NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
II. ĐỨC PHẬT VÀ GIÁO LÝ CỦA NGÀI
8. THẾ NÀO LÀ NGHIỆP?
- Hòa Thượng U. Thittila
Nghiệp, tiếng Pali là
Kamma, có nghĩa là hành động. Tiếng Sanskrit, Nghiệp được gọi là
Karma. Trong
nghĩa thông thường Nghiệp có nghĩa tất cả những hành động tốt hay xấu. Nó bao trùm tất cả những hành động có
dụng ý dù là
tinh thần, nói năng hay
vật chất,
tư tưởng,
lời nói, và
hành vi. Trong nghĩa chủ yếu Nghiệp có nghĩa là tất cả những
ý muốn đạo đức hay
vô đạo đức.
Đức Phật nói: "Này các
tỳ kheo,
ý muốn là cái mà ta gọi hành
động tức Nghiệp. Do có ý mà ta hành động thân, khẩu và tư tưởng" (Kinh Tăng Chi, Anguttara Nikaya III. 415)
Nghiệp chẳng phải là
tiền định mà cũng chảng phải là
học thuyết theo
số mệnh.
Quá khứ ảnh hưởng hiện tại nhưng không át hẳn, với Nghiệp
quá khứ và
hiện tại cũng như nhau.
Quá khứ và
hiện tại ảnh hưởng tương lai.
Quá khứ là cái nền
dựa vào đấy
đời sống tiếp diễn từng khoảnh khắc. Tương lai chưa tới. Chỉ có
hiện tại và
trách nhiệm sử dụng hiện tại làm
việc thiện hay việc ác nơi từng
cá nhân.
Mỗi hành động phát sanh một
hậu quả và đó là
nguyên nhân trước và hậu đó là
hậu quả tiếp theo. Cho nên
chúng ta nói về Nghiệp tức "luật nhân quả".
Thí dụ, ném một hòn đá là một hành động. Hòn đá đập vào cửa kính, làm vở kính. Vỡ kính là quả của hành động ném, nhưng chưa phải là tận cùng. Cửa kính vỡ là
nguyên nhân của những việc xảy ra sau này. Phải có một số tiền để thay kính, ti?n ấy lẽ ra là
để dành hay dùng để làm việc khác, và
hậu quả đã làm cho ta có
cảm giác thất vọng. Điều này có thể làm cho ta
bứt rứt, và
nếu không cẩn thận,
bứt rứt này có thể làm thành
nguyên nhân của một
việc làm sai khác, và cứ thế
tiếp tục. Không có sự
chấm dứt về những kết quả của hành động, không có sự
chấm dứt của nghiệp, cho nên
chúng ta phải
hết sức thận trọng về hành động của
chúng ta, để
hậu quả được
tốt hơn. Cho nên rất
cần thiết cho
chúng ta làm điều lành, hành động có ích sẽ
trở về chúng ta thành
nghiệp lành và làm cho
chúng ta đủ sức mạnh để bắt đầu một Nghiệp tốt.
Ném một hòn đá xuống nước và nhìn
hiệu quả. Thấy nước tóe lên và những gợn sóng lăn tăn nổi lên khi mặt nước
va chạm với hòn đá. Rồi thấy ra sao những gợn sóng vòng tròn mới đầu nh? cứ rộng ra mãi, rộng mãi
cho đến khi mắt ta không thể nhìn theo được nữa. Một viên đá nhỏ nhiễu loạn nước trong hồ, nhưng việc chưa
chấm dứt. Khi những gợn sóng nhỏ đến bờ hồ, nước lại
quay trở lại tới viên đá đã nhiễu loạn nó.
Những
hậu quả của những hành động
trở lại chúng ta như những gợn sóng với hòn đá, và
chừng nào mà ta còn hành động với
ác ý, những làn sóng mới và
hậu quả sẽ
trở lại đánh
chúng ta và nhiễu loạn
chúng ta. Nếu
chúng ta lương thiện và giữ
an lạc, những đợt sóng khó khăn
quay về sẽ càng ngày càng yếu đi
cho đến khi chúng tắt và
Nghiệp lành sẽ
trở về với phước lành. Chẳng hạn, nếu
chúng ta trồng hạt soài, cây soài sẽ mọc lên và mang trái soài, và nếu ta gieo một hạt ớt, cây ớt sẽ mọc lên và mang trái ớt.
Đức Phật nói:
Trồng nhân nào thì mang quả nấy
Làm điều thiện, đạt điều tốt
Làm điều ác, gặp ác
Gieo nhân nào, gặt quả nấy. (Samyutta Nikya - Tương Ưng)
Mọi việc đến thật đúng với
chúng ta. Khi điều vui đến và làm
chúng ta hạnh phúc,
chắc chắn rằng Nghiệp đến cho thấy
chúng ta hành động
chính đáng. Khi điều
bất hạnh đến, làm
chúng ta đau, hay làm cho chúng
không hạnh phúc, Nghiệp đến cho
chúng ta thấy
lỗi lầm của
chúng ta.
Chúng ta không bao giờ quên Nghiệp lúc nào cũng rất
công bằng. Nghiệp chẳng thương mà cũng chẳng ghét, chẳng thưởng mà cũng chẳng phạt. Nó cũng chẳng bao giờ
giận dữ, và cũng chẳng bao giờ làm
vừa lòng.
Đơn giản nghiệp là
định luật của
nguyên nhân và
hậu quả.
Nghiệp không biết gì về
chúng ta cả. Lửa không biết gì khi đốt cháy
chúng ta phải không? Không biết gì .
Bản chất của lửa là cháy lên để cho sức nóng. Nếu
chúng ta sử dụng đúng cách, nó cho ta ánh sáng, nấu đồ ăn hay đốt đi những gì
chúng ta muốn, nhưng nếu
chúng ta không
sử dụng đúng cách, nó sẽ đốt cháy
chúng ta và
tài sản của
chúng ta. Việc của lửa là làm cháy lên, và việc của
chúng ta là phải
sử dụng nó cho đúng.
Chúng ta dại dột nếu
chúng ta giận dữ và trách cứ khi bị cháy vì
chúng ta đã lầm lỗi.
Có nhiều bất
bình đẳng và nhiều dị biệt về số phận
con người trên
thế giới.
Thí dụ có kẻ thấp, người cao. Có kẻ bị
chết yểu có kẻ sống lâu đến tám mươi hay một trăm tuổi. Có kẻ
bệnh hoạn và tàn tật, có kẻ lại
tráng kiện và khỏe mạnh. Có kẻ sinh ra trong
giàu sang phú quý, có kẻ sinh ra trong
lầm than. Có kẻ sinh ra là triệu phú, có kẻ lại nghèo hèn. Có kẻ là thần đồng có kẻ lại ngu đần.
Tại sao lại có những sự không
đồng đều như thế
hiện hữu trên thế giới? Người
Phật Tử không tin những sự
chênh lệch như thế là kết quả của sự
ngẫu nhiên. Chính khoa học cũng
chống lại thuyết "ngẫu nhiên", trong
thế giới khoa học gia, tất cả
mọi việc đều do
định luật nhân quả chi phối. Người
Phật Tử cũng chẳng tin những sự
chênh lệch trên
thế giới là do Thượng Đế-Đấng
Sáng Tạo.
Một trong ba
quan điểm khác nhau
thịnh hành trong thời
Đức Phật là:
- Dù
con người có kinh qua
hạnh phúc hay
đau khổ hay
cảm tưởng không
rõ ràng thì tất cả đều do sự
sáng tạo của một Vị Trời
Tối Thượng, (Gradual Sayings - Tăng Chi, 1.158). Bình phẩm về
quan điểm định mệnh này,
Đức Phật nói: "Vậy thì, theo sự
sáng tạo của vị Trời Tồi Thượng này,
con người sẽ
trở thành kẻ giết người, trôm cắp,
dâm ô.
nói dối, kẻ vu khống,
lạm dụng, kẻ bép xép,
tham lam,
hiểm độc, và
quan điểm ngoan cố. Như vậy những người rơi vào sự
sáng tạo của một
Thượng Đế là
lý do thiết yếu, chẳng cần
ham muốn làm gì và cũng chẳng
cần thiết làm
hành vi này hay tránh
hành vi kia.
Nói về những
nhà tu khổ hạnh lõa thể theo cách
tự hành xác,
Đức Phật nhận xét: "Này các
Tỳ Kheo, nếu
chứng nghiệm đau khổ hay
hạnh phúc là do
Thượng Đế quyết định,
chắc chắn những
nhà tu khổ hạnh lõa thể này phải do một
Thượng Đế ác độc tạo nên vì họ đang
chứng nghiệm những sự
đau đớn ghê gớm". (Devadaha Sutta, No 101, Majjihima Nikaya -
Trung Bộ, II, 222).
Theo
Phật Giáo, những sự bất
bình đẳng hiện hữu trong
thế giới này là do một phần là
do nơi di truyền và môi sinh, và một phần lớn do
nguyên nhân hay những
nguyên nhân (Nghiệp) không chỉ ngay bây giờ, mà còn ở
quá khứ gần hoặc xa. Chính
con người chịu
trách nhiệm về
hạnh phúc và
lầm than của mình.
Con người tự tạo
thiên đường hay
địa ngục cho chính mình.
Con người là
chủ tể định mệnh của mình, kết quả của
quá khứ và nguồn gốc của tương lai.
Những Qui Luật Về
Trật Tự Vũ TrụMặc dù
Phật giáo dạy Nghiệp là
nguyên nhân chính của các sự bất
bình đẳng trong
thế giới nhưng không dạy thuyết
định mệnh hay
học thuyết tiền định, và cũng không giữ
quan niệm cho rằng mọi thứ đều do
quá khứ. Luật
nguyên nhân mô tả trong triết
lý Phật Giáo, là một trong năm
trật tự mà chính chúng là
luật hành hoạt trong
vũ trụ. Chúng là:
- Utu Niyama, Luật vật lý vô cơ tức hiện tượng về gió mưa của mỗi mùa. Trật tự chính xác về mùa, những thay đổi và biến chuyển theo đặc thù của mùa gây ra gió mưa, tính chất nóng bức vân vân, thuộc nhóm này.
- Bija Niyama, Luật về mầm và hạt giống (vật lý hữu cơ) như gạo, gạo lấy ra từ thóc, đường từ mía hay mật, đặc tính của một số trái cây vân vân... Thuyết khoa học về tế bào và 'gien' và những cái giống nhau về mặt vật lý thuộc định luật này.
- Kamma Niyama, luật về kết quả của hành động, như hành động tốt xấu sanh kết quả tương úng tốt xấu. Cũng như nước tự tìm mức độ nông cạn, Nghiệp cho cơ hội, tạo kết quả không tránh được, không phải dưới hình thức thưởng phạt mà là sự liên tục bẩm sinh. Sự liên tục của hành vi và hậu quả tự nhiên và cần thiết như con đường của mặt trăng và các tinh tú.
- Dhamma Niyama, luật về tiêu chuẩn như hiện tượng thiên nhiên xẩy ra lúc Bồ Tát giáng sanh trong lần sanh cuối cùng. Luật hấp dẫn và những luật thiên nhiên tương đương, lý lẽ cho là tốt vân vân... cũng có thể gồm trong nhóm này.
- Citta Niyama, luật về tâm hay luật tâm linh như tiến trình của thức, sự phát sanh và mất đi của thức, yếu tố cấu tạo thức, sức mạnh của tâm vân vân..., thần giao cách cảm, hình ảnh do viễn vọng, nhận thức bằng hồi tưởng, linh cảm, nghe được, đọc được tư tưởng, tất cả những hiện tượng tâm linh không thể giải thích được bởi khoa học hiện đại gồm trong điều này. (Abihdhammavatara, Trang 54).
Năm luật trên
bao gồm mọi thứ trong
thế giới và mọi
hiện tượng tinh thần hay
vật chất có thể
giải thích bằng những luật ấy. Chúng là luật trong chính chúng, không cần ai
ban hành và Nghiệp cũng vậy là một trong chúng.
Phân Loại Nghiệp
Nghiệp chia thành bốn loại theo
thời gian kết quả nảy sinh. Nghiệp chín mùi cùng đời, chín
mùi đời sau, chín mùi trong những lần sanh
liên tiếp. Ba loại nghiệp này đi đến sinh kết quả như
hạt giống sắp sửa nảy mầm. Nhưng
hạt giống nảy mầm phải có một số
nguyên nhân phụ thuộc như, đất, mưa
vân vân.... Cũng vậy Nghiệp trổ quả cũng cần một số
nguyên nhân phụ thuộc như
hoàn cảnh, môi trường chung quanh
vân vân.... Đôi khi
ngẫu nhiên là vì không có những
nguyên nhân phụ thuộc nên Nghiệp không trổ quả. Nghiệp này gọi là
"Ahosi-Kamma" hay Nghiệp
vô hiệu quả.
Nghiệp cũng được phân loại thành bốn loại theo
chức năng đặc biệt của nó.
Dẫn Nghiệp là
điều kiện của lần sanh tương lai. Hỗ
Trợ Nghiệp giúp và
duy trì kết quả của Nghiệp đã
hiện hữu.
Phản ứng Nghiệp, kìm nén hay thay đổi
kết quả của Nghiệp tái sanh, và Nghiệp
Phá Hoại tiêu diệt nghiệp lực hiện hữu và thay thế bằng
hợp lực của chính nó.
Có một cách phân loại theo tầm quan trọng của kết quả. Có
Cực Trọng Nghiệp do
nghiệp lành hay nghiệp dữ lớn lao phát sinh ngay
trong đời này hay
đời sau. Về mặt
tinh thần của Nghiệp này,
tình trạng đạt được tinh thần thanh lọc ở mức độ cao gọi là Đắc thiền hay
Hỷ lạc rất mạnh vì nó mang kết quả nhanh hơn
trạng thái tinh thần bình thường không được thanh lọc. Về phía
đối lập, có năm loại
trọng tội tạo nghiệp dữ lớn lao. Những
trọng tội này là giết cha, giết mẹ, giết
A La Hán (bậc thánh) làm thân Phật chảy máu hay tạo
ly gián trong
Tăng Đoàn.
Cận Tử Nghiệp là
hoạt động mang đến lúc sắp chết về
vật chất hay
tinh thần -
tinh thần bằng việc
suy nghĩ đến những hành động xấu tốt trước đây hay có
tư tưởng xấu hay tốt.
Chính Nghiệp này
nếu không phải là nghiệp dữ,
quyết định điều kiện cho lần sanh tới.
Tập Quán Nghiệp là
hoạt động mà ta làm theo
thói quen hàng ngày. Nghiệp này, nếu vắng
Cận Tử Nghiệp phát sanh,
quyết định lần sanh tới.
Tích Lũy Nghiệp là nghiệp
cuối cùng theo thứ tự
ưu tiên. Đó là nghiệp chưa cạn hết của một
chúng sanh đặc biệt và nó là
điều kiện của lần sanh tới nếu tập quán nghiệp không hành hoạt.
Một cách phân loại Nghiệp nữa theo
cảnh giới do kết quả
mang đến:
(1) Nghiệp Vô Luân (dữ) mang hậu quả vào cảnh giới lầm than.
(2) Nghiệp Lành mang hậu quả vào dục giới
(3) Nghiệp Lành hậu quả vào sắc giới
(4) Nghiệp Lành hậu quả vào vô sắc giới
Mười Hành Động
Vô Luân Và
Hậu Quả:-
I. Nghiệp vô luân bắt rễ từ Tham, Sân và Si.Có mười hành động
vô luân - đó là Giết, Trộm Cướp,
Tà Dâm, (ba điều này là do thân),
Nói Dối, Vu Khống, Nói lời
Độc Ác, Nói
Chuyện Phiếm (bốn điều này là do khẩu). Tham,
Ác Ý, và
Tà Kiến (Ba điều này là do tâm ý).
Trong mười điều này, giết có nghĩa là
tiêu diệt bất cú một
chúng sanh nào kể cả tất cả
các loại súc vật. Hành động giết cóù năm
điều kiện chính tức là: một
chúng sanh, biết là một
chúng sanh, có ý giết,
cố gắng và kết quả cái chết.
Hậu quả của
tội ác giết người là: Chết non,
bệnh hoạn, luôn luôn
phiền não vì phải xa người thân, luôn luôn
sợ hãi.
Hành động trộm cướp
gồm có năm
điều kiện chính tức: Lấy
tài sản của người khác,
ý thức được việc này, có ý trộm cướp, có
nỗ lực và
hậu quả lấy đi.
Hậu quả của trộm cướp là:
nghèo khổ,
bất hạnh, không
đạt được ước muốn, và phải sống nhờ vả.
Hành động
tà dâm gồm có ba
điều kiện chính, tức: có
dụng ý vui hưởng mục tiêu đã bị cấm, chiếm đoạt
mục tiêu.
Tà dâm mang
hậu quả: có nhiều
kẻ thù, gặp người bạn đường không chung thủy.
Nói dối gồm có bốn
trường hợp chính, tức: nói không đúng,
dụng ý đánh lừa, có
sự cố gắng và nói hai chiều.
Hậu quả của
nói dối là: bị nhục mạ, bị
phỉ báng, không ai tin, và miệng hôi hám.
Hành động vu khống
gồm có bốn điều chính, tức: chia rẽ, có
dụng ý chia rẽ, có
sự cố gắng, và đưa chuyện.
Hậu quả của vu khống là bị mất bạn
hữu vô cớ.
Hành động nói lời
độc ác có bốn
điều kiện chính, tức:
sỉ nhục người,
giận dữ,
chửi rủa người.
Hậu quả của nói lời
độc ác bị người ghét bỏ dù không lỗi, giọng
nói thô lỗ.
Hành động nói
chuyện phiếm có hai
điều kiện chính, tức: hướng về
chuyện phiếm vô ích và kể lể.
Hậu quả hành động nói
chuyện phiếm vô ích là cơ thể bị
xáo trộn, nói không ai nghe.
Hành động
tham lam gồm hai
điều kiện chính: muốn lấy
tài sản của người khác, và lòng
tham muốn có
tài sản ấy, kẻ ấy nói: "tài sản này là phải của tôi".
Hậu quả của
tham lam là không
đạt được ước muốn.
Hành động
ác ý gồm hai điều kiên chính, tức: một
chúng sanh khác và có ý làm hại
chúng sanh đó.
Hậu quả của
ác ý là
xấu xí, bệnh tật và
bản tính đáng ghét.
Tà kiến có nghĩa là nhìn sự vật ai, không biết chúng thật sự đúng như thế nào.
Tà kiến gồm hai
điều kiện chính là cách đối xử
sai lầm trong
quan điểm với đối tượng,
hiểu lầm đối tượng ấy theo
quan điểm đó.
Hậu quả của
tà kiến là: luyến chấp, thiếu
trí tuệ,
trí khôn thấp kém, bệnh tật
kinh niên và
tư tưởng đáng trách. (Expositor, Pt. 1.p. 128)
II. Nghiệp Lành Mang Hậu Quả Ở Dục Giới. Có mười hành động
tinh thần - đó là,
độ lượng, giới, thiền,
kính trọng,
phục vụ,
hồi hướng công đức,
hoan hỉ công đức của người khác,
nghe pháp,
giảng pháp, và
thiết lập quan điểm đứng đắn.
"Độ lượng" mang
của cải. "Giới" khiến người ta được sinh trong một
gia đình quý phái hạnh phúc. "Thiền" giúp sanh sinh vào cõi sắc hay
vô sắc và giúp đạt
kiến thức cao và
giải thoát.
Kính trọng người, ta được người
kính trọng lại.
Phục vụ người khác, ta được người khác
phục vụ lại. "Hồi hướng
công đức giúp ta có nhiều
của cải để cho trong
kiếp sau. "Hoan hỉ
công đức của người khác" tạo niềm vui tại bất cứ nơi đâu ta sinh ra.
Nghe pháp và
giảng pháp dẫn đến
trí tuệ.
III. Nghiệp Lành Mang Hậu Quả Ở Sắc Giới.Có năm loại
hoàn toàn về
tinh thần mang lại trong tiến trình hành thiền, tức:
- Trạng thái thứ nhất của Đắc Thiền hay Hỷ Lạc có năm thành phần cấu tạo: sơ thiền, nhị thiền, trạng thái say mê, sung sướng, gom tâm vào một điểm.
- Trạng thái thứ hai của Đắc Thiền xẩy ra cùng lúc với nhị thiền được chấp nhận, trạng thái say mê, sung sướng, gom tâm vào một điểm.
- Trạng thái thứ ba của Đắc Thiền xẩy ra cùng lúc với trạng thái sây mê, sung sướng và gom tâm vào một điểm.
- Trạng thái thứ tư xẩy ra cùng một lúc với sung sướng và gom tâm vào một điểm.
- Trạng thái thứ năm của Đắc Thiền cùng với sự thanh thản và gom tâm vào một điểm.
IV. Nghiệp Lành Mang Hậu Quả Ở Vô Sắc Giới.Có bốn loại
hoàn toàn tinh thần thực hiện trong tiến trình thiền, tức:
- Không vô biên xứ (thần thức ở trong sự vô tận của không gian)
- Thức vô biên xứ (Thần thức ở trong sự vô tận của ý thức)
- Vô sở hữu xứ (thần thức ở tình trạng không tồn tại).
- Phi tưởng Phi phi tưởng xứ (Thần thức ở nơi mà tri giác cực vi tế đến nỗi không thể nói có hay không)
Tự Do Ý ChíNghiệp như đã nói ở trên, không phải là số phận, không phải là một
định mệnh không thể thay đổi được. Nó cũng chẳng phải là buộc ta phải gặt hái tất cả những gì ta đã gieo cho cân xứng. Những hành động của Nghiệp không phải là
tuyệt đối không thay đổi được và chỉ có một số ít thôi.
Thí dụ, bắn một viên đạn qua nòng súng, ta không thể gọi viên đạn
quay về hay làm lệch
mục tiêu của nó. Nhưng thay vì viên đạn chì hay viên đạn thép bắn qua không khí mà là một quả bóng bằng ngà voi bắn vào một thảm xanh bằng phẳng ta có thể dùng cây gậy chơi bi da để
di chuyển quả bóng, và sau đó ta có thể chọc đàng sau nó, và với nhanh nhẹn và không chọc quá mạnh, ta có thể chạy vòng sang phía kia bàn bi da, chọc theo hướng ngược lại làm cho nó chạy thẳng đúng hướng và ngừng lại ở một chỗ. Với hành động sau bằng cái gậy bi da, ta thay đổi, hay trong
trường hợp thuận lợi, ta có thể
hoàn toàn làm mất
tác dụng hành
động trước đây. Cũng giống như vậy,
Nghiệp hành hoạt trong dòng suối
mênh mông của
đời người. Cũng vậy, một hành động của Nghiệp ở ngày hôm sau có thể thay đổi
hậu quả của nghiệp ở ngày hôm trước.
Nếu không vậy, làm sao một người có thể
thoát khỏi tất cả các Nghiệp?
Nghị lực tự nơi minh
tiếp tục sẽ
vĩnh viễn không bao giờ
chấm dứt.
Cho nên,
con người có
tự do ý chí, và có khả năng
uốn nắn đời sống mình hay thay đổi những hành động. Cả đến một người
tội lỗi nhất nhưng với
thiện chí và
cố gắng có thể
trở thành một người
đạo đức nhất. Ta có thể bất cứ lúc nào thay đổi thành
tốt hơn hay
xấu hơn. Mọi sự trên
thế giới kể cả chính
con người cũng
tùy thuộc vào
hoàn cảnh nếu không có
hoàn cảnh không có gì có thể phát sanh hay
tiến tới hiện hữu. Cho nên
con người có một số
tự do ý chí tuy không hẳn là
tuyệt đối tự do ý chí. Theo triết
lý Phật Giáo, mọi thứ,
tinh thần hay
vật chất, phát sanh theo
định luật và
hoàn cảnh.
Nếu không như vậy, sự
hỗn loạn và sự
ngẫu nhiên ngự trị.
Tuy nhiên việc như vậy không thể được, và
nếu không, tất cả những
định luật thiên nhiên mà khoa học
hiện đại khám phá ra đều bất lực.
Sự thật,
bản chất thực về hành động Nghiệp của
con người là
tinh thần. Khi một
tư tưởng hiện lên trong tâm của một
con người nhiều lần, có một khuynh hướng
nhất định trở lại tư tưởng đó.
Khi một hành động được
thực hiện nhiều lần, có khuynh hướng
nhất định tái diễn hành động ấy. Cho nên, mỗi hành động,
tinh thần hay
vật chất, có khuynh hướng luôn luôn nảy sanh giống như vậy, và
quay trở lại phát sanh. Nếu một người có
tư tưởng tốt, nói lời
lương hảo,
hành vi tốt,
hậu quả tác động đến người đó sẽ tăng khuynh hướng
lòng tốt nơi người đó, làm người đó
trở thành một người
tốt hơn. Nếu
trái lại, người đó có
hành vi xấu trong
tư tưởng,
lời nói hay hành động, người đó sẽ tự
củng cố khuynh hướng xấu, chính người đó đã tự mình làm mình trở nên người
xấu hơn. Đã
trở thành một người xấu, người ấy sẽ hướng về làm bạn với các người xấu trong tương lai, và phải chịu tất cả mọi loại
bất hạnh của
đời sống đối với hạng người như vậy.
Trái lại, phần chính của
đặc tính càng
tiếp tục lớn mạnh
tốt hơn, đương nhiên thu hút làm bạn vào nhóm người tốt,
vui hưởng lạc thú,
tiện nghi, không bị những chuyện bất ngờ, đôt ngột trong cuộc sống
con người bao hàm trong
xã hội.
Trong
trường hợp với người có
văn hóa, cả đến những
tội lỗi lớn cũng có thể được
giảm thiểu, trong khi với người không
văn hóa tội ít cũng phát sanh
hậu quả lớn đến múc tối đa tuy theo
hoàn cảnh thuận hay không
thuận lợi.
Những Bài Học Dạy Bởi Nghiệp
Càng hiểu nhiều về Nghiệp luật, ta càng thấy phải
cẩn thận như thế nào trong mọi hành động,
lời nói,
tư tưởng, và
trách nhiệm như thế nào đối với người
đồng chủng. Sống trong ánh sáng của
kiến thức này,
chúng ta học được một số bài học từ
học thuyết về Nghiệp.
1. Kiên NhẫnBiết Nghiệp luật giúp đỡ ta rất nhiều, nếu
chúng ta sống theo luật, không điều hại gì đến với
chúng ta nếu
chúng ta làm theo luật, phước lành đến với
chúng ta đúng lúc,
chúng ta học được bài học to lớn về
kiên nhẫn, không phải để bị kích động mà là cái không
kiên nhẫn ấy kìm hãm
tiến bộ. Trong khi
đau khổ,
chúng ta biết
chúng ta phải trả nợ,
chúng ta biết, nếu khôn ngoan
chúng ta không tạo thêm
đau khổ cho tương lai. Trong khi
hoan hỉ,
chúng ta cảm ơn những điều
thú vị, và
học hỏi, nếu
chúng ta khôn ngoan,
chúng ta càng
tốt hơn nữa.
Kiên nhẫn đem hòa bình,
thành công hạnh phúc và
yên ổn.
2. Tin TưởngLuật đúng, toàn hảo, thì một người
hiểu biết không thể bị khó chịu về luật ấy. Nếu
chúng ta khó chịu và không có
tin tưởng, nó
chứng tỏ rõ ràng chúng ta không nắm vững
sự thật của luật.
Chúng ta thực sự
an ổn dưới đôi cánh của luật, không có gì phải
sợ hãi trong tất cả
vũ trụ rộng lớn này ngoại trừ những
hành vi lầm lẫn của chính mình. Luật làm
con người đứng vững trên đôi chân và tăng lòng tự tin.
Tin tưởng tăng
sức mạnh, chứ không
nhận chìm hòa bình, và
hạnh phúc của
chúng ta, làm
chúng ta thoải mái,
can đảm dù đi đến đâu Luật cũng là người
bảo vệ chúng ta.
3. Tự TinVì
quá khứ làm
chúng ta thành ngày nay, cho nên bởi những gì
chúng ta làm bây giờ sẽ
quyết định tương lai. Hiểu được sự việc này,
vinh quang ở tương lai
vô tận, cho
chúng ta lòng tự tin, và không còn khuynh hướng kêu gọi sự giúp đỡ ở bên ngoài, mà
thực ra chẳng có sự giúp đỡ nào cả,
Đức Phật dạy: "Thanh tịnh hay không
thanh tịnh do nơi chúng ta, không ai có thể
thanh tịnh hóa người khác được"
4. Kiềm ChếĐương nhiên, nếu
chúng ta nhận thức được tội lổi sẽ
trở về làm
chúng ta đau khổ,
chúng ta phải
hết sức thận trọng về
việc làm, nói năng và
nghĩ ngợi, điều gì không tốt không
thanh tịnh và không đúng.
Kiến thức về Nghiệp sẽ giữ
chúng ta không làm điều
sai trái vì lợi ích cho người khác cũng như cho chính mình.
5. Sức MạnhCàng lấy
học thuyết về nghiệp làm một phần của
đời sống,
chúng ta càng có
sức mạnh, không những
chỉ đường tương lai, mà còn giúp đỡ người
đồng chủng hữu hiệu hơn.
Thực hành Nghiệp Lành, khi phát triển đầy đủ,
chúng ta có thể
vượt qua tội lỗi và
giới hạn, phá vỡ tất cả
gông cùm trói buộc không cho
chúng ta đạt
mục tiêu,
Niết Bàn.