NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
VI. TỔNG QUÁT
25. TÔN GIÁO CÓ THỂ MANG LẠI HÒA BÌNH KHÔNG?
- Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda
Dị Biệt Trong Sự
Giải ThíchTôn Giáo và Hòa Bình là hai từ có thể định nghĩa và
giải thích bởi nhiều người khác nhau,
tùy theo quan niệm tôn giáo và mức độ
hiểu biết khác nhau.
Các nhà
học giả và
triết gia nhìn vào
tôn giáo theo nhiều đường lối. Một số định nghĩa trong một
ý nghĩa hết sức hẹp và
giới hạn trong khi những người khác đưa ra một cái nhìn tổng quát
rộng rãi hơn.
Tự Điển Oxford định nghĩa
tôn giáo như một
hệ thống tín ngưỡng và
thờ cúng,
con người công nhận một
Thượng Đế cá nhân có quyền bắt phải
vâng lời, và kết quả của sự
công nhận này
liên quan đến hạnh kiểm
con người.
Thomas Paine, một
triết gia người Anh nói: "Thế giới là quê hương của tôi.
Nhân loại là anh em tôi, và làm điều lành là
tôn giáo của tôi". Một
thái độ như vậy đối với
tôn giáo và
thế giới rất thiết yếu để mang lại hòa bình,
hòa hợp cho
thế giới mà ta sống.
H.G. Wells nói: "Tôn giáo là phần chủ yếu trong nền
giáo dục của
chúng ta, nó
quyết định hạnh kiểm
tinh thần của chúng ta". Với
triết gia người Đức
nổi tiếng Emmanuel Kant, "Tôn Giáo là sự
công nhận những nguyên tắc
luân lý như luật không được vi phạm".
Mặt khác Karl Marx lại nhìn
tôn giáo như "thuốc phiện của con người" - cho
con người xa rời
thực tế,
hy vọng ảo tưởng về
hạnh phúc trong đời sống
sau khi chết đền bù cho những
tội lỗi thực sự của cuộc sống
hiện tại. Với Engels, "Tôn Giáo không là gì cả mà là
phản ảnh quái dị về những lực bên ngoài
kiểm soát đời sống trong tâm
con người lúc sơ khai".
Mục Tiêu Là Một
Dù sự khác biệt và
giải thích ra sao đi nữa thì tất cả các
tôn giáo đều
nhất trí đồng ý là hòa bình là một điều thiết yếu
tuyệt đối và
tôn giáo đóng một
vai trò sống còn trong việc phát triển hòa bình của
cá nhân,
gia đình,
xã hội,
quốc gia và
thế giới.
Sự
Cần Thiết Giáo Dục Về
Tôn GiáoVì
thế giới chuyển càng ngày càng sâu vào một
thời đại của
rối loạn với những vũ khí càng
tinh vi và nguy hiểm hơn, cùng với
tai ương và
tinh thần thoái hóa, sự
cần thiết giáo dục tôn giáo ngày nay lớn lao hơn bao giờ hết.
Lo âu và băn khoăn sinh ra từ sự bất trắc về tương lai càng làm tăng thêm
áp lực và
căng thẳng vào tâm
con người. Những thứ này chỉ có thể khắc phục được với sự
hiểu biết chính đáng bản chất của tâm - một
môn học đã bị tách khỏi
hệ thống giáo dục có định hướng
học thuật và
vật chất cung cấp bởi các trường học và các đệ tam tổ chức ngày nay.
Tôn giáo lúc nào cũng là cái chìa khóa để
duy trì an lạc của tâm và
cung cấp niềm
an ủi tinh thần trong lúc nguy cấp như trong lúc
rối loạn, hay trong
thời gian bị kẻ địch xâm chiếm và những
xáo trộn khác.
Con người cần
tôn giáo như chỗ thả neo khi tàu cập bến. Tâm
con người luôn luôn thay đổi và
xao động nên cần có một số
hình thức trợ giúp cho tâm
vững vàng kiên định để có thể tạo các
quyết định hầu
theo đuổi lý tưởng của mình trong cuộc sống. Với sự
chấp nhận một số
giáo lý của
tôn giáo, ta
ràng buộc tâm ta vào các
giáo lý ấy giúp cho tâm có thể hướng về
con đường thẳng hơn nếu ta là một nhà
tự do tư tưởng hay như một con sói
đơn độc. Như con tàu bỏ neo nơi bến đậu có thể
chịu đựng gió to bão lớn, giống như tâm
ràng buộc với nguyên tắc
tôn giáo, có thể đứng vững trước những
cám dỗ và những
xáo trộn tâm thần khác của
cuộc đời.
Cho nên
giáo dục tôn giáo dùng để làm cho tâm được
vững vàng; phát triển sự thăng bằng
tinh thần - tránh tất cả những dạng thức
cực đoan. Nó dẫn đến sự
hiểu biết bản chất thực sự của
đời sống, cái chết, và
thế giới - bên trong và bên ngoài. Rất
cần thiết cung cấp sự
hiểu biết sâu xa và
tuệ giác vào
bản chất của những
giá trị cao của cuộc sống - nội dung
tinh thần và
đạo đức của nó - giúp
quét sạch tôn giáo cuồng tín và
thành kiến,
dọn đường cho sự
hòa hợp tôn giáo.
Người Có Đạo Lý?
Một người có thể được
công nhận là có
đạo lý bởi
tính nết tinh thần -
tư tưởng,
lời nói và hành động. Một người đã tự mình
thanh tịnh hóa với
tư tưởng thiện,
lời nói hành vi lương hảo là người có
đạo lý hoàn toàn theo
quan điểm Phật Giáo. Rất khó khăn coi một người là
đạo lý nếu người ấy chỉ đi đến chỗ
thờ cúng và chỉ
cầu lợi chính mình, cho
gia đình mình và không
lưu ý gì tới người khác cả. Hành động của người ấy
thi hành với
tâm địa hẹp hòi và động cơ
ích kỷ.
Mặt khác, có thể có một số người không dự các
lễ nghi tôn giáo mà cũng chẳng
cầu nguyện nơi
thờ phượng, nhưng lại giữ một số nguyên tắc
tôn giáo bằng
cách sống một
cuộc đời an lạc, bằng cách khắc phục nhược điểm của mình, và có lòng
thông cảm,
khoan dung và
hiểu biết đối với người khác. Những người như vậy có thể được coi như người có
đạo lý nhiều hơn là người nói ở phần trên.
Lý tưởng cho bất cứ một người
đạo lý nào là một cuộc sống
đơn giản và khiêm tốn, một
cuộc đời không bị vương mắc bởi bất cứ
mục tiêu vật chất nào (và các động cơ về sau), và người ấy có thể đem hết
năng lực vào sự trau dồi
tinh thần đem
lợi ích chính mình và cho người khác.
Giá Trị Của
Tôn GiáoChỉ
tu tập bề ngoài dưới
danh nghĩa tôn giáo thì không thể hiểu được
giá trị của một
tôn giáo; với một người không được
giáo dục và không
am tường có thể người ấy
tu tập một số
truyền thống vô nghĩa vì nghĩ rằng điều đó là đúng. Muốn
hiểu rõ bản chất thực sự của bất cứ một
tôn giáo nào, rất
cần thiết phải
nghiên cứu giáo lý nguyên thủy của vị khai sáng ra
tôn giáo ấy bằng cách
tìm hiểu từ nguồn gốc càng sâu càng tốt.
Giá trị thực sự của
tôn giáo có thể được hiểu trong phối cảnh đúng của nó, từ những lời dạy hữu lý và
hòa hợp đưa ra những chỉ phần
thực tiễn làm sao
sửa chữa mình và có thể giúp cho một người sống một
cuộc đời đơn giản, khiêm tốn,
luân lý với
an lạc và
mãn ý, nơi đây và ngay bây giờ.
Biểu diễn
phép lạ huyền bí hay
thần thông, hứa hẹn
thiên đường cực lạc sau khi chết và những sự
tu tập dị đoan chỉ "đầu độc"
tôn giáo mà thôi -
kích thích tâm
đại chúng với chuyện
ly kỳ, phấn khích và
niềm tin mù quáng. Những thứ này không dẫn đến
loại bỏ được
ô trược tinh thần- mà có lẽ
dọn đường cho sự say mê lớn lao
quyền uy trần tục, muốn
nổi danh nổi tiếng và khoái lạc.
Trong một bài giảng cho
đại chúng, Swami Vivekananda nói: "KInh nghiệm là nguồn gốc
duy nhất của
kiến thức. Cũng cùng
phương pháp điều tra nghiên cứu mà ta
áp dụng cho khoa học và
kiến thức bên ngoài nên được
áp dụng vào
tôn giáo. Nếu
tôn giáo bị hủy diệt bởi sự
điều tra như thế có nghĩa
tôn giáo không là gì cả, mà là một mớ sưu tập
vô ích và không
giá trị những
niềm tin dị đoan, càng biến mất đi sớm càng tốt. Tại sao
tôn giáo cho rằng
tôn giáo không bị
ràng buộc phải
tuân theo lập trường suy luận mà chẳng ai biết...
Tốt hơn nhân loại nên trở nên
vô thần bằng
con đường đi theo suy luận hơn là
mù quáng tin vào hai trăm triệu
thần thánh theo
uy quyền của bất cứ ai..."
Trong khi tránh cái
cực đoan của
niềm tin mù quáng và cái
hoài nghi tri thức, người tầm đạo phải tìm
Chân Lý bằng
suy luận và
trí tuệ.
Phương Pháp Hữu Lý Để
Giới Thiệu Tôn GiáoThời đại của thuyết huyền bí và
thần bí đã nhanh nhường lối cho
con đường của
kiến thức khoa học và
điều tra.
Mặc dù những
phương pháp giả tưởng cổ xưa đã
phục vụ mục đích loại bỏ mộtä số
sợ hãi và
bất an về cái không biết trong tâm của người xưa tại nhiều nơi trên
thế giới,
phương pháp này không còn
áp dụng được với tâm người
hiện đại.
Nhắc đến sự
cần thiết cho một
viễn cảnh hợp lý hơn, cố
Thủ Tướng Ấn Độ, Shri Jawarharlal Nehru đã nói rằng ta nên tránh ba
vấn đề chính khi
giới thiệu tôn giáo. Đó là: Kinh Thánh,
ý tưởng Thượng Đế và
thế giới kế tiếp. Ngài
nhấn mạnh nếu ai
giới thiệu tôn giáo mà dùng bất cứ một trong ba điều này sẽ làm người dân có khuynh hướng tin vào điều đó -
chấp nhận tôn giáo đó mà không
sử dụng khả năng
suy luận của chính mình.
Lời khuyên để người dân tìm sự thực do
kiến thức và kinh nguyện với tâm
hoàn toàn tự do của chính mình. Điều này thực là một
phương pháp lý tưởng để
giới thiệu tôn giáo; để
tránh khỏi nhiều loại
thành kiến về
tôn giáo,
niềm tin mù quáng và thiếu
hiểu biết.
Nehru cũng ghi rằng ta không nên
chấp nhận mọi thứ viết trong bất cứ kinh thánh nào dưới
danh nghĩa tôn giáo. Ngài cho rằng nguyên tắc chính của
tôn giáo là: "làm tốt được tốt và làm xấu gặt xấu".
Tán thán cách
giải quyết hữu lý của
Phật Giáo, trong cuốn "Sự
Khám Phá của Ấn Độ", Nehru viết: "Đức Phật đã
can đảm vạch ra sự bất
toại nguyện của
tôn giáo bình dân,
dị đoan,
lễ nghi và
thủ đoạn của các thầy tu. Ngài không chú trọng đến
viễn cảnh siêu hình và
thần học,
phép lạ, khải huyền, và những thứ
siêu nhiên. Lời kêu gọi của Ngài là
lẽ phải,
hợp lý, và
kinh nghiệm.; sự
nhấn mạnh của Ngài về
đạo đức và
phương pháp của Ngài là một
phương pháp lý giải
tâm lý, khoa
tâm lý không có
linh hồn.
Toàn bộ cách
giải quyết vấn đề của Ngài giống như luồng gió mát thổi từ núi xuống sau cái không khí
ô trược của những
ức đoán trừu tượng".
Ngài
tiếp tục nói
Đức Phật đã dạy điều vĩ đại hơn tất cả
học thuyết và
giáo điều và
thông điệp bất diệt của Ngài đã làm
xúc động nhân loại qua nhiều
thời đại. Có lẽ không bao giờ
trong lịch sử quá khứ thông điệp hòa bình của Ngài lại
cần thiết cho
nhân loại đang
đau khổ và
lầm lạc như ngày nay.
Albert Einstein, trong khi đề cập về
tôn giáo của tương lai, nói: "Tôn giáo này phải
vượt qua một
Thượng Đế riêng tư, tránh
giáo điều và
thần học. Bao trùm cả về
thiên nhiên lẫn
tinh thần,
tôn giáo này phải
căn cứ vào ý niệm đạo giáo phát sinh từ những thực nghiệm của
mọi vật,
tự nhiên và
tinh thần như một sự
thuần nhất đầy đủ
ý nghĩa.
Phật Giáo đáp ứng được các điều đó.
Cách
giải quyết của
Đức Phật là
độc nhất vô nhị trong biên niên sử
tôn giáo. Ngài khuyên các
tín đồ không nên
chấp nhận Giáo Pháp vì
sùng kính mà chỉ
chấp nhận sau khi đã
điều tra nghiên cứu.
Đức Phật khuyên nhiều người đừng nên
vội vàng chấp nhận giáo lý của Ngài mà hãy
suy nghĩ cẩn thận xem
giáo lý của Ngài có thực
thực tiễn với họ không. Nếu họ
hoàn toàn tin tưởng phương pháp của Ngài, thì Ngài mới
chấp nhận họ là những
tín đồ.
Ngay cả đến khi đã
trở thành tín đồ của Ngài, Ngài cũng không ngăn cấm họ hỗ trợ những
đạo sư cũ của họ. Điều này cho thấy Ngài cho
tín đồ khoảng rộng
tự do, không chút ẩn nấp một ghen tị nào đối với các
tôn giáo khác. Nó cũng làm
sáng tỏ thái độ hòa hợp của Ngài đối với các
tôn giáo khác.
T.H. Huxley
ghi nhận "Phật Giáo trong sự
thanh tịnh nguyên thủy không biết gì đến những
lời nguyện phục tùng và không bao giờ tìm sự giúp đỡ của cánh tay
thế tục, tuy đã
truyền bá trên quá nửa
thế giới cũ với một sự nhanh chóng
tuyệt vời và vẫn đứng vững dù với
nền móng có đôi chút pha trộn những
dị đoan bắt buộc, những
tín điều lấn át một phần số lớn nhân loại".
Theo
nhận xét của Alexander Cunningham, một nhà khảo cổ, "Phật Tử
truyền bá đạo của họ tiếng nói đầy tính
thuyết phục, nhiều đạo khác
truyền đạo bằng lưỡi guơm tàn nhẫn.
Con đường đẫm máu của các đạo khác sáng rực lên bởi ngọn lửa khủng khiếp của những
đô thị bị thiêu rụi, sự
tiến bộ hòa bình của
Phật Giáo được sáng lên bởi những bộ mặt
hoan hỉ của những người đau trong bệnh viện các
tu viện, bởi những nụ cười
sung sướng của những khách
du hành ngưng chân nghỉ tại những quán trọ dọc đường".
Với Đức J.T. Sunderland, "Phật Giáo dạy các
tín đồ nhiều về hòa bình rất hữu hiệu
trong suốt lịch sử của
tôn giáo này hơn bất cứ
tín ngưỡng vĩ đại nào mà
thế giới biết đến. Dân chúng có
tâm trí cao hơn về mặt
tinh thần, không giống như nhà
duy vật hiện nay, họ đặt
tâm tính,
phụng sự tình thương và hòa bình trên
danh tiếng,
của cải,
ưu thế và chiến tranh, và
Phật Giáo phát triển
rực rỡ vào
thời gian này vì
Phật Giáo là
tôn giáo duy nhất không có đổ máu và bạo lực".
Tấm Gương:
Vua A DụcSự kiện được
ghi nhận Asoka (
Vua A Dục)
hết sức tích cực tận tụy cho
hạnh phúc thần dân của Ngài. Với
mục đích này, ông đã đào các giếng nước uống, trồng cây có bóng mát, xây đường xá, công viên, các vườn trồng
dược thảo, và các bệnh viện cho người và
súc vật. Để
thấm nhuần tinh thần chính đáng vào các thần dân mà ông
yêu dấu như con cái, ông đã
xây dựng các trụ đá khắp trong vương quốc, trên các trụ đá này có khắc thông diệp cao quý về cuộc sống
chánh đáng (
Chánh mạng). Những đại thần và những ủy viên được
chỉ định để hướng dẫn và giám sát sự
tu dưỡng tinh thần.
Đại Hội Kiết Tập Lần Thứ Ba cũng do ông
triệu tập. Những
sứ giả do ông gửi đi trên khắp lãnh thổ
xa gần giúp trong việc giao tiếp
văn hóa du nhập trong lĩnh vực hòa bình và quan hệ quốc tế.
Hoạt động của
Vua A Dục không còn gì
nghi ngờ chứng tỏ ông là một điển hình nhiệt thành của
một đời sống
tích cực cho các
hành vi thiện. "Sự
cố gắng đem
hạnh phúc chung và gửi
tức thời các sứ thần
thương mại là một số trong những nguyên tắc
chỉ đạo chính của ông.
Thấm nhuần ý thức thực tế và
năng động nổi bật,
Vua A Dục biểu lộ trong
cuộc đời của ông
tinh thần Phật Giáo cao độ, hành hoạt đúng theo
tinh thần thực sự của 'Bahujana Hitaya, Bahujana Sukhaya"- vì
phúc lợi cho nhiều người, vì
hạnh phúc cho nhiều người - một
lý tưởng mà chính
Đức Phật đã dạy cho sáu mươi
thánh chúng đệ tử đầu tiên của Ngài
trở thành nhóm
truyền giáo đầu tiên
trong lịch sử nhân loại.
Cảm hứng từ sự vĩ đại của
Vua A Dục, H.G. Wells, trong cuốn "Đại Cương Lịch Sử",
tuyên bố giữa hàng ngàn
tên tuổi các vua chúa đầy trên các cột
lịch sử với
oai nghi,
thanh lịch,
thanh thản, cao kỳ lộng lẫy và những
đặc tính tương tự như vậy,
tên tuổi của
Vua A Dục sáng chói,
chói sáng một mình, như một vì tinh tú".
Với tất cả
cảm hứng từ
Vua A Dục để cho ta, ta phải
cố gắng vươn lên qua khỏi cái
tối tăm đang bao trùm
thế giới ngày nay.
Tôn Giáo và
Chủ Nghĩa Duy VậtNhiều mây đen bao phủ - nhiều sự
rối loạn và những khó khăn toàn cầu - có thể được
truy nguyên do sự suy thoái của
tôn giáo và sự nổi lên
chủ nghĩa duy vật.
Lịch sử loài người cho thấy biết bao
quốc gia đã
suy đồi va nhiều nền
văn minh đã tàn lụi với sự tan rã của
tôn giáo như thế nào. Sử gia, Edwward Gibbons "Trong cuốn
Lịch sử Thăng Trầm của Đế Quốc La Mã" đã
chứng minh sự đổ vỡ
tôn giáo thành
vô số dạng thức là một trong những
nguyên nhân góp phần vào sự suy thoái và tan rã của Đế Quốc La Mã. Việc xẩy ra cho La Mã, rồi đây cũng có thể xẩy ra cho những nền
văn minh hiện đại của
chúng ta.
Nhận thức sự nguy hiểm xẩy ra
trước mắt,
con người ngày nay phải có
ý thức làm việc trong sự
hợp tác để
kiểm soát và tránh những
nguyên nhân có thể đưa sự thăng hoa đến sự suy thoái và tan vỡ
tôn giáo.
Trong khi những sự
bất hòa tôn giáo do sự
cạnh tranh không
lành mạnh để lôi kéo
tín đồ đổi đạo, nạn
cuồng tín và "thánh chiến"
tiếp tục làm hại
viễn cảnh hòa bình nhờ
tôn giáo,
giáo điều và
niềm tin dị đoan phá vỡ
giá trị của
tôn giáo dưới ánh sáng của
kiến thức và các
điều tra nghiên cứu khoa học ngày càng
tăng trưởng. Những điều này đương nhiên dẫn đến việc nổi lên của
chủ nghĩa duy vật- đang mang sự sói mòn
luân lý to lớn cho
xã hội loài người.
Tiến Bộ Vật ChấtSự say mê
điên cuồng theo đuổi lạc thú trần tục,
uy quyền và
của cải đã dẫn đến tất cả những dạng
luân lý suy đồi, kỳ thị và
thành kiến, thậm chí đến mức chính là
nguyên nhân gây ra hủy diệt hàng loạt
nhân loại.
Một số được gọi là
giải trí hiện đại đã
trình diễn khêu gợi thú tính và
cảm xúc nhục dục của khán giả. Dưới
ảnh hưởng của những sự đầu độc như vậy, khán giả đôi khi không
kiềm chế nổi
giác quan, nổi
dục vọng đã làm những điều trái ngược với óc
suy xét tốt đẹp của mình,
vi phạm sự yên bình và
hạnh phúc của người vô tội để
thỏa mãn ham mê khoái lạc. Họ mất đi đường lối
suy nghĩ hữu lý
bình thường, và không chịu nghe người khác dù họ
nhận thức rằng những việc này sẽ
phá hoại đời sống của họ và của người khác.
Con người tham đắm
quá mức vào
thỏa mãn ham mê khoái lạc tạo thành một
xã hội bệnh hoạn và
vô vọng dẫn đến
vô luân,
vô đạo đức, hành động
tội lỗi là điều
ô nhục cho
tinh thần và
nhân phẩm của
con người.
Sự say mê
uy quyền trần tục dẫn các
quốc gia đến những cuộc chạy đua vũ trang. Sự phát minh vũ khí giết người có thể
tiêu diệt thế giới trong một giây đã được
thi hành bằng cách tiêu pha ngân quỹ dành cho người đói và
nghèo khổ . Chiến tranh được coi như một
xu hướng hiện đại không thể tránh được và một lối cuộc sống, trả giá bằng
sinh mệnh quý giá của hàng triệu người.
Những công cuộc
tìm tòi xây dựng và những
kế hoạch dự trù để
nâng cao nhân loại chỉ được hoặc coi như quan trọng thứ yếu hay
bị loại đi thay thế bằng
lợi lộc vật chất trước mắt.
Trí tuệ truyền thừa bởi các
giáo chủ với
tinh thần giác ngộ đã chẳng được ai lắng nghe. Nh?ng
lời khuyên của các vị này: sống hòa bình và
duy trì tiêu chuẩn đạo đức áp dụng tổng quát trên
vũ trụ, đã không còn được biết đến.
(Hãy Rút
Kinh Nghiệm) Cái Vơ Vẩn Của Nero khi La Mã Đang Bị Cháy
Những
quốc gia kinh tế phát triển đến điểm không còn thấm nhập hơn được nữa dưới
danh nghĩa tiến bộ vật chất đang phải
đối diện với những khó khăn to lớn về
ô nhiễm môi sinh, khủng hoảng
năng lượng, thất nghiệp, lạm phát,
luân lý suy đồi, và những khó khăn
xã hội như
lạm dụng ma túy,
xáo trộn tâm thần nghiêm trọng,
ly dị, tự tử, và nhiều dạng thức của bệnh tật.
Mặc dù những sự việc
thảm thương điên cuồng này xẩy ra, vẫn còn có những cái gọi là
quốc gia đang phát triển trên
thế giới cố gắng tranh đua với
thiên hình vạn trạng dạng thức phát triển kinh tế - bắt chước nhiều hơn nữa
văn hóa vật chất hy vọng biến nhà của và xứ sở của họ thành
thiên đàng vật chất. Giống như Nero vơ vẩn (không làm gì) khi La Mã đang bị cháy, những người như thế đã thất bại không biết
học hỏi từ những
lầm lẫn của người khác.
Tình Trạng Nhầm Lẫn Đáng
Kinh NgạcCàng
tham gia vào cuộc chạy đua để đạt
lạc thú nhục dục,
uy quyền,
danh tiếng, và 'vinh quang' - lại càng gặp phải rối trí và
xáo trộn, lại càng đóng góp vào những
mâu thuẫn; đó là
thế giới ngày nay.
Một mặt,
con người sợ hãi chiến tranh, mặt khác họ lại dốc
toàn lực để sửa soạn chiến tranh! Họ
nói nhiều về hòa bình nhưng lại
gieo rắc nghèo đói!
Tuy thế giới càng ngày càng đông lên mỗi ngày,
con người lại
cảm thấy càng cô đơn! Càng có nhiều giờ rảnh rỗi, lại càng
bất an bấy nhiêu! Mặc dù được trang bị với đủ loại
kiến thức để được
an toàn trên cung trăng, nhưng không biết làm sao sống
an toàn trên trái đất! Đó là những rối rắm và
mâu thuẫn của
con người hiện đại sống trong
thời đại không gian này.
Tuy nhiên những khó khăn này chưa hẳn là
hoàn toàn mới lạ với
nhân loại.
Xáo trộn phát sinh
chừng nào thì
vết nhơ của
si mê vẫn
hiện hữu trong tâm
con người. Cùng với các
ô trược khác,
si mê đã làm
con người mù quáng không còn khả năng nhìn thấy và
hiểu biết bản chất thực sự của sự vật hay
thực tế chủ yếu của
cuộc đời.
Cuộc Sống Không Cân Bằng
Sự không cân bằng giữa sự phát triển
vật chất và
tinh thần là
nguyên nhân của sự
bối rối lớn lao và những
tình trạng khó xử mà
thế giới hiện đại phải đương đầu.
Của cải không thôi không thể mang hòa bình và
hạnh phúc cho
con người.
Dao động và thất bại đang chờ đợi
tâm không cân bằng. Không tìm được
phương cách và
phương tiện thỏa mãn để
chống lại biến động của
cuộc đời,
con người tìm đến đủ loại
ma túy và
độc dược để tạm thời
xoa dịu thất bại, không
xoa dịu nổi họ
quay về tự tử hay bị
xáo trộn thần kinh.
Những
trường hợp ghiền
ma túy càng ngày càng tăng, rượụ, cờ bạc
vân vân... là những
triệu chứng của cuộc sống không cân bằng.
Xu hướng ru ngủ ta vào những
tiện nghi của cuộc sống
hiện đại mà không có một
tư tưởng cho
tiến bộ tinh thần đã làm
con người hôn mê và
biếng nhác. Muốn khắc phục điều này, ta
cần phải có
nghị lực,
sức mạnh, và
kiên nhẫn thuộc về địa hạt của
niềm tin ăn sâu trong
tôn giáo.
Hòa Bình Do
Tôn GiáoSự
tăng trưởng nhanh chóng
duy vật chủ nghĩa và cuộc sống không cân bằng đã
che khuất tiềm lực hòa bình qua
tôn giáo.
Tôn giáo thế giới ngày nay đã phát triển thành những cơ cấu tổ chức lớn, và những
giáo lý nguyên thủy của các nhà khai sáng
ảnh hưởng rất ít đến các
tín đồ trong các đức tính như
đơn giản,
kiềm chế,
chân thật, và
vị tha.
Muốn
nhận thức được
giá trị thực sự của
tôn giáo, một sự
hiểu biết tường tận về những
thông điệp nguyên thủy của vị khai sáng rất
cần thiết. Các
giá trị đao đức và
luân lý đơn giản có một
tiềm lực lớn lao cho hòa bình.
Sự
tu tập kiềm chế tư tưởng mang hòa bình và
hòa hợp cho
cá nhân và sự
kiềm chế lời nói và hành động của thân đem hòa bình cho người khác.
Do ba luồng
tư tưởng,
lời nói và hành động của thân này mà tất cả
tội lỗi hay những hành động
bất thiện được thực thi. Chúng là những " cánh cửa" của
thế giới bên trong - nơi những
mâu thuẫn bắt đầu.
Nếu thế giới này được canh chừng
cẩn trọng, chiến tranh và
xung đột đương nhiên bị ngăn chặn.
"Biết Mình" qua
tôn giáo là nguyên tắc hướng dẫn đến hòa bình đến vương quốc của
thiên đường. Nếu người ta có thể theo nguyên tắc
tôn giáo chân chính liên quan đến kiềm chế và thực thi bổn phận và nghĩa vụ đối với
mọi người trong
xã hội, hòa bình và
hòa hợp tự nhiên sẽ
theo sau.
Lời khuyên đơn giản của
Đức Phật cho các
tín đồ trong Kinh Sigalovada (
Thi Ca La Việt),
phác họa bổn phận và nghĩa vụ giữa
cha mẹ và con cái, thầy và trò, chồng và vợ, bạn bè và bạn bè, chủ và người làm, và các
đạo sư và
đệ tử, bao trùm
toàn bộ bổn phận trong
gia đình cũng như ngoài
xã hội của một
cư sĩ.
Bình luận về Kinh này, Bà Rys Davis nói: "Học thuyết về
tình thương và
thiện chí giữa người với người của
Đức Phật được
thiết lập trong
đạo đức gia đình cũng như
xã hội với nhiều
chi tiết toàn diện hơn bất cứ nơi nào khác. Và
thực ra ngay bây giờ
chúng ta có thể nói về
Giới Luật hay
tiêu chuẩn kỷ luật ấy như thế này: Thật
căn bản làm sao các
lợi ích mà
con người có thể có được nhờ
giới luật này, thật lớn mạnh và lớn lao làm sao cái
trí tuệ đã
hình dung ra các
giới luật này, đến mức các lời thuy?t giảng ấy ngày nay vẫn tươi rói và
thực tiễn cũng như vẫn còn nguyên
giá trị thực tiễn nhu thuở các lời ấy được nói tại Rajagaha (Thành
Vương Xá). "
Sung sướng thay là dân làng hay nhóm người ở bên
bờ sông Hằng nơi mà người dân đầy tình
lương hảo và
thông cảm,
tinh thần cao thượng của
công bằng được hít thở qua những lời dạy mộc mạc và
đơn giản. Có thể nói rằng: "Có
thể không kém phần
hạnh phúc như dân làng hay
gia đình ở trên bờ sông Thames ngày nay bởi họ có thể nghe những lời này".
Thay vì làm
tôn giáo thành
lối sống,
tôn giáo đã được phát triển thành loại
biệt ngữ triết lý và đã
trở thành một
môn học cho sự tập luyện
tri thức và
tranh luận.
Tu tập dị đoan,
quỷ thuật và thuyết huyền bí đã được
giới thiệu nhằm đem
vinh quang và
thắng lợi cho một
tôn giáo này hơn
tôn giáo kia.
Tôn giáo đã được dùng để bào chữa nhược điểm của
con người - vì tham vàng và
quyền uy.
Bằng cách đem các
giải pháp trần tục như vậy vào
nhà tôn giáo hầu
xúc tiến điều gì đó dưới
danh nghĩa tôn giáo, những nhà
đạo giáo ngày nay phải hiểu những điều ấy chỉ làm mờ đi và
quét sạch cốt lõi thực sự của
tôn giáo và
con đường tinh thần của
đời sống, và
giá trị thật sự của
tôn giáo sẽ càng trở nên
tối tăm cho
hậu thế.
Vẫn Còn
May MắnLiệu
tôn giáo còn có thể mang hòa bình cho
nhân loại ngày nay không, đương nhiên là một câu hỏi
thích đáng, nhất là xét dưới ánh sáng của những sự phát triển
mới đây tại một vài nơi trên
thế giới nơi mà
tôn giáo đúng là đã được đem vào chiến trường.
Duy vật chủ nghĩa,
đạo đức giả, và
cuồng tín chủ nghĩa giả dạng dưới
chiêu bài tôn giáo đã là những thảm họa to lớn
trong lịch sử nhân loại.
Tái diễn những
lầm lẫn và thảm họa trong
quá khứ, đến thời điểm khi những
hội nghị quốc tế về
tôn giáo và hòa bình được
triệu tập và những lời
tuyên bố cho hòa bình
thế giới, tình
huynh đệ đại đồng, và
hòa hợp tôn giáo chỉ là
đạo đức giả hoàn toàn và là điều
ô nhục cho
xã hội loài người.
Để hỗ trợ cho những hành động
vô lương tâm như vậy dưới
danh nghĩa tôn giáo quả là
chống lại chuẩn mức úng xử và phẩm giá của
con người. Chiến đấu ngoài chiến trường để có hòa bình là không đúng, muốn có hòa bình phải có khả năng tự chiến thắng lấy mình chứ không phải đánh bại người. Đó là điều phải
nhận thức thấu đáo như một điểm
chính yếu của
vị tha. Mặc dù một số các
nhà tôn giáo đã chọn, vì tham
vàng bạc và
quyền uy trần tục, chính họ đã tự nhúng vào
chiến tranh tôn giáo, điều này không
tiêu biểu cho
toàn bộ lãnh vực tôn giáo. Cho nên hãy để cho những người biết
tư duy,
yêu chuộng hòa bình ngày nay phán xét liệu những
thái độ của những con buôn chiến tranh như vậy có thể
chứng minh dưới
danh nghĩa tôn giáo được không, hay chiến tranh và đổ máu
hoàn toàn tách khỏi
tôn giáo.
Nếu người ta thực sự
lưu ý đến tìm kiếm và
xây dựng hòa bình và
hạnh phúc cho chính mình cũng như cho những người khác, thì cũng chưa muộn - Sau cơn mưa trời lại sáng. Nguyên tắc
tôn giáo và
giáo lý, rất đáng cho
con người trau dồi, có khả năng
cảm thấy được và
nhận thức được bởi chính
con người vẫn
hiện hữu.
"Mở rộng cho tất cả là cánh cửa dẫn tới
giải thoát hoàn toàn". "Thắng ngàn lần, ngàn quân địch chưa thể gọi là thắng; Tự thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất". - (
Đức Phật -
Kinh Pháp Cú - Câu 103).