa và
chứng đắc bậc Thánh đầu tiên - giai đoạn
nhận thức đầu tiên,
thấu triệt " bất luận cái gì có
bản chất của sự phát sanh, tất cả những cái đó có
bản chất của sự chấm dứt".
Vị Thầy
Thực TiễnBàn bạc,
thảo luận đến đâu mà không nhằm vào
hiểu biết đúng (
chánh kiến) sẽ không dẫn
chúng ta đến
giải thoát. Điều
cần thiết là
kiến thức đúng.
Chúng ta có thể tìm nguồn gốc lời chỉ dạy đúng từ
thiên nhiên, từ cây cối, và hoa, từ đá và sông. Có nhiều
trường hợp, có người đạt
giác ngộ và
thoát khỏi nhiễm trược khi nhìn thấy chiếc lá rụng, nước chảy, lửa cháy rừng, một
ngọn đèn tắt. Cái này đánh trúng
thức tỉnh những người ấy, hiểu cái
bản chất vô thường của
mọi vật, họ đạt
giải thoát. Đúng,
hoa sen chờ ánh sáng
mặt trời, không bao lâu khi
mặt trời chiếu sáng
hoa sen nở và mang niềm vui đến tất cả.
Đức Phật không
quan tâm đến những
vấn đề siêu hình vì chúng chỉ làm cho
con người bối rối và
đảo lộn trạng thái cân bằng của
tinh thần. Câu
trả lời về những
vấn đề ấy
không giải thoát
nhân loại khỏi nghèo túng và
bất hạnh. Đó là
lý do tại sao
Đức Phật miễn cưỡng không
trả lời những câu hỏi ấy, và có lúc Ngài
kiềm chế giảng giải những câu hỏi thường được đặt sai.
Đức Phật là một vị thầy
thực tiễn.
Mục đích duy nhất của Ngài là
giải nghĩa tất cả những
chi tiết về Khổ
(dukkha), thực trạng bao quát của
đời sống, làm cho
con người cảm nhận được
toàn bộ sức mạnh của mình, và làm cho con ngưới
ý thức được về nó. Ngài nói rõ cho
chúng ta biết những gì Ngài
giải thích và những gì
không giải thích.
Một lần Ngài ngụ tại Kosambi (gần Allahadah) trong rừng cây Simsapa. Cầm
một nắm lá trong tay, Ngài hỏi các thầy
Tỳ kheo:
- Này các Thầy, các Thầy nghĩ sao, lá trong tay Như Lai hay lá của cây mọc trong rừng trên động kia, lá nào nhiều?
- Bạch Đấng Thế Tôn, lá cầm trong tay Ngài ít, lá trong rừng kia nhiều.
- Này các Thầy, cũng như vậy đó, có rất nhiều điều ta hiểu biết hoàn toàn nhưng ta không nói cho các Thầy biết, chỉ có một số ít điều ta đã chỉ bảo cho các Thầy. Và tại sao, ta không chỉ bảo cho các Thầy? Này các Thầy, vì những điều đó không hữu ích, không thiết yếu cho đời sống thanh tịnh, không dẫn đến nhàm chán, vô tư, tịch tịnh, thanh thản, hiểu biết hoàn toàn, giác ngộ, và Niết Bàn. Này các Thầy, đó là tại sao ta không nói cho các Thầy biết.
- Này các Thầy, điều gì ta đã nói với các Thầy? Đó là Khổ - ta đã nói - Đó là nguyên nhân của khổ - ta đã nói - Đó là con đường dẫn đến diệt khổ - ta đã nói.
- Này các Thầy, và tại sao ta đã nói đến những chân lý ấy? Vì những chân lý ấy hữu dụng, thiết yếu cho đời sống thanh tịnh, dẫn đến nhàm chán, vô tư, tịch tịnh, thanh thản, hiểu biết hoàn toàn, giác ngộ và Niết Bàn. Cho nên, này các Thầy, ta nói các điều đó.' Trên dây là lời Đức Phật.
Tuy nhiên một số
học giả không tán đồng
thái độ của vị
Giáo Chủ, họ
nghi ngờ sự
giác ngộ của
Đức Phật và
gán cho Ngài nhãn hiệu thuộc phái theo thuyết 'bất khả tri' ('không thể biết'). Các
học giả cứ mãi
lập luận và
suy đoán. Đây không phải là câu hỏi của hôm nay hay hôm qua, chúng được nêu lên trong thời
Đức Phật. Cả đến vị du tăng Sakuladayi, chẳng hạn, hỏi Ngài về
quá khứ và
vị lai, Ngài khẳng định:
" Hãy nói quá khứ, nói vị lai, ta sẽ dạy Pháp này cho ông:
Khi điều này hiện hữu, thì có điều kia,
Với sự phát sanh của cái này, cái kia phát khởi.
Khi điều này không hiện hữu, thì không có điều kia,
Với sự chấm dứt của cái này, cái kia chấm dứt"
Tóm lại, đây là
học thuyết Phật Giáo về tính
điều kiện hay sự phát sanh
tùy thuộc (lý duyên khởi-
paticca samupadda). Và điều này hình thành
nền móng cho
Tứ Diệu Đế,
quan niệm chủ yếu của
Phật Giáo.
Vị
Bác Sĩ Vô SongĐức Phật được biết như một vị thầy thuốc
vô song (bhisakho), một nhà giải phẫu
tối thượng (sallakatto anuttara). Ngài là một nhà chữa bệnh vô địch.
Phương pháp trình bày của Ngài về
Tứ Diệu Đế có thể
so sánh như
phương pháp của một thầy thuốc. Là một thầy thuốc, Ngài trước nhất chẩn bệnh, rồi Ngài
khám phá ra
nguyên nhân của bệnh hay sự phát sanh ra bệnh rồi làm sao bỏ bệnh và
cuối cùng áp dụng cách chữa trị.
Khổ
(dukkha) là bệnh,
ái dục (tanha) là sự phát sinh hay căn nguyên của bệnh
(samudaya), bằng cách loại
ái dục, bệnh được loại đi và đó là chữa khỏi bệnh
(nirodha-nibbana).
Bát Chánh Đạo (magga) là phương thuốc.
Một người bệnh phải
nhận thức rằng mình bị đau, phải
ý thức ngay trước khi nó trở nên
trầm trọng, phải nghĩ ngay đến
phương pháp loại bỏ nguyên nhân, với
mục đích phải đi
bác sĩ để được chẩn bệnh và có phương thuốc. Nhờ sự hữu hiệu của phương thuốc, người bệnh hết đau và đó là việc chữa bệnh. Như vậy, khổ đau không nên bỏ qua mà phải biết đến
(abhineyya);
vì vậy khổ đau là bệnh.
Ái dục,
nguyên nhân phải
tiêu diệt,
loại bỏ (pahatabha);
Bát Chánh Đạo phải được
thực hành, trau dồi phát triển
(bhavetabba); đó là phương thuốc. Với
kiến thức về khổ đau, với việc
loại bỏ ái dục bằng sự
tu tập Bát Chánh Đạo,
thành tựu Niết Bàn (Sacccikatabba) là
điều chắc chắn đạt được. Đó là chữa khỏi bệnh, một sự
buông bỏ hoàn toàn,
sự giải thoát khỏi
ái dục.
Trả lời Sela, một người
Bà La Môn nghi ngờ sự
giác ngộ của
Đức Phật, Ngài chỉ dạy:
"Ta biết cái gì cần phải biết, cái gì cần phải trau dồi ta đã trau dồi. Cái gì phải loại bỏ, ta đã không còn giữ. Cho nên, này ông bà la môn, ta là Phật - một người Giác Ngộ"
Vì những
chân lý này
liên kết và
phụ thuộc lẫn nhau, cho nên thấy hiểu một hay nhiều hơn trong bốn chân ly cũng là thấy hiểu những
chân lý khác. Với người chối bỏ không nhận có khổ đau,
con đường đi tới để đạt
giải thoát khỏi khổ đau là
vô nghĩa.
Tóm lại, không
công nhận một
chân lý cũng là không
công nhận ba
chân lý kia thì đó là không
công nhận toàn bộ giáo lý của
Đức Phật.
Với cách nói của những nhà
duy vật kiên định: "Tôi không thể nào nuốt được tất cả cái
vô nghĩa này",
giáo lý này có vẻ không gì hơn là chán ngắt, không hiểu được và không đúng chỗ, nhưng với những ai
tranh đấu để mở mang một
quan niệm thực tế về cuộc sống, thì
giáo lý này không
hoang đường, không phải là truyện tưởng tượng nói với kẻ khờ dại.
Với những ai
quan sát chúng sanh trên
thế giới từ một góc độ
chính xác có nghĩa là với sự
nhận thức sâu
sắc không thiên vị, thì điều đó trở nên rất
rõ ràng, chỉ có một
vấn đề trên
thế giới này, đó là khổ đau. Như
Đức Phật đã nói:
thế giới này được
thiết lập trên khổ đau, đặt
nền móng trên khổ đau
(dukhe loko patitthio). Nếu bất
cứ sự việc gì
trở thành vấn đề,
chắc chắn có khổ đau, bất
toại nguyện, hay có thể nói - mâu thuẫn-
mâu thuẫn giũa những
ham muốn của
chúng ta với các
sự kiện của
đời sống.
Từ một
vấn đề đơn giản chúng ta đặt nhiều tên khác nhau: kinh tế,
xã hội, chính trị,
tâm lý và cả
vấn đề tôn giáo. Có phải tất cả đều bắt nguồn từ một
vấn đề, khổ đau
(dukkha), gọi là bất toại nguyện?
Nếu không có bất
toại nguyện, tại sao ta cần
tranh đấu để giải quyết?
Phải chăng không giải quyết một
vấn đề ngụ ý làm giảm bất toại nguyện? Tất cả những
vấn đề gây ra bất
toại nguyện, và
nỗ lực là để
chấm dứt chúng, nhưng chúng lại sinh ra nhau.
Nguyên nhân thường không phải bên ngoài, mà chính trong
vấn đề ấy, nó có
tính cách chủ quan.
Chúng ta thường nghĩ rằng
chúng ta đã
giải quyết hết các
vấn đề,
thỏa mãn tất cả những gì
liên quan đến, nhưng những
vấn đề đó lại bất ngờ
xuất hiện trong những dạng thức khác, theo nhiều cách
linh tinh khác. Dường như lúc nào
chúng ta cũng phải đương đầu với
vấn đề mới, và ta phải đem
nỗ lực mới để
giải quyết chúng, và cứ như vậy các
vấn đề và
giải quyết vấn đề cứ
tiếp diễn. Đó là
bản chất của khổ đau, đặc diểm phổ quát cuộc sống của
chúng sanh. Khổ đau
hiện ra và mất đi rồi lại tái
xuất hiện trong những dạng thức khác. Chúng là cả
vật chất lẫn
tâm lý, một số người có khả năng có thể
chịu đựng vật chất hơn
tâm lý hay ngược lại.
Thực Tế Cuộc Sống
Đời sống theo
Phật Giáo là khổ đau, khổ đau ngự trị
suốt đời. Đó là
vấn đề căn bản của
đời sống.
Thế giới đau khổ và tai ách, không một
chúng sanh nào
thoát khỏi cái
gông cùm khổ sở và đó là
chân lý phổ quát mà không một người
ý thức nào không nhìn thấy sự việc trong bối cảnh
thích nghi của nó, có thể chối cãi được.
Tuy nhiên sự
công nhận thực tế phổ quát này không có nghĩa là chối bỏ
hoàn toàn lạc thú và
hạnh phúc.
Đức Phật, Người Chiến Thắng Khổ Đau, không bao giờ chối cãi
hạnh phúc trong đời khi Ngài nói đến tính tổng quát của khổ đau. Trong kinh Aguttara Nikaya có nêu
hạnh phúc mà
chúng sanh có khả năng
vui hưởng.
Trả lời câu hỏi của Mahali Licchavi, Ngài nói:
'Này Mahali, nếu những dạng thức có thể nhìn thấy như âm thanh, mùi và vị vô hình và những vật sờ thấy được (những đối tượng giác quan mà con người cảm thấy qua khả năng cảm giác), hoàn toàn chịu khổ đau, bị bao vây bởi khổ đau, bị mất lạc thú và hạnh phúc, thì chúng sanh sẽ không vui thích gì nơi những đối tượng giác quan ấy; nhưng này Mahakli, vì có lạc thú và hạnh phúc trong những đối tượng giác quan ấy, nên chúng sanh mới thích chúng và bám níu vào chúng, do sự bám níu này, đã tự làm mình ô trược'.
Do khả năng
cảm giác nên
con người bị
lôi cuốn vào những đối tượng
giác quan ấy, thích nơi chúng và tìm nguồn vui nơi chúng
(assada). Đó là
thực tế không chối cãi được vì bạn kinh qua điều đó.
Tuy nhiên,
vật chất thích thú, hay niềm vui không
trường cửu. Chúng phải chịu sự thay đổi.
Vậy thì khi một người có thể
duy trì hoặc bị tước
đi lạc thú làm cho mình vuiù, người đó thường trở nên
ủ rũ. Người ấy không thích sự buồn tẻ, thiếu nhiều thứ nên buồn bã, đi tìm nguồn vui nơi bạn bè, giống như trâu bò tìm đồng cỏ mới, nhưng những thú vui mới này chỉ như màn
trình diễn qua đi rất nhanh.
Vì vậy, tất cả các
lạc thú, dù bạn thích hay không thích, cũng là khúc mở đầu cho
đau đớn và
chán ghét. Tất cả những
lạc thú trần thế đều phù du, giống như viên thuốc
độc dược bọc bởi một lớp đường lừa gạt và làm hại mình.
Một dĩa
thức ăn không ngon, một ly nước uống không
dễ chịu, một
thái độ vô duyên, và hàng trăm những chuyện lặt vặt khác đem
đau đớn và bất
toại nguyện đến với
chúng ta - người
Phật Tử hay không là
Phật Tử, giàu hay nghèo, cao
sang hay hèn mọn, biết chữ hay
mù chữ. Shakespeare
mô tả lời nói của
Đức Phật khi ông viết trong
tác phẩm Hamlet: "Khi
phiền não đến, chúng không đến
đơn độc mà từng tiểu đoàn".
Vậy thì khi
con người thất bại không thấy khía cạnh này của
cuộc đời, cái bất trắc của
lạc thú, họ trở nên
thất vọng và dao dộng, đôi khi
cư xử rồ dại không có
ý thức hay
suy xét phán đoán, và tâm có thể mất
quân bình. Điều đó là nguy hiểm,
hậu quả tội lỗi (adinava).
Nhân loại thường phải
đối đầu với hai
bức tranh cuộc sống này. Tuy vậy người
cố gắng quét sạch ham muốn sâu xa mọi sự, vật sống hay
vô tri vô giác, nhìn đời với một cái nhìn khách quan, thấy sự vật đúng theo phối cảnh của chúng,
rèn luyện văn hóa đòi hỏi mình phải
trầm tĩnh trước tất cả những
thăng trầm của
cuộc đời, có thể
mỉm cười trước sự việc
bất như ý, giữ
tâm trí được
quân bình quăng đi tất cả những cái thích và không thích - Người ấy chẳng bao giờ
buồn phiền mà
giải thoát (nissanara). Ba điều này
assada (vui),
adinava (
hậu quả tội lỗi) và
nissarana (
giải thoát) hoặc hỉ lạc, những
hậu quả tội lỗi và
giải thoát của chúng là
thực tế kinh nghiệm- một
bức tranh trung thực về cái mà ta gọi là
đời sống.
Trả lời câu hỏi của Mahali,
Đức Phật tiếp tục:
'Này Mahali, nếu những hình thái có thể nhìn thấy, âm thanh. hương, vị và các vật sờ thấy được, hoàn toàn mang lại lạc thú, bao trùm với lạc thú, không bị đau khổ, chúng sanh sẽ không nhàm chán các đối tượng giác quan, nhưng, này Mahali, có sự đau đớn, và những lạc thú trong đối tượng giác quan ấy không lâu bền, chúng sanh cảm thấy nhàm chán, thấy chán ghét, họ không còn thấy thích thú và cũng không bám níu nơi chúng, họ tự thanh tịnh lấy họ'.
Vậy thì có ba khía cạnh khổ đau:
- khổ đau trong dạng thức thông thường hết sức rõ ràng (dukkha-dukhata);
- khổ đau, hay sự bất toại nguyện của tình trạng tùy thuộc;
- khổ đau gây ra bởi sự thay đổi (vipainama dukkhata).
Tất cả những
đau khổ về
tinh thần hay thể xác, như sinh, già bệnh, tử, phải quan hệ với người không ưa, bị chia ly với người ưa, không đạt điều ta muốn là những sự
đau khổ thông thường
trong đời sống hàng ngày và được gọi là
dukkha-dukkhata. Không cần đến nhiều khoa học mới hiểu được thực trạng của
đời sống.
Sankhara-dukkhata, bất
toại nguyện trong những
tình trạng tùy thuộc, có một
ý nghĩa triết lý. Mặc dù
từ ngữ sankhara gợi ý tất cả sự vật đều bị
chi phối bởi
nguyên nhân và
hậu quả, nơi đây trong
phạm vi khổ đau, năm nhóm uẩn
(pancakkhandha) được nói đến. Chúng là tập hợp
vật chất (trong
trường hợp này là xác
thân hữu hình), của
cảm giác, của
nhận thức của cấu trúc
tinh thần và của thức.
Chúng được gọi là
nama-rupa (danh-sắc), môt
thực thể tâm-vật-lý.
Rupa nằm trong uẩn
vật chất và
Nama là bốn uẩn còn lại. Sự
phối hợp của
năm uẩn cấu tạo thành một
chúng sinh.
Một
chúng sinh và
thế giới kinh nghiệm cả hai đều luôn luôn thay đổi. Chúng
đi vào tồn tại rồi lại mất đi. Tất cả đều trong cơn gió lốc, không có gì có thể thoát ra khỏi sự thay đổi không lay chuyển và không ngừng nghỉ này, và vì
bản chất tạm thời này, không có gì là thực
vừa ý. Có
hạnh phúc, nhưng rất ngắn ngủi, tan đi như bông tuyết, mang lại bất
toại nguyện.
Viparinama dukkha (Khổ vì thay đổi) nằm trong loại bất
toại nguyện do sự
vô thường. Tất cả những cảm nghĩ
vừa ý và
sung sướng mà
con người kinh nghiệm phai mờ và biến đi. Như
Đức Phật nói, cả đến những cảm nghĩ
chứng nghiệm bởi các nhà
du già hay
thiền định đạt tới bốn tầng thiền, cũng rơi vào loại
viparinama dukkha (khổ vì thay đổi), vì chúng cũng chóng tàn (
vô thường) và chịu sự thay đổi. Nhưng cái khổ ghi nơi đây không phải là cái
đau đớn hay khổ sở mà
con người thường phải
chịu đựng. Điều mà
Đức Phật vạch rõ là tất cả sự vật
vô thường đều bất
toại nguyện.
Chúng chịu sự thay đổi trong mỗi khoảnh khắc và sự thay đổi này
mang đến bất
toại nguyện, vì bất cứ gì
vô thường đều bất
toại nguyện (yadaniccam tam dukkha). Do đó không có
hạnh phúc trường cửu.
Đức Phật không có nét mặt buồn thảm khi Ngài giảng cho các
tín đồ chân lý của khổ, nét mặt Ngài lúc nào cũng
vui tươi,
rạng rỡ và tươi cười cho thấy
tâm đắc ý của Ngài:
"Sung sướng thay chúng ta sống
không gánh nặng
trong niềm vui luôn vui hưởng
Giống như các chư thiên rạng rỡ".
Ngài khuyến khích các
đệ tử của Ngài không nên
yếu đuối, mà nên trau dồi tất cả phẩm hạnh quan trọng, niềm vui, một
yếu tố của sự
giác ngộ.
Nghiên cứu một cách
vô tư về
Phật Giáo nói cho
chúng ta biết đó là một
thông điệp rạng rỡ vui tươi và
hy vọng, không phải là triết lý chủ bại về tính
bi quan.