NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
V. TU HÀNH PHẬT GIÁO
19. CẦU NGUYỆN VÀ THỜ CÚNG
- Tiến Sĩ G.P. Malalasekera
Người ta thường hỏi: "Người
Phật Tử có
cầu nguyện không?" "Người
Phật Tử đến Chùa làm gì?" và "
Thái độ của Người
Phật Tử đối với
cầu nguyện như thế nào?"
Cầu nguyện và
thờ cúng thực ra hình thành một phần
trọn vẹn của nhiều
tôn giáo. Trong
Phật Giáo,
cầu nguyện có nhiều
ý nghĩa. Trong
tôn giáo hữu thần tin vào
Thượng Đế toàn năng có quyền vô hạn là
Đấng Sáng tạo thế giới, là cha của tất cả sinh vật,
cầu nguyện có nghĩa chính là
cầu khẩn Thượng Đế,
yêu cầu Ngài, xin Ngài hướng dẫn và
che chở, ban
sức khỏe và
hạnh phúc và
tha thứ các
tội lỗi.
Phải nói rằng ngay từ đầu người
Phật Tử không tin vào một
Thượng Đế như vậy và cũng không
cầu nguyện theo
ý nghĩa ấy. Người
Phật Tử tin vào Nghiệp luật nói
hạnh phúc hay
bất hạnh phúc là kết quả về hành động của chính mình.
Thịnh vượng hay ngược lại được tạo ra cho mỗi
cá nhân bởi
hành vi,
lời nói và
tư tưởng của
cá nhân ấy. Nghiệp luật
vô tư, không có
tác nhân nào sau nó,
chỉ huy hay quản trị nó.
Vô tư, nó không
nhân từ mà cũng không
tha thứ.
Tội lỗi chỉ có thể chuộc bằng cách làm điều thiện, điều thiện sẽ khắc phục được
hậu quả của hành động
tội lỗi.
Tội lỗi theo
ý nghĩa Phật Giáo không phải là
vi phạm hay không
tuân theo luật đặt ra có
tính cách độc đoán của
thượng đế bắt
chúng sanh phải theo mà là hành động
sai lầm của thân, khẩu, ý nó làm hỏng
tính nết và
cản trở sự phát triển nhân cách.
Vậy nên trong
Phật Giáo không có
cầu nguyện được
chấp nhận theo
ý nghĩa thông thường của từ này trên
trần thế.
Con người tự mình chịu
trách nhiệm về điều thiện và
tội lỗi,
sung sướng và
nghèo khổ và không chịu
trách nhiệm cho ai cả.
Thế giới không
tùy thuộc vào sự
tiến bộ hay
thịnh vượng dựa vào bất cứ một người bên ngoài nào và nó không được
xây dựng bởi một ai bên ngoài cả.
Người
Phật Tử làm gì khi đến thăm chùa? Họ làm nhiều điều. Không có một ngày
đặc biệt để
thăm viếng chùa chiền tuy có ngày trăng tròn, ngày trăng mới mọc là những ngày rất
phổ thông trong số nhiều người
Phật Tử. Vào những ngày đó những người
mộ đạo tu
bát quan trai giới, mặc đồ trắng, đồ trắng
tượng trưng sự
đơn giản,
thanh tịnh, và khiêm nhường. Những người
mộ đạo này
mang theo hoa, dầu, hương và đôi khi bột gỗ
đàn hương và long não. Tại Chùa, họ rửa chân tay vì
thanh tịnh thân xác và tâm tư được
Đức Phật ca ngợi. Trong chùa có nhiều
bàn thờ và nhiều chỗ để dâng đồ cúng. Chỗ
bàn thờ chính được gọi là
Vihara (
Chánh Điện) có nghĩa là
tịnh xá nơi Phật
cư ngụ.
Từ
Vihara khởi đầu dùng có nghĩa là chỗ ở của
Đức Phật. Sau này nó cũng được dùng để chỉ chỗ ở của các thầy tu. Trong nghĩa ấy nó tương đồng với từ
tu viện. Vihara cũng bao hàm
hình ảnh của
Đức Phật, gợi ý cái gì
đáng giá và đáng chú ý. Với người
Phật Tử,
hình ảnh tự nó không phải là một đối tượng để
thờ phượng, nó chỉ là
biểu tượng và
tượng trưng Đức Phật.
Hình ảnh giúp cho người
mộ đạo nhớ lại những
đức hạnh vĩ đại của
Đấng Giác Ngộ. Về
mục đích của sự
thờ phượng, thật ra là không quan trọng dù có
hình ảnh hay không
hình ảnh nhưng
hình ảnh giúp cho
hành giả tập trung
tư tưởng. Trong việc
lễ lạy một
hình ảnh, người
Phật Tử không phải là một người
sùng bái thần tượng gỗ, đất sét, hay bằng đá, và sự
buộc tội người
Phật Tử sùng bái thần tượng là do
ngu muội hoặc
cố ý xuyên tạc.
Có một điểm đáng
lưu ý nữa là dùng từ Vihara để chỉ tòa nhà chứa đựng những vật
tượng trưng cho
Đức Phật. Như đã
nói trước đây, từ đó có nghĩa là một
tịnh xá, cho nên với người
Phật Tử, Vihara là nơi
Đức Phật sống, không những trong
quá khứ mà ngay bây giờ trong
hiện tại. Sự
thờ cúng Đức Phật không phải là cho một người nào đó chết, đã ra đi và không còn nữa mà là đối với một người nào đó vẫn sống và
hiện diện trước mặt mình. Điều đó không có nghĩa là người
Phật Tử tin tưởng Đức Phật đã
nhập diệt trước đây tại
Câu Thi Na bây giờ vẫn sống tại một nơi
đặc biệt nào đó và đang thực sự
hoạt động trên đời. Nhưng người
Phật Tử, vinh
danh Đức Phật, giống như
hồi tưởng trong tâm
đời sống hiện tiền của Đức
Giáo Chủ để hành động
thờ cúng của mình
sống động và có
nghĩa lý.
Đức Phật đã qua đời nhưng
ảnh hưởng của Ngài vẫn còn tỏa trên
thế giới như hương thơm mà mùi ngào ngạt vẫn
tiếp tục bay tỏa dù chất liệu tạo ra đã không còn. Cảm nghĩ của người
Phật Tử là những đồ dâng cúng của mình cho một người vẫn còn sống, cho Pháp Phật vẫn còn, và ký ức về cá tính
rực rỡ của Ngài vẫn
mãi mãi xanh tươi. Điều này
giải thích tại sao một số
Phật Tử dâng cúng đồ ăn và đồ uống tại các
bàn thờ. Những
lễ vật như thế
duy nhất tượng trưng sinh khí về
niềm tin và sự
thành tâm của họ; không môt ai, cả đến người
Phật tử ngu muội nhất tin là
Đức Phật hiện nay lại ăn và uống các
lễ vật ấy. Đó là cách thức
Phật Giáo bày tỏ một
hình thức lý tưởng quan niệm của
chúng ta về
Đức Phật như một
ảnh hưởng sống động trong cuộc sống hàng ngày của
chúng ta.
Dâng hoa và hương là một sự dâng lễ
thờ phượng, một hành động vinh danh, tôn thờ và
tri ân dù
lễ vật này không có
giá trị thực chất. Cũng giống như
chúng ta dâng một
vòng hoa hay một bó hoa cho một người nào đó với
ước vọng giãi bày lòng
tôn kính,
kính trọng,
cảm tình và lòng
tri ân của
chúng ta. Dâng cúng hoa và hương được
theo sau bởi lời tụng câu kệ nhắc nhở trong tâm đến những
đức hạnh tuyệt vời của
Đức Phật.
Như Ngài
Hòa Thượng Nanamoli đã nói: "Đức
Phật quả là một Đấng
Ban Phước Lành đã
chấm dứt tất cả
phiền não và khổ đau, Ngài là người toàn bích, đáng được vinh danh, Ngài đã
đạt được trí tuệ tối thượng và
giác ngộ, Ngài đã
chỉ dẫn con đường của
kiến thức chính đáng,
tư cách đạo đức, Ngài đã
tìm ra hòa bình và
hạnh phúc,
nhận thức ra
chân lý về
thế giới, như một nhà hướng đạo và một người bạn không ai có thể
bì kịp cho những ai muốn tìm đến sự hướng dẫn cũa Ngài, Ngài là thầy của trời và người."
Phải chú ý rằng không có
yêu cầu để được
ưu đãi, không có van nài để được
che chở, mà là nhớ và diễn tập lại
đức hạnh của một vĩ nhân, đối với người
Phật Tử đó là
con người vĩ đại nhất từ trước tới nay.
Sau đây trong một
bài kệ khác người
mộ đạo tuyên bố chấp nhận Đức Phật là
vị Đạo Sư, là người
chỉ đạo chừng nào mình còn sống, và bằng
đức hạnh của
sự kiện này
hạnh phúc sẽ đến với mình. Đó là sự
xác nhận niềm tin của người ấy vào
Đức Phật và
chấp nhận lối sống do Ngài vạch ra. Quan trọng hơn nữa là người
mộ đạo bày tỏ lòng
cương quyết tự thắng mình nhằm đạt
an lạc Niết Bàn mà
Đức Phật đã
đạt được do sự
tu tập đức hạnh và
chứng đắc trí tuệ. Người
mộ đạo nhớ trong tâm là trong hàng loạt sanh
tiếp diễn, trong một
thời gian dài,
Đức Phật (được
biết trước đây là vị
Bồ Tát hay người tìm cầu
giác ngộ hoàn toàn) trau dồi những đức tính ấy dẫn
chúng sanh đến toàn hảo và
giác ngộ tối thượng. Trên
con đường tu tập, Vị
Bồ Tát hay Phật-sắp-thành, coi
sự cố gắng không quá khó khăn, không có sự
hy sinh quá lớn. Không chỉ trong
một lần sinh mà trong nhiều lần sinh, Ngài đã
hy sinh mạng sống theo nguyên tắc mà Ngài
đánh giá cao để
phục vụ người khác.
Tất cả
mọi người đều có thể
trở thành Phật, nếu họ
quyết tâm và có
thiện chí theo
con đường Phật Đạo.
Đức Phật không đạt cái vĩ đại mà những người khác không
thể đạt được.
Lối sống của
Đức Phật gọi là Pháp và người
mộ đạo nhớ lại bằng câu kệ, đức tính và những đặc
đặc điểm và
đặc tính nổi bật của
giáo lý. Vậy nên
Phật Pháp được nói đến
rõ ràng không huyền bí hay
bí mật đằng sau mà
hoàn toàn mở rộng như một bàn tay mở ra mà sự hữu hiệu được biểu hiện là
rõ ràng và và
hiển nhiên có bằng chứng,
Phật Pháp bất diệt và
vô tận, lúc nào cũng
tốt đẹp khắp
mọi nơi mọi lúc,
chấp nhận thử thách, mời
điều tra và nghiên cưú,
Phật Pháp không chút dấu giếm, không nằm trên tin ngưỡng mà trên sự
tin chắc, không
mơ hồ mà xác thực trong
mục tiêu vạch ra, mà
chân lý và
hạnh phúc có
thể đạt được bởi
cá nhân và
nỗ lực tích cực không
tùy thuộc vào ai khác mà hùng mạnh xiết bao .
Người
mộ đạo cũng nhớ lại sự khuyến khích và mở mang
tinh thần của chính mình đang có, và thường là đã có, những người tự hiến dâng cho sự
nhận thức toàn vẹn Pháp,
con đường giải thoát,
tranh đấu nghiêm chỉnh để
tiến tới mục tiêu của sư
tìm kiếm -
loại bỏ tham, sân và si. Họ là những tấm gương của
đời sống lương hảo,
hạnh kiểm tốt,
chính trực, không có gì
đáng trách trong
cư xử, đáng được vinh danh và
tôn kính, đáng được
mọi người biết. Những người cao thượng này được biết là
Tăng Già hay
cộng đồng của những
đệ tử giác ngộ làm
trong sạch thế giới bằng điều thiện và
tính chất thiêng liêng của đời họ, tránh
tội lỗi,
thúc đẩy điều lành, và tràn đầy
vũ trụ với
tư tưởng hữu nghị,
thiện chí và hòa bình. Người
mộ đạo cúng dường cho những người
thoát ly gia đình thực hành hạnh
bố thí và
rộng lượng. Nhớ đến những người cao thượng này trong niềm
hiếu thảo, người
Phật Tử tu tập giữ giới và tràn ngập tâm tư với
tư tưởng cao cả, người đó dấn mình vào sự
tu tập mức độ cao hơn -
thiền định hay trau dồi tâm (
bhavana).