NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
II. ĐỨC PHẬT VÀ GIÁO LÝ CỦA NGÀI
6. ĐỨC PHẬT
- Hòa Thượng Narada Mahathera
Đức Phật là một
chúng sanh độc nhất
vô nhị. Ngài là nhà
tư tưởng sâu xa nhất,
diễn giả có tài
thuyết phục nhất, người làm việc đầy
nghị lực nhất, nhà
cách mạng thành công nhất, một
vị đạo sư
hết sức từ bi và
khoan dung, người
quản lý hành chánh có
năng lực nhất.
Đặc tính trứ danh nhất của Ngài là sự
thanh tịnh tuyệt đối và
thánh tính toàn hảo. Ngài
hết sức thanh tịnh và
hết sức thánh thiện khiến người ta gọi Ngài "Bậc
Thánh Thiện nhất trong các Bậc Thánh" Ngài là
gương mẫu toàn vẹn của tất cả các
đức hạnh. Ngài
thuyết giảng không bao giờ Ngài
tỏ ra giới hạnh yếu kém. Người nào đã
tiếp xúc với Ngài đều phải
công nhận sự vĩ
đại không thể nghĩ bàn và đều bị
ảnh hưởng sâu xa bởi cá tính có sức
lôi cuốn như nam châm của Ngài.
Thiện chí,
trí tuệ,
từ bi,
phục vụ,
từ bỏ thế tục,
cuộc đời gương mẫu,
phương pháp không thể
chê trách dùng trong việc
truyền bá giáo pháp, và sự
thành công cuối cùng của Ngài - tất cả những
yếu tố trên đây đã góp phần tôn vinh
Đức Phật bậc
Đạo Sư vĩ đại nhất.
Đức Phật là nhà
truyền giáo đầu tiên
tích cực nhất trên
thế giới. Ngài đi hết chỗ này đến chỗ kia trong 45 năm dài để
thuyết giảng cho
đại chúng và giới
trí thức.
Cho đến giờ phút
cuối cùng, Ngài
phục vụ nhân loại cả về
gương mẫu lẫn
giới luật. Những
đệ tử xuất sắc của Ngài theo gương Ngài. Không một đồng xu dính túi, những
đệ tử này đã đi tới miền đất
xa xăm để
truyền bá giáo Pháp, không mong được đền đáp gì.
"Hãy tinh tấn lên các con" đó là
lời nói cuối cùng của
Đức Phật.
Giải thoát và
thanh tịnh không
thể đạt được
nếu không có
nỗ lực cá nhân. Những lời
cầu nguyện xin
can thiệp hộ bị
phản đối kịch liệt trong
Phật Giáo, thay vì
cầu nguyện là
thiền định dẫn đến tự
kiềm chế,
thanh tịnh và
giác ngộ.
Mục tiêu sứ mạng của
Đức Phật là để cứu
chúng sanh thoát khổ đau bằng cách
diệt trừ nguyên nhân gây ra và chỉ dạy
phương cách chấm dứt sanh tử nếu ai mong muốn.
Tuy nhiên,
Đức Phật cũng
dẫn giải chi tiết trong nhũng bài
thuyết pháp hướng về sự
tiến bộ thế giới. Cả hai sự
tiến bộ vật chất lẫn
tinh thần đều
cần thiết cho việc phát triển một
quốc gia có
tư tưởng chủ nghĩa vật chất trên
thế giới. Ta không nên tách rời cái này với cái kia, và cũng chẳng nên
chỉ hoàn tất
tiến bộ vật chất bằng cách
hy sinh tiến bộ tinh thần như
chúng ta thấy ngày nay ở một số
quốc gia duy vật chủ nghĩa trên
thế giới.
Pandit Nehru thường nhắc đến
Đức Phật như người con vĩ đại nhất của
Ấn Độ.
Tiến Sĩ S. Radhakrishman, một nhà
lãnh đạo và
triết gia Ấn,
tán thán Đức Phật với những lời sau: "Nơi
Đức Phật Cồ Đàm chúng ta thấy
trí tuệ bậc thầy từ Phương Đông khoâng
thua kém ai về
ảnh hưởng đối với
tư tưởng và
đời sống của
loài người, và
thiêng liêng đối với tất cả là người khai sáng ra
truyền thống tôn giáo mà
ảnh hưởng sâu rộng hầu
như không thua kém bất cứ
tôn giáo nào khác. Ngài thuộc về
lịch sử tư tưởng thế giới, là
gia tài chung cho tất cả những người có
văn hóa, xét bằng
tri thức chính trực,
tinh thần nghiêm chỉnh và
tuệ giác,
chắc chắn Đức Phật là một trong những nhân vật vĩ đại nhất
trong lịch sử."
Trong cuốn "Ba nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử", sử gia H.G. Wells viết:
"Nơi Đức Phật, các bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân thành, lẻ loi, phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống chứ không phải thần thoại. Ngài cũng có bức thông điệp gửi cho nhân loại hoàn vũ. Nhiều những tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của chúng ta rất gần gũi tương đồng với thông điệp của Ngài. Tất cả những đau khổ, bất mãn trong cuộc sống, theo Ngài dạy, là do lòng ích kỷ. Con người trước khi có thể trở nên thanh tịnh, người đó ph?i ngưng sống theo giác quan hoặc cho riêng chính mình. Rồi người đó mới trở thành một đại nhân. Nói một cách khác, Đức Phật kêu gọi lòng vị tha của con người năm trăm năm trước Chúa Christ. Trong một số phương diện, Ngài rất gần gũi với chúng ta, và nhu cầu của chúng ta hơn. Ngài cũng tỏ ra sáng suốt hơn Chúa Christ trong sự quan tâm phục vụ và hy sinh cho con người và ít mơ hồ hơn đối với vấn đề trường tồn bất tử của kiếp nhân sinh."
Đức Phật quả thực là một người nhưng là một người
phi thường. Ngài không phải sinh ra là một
Đức Phật nhưng Ngài tự phấn đấu rồi
thành Phật. Ngài
nhận thức được khả năng
tiềm ẩn và
năng lực sáng tạo của
con người mà không tự đề cao Ngài như
thánh thần, khuyên dạy
tín đồ tích cực noi gương Ngài, vì
Phật tính tiềm ẩn ở tất cả
mọi người.
Đức Phật được tôn thờ như một
đạo sư tinh thần tối thượng, nhưng không bao giờ muốn được
sùng bái như một
thượng đế mong muốn
đặc ân trần tục hay
tinh thần.
Đức Phật không để lại một dấu hiệu gì, hay bất cứ gì để những
tín đồ thuần thành có thể
bám víu vào để suy tôn Ngài như
thần thánh.
Tuy nhiên, phải
công nhận rằng không có một
vị đạo sư nào lại "quá
vô thần và
hữu thần như Đức Phật", Bertrand Russell gọi Ngài một cách
đứng đắn là "Người theo
thuyết vô thần vĩ đại ở mọi thời đại".
Nhưng
vô thần đây không được
hiểu lầm là
đồng nghĩa với không
tín ngưỡng. Muốn có hòa bình và
hạnh phúc thực sự trong
nhân loại,
thức tỉnh tôn giáo chân thành là
hết sức cần trong
thế giới đạo đức lụn bại này. Điều quan trọng là không đặt
niềm tin vào
tín điều hay chỉ
tuân hành nghi thức và lễ lạc, mà mà là đem
lợi ích thực sự cho
quần chúng, một cuộc sống
tình thương lành mạnh, hữu ích,
lẽ phải và
công bằng căn cứ vào những nguyên tắc cao thượng của các
đạo sư đáng kính.
Giáo Sư Joad
tuyên bố: "Vào thế kỷ thứ sáu
trước Công Nguyên, tại
Ấn Độ và Trung Hoa,
xuất hiện ba vị thầy vĩ đại, các vị này đã làm cho
con người hiểu biết điều quan trọng
chính đáng phải làm để tự cứu dù có
Thượng Đế hay không có
Thượng Đế; trong ba vị ấy người quan trọng nhất là
Đức Phật Cồ Đàm."
Đức Phật nhấn mạnh sự quan trọng của
giới hạnh như
phương tiện đi tới
mục đích. Ngài khuyên nên
tu tập chánh tư duy về
lòng vị tha,
từ ái,
tính không làm hại;
chánh ngữ để có thể
kiểm soát giọng lưỡi
tác hại của mình;
chánh nghiệp bằng cách kìm hãm không giết người hay muông thú; không
trộm cắp trực tiếp hay
gián tiếp, không
tà dâm; và
chánh mạng là
thoát khỏi sự
bóc lột và
biển thủ hoặc bằng bất cứ
phương tiện gì bất
hợp pháp để thủ đắc
của cải hay
tài sản. Những dạng thức này hình thành nền tảng của
giới hạnh.
Đức Phật truyền đạt thông điệp cao quý của Ngài về
phục vụ vị tha,
giới hạnh và
lòng từ ái vô bờ bến không những đến cho các vua, hoàng tử, nhà
quý phái và người triệu phú, mà cũng cho người nghèo, người
cùng đinh và
thiếu thốn. Ngài giúp cơ
hội đồng đ?u cho tất cả
mọi người và
nâng cao địa vị con người. Ngài
tuyên bố con đường đi đến phát triển
tinh thần mở rộng cho tất cả
mọi người trong mọi
hoàn cảnh cuộc sống,
sang hay hèn,
thánh nhân hay
tội lỗi, bất cứ ai muốn cải tà
qui chính và tìm sự toàn bích.
Thường nhật Ngài
thuyết giảng cho cả các thầy tu và
cư sĩ. Điều mà Ngài dạy chỉ là
một phần nhỏ nhoi của những điều mà ngài biết. Trong một dịp, Ngài cầm
một nắm lá trong tay, và
so sánh những điều Ngài giảng dạy chỉ như những lá trong tay; những điều Ngài không giảng dạy nhiều như lá trong rừng. Ngài chỉ dạy điều
cần thiết cho
sự giải thoát của
chúng ta.
Thường lệ hàng ngày, Ngài nhằm vào người cần đến sự giúp đỡ của Ngài; Ngài
chỉ dẫn, cổ vũ các
đệ tử đã
quy y tụ tập để nghe Ngài giảng, Ngài trình bày
chi tiết pháp đến cả
chư thiên. Ngày dạy Pháp cho
quần chúng, cho những
nhà trí thức. Lời Ngài dạy như sữa cho em nhỏ và như thịt cho người lớn. Trước khi
thuyết giảng, Ngài thấy rõ người đói cần được ăn,
thực phẩm cần thiết cho cơ thể thì pháp cũng
cần thiết cho tâm. Ngài
săn sóc người bệnh bằng chính bàn tay Ngài, Ngài
tuyên bố: "Ai
săn sóc người bệnh, người đó
săn sóc Như Lai" .
Đức Phật thiết lập một
xã hội không
giai cấp bằng cách mở cửa Đoàn Thể
Tăng Già cho bất kỳ
cá nhân nào muốn
gia nhập không
phân biệt giai cấp hay đẳng cấp
xã hội. Chỉ có sự
phân biệt là sự
thâm niên của
sa di (samanera),
tỳ kheo (bhikkhus), mahathera (
tỳ kheo đã có 20
tuổi đạo) và sự
đạt được bốn
quả vị thánh (tu đa hoàn, tư dà hàm,
a na hàm,
a la hán). Sự
thành lập Đoàn Thể
Tăng Già trên
căn bản là
dân chủ. Về
phương diện này, (Hầu Tước, Phó Vương
Ấn Độ) Lord Zetland
tuyên bố: "Có thể là một điều
ngạc nhiên cho nhiều người biết rằng trong các cuộc
Hội Nghị của
Phật Giáo tại Ấn từ trên 2500 năm qua, người ta đã thấy những
hoạt động giống như ngày nay của
chúng ta thực thi tại nghị trường".
Cũng giống như vậy, lần đầu tiên
trong lịch sử,
Đức Phật thành lập đoàn thể
ni giới cho
phụ nữ bất chấp đẳng cấp hay
giai cấp xã hội. Ngài cho
phụ nữ bình đẳng để phát triển
tinh thần.
Cũng được biết
Đức Phật là người đầu tiên
trong lịch sử bãi bỏ chế độ
nô lệ bằng cách tiến dẫn khái niệm tình
huynh đệ và phẩm giá
con người.
Đức Phật thuyết giảng chống lại sự hiến tế các
súc vật bất hạnh làm
lễ vật, và đem chúng vào trong
phạm vi của
lòng từ ái. Người
Phật Tử thuần thành đem
lòng từ ái tới mọi
chúng sanh, không
phân biệt trong bất cứ
trường hợp nào.
Chính
lòng từ ái hình thành cơ sở cho tình
huynh đệ giữa các
quốc gia, giữa các
tôn giáo, phá vỡ hàng rào ngăn cách
quốc gia này với
quốc gia kia,
xu hướng tôn giáo này với
xu hướng tôn giáo kia. Nếu những
tín đồ của những
tín ngưỡng khác nhau không
cùng chung một
cương lĩnh coi nhau như
anh chị em
đơn giản chỉ vì họ không cùng một
tôn giáo,
chắc chắn các
vị đạo sư cao quý đã thất bại trong
sứ mạng cao cả vì
chính nghĩa cho
nhân loại.
Đức Phật hết sức khoan dung, bất
khoan dung là
kẻ thù lớn nhất của
tôn giáo. Cho nên
Đức Phật khuyên các
đệ tử không nên
giận dữ,
bất mãn hay không
vừa lòng khi các người khác
nói xấu Ngài,
giáo pháp của Ngài hay các
nhà sư. "Nếu bạn
tỏ ra bất bình" Ngài nói " Không những bạn tự mang bạn đến nguy hiểm mất
tinh thần mà bạn còn không thể
suy xét những người ấy
nói đúng hay sai". "Một cảm nghĩ
giác ngộ nhất, cả đến sau 2500 năm của sự giác ngộ",
Tiến Sĩ Radhakrishnan nói như trên.
Đức Phật giải thích không có
tín điều nào mà ta phải
mù quáng tin theo, không có
tín điều hay
tín ngưỡng nào mà ta phải
chấp nhận mà không
suy luận, không có
nghi thức hay các cuộc lễ
dị đoan bắt ta phải
gia nhập vào nhóm người
cùng chung niềm tin, và không có sự hiến tế và sự
hành xác vô nghĩa cho ai muốn
thanh tịnh hóa.
Đức Phật trình bày
chân lý đơn giản cho
quần chúng và lời dạy triết lý
sâu xa cho người
trí thức. Ngài khuyên những người
đi tìm chân lý không nên
chấp nhận bất cứ điều gì do
thế lực hay
lý do gì khác mà phải tự mình
suy luận và phán xét điều đó đúng hay sai.
Trên chặng đường hòa bình hoằng
truyền giáo pháp của Ngài từ 2500 năm qua, không một giọt máu đổ trong việc
truyền bá giáo pháp, và không một
ép buộc đổi
đạo bằng sức mạnh hay những
phương pháp ghê tởm. Quả thực
Đức Phật là một nhà
truyền giáo thứ nhất và vĩ đại đã từng sống trên trái đất này.
Giáo lý tuyệt vời của
Đức Phật đã lan tỏa và vẫn đang
kiến tạo hòa bình trên đường
đi vào ngày càng nhiều các
quốc gia trên
thế giới do
tính cách hữu lý, khả thi, hữu hiệu, không
quá khích,
bao dung và
đại chúng.
Phật pháp đóng góp to lớn vào sự
tiến bộ văn hóa của nhiều
quốc gia Á Châu.
Tóm lại, tất cả những
quốc gia Phật Giáo lớn mạnh trong cái nôi
Đạo Phật.
Những
quốc gia hình thành và tan rã, những đế chế
thế lực hùng mạnh đã
thịnh vượng rồi lụi tàn, nhưng đế chế của
giáo pháp thành lập bởi
Đức Phật trên
tình thương yêu,
từ bi, và
lẽ phải, vẫn thăng hoa và sẽ
tiếp tục thăng hoa.