NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
VI. TỔNG QUÁT
26. NGUYÊN THỦY - ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO
- Hòa Thượng Tiến Sĩ W. Rahula
Hãy để cho
chúng ta bàn luận về câu hỏi thường được hỏi bởi nhiều người: Sự khác biệt giữa
Đại Thừa và Nguyên Thủy Phật Giáo như thế nào? Muốn nhìn sự vật theo đúng toàn cảnh,
chúng ta hãy
quay về lịch sử Phật Giáo và
truy nguyên sự hình thành và sự phát triển của
Đại Thừa và Nguyên Thủy Phật Giáo.
Đức Phật sanh vào thế kỷ Thứ 6
trước Công Nguyên. Sau khi đạt
giác ngộ vào năm 35 tuổi
cho đến khi Ngài
Nhập Niết Bàn vào năm 80 tuổi, Ngài thuyết giáo và giảng dạy suốt những năm tháng đó.
Chắc chắn Ngài là một trong những người nhiều
nghị lực nhất chưa từng thấy: 45 năm trường Ngài giảng dạy ngày đêm, và chỉ ngủ khoảng 2 giờ một ngày.
Đức Phật tiếp xúc với tất cả mọi hạng người, vua và hoàng tử,
Bà La Môn,
nông dân, kẻ ăn xin, người
học thức người
bình thường.
Giáo lý của Ngài được
thực hiện theo
kinh nghiệm, mức
hiểu biết và khả năng
tinh thần của người
nghe Pháp. Điều Ngài dạy gọi là Vicana hay
lời Phật dạy. Không có cái gì gọi là
Nguyên Thủy hay
Đại Thừa thời bấy giờ.
Sau khi
thành lập Đoàn Thể
Chư Tăng và Chư Ni,
Đức Phật đặt ra một số
luật lệ gọi là
Giới Luật để hướng dẫn các Đoàn Thể này. Phần còn lại
giáo lý của Ngài gọi là Pháp
gồm có những bài giảng, những bài
thuyết pháp cho các tăng, các ni và người
cư sĩ.
Đại Hội Kiết Tập Lần Thứ Nhất
Sau khi Đúc Phật
nhập Niết Bàn được ba tháng, những
đệ tử thân cận của Ngài
triệu tập một
hội nghị tại Rajagaha (Thành
Vương Xá). Ngài
Ma Ha Ca Diếp, người được
trọng vọng nhất mà cũng là bậc
trưởng lão, là chủ tịch
Hội Nghị. Hai nhân vật quan trọng chuyên về hai lĩnh vực khác nhau - Pháp và Luật - đều có mặt. Một người là Ngài Ananda (
A Nan), người
đệ tử thân cận nhất (
thị giả) của
Đức Phật trong suốt 25 năm.
Thiên phú với một
trí nhớ xuất sắc, Ngài
A Nan có thể đọc lại những gì
Đức Phật nói. Nhân vật kia là Ngài Upali (U Bà Li) nhớ được tất cả những
Giới Luật.
Chỉ hai phần - Pháp và Luật được đọc lại tại
Đại Hội Lần Thứ Nhất. Tuy không có nhiều
ý kiến dị biệt về Pháp (không nói đến
Vi Diệu Pháp), có một số
thảo luận về Luật. Trước khi
Đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài có nói với Ngài
A Nan nếu Đoàn Thể
Tăng Già muốn
tu chính hay thay đổi một số luật thứ yếu, họ có thể làm được. Nhưng vào lúc đó, Ngài
A Nan vì quá
lo lắng vì
Đức Phật sắp ra đi nên không hỏi những luật thứ yếu ấy là gì. Vì các thành viên trong
Hội Nghị không đi đến
thỏa thuận những luật nào là luật thứ yếu nên Ngài
Ma Ha Ca Diếp quyết định không có
luật lệ nào đặt ra bởi
Đức Phật được thay đổi, và cũng không
luật lệ mới nào được đưa ra.
Không có lý do
thực chất nào được đưa ra.
Tuy nhiên Ngài
Ma Ha Ca Diếp có nói một câu: "Nếu ta thay đổi luật, người ta sẽ nói
đệ tử của Đức
Cồ Đàm thay đổi
luật lệ trước khi ngọn lửa thiêu Ngài chưa tắt".
Tại
Hội Nghị này, Pháp được chia ra làm nhiều phần và mỗi phần được trao cho một vị
trưởng lão cùng với
đệ tử của vị ấy để ghi nhớ. Pháp được
truyền khẩu từ thầy đến trò.
Pháp thường được
tụng niệm hàng ngày bởi một nhóm người thường được phối kiểm lẫn nhau để
bảo đảm không có sự
thiếu sót cũng
như không có gì thêm vào. Các sử gia đều
đồng ý truyền thống truyền khẩu đáng tin cậy hơn văn bản của một người viết lại vài năm sau
Hội nghị dựa theo
trí nhớ của mình.
Đại Hội Kiết Tập Lần Thứ Hai
Một trăm năm sau,
Đại Hội Kiết tập lần thứ hai đẻ
bàn luận về một số
giới luật. Không
cần thiết phải thay đổi những
giới luật ba tháng sau khi
Đức Phật nhập Niết Bàn vì lẽ không có gì thay đổi nhiều về chính trị, kinh tế và
xã hội trong khoảng thời gian ngắn này. Nhưng 100 năm sau, một số các thầy tu
nhận thấy cần phải có sự thay đổi với một số
giới luật thứ yếu. Những
nhà sư chính thống nói không có gì phải thay đổi trong khi những
nhà sư khác khăng khăng xin thay đổi một số
giới luật.
Cuối cùng, một số
nhà sư bỏ
Đại Hội và
thành lập Mahasanghika -
Đại Chúng Bộ. Dù được gọi là
Mahasanghika, cũng không phải là Mahayana (
Đại Thừa). Trong
Đại Hội Kiết Tập lần thứ hai, chỉ có những
vấn đề liên quan đến giới luật được đem
bàn cãi và không có gì tranh cãi về
Pháp như đã được
ghi nhận.
Đại Hội Kiết Tập Lần Thứ Ba
Vào thế kỷ thứ ba
trước Công Nguyên, trong thời
Hoàng Đế A Dục,
Đại Hội Kiết Tập lần thứ ba được
triệu tập để bàn thảo về những
ý kiến dị biệt giữa những tỳ-kheo của nhiều phái khác nhau. Tại
Đại Hội này những dị biệt không chỉ hạn hẹp trong
Giới Luật mà cũng
liên quan tới Pháp nữa. Lúc
kết thúc Hội Nghị, Ngài Moggaliputta Tissa, tổng hợp vào một cuốn sách gọi là Kathavatthu
bác bỏ những
quan điểm và
lý thuyết dị giáo và
sai lầm của một số
giáo phái.
Giáo lý được
phê chuẩn và
chấp thuận bởi
Đại Hội được biết là Theravada (
Nguyên Thủy).
Vi Diệu Pháp được
bao gồm trong
Đại Hội này.
Sau
Đại Hội Kiết Tập lần thứ ba, người con
Vua A Dục, Ngài
Hòa Thượng Mahinda, mang
Tam Tạng Kinh Điển đến Sri Lanka, cùng với những lời
bình luận được đọc tại
Đại Hội này. Những
kinh điển được mang về Sri Lanka vẫn được
gìn giữ cho tới ngày nay không mất một trang nào. Những
kinh điển này được viết bằng tiếng Pali
căn cứ vào ngôn ngữ của Magadhi (xứ
Ma Kiệt Đà) là
ngôn ngữ của
Đức Phật. Không có cái gì gọi là
Đại Thừa vào thời bấy giờ.
Đại Thừa Xuất HiệnGiữa thế kỷ thứ nhất truớc Công Nguyên và thế kỷ thứ nhất
sau Công Nguyên, hai cụm từ Mahayana (
Đại Thừa) và Hinayana (
Tiểu Thừa)
xuất hiện trong
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay
Kinh Pháp Hoa.
Vào khoảng thế kỷ thứ hai
sau Công Nguyên, Mahayana (
Đại Thừa) được định nghĩa
rõ ràng . Ngài
Long Thọ triển khai triết học tánh "Không" của
Đại Thừa và
chứng minh tất cả mọi thứ đều là "Không" trong một bộ luận ngắn gọi là Madhyamika-Karika (
Trung Quán Luận).
Vào khoảng thế kỷ thứ tư, Ngài
Vô Trước và
Thế Thân viết nhiều
tác phẩm về
Đại Thừa. Sau thế kỷ thứ nhất
sau Công Nguyên, những nhà
Phật Giáo Đại Thừa, giữ vững
lập trường rõ ràng này, và rồi cụm từ
Đại Thừa và
Tiểu Thừa được nói đến.
Chúng ta không nên
lẫn lộn Hinayana (
Tiểu Thừa) với Theravada (
Nguyên Thủy) vì những
từ ngữ này không đồng nghĩa. Theravada (
Nguyên Thủy)
Phật Giáo nhập vào Sri Lanka vào thế kỷ thứ ba trước Tây Nguyên lúc đó không có
Đại Thừa gì cả. Phái
Tiểu Thừa phát triển tại
Ấn Độ có một bộ phận
độc lập với dạng thức
Phật Giáo tại Sri Lanka. Ngày nay không có phái
Tiểu Thừa hiện hữu tại nơi đâu trên
thế giới nữa. Cho nên, vào năm 1950
Đại Hội Phật Giáo Thân Hữu Thế Giới khai mạc tại Colombo, đồng
nhất trí quyết định bỏ hẳn
từ ngữ Hinayana (
Tiểu Thừa) khi nói đến
Phật Giáo hiện hữu tại Sri Lanka, Thái Lan, Miến Điện,
Cao Miên, Lào
vân vân... Trên đây là
sơ lược lịch sử Nguyên Thủy,
Đại Thừa và
Tiểu Thừa.
Đại Thừa và Nguyên ThủyBây giờ, sự khác biệt giữa
Đại Thừa và Nguyên Thủy như thế nào?
Tôi đã
nghiên cứu nhiều năm
Đại Thừa và càng
nghiên cứu bao nhiêu tôi lại càng thấy khó có khác biệt giữa
Đại Thừa và Nguyên Thủy khi nhìn vào
giáo lý căn bản.
- Cả hai đều công nhận Đức Phật Thích Ca là Bậc Đạo Sư.
- Tứ Diệu Đế đếu đúng như vậy với cả hai trường phái.
- Bát Chánh Đạo cũng y như nhau ở hai trường phái.
- Lý Duyên Sinh hay Lý Duyên Khởi cũng y như nhau tại hai trường phái.
- Cả hai đều bác bỏ ý kiến về một đấng tối thượng sáng tạo và thống trị thế giới này.
- Cả hai đều công nhận Vô thường, Khổ, Vô Ngã, và Giới, Định, và Huệ như nhau không có gì khác biệt.
Trên đây là những
giáo lý quan trọng nhất của
Đức Phật và đều được
chấp nhận bởi cả hai trường phái không thắc mắc.
Cũng có một vài điểm khác biệt. Một điều dị biệt ấy là
lý tưởng Bồ Tát. Nhiều người nói rằng
Đại Thừa chỉ
con đường Bồ Tát Đạo đẫn đến
Thành Phật (
Giác Ngộ) trong khi
Nguyên thủy dẫn đến
A La Hán. Tôi phải
nhấn mạnh là
Đức Phật cũng là một
A La Hán.
Bích Chi Phật cũng là một
A La Hán. Một
đệ tử có thể
trở thành bậc
A La Hán.
Kinh Điển Đại Thừa không bao giờ dùng cụm từ Arahant-Yana, Cỗ xe
A La Hán.
Kinh Điển Đại Thừa dùng ba từ: Bodhisatvayana (
Bồ Tát Thừa), Prateka-Buddhayana (
Duyên Giác Thừa), và Sravakayana (Thinh Văn Thừa). Trong
truyền thống Nguyên Thủy, ba từ trên được gọi là Bodhis (
Giác ngộ).
Một số người nghĩ rằng
Nguyên Thủy ích kỷ vì
Nguyên Thủy dạy ta nên
tìm kiếm sự giải thoát cho chính mình. Nhưng một người
ích kỷ làm sao có
thể đạt giác ngộ? Cả hai trường phái đều
chấp nhận ba Thừa hay
Giác Ngộ nhưng coi
Bồ Tát là
lý tưởng cao nhất.
Đại Thừa tạo nhiều
Bồ Tát huyền bí trong khi
Nguyên Thủy coi
Bồ Tát như một người như
chúng ta nhưng hiến dâng
cả đời mình để đạt
toàn thiện, chủ yếu
trở thành một
Đức Phật giác ngộ hoàn toàn cho
phúc lợi và
hạnh phúc của
thế giới.
Tam Đẳng Phật
Có ba đẳng Phật: Samma Sambuddha (Đức
Chánh Đẳng Chánh Giác) đạt
giác ngộ hoàn toàn bằng
nỗ lực của chính mình, Pacceka Buddha (
Bích Chi Phật) phần
đức hạnh kém hơn
Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, và Savaka Buddha (Thinh Văn Phật),
môn đồ của
A La Hán thành Phật. Đạt
Niết Bàn giữa ba đẳng Phật này
hoàn toàn giống nhau. Điều khác biệt
duy nhất là
Đức Phật Chánh Đảng
Chánh Giác có nhiều Đức Tính và khả năng hơn hai
Đức Phật kia.
Một số người nghĩ rằng
tánh Không hay
Sunyata bàn luận bởi Ngài
Long Thọ là
giáo lý hoàn toàn Đại Thừa. Nó
căn cứ vào tư tưởng vô ngã hay không có cái ta, trong Lý
Duyên Sinh hay Lý
Duyên Khởi,
tìm thấy trong những
Kinh Điển Nguyên Thủy bằng tiếng Pali. Một dịp Ngài
A Nan hỏi
Đức Phật: "Người ta nói tiếng Không, Vậy Không là gì, thưa Đức Thế Tôn?"
Đức Phật trả lời "Này
A Nan, không có cái ta, không có gì của ta trên
thế giới này. Cho nên,
thế giới rỗng không". Ngài
Long Thọ lấy
ý kiến này khi Ngài viết
tác phẩm nổi tiếng, bộ "Trung Quán Luận".
Ngoài ra tư tưởng tánh Không là
quan niệm "A lại gia thức" của
Phật Giáo Đại Thừa mà mầm giống của nó từ những
kinh điển Nguyên Thủy. Những nhà
Đại Thừa đã
triển khai tư tưởng này thành một
tâm lý và triết lý sâu sắc.