NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
II. ĐỨC PHẬT VÀ GIÁO LÝ CỦA NGÀI
7. NHỮNG ĐỨC HẠNH LÝ TƯỞNG CỦA ĐỨC PHẬT
- Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda
Đức Phật là
hiện thân của tất các
đức hạnh lý tưởng. Ở nơi Ngài ta thấy sự
hiện thân của
luân lý cao nhất (giới), tập trung
sâu xa nhất (
thiền định) và
trí tuệ thâm sâu (huệ) - những đức
tính không ai
vượt qua được và không sánh được
trong lịch sử loài người. Những đức tính cao cả ghi trong các kinh, những bài
thuyết giảng của
Đức Phật.
Phật Tử trên khắp
thế giới tụng niệm và
hành trì chín
đức hạnh tối thượng ghi trong hệ thức tiếng Pali, trong việc
tu tập hàng ngày. Mặc dù
Đức Phật có nhiều những đức tính cao thượng khác, ở đây trong hệ thức này, chỉ chín điều được
lấy ra. Không phải là không kể đến tại một số trường phái
Phật Giáo, các
tín đồ đã tiến dẫn một số
Đức Phật ám chỉ một số đức tính vĩ đại của
Đức Phật.
Tuy nhiên dù cách
thức giới thiệu
Đức Phật ra sao,
thực tế tất cả các
Đức Phật lịch sử thỉnh thoảng xuất hiện trên
thế giới này, đều
thấm nhuần những
đức hạnh ấy, cùng với sự
giác ngộ giống nhau. Cho nên không có sự khác biệt gì phải
tôn kính bất cứ
Đức Phật đặc biệt nào, nếu
Đức Phật được chọn là một
Đức Phật thực sự.
Vì vậy cho nên không có một lý lẽ gì cho rằng
Đức Phật này
thần thông hay cao hơn
Đức Phật kia.
Những câu kệ sau đây bằng tiếng Pali, nêu lên những
đức hạnh thực chất bên trong của
Đức Phật mà người
Phật Tử trì tụng khi họ vinh
danh Đức Phật:
"Itipi So Bhagava Araham Samma-Sambuddho
Vijja-Carana-Sampanno Sugato Lokavidu
Anuffaro Purisa Damma-Sarathi Sattha Deva-
Manussanam Buddho Bhagavathi"
Sự
trung thực của câu kệ này không thể
nghi ngờ vì nó bắt nguồn từ nhiều
bản kinh quan trọng trong
Tam Tạng Kinh Điển theo qui chuẩn
Phật Giáo đã
xác nhận cũng như từ nơi bốn mươi
phương pháp thiền định tư duy về những
Đức Hạnh của
Đức Phật.
Chuyển ngữ ngắn gọn từ tiếng Pali như sau:
Araham - Ứng Cúng (bậc đáng được nhận sự cúng dường của Người và Chư Tiên vì dứt hết phiền não), Samma Sambuddho - Chánh Biến Tri (bậc biết hết tất cả pháp); Vijjacarana Sampanno - Minh Hạnh Túc (bậc có đủ trí tuệ và đức hạnh); Sugato - Thiện Thệ (đã làm xong các hạnh lành, trên đường đi đến Niết Bàn); Lokavidu - Thế Gian Giải (bậc hiểu rõ kiến thức thế gian); Anuttaro Purisadamma-Sarathi - Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu (bậc cao hơn hết trong hạng chúng sanh thống trị lấy mình như bậc trượng phu cầm cương ngựa đi vào đường lành); Sattha-Deva-Manussanam - Thiên Nhân Sư (bậc đạo sư của hàng người và hàng Chư Thiên, dạy việc nên làm và việc chẳng nên làm); Buddho - Phật (bậc giác ngộ hoàn toàn); Bhagavathi - Thế tôn (bậc cao hơn hết trong cõi thế, được tất cả cõi thế, tất cả chúng sanh tôn trọng)
1. Araham -
Ứng CúngĐức Phật miêu tả một Vị
Ứng Cúng có năm
phương diện chính:
- đã loại bỏ tất cả ô trược;
- đã tiêu diệt được tất cả những kẻ thù liên quan đến việc loại bỏ các ô trược;
- đã tiêu diệt được những nan hoa chống đỡ bánh xe cuộc sống (thăng trầm cuộc đời);
- đáng được lãnh sự cúng dường và tôn vinh;
- không giữ bí mật đặc tính cũng như giáo lý của mình.
Đức Phật là nhân vật vĩ đại nhất
trong lịch sử loài người, với một cuôc đời toàn bích, không hề
sai lầm, không thể
chê trách và không tỳ vết. Dưới cội
cây bồ đề Ngài chiến thắng tất cả
ma vương và
đạt được thánh quả ở bậc cao nhất. Ngài
chấm dứt tất cả khổ đau, đạt
Niết Bàn. Ngài là nhân vật được toàn
thế giới vinh danh và
tôn kính trên mọi
phương diện.
Giáo lý của Ngài không chứa đựng huyền bí hay
bí mật, giống như một cuốn sách mở cho tất cả ai muốn đến xem.
2. Samma-Sambuddho -
Chánh Biến TriĐức Phật được gọi là
Chánh Biến Tri vì Ngài thấu rõ cuộc sống trên
thế giới với
viễn cảnh xác đáng, và Ngài đã
khám phá ra
Tứ Diệu Đế do sự
thấu triệt của Ngài. Sinh ra là một hoàng tử, Ngài đã
từ bỏ trần tục và phấn đấu trong sáu năm dài tìm
giác ngộ.
Trong thời gian ấy, Ngài đã tìm đến tất cả những
đạo sư nổi tiếng, Ngài đã
tu tập tất cả những
phương pháp của các
đạo sư này. Ngài đã
đạt được tất cả và
ngang hàng với các vị thầy của Ngài, nhưng vẫn không
tìm ra được ánh sánh
giác ngộ.
Cuối cùng,
căn cứ vào sự
tìm tòi hiểu biết một cách hữu lý, và bước vào
con đường trung đạo, khởi đi từ
phương cách truyền thống về
niềm tin đạo lý nổi tiếng này cùng những sự
tu tập, Ngài
tìm ra giải pháp cuối cùng cho những
vấn đề chung vềà bất
toại nguyện,
mâu thuẫn và
bất mãn (Khổ) trên
hoàn vũ. Ngài
khám phá ra Luật Duyên Khởi-
Luật Nhân Quả, do những
định luật này, Ngài
tìm ra sự thật trần thế và
trở thành bậc
Đại Giác.
3. Vijja-Carana Sampanno -
Minh Hạnh TúcCụm
từ ngữ 'Minh Hạnh Túc' có nghĩa là
Đức Phật được
thiên phú với một cái nhìn
rõ ràng toàn hảo và một
tư cách đạo đức gương mẫu. Hai khía cạnh có
ý nghĩa được thấy trong ba đẳng
kiến thức và tám
đẳng trí tuệ. Ba đẳng
kiến thức ấy là:
- Thứ nhất, Đức Phật có thể nhớ lại những lần sanh trong quá khứ và có thể nhìn lại kiếp trước của Ngài và của người khác.
- Thứ hai, ngoài việc có thể ôn lại quá khứ, Ngài có một sức nhìn độc đáo là có thể nhìn thấy tương lai và hình dung được tất cả vũ trụ bất cứ trong một khoảnh khắc nào.
- Thứ ba, Ngài có kiến thức sâu xa về thánh tính (tứ quả thanh văn)
Về tám
đẳng trí tuệ,
Đức Phật duy nhất thiên phú bởi
tuệ giác,
thần thông thi hành kỳ công,
thiên nhĩ thông,
tha tâm thông, và nhiều
thần thông vật lý, khả năng nhớ lại những lần sanh trong
quá khứ,
thiên nhãn thông, và
kiến thức nhạy bén về
cuộc đời thanh tịnh thánh tính.
Về chữ
"Carana" hay
tư cách đạo đức,
phương diện này được chia thành mười lăm loại hay loại
đức hạnh thấm nhuần tràn đầy nơi
Đức Phật. Những
đức hạnh khác
cộng thêm vào được xếp loại như
kiềm chế hành động và
lời nói,
kiềm chế trong sự
miệt mài tác động giác quan,
điều độ trong việc dùng
thực phẩm, tránh ngủ quá nhiều, giữ
niềm tin trong sáng, biết
xấu hổ khi
phạm tội lỗi, biếtù
sợ hãi khi phạm lỗi, khát
vọng kiến thức,
nghị lực, chú ý, và
hiểu biết bốn
xu hướng gắn liền với lĩnh vực
vật chất - Panna và Karuna
phản ảnh như
trí tuệ và
từ bi, cả hai là cặp song sanh cơ bản trong khi karuna cho Ngài
lòng từ bi
phục vụ nhân loại. Do
trí tuệ Ngài
nhận thức điều gì phải điều gì trái cho tất cả
chúng sanh, và do
lòng từ bi Ngài dẫn dắt các
tín đồ khỏi
tội lỗi và
lầm than. Những đức tính vĩ đại của Ngài đã khiến Ngài làm cho Ngài có khả năng đem tình
huynh đệ và đức tính tốt thực sự mưa móc cho tất cả
chúng sanh với mức độ tột cùng.
4. Sugato -
Thiện ThệĐức Phật cũng được gọi là Đấng
Thiện Thệ có nghĩa
con đường của Ngài là tốt, nói đến là
thượng hạng,
lời nói và
phương pháp sử dụng là
con đường rất hòa hài và không thể
chê trách.
Con đường đạt
hạnh phúc chính đáng là
thanh tịnh đứng đắn, không cong queo,
thẳng thắn và
chắc chắn.
Lời dạy của Ngài
tuyệt vời không thể
sai lầm được. Nhiều sử gia
nổi tiếng và khoa học gia vĩ đại đã phẩm bình
giáo lý duy nhất đứng vững không bị thách thức bởi khoa học và các nhà
tự do tư tưởng là lời dạy của
Đức Phật.
5. Lokavidu -
Thế Gian GiảiThuật ngữ Lokavidu (
Thế Gian Giải)
sử dụng với
Đức Phật như một người có
kiến thức thế giới tuyệt vời. Bậc
Đại Đạo Sư có
kinh nghiệm,
hiểu biết thâm sâu tất cả khía cạnh của
cuộc đời cả về
vật chất lẫn
tinh thần. Ngài là người đầu tiên
nhận xét có hàng ngàn
hệ thống thế giới trong
vũ trụ. Ngài là người đầu tiên
tuyên bố thế giới chẳng là gì cả mà chỉ là
thế giới khái niệm. Theo lời Ngài, việc
ức đoán nguồn gốc và nơi tận cùng của
thế giới hay
vũ trụ coi như
vô nghĩa. Theo
quan điểm của Ngài, nguồn gốc
thế giới, sự tận cùng và
con đường đi đến tận cùng sẽ
tìm thấy trong
phạm vi chiều sâu có thể hiểu được- xác thân dài (một sải)-
con người với
nhận thức và
ý thức.
6. Anuttaro Purisa-Damma-Sarathi -
Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng PhuAnuttaro (
Vô Thượng Sĩ) có nghĩa
vô song và không còn ai có thể vượt hơn. Purisa-damma nói đến người
thiên phú giáo pháp và Sarathi có nghĩa người
lãnh đạo. Ba
từ ngữ này nói lên vị
lãnh đạo vô song có khả năng mang
con người vào
con đường chánh đạo. Trong số những người
quyết định theo
con đường giáo Pháp và tránh xa
tội lỗi có những kẻ giết người khét tiếng như Angulimala, Alavaka, Nalagiri, hàng trăm kẻ
đạo tặc,
ăn thịt người và
ngoan cố như Saccake. Tất cả những người ấy đều được
thấm nhuần giáo pháp và một số
đạt được thánh quả ngay
trong đời hiện tiền của họ. Ngay cả Devadatta (
Đề Bà Đạt Đa),
kẻ thù không đội trời chung, cũng vẫn được
Đức Phật cho
phục hồi do
lòng từ bi vĩ đại của Ngài.
7. Sattha Deva-Manussanam -
Thiên Nhân SưPhiên dịch cụm từ này có nghĩa
Đức Phật là Thầy của trời và người.
Ghi nhận 'devas' (Trời) dùng trong
phạm vi này tức những
chúng sinh, do những
nghiệp lành, đã
vượt qua giai đoạn hàng người nhưng không phải là
giai đoạn cuối cùng của sự
tiến hóa về sinh vật học. Hàng Trời trong văn cảnh
Phật Giáo không
liên quan gì với
truyền thuyết thần thoại cổ xưa.
Đức Phật là một vị Thầy
phi thường linh động có khả năng
phân chia một cách rất kỹ thuật
phù hợp các đẳng cấp
tinh thần của hàng trời và hàng người. Ngài dạy
mọi người sống theo
chánh đạo.
Đức Phật là
vị Đạo Sư
hoàn vũ.
8. Buddho - Phật
Tính ngữ
đặc biệt Buddho, có vẻ như lập lại lần thứ hai, mặc dù nó có
ý nghĩa rộng hơn. Buddho có
nghĩa Vị Chủ Tể toàn trí toàn thức, có những
thần thông lạ
thường có thể
thuyết phục người khác bằng sự
khám phá to lớn của mình qua nghệ thuật giảng dạy người khác Pháp của Ngài. Kỹ thuật của Ngài không có
vị đạo sư nào có thể
sánh bằng.
Buddho cũng có nghĩa thứ hai là "tỉnh thức" vì
trạng thái bình thường của
con người không ngưng ở trong
trạng thái sững sờ.
Đức Phật là người đầu tiên "tỉnh thức", và giũ sạch
trạng thái sững sờ. Rồi Ngài
thuyết phục người khác
tỉnh thức, và tránh xa
trạng thái mê mờ hay sững sờ.
9. Bhagava -
Thế TônTừ ngừ này dùng để chỉ
Đức Phật, từ
'Buddho' hay
'Bhagava' dùng riêng từng chữ hay ghép lại
'Buddho Bhagava' có nghĩa là 'Đấng Thế Tôn' ('Đấng Thiêng Liêng') thường được
thông dụng trong dân gian.
Đáng được kính sợ và
tôn kính,
Thế Tôn là
danh hiệu của Ngài. Cho nên chữ 'Bhagava' có nhiều nghĩa như đề nghị của một số
phê bình gia.
Đức Phật được gọi là
Đấng Thế Tôn vì Ngài là người
hạnh phúc và
may mắn nhất trong
nhân loại đã chiến thắng được
ma vương, đã
thuyết giảng chi tiết Pháp cao nhất và là người
thiên phú với khả năng
tri thức siêu nhiên,
siêu phàm.
***
Chín Đức Tính vĩ đại của
Đức Phật có thể
sử dụng làm đề tài cho
thiền định nếu những sự
giải thích của mỗi
từ ngữ đặc biệt được
thận trọng nghiên cứu kỹ lưỡng và
mục đích thực sự cùng
bản chất được tóm thâu và
thấu triệt. Chỉ
lướt qua từng đoạn, không hiểu thấu
hoàn toàn không thể coi như hữu hiệu dù cho có sùng đạo.
Phương pháp tốt nhất là tụng đi tụng lại
đồng thời nắm vững
ý nghĩa hoàn toàn của các sự bày tỏ ấy. Trong khi làm như vậy, ta cũng nên tập trung vào những đức tính có
chân giá trị ấy như những
đức hạnh thực sự cần được
tích cực noi gương bởi tất cả
tín đồ của
Đức Phật.