NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
II. ĐỨC PHẬT VÀ GIÁO LÝ CỦA NGÀI
10. ĐƯỜNG ĐẾN HẠNH PHÚC TỐI THƯỢNG
- Tổng hợp từ nhiều tài liệu
Tất cả
mọi người đều muốn được
sung sướng. Tất cả
mọi người đi tìm
hạnh phúc.
Con người tìm
hạnh phúc hết thời đại này đến
thời đại khác nhưng chẳng bao giờ
tìm thấy trong đường lối đã được
tìm kiếm bằng cách
thích nghi những
điều kiện của
thế giới bên ngoài và không
lưu ý gì đến
thế giới bên trong của tâm.
Lịch sử thế giới chứng minh điều đó.
Cải cách xã hội, cải tổ kinh tế,
sửa đổi luật pháp, canh tân chính trị, tuy có ý tốtá và tính toán kỹ nhưng
chưa bao giờ mang được
hạnh phúc hoàn toàn và thực sự cho
con người. Tại sao?
Khi một mớ
hoàn cảnh bất
toại nguyện này được
loại bỏ, một bất
toại nguyện khác lại
xuất hiện, và khi bất
toại nguyện này được
loại bỏ thì một bất
toại nguyện khác lại
hiện ra. Cái
xuất hiện và tái
xuất hiện, cái phát sanh rồi lại tàn đi là
cốt lõi của tất cả sự vật và
hoàn cảnh thế gian. Không bao giờ có thể có được việc sản xuất hàng loạt
hạnh phúc thực sự. Đó là một điều gì riêng tư và
cá nhân. Điều đó đến từ bên trong chứ không phải bên ngoài. Điều đó cũng không phải là vì
thế giới bên ngoài mà ta đi
tìm kiếm hạnh phúc mà là
thế giới bên trong của tâm.
Khoa học
hiện đại tuyên bố không có gì trong
vũ trụ này tĩnh lặng. Mọi thứ đều
năng động, mọi thứ đều chuyển động. Không có gì đứng nguyên một chỗ.
Chúng ta hoặc tiến lên hoặc lùi xuống.
Chúng ta hoặc trở nên
tốt hơn,
hạnh phúc hơn hoặc tiến về hướng
tội lỗi và
tích lũy phiền não. Muốn được
hạnh phúc thì phải
vượt qua phiền não. Muốn thắng lướt
phiền não,
Đức Phật chỉ cho
nhân loại con đường dẫn đến
loại bỏ phiền não.
Con đường tới
hạnh phúc là Đường
Bát Chánh Đạo cao quý.
Con đường này dược ai đó đặt chân vào trước khi ta có thể gọi là
Con Đường Bát Chánh Đạo. Trong từ "Đạo" (Đường) vốn được nghĩ người nào đó đã giẫm bước vào trước đây.
Con Đường không thể
đột nhiên hiện hữu. Người nào đó phải
trước tiên cắt rừng, làm cho
quang đãng rồi mới bước đi được.
Tương tự như vậy,
Bát Chánh Đạo cao quý đã được đặt bước trước đó bởi nhiều
Đức Phật và các bậc
A La Hán.
Đức Phật đã
khám phá ra
con đường này nhưng không tạo ra nó, vì nó đã
hiện hữu từ
quá khứ xa xăm. Đương nhiên đó là một
con đường cổ
(Parana Magga).
Bát Chánh Đạo cao quý là
Con Đường phải bước vào. Đường này là một điều
thực tiễn thiết yếu. Muốn biết và
chứng nghiệm chân lý này, ta phải giẫm bước vào
con đường đó.
Con đường này chứa đựng một sự tập hợp
thận trọng và khôn ngoan tất cả những
điều kiện quan trọng tất yếu cho việc phát triển
tinh thần của
con người.
Bát Chánh Đạo được
phân chia thành ba nhóm: Giới (
Sila: hạnh kiểm,
đạo đức), Định (
Samadhi: kỷ luật
tinh thần), và Huệ (
Panna:
trí tuệ).
Con đường này
duy nhất với
Phật Giáo, và khác biệt hẳn với tất cả
tôn giáo và triết lý khác. Đó là
tiêu chuẩn về
tinh thần và hạnh kiểm dẫn đến
chấm dứt khổ đau,
phiền não, và
thất vọng để kiện toàn hòa bình,
Niết Bàn.
Tám
yếu tố của
Bát Chánh Đạo là:
HUỆ: 1. Chánh Kiến
2. Chánh Tư Duy
GIỚI: 3. Chánh Ngữ
4. Chánh Nghiệp
5. Chánh Mạng
ĐỊNH: 6. Chánh Tinh Tấn
7. Chánh Niệm
8. Chánh Định
Nhắc đến
con Đường này, trong bài
thuyết giảng đầu tiên,
Đức Phật gọi
con đường này là
Trung Đạo (Majjihima patipada), vì nó tránh hai
cực đoan. Quá say mê
lạc thú nhục
dục trần tục
thấp hèn dẫn đến
tai hại là một
cực đoan,
tự hành xác dưới
hình thức tu khổ hạnh làm cho
đau đớn,
thấp hèn dẫn đến
tai hại là một
cực đoan.
Ta phải nhớ rằng 'con đường' chỉ là cách
diễn đạt bóng bẩy. Theo
quy ước chúng ta nói về đi trên
con đường, trong
nghĩa ý nghĩa tột cùng, tám bước có nghĩa tám
yếu tố tinh thần. Chúng
phụ thuộc và
liên quan lẫn nhau và ở mức độ cao nhất, chúng hành hoạt
đồng thời, chúng không
hoạt động lần lượt theo số thứ tự. Ngay cả ở mức độ thấp, mỗi
yếu tố có đượm vẻ
chánh kiến ở một mức độ nào đó, vì đó là ý chủ đạo của
Phật Giáo.
Với
lời nói mạnh mẽ,
Đức Phật đã
cảnh cáo tín đồ không được chỉ chú ý vào sách vở như sau:
- Dù tụng nhiều kinh, mà không hành động phù hợp, con người vô ý này giống như người chăn bò đếm trâu bò không phải của mình (không có được sản phẩm về bò). Người đó không có phần thành quả của một người tĩnh lặng.
- Dù tụng kinh ít, nhưng hành động đúng theo giáo lý, bỏ tham, sân si, có chánh kiến, tâm người đó hoàn toàn giải thoát, không vương mắc điều gì ngay bây giờ và sau này, người đó có phần thành quả của người tĩnh lặng. (Kinh Pháp Cú)
Sự
đạt được mục tiêu cuối cùng của
Phật Giáo (
Niết Bàn) không đòi hỏi sự
tinh thông triết lý
sâu xa và
thâm thúy của
Phật Giáo. Điều đòi hỏi là sự phát triển không ngưng tâm ý qua quá trình
đạo đức và
thiền định. Đúc Phật
tuyên bố: "Giữ giới và
rèn luyện tâm ý, ta
chứng nghiệm kiến thức dẫn đến giải thoát".
Giới
Vậy thì, giới, căn cứ trên
tình thương yêu và
lòng từ bi,
gồm có ba
yếu tố của
Bát Chánh Đạo. Đó là
Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp vá
Chánh Mạng.
Đức Phật dẫn giải giáo lý của Ngài vì lợi ich cho
chúng sanh, vì
hạnh phúc cho
chúng sanh xuất phát từ
lòng từ bi cho
thế giới.
Giới, giai đoạn tiên khởi của
Bát Chánh Đạo,
căn cứ vào lòng từ ái này. Tại sao ta nên kìm hãm, không hãm hại và
cướp bóc người khác?
Phải chăng vì thương chính mình và người khác? Tại sao ta nên cứu trợ kẻ nghèo kẻ
thiếu thốn và những người trong nguy khốn?
Phải chăng vì
lòng từ bi với họ?
Tránh
tội lỗi và làm điều thiện là
chức năng của giới, chuẩn tắc hạnh kiểm
đạo đức dạy trong
Phật Giáo.
Chức năng này không bao giờ làm
mất giá trị lòng từ ái.
Giới bao gồm những đức tính của tâm như
thương yêu, nhũn nhặn,
khoan dung,
hiếu thảo,
nhân từ, và
vui vẻ với sự
thành công của người khác.
Theo
Phật Giáo một người
hoàn hảo phải phát triển hai đức tính bằng nhau: một mặt
từ bi và một mặt
trí tuệ. Nơi đây
từ bi tượng trưng bằng
tình thương yêu,
nhân từ, tử tế,
khoan dung, và những đức tính cao quý như vậy về mặt
cảm xúc hay những đức tính của con tim, trong khi
trí tuệ đứng về mặt
trí thức hay đức tính của tâm ý. Nếu một người chỉ phát triển mặt
cảm xúc và không
lưu ý đến phần
trí thức, có thể trở nên một người ngốc
tốt bụng; trong khi chỉ phát triển mặt
trí thức, không
lưu ý mặt
cảm xúc, có thể
trở thành một người
tri thức nhẫn tâm không có sự
thông cảm với người khác. Cho nên muốn
hoàn toàn, ta phải phát triển
đồng đều cả hai.
Chánh Ngữ có
nghĩa không:
- nói dối,
- nói xấu, vu khống và nói năng có thể mang sân hận, thù oán, chia rẽ và bất hòa giữa cá nhân hay nhóm người.
- nói lời cục cằn, thô lỗ, không lễ độ, hiểm độc và những lời sỉ nhục, và
- chuyện phiếm, chuyện bép xép vô ích và dại dột, ngồi lê dôi mách. Khi ta gìn giữ không nói những lời sai trái và có hại như vậy, đương nhiên ta nói điều chân thật, dùng những lời nói thân hữu và nhân đức, vui vẻ và lịch sự, có ý nghĩa và ích lợi. Ta không nên nói bừa bãi: lời nói phải đúng lúc và đúng chỗ. Nếu không nói được điều ích lợi, ta nên giữ im lặng cao thượng.
Chánh Nghiệp là
gìn giữ không:
- giết,
- trộm cắp, và
- tà dâm, nên trau dồi từ bi, chỉ lấy khi được cho, và sống thanh tịnh và trong sạch.
Chánh Mạng là bỏ
lối sống sai trái mang
tai hại và khổ đau cho người khác: Buôn lậu
- súng ống và vũ khí gây chết người,
- súc vật để giết thịt,
- người (tức mua bán nô lệ lan tràn trong thời Đức Phật)
- các thứ nước uống có chất say; và
- thuốc độc
và nên sống bằng nghề nghiệp không ai
chê trách, không làm hại mình, hại người.
Ta có thể nhìn thấy
rõ ràng nơi đây
Phật Giáo chống lại mạnh mẽ bất cứ hính thức chiến tranh nào, buôn bán súng ống và vũ khí giết người là một
tội lỗi và là
phương cách kiếm sống bất chính.
Nên hiểu rằng
đạo đức và hạnh kiểm
luân lý (Giới) của
Phật Giáo nhằm vào
vận động một đời sống
hạnh phúc và hài hòa cho
cá nhân và
xã hội. Giới được coi như nền tảng
cần thiết cho tất cả đạt
quả vị tinh thần cao hơn.
Tinh thần không thể phát triển được
nếu không có
luân lý căn bản ấy. Những nguyên tắc
luân lý này
mục đích làm
xã hội an ninh bằng cách
vận động đoàn kết,
hòa hợp, sự quan hệ
đứng đắn giữa người dân.
Trong
Phật Giáo,
đạo đức chưa phải là
mục đích. Nó chỉ là một
phương tiện để đi đến
mục đích. Hạnh kiểm toàn hảo tách ra khỏi
mục đích, không tiến về
mục đích mong muốn, có rất ít
ý nghĩa từ
quan điểm của người
Phật Tử. Không chỉ
tội lỗi mà điều thiện cũng phải được
siêu việt. Cả đến
giáo lý của Ngài phải
siêu việt.
Đức Phật so sánh giáo pháp của Ngài với một cái bè
sử dụng bởi
chúng ta Nissaranatthaya
tức chỉ với
mục đích vượt qua sông, và Nagahanatthaya - tức không phải giữ bè lại. Khi
chúng ta sang được
bờ bên kia,
chúng ta không
cần phải mang theo cái bè ấy nữa. Bè đó phải được bỏ lại.
Kỷ Luật
Tinh ThầnTiếp theo là kỷ luật
tinh thần gồm có ba
yếu tố trong
Bát Chánh Đạo là
Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm và
Chánh Định.
Chánh Tinh Tấn là sự
nỗ lực kiên trì:
- để ngăn chặn các tư tưởng tội lỗi và bất thiện chưa phát sanh,
- loại bỏ những tư tưởng tội lỗi đã phát sanh,
- làm cho phát sanh và phát triển tư tưởng thiện chưa phát sanh, và
- đẩy mạnh, củng cố tư tưởng thiện đã phát sanh.
Cho nên
chức năng của
Chánh Tinh Tấn là
thận trọng,
kiểm soát tất cả những
tư tưởng không
lành mạnh, trau dồi,
thúc đẩy và
duy trì tư tưởng thiện và
trong sạch phát sanh trong tâm
con người.
Người khôn ngoan làm chủ
lời nói và hành động nhờ Giới (sila)
gắng sức nghiên cứu kỹ lưỡng
tư tưởng và các
yếu tố tinh thần của mình, và tránh làm rối
tư tưởng.
Chánh Niệm là luôn
tỉnh thức, chú ý và
lưu tâm đến:
- những hoạt động của thân (kaya),
- cảm giác hay cảm nghĩ (vedana),
- những hoạt động của tâm (citta), và
- ý kiến, tư tưởng, quan niệm và pháp (dhamma)
Tu tập về tập trung
hơi thở (
anapanasati) là một trong những
phương pháp rèn luyện có quan hệ với thân để phát triển
tinh thần. Có một vài
phương cách khác để phát triển sự chú ý
liên quan đến thân - những
phương pháp về thiền.
Về
cảm giác và cảm nghĩ, ta nên
tỉnh thức với tất cả các dạng
cảm giác và cảm nghĩ,
hài lòng, không
hài lòng và
cảm giác không rõ rệt, chúng phát sinh và biến đi trong ta như thế nào.
Về
hoạt động của tâm, ta nên
tỉnh thức xem có phải tâm ta có đầy
dục vọng hay không, có
sân hận hay không, có lừa dối hay không, có
xao lãng hay tập trung
vân vân.. Theo cách đó,
chúng ta nên
giác tỉnh xem tất cả những
hoạt động của tâm
xuất hiện và biến đi như thế nào.
Về
ý kiến,
tư tưởng,
quan niệm và pháp, ta nên biết
bản chất của chúng, chúng
xuất hiện và biến đi ra sao, phát triển ra sao, bị đè nén và
tiêu diệt ra sao
vân vân.
Điều thứ ba và là
yếu tố cuối cùng của Kỷ Luật
tinh thần là
Chánh Định dẫn đến bốn giai đoạn của Thiền, thường được gọi là
nhập định. Ở tầng thứ nhất, những
ham muốn say mê, và một số
tư tưởng bất thiện như
dâm dục,
ác ý, bạc nhược,
lo lắng, bồn chồn, và
nghi ngờ bị loại bỏ, và cảm nghĩ vui và
hạnh phúc được
duy trì với một số
hoạt động tinh thần. Ở tầng thứ hai, tất cả những
hoạt động tinh thần bị loại bỏ, tĩnh lặng và
nhất điểm tâm phát triển, và cảm nghĩ hỉ lạc,
hạnh phúc vẫn còn. Ở tầng thứ ba, cảm nghĩ
hỷ lạc, là một
cảm giác tích cực, cũng biến đi, trong khi khuynh hướng
hỷ lạc vẫn còn thêm vào sự
thanh thản trong tâm. Ở tầng thứ tư, tất cả những
cảm giác, cả dến
hạnh phúc hay
không hạnh phúc, vui và
phiền não, biến đi, và chỉ còn lại sự tĩnh lặng
thanh tịnh và
tỉnh thức còn lại.
Cho nên tâm được huấn luyện,
rèn luyện và phát triển nhờ
Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm và
Chánh Định.
Huệ
Hai
yếu tố còn lại là
Chánh Kiến và
Chánh Tư Duy thuộc về Huệ.
Chánh Tư Duy gồm
tư tưởng bao hàm các
ý nghĩ về
từ bỏ trần tục,
thiện chí,
từ bi hay không làm hại. Những
tư tưởng này phải được trau dồi và
mở rộng tới tất cả các
chúng sanh không
phân biệt giống nòi, đẳng cấp
xã hội, bè này phái kia. Vì chúng
bao gồm tất cả những điều
cần thiết nên không có
giới hạn. Những
tư tưởng cao quý như vậy không thể có được nơi một người
vị kỷ, chỉ
biết mình.
Một người có thể là
thông minh,
uyên bác, và
học rộng, nhưng thiếu
tư tưởng chính đáng,
theo như giáo lý của
Đức Phật, người đó là người ngốc nghếch (
bala) không phải là một người
hiểu biết chính đáng và
tuệ giác. Nếu nhìn sự vật với
nhận thức vô cảm,
chúng ta sẽ hiểu rằng
ham muốn vị kỷ,
sân hận và bạo lực không thể đi đôi với
Trí Huệ thực sự.
Chánh Kiến và Huệ (
Trí Huệ) bao giờ cũng
thấm nhuần với
tư tưởng chính đáng, không bao giờ làm mất chúng.
Chánh Kiến là
hiểu biết sự vật chúng đúng là như thế,
Tứ Diệu Đế giải thích sự vật chúng đúng như thế nào. Cho nên
Chánh Kiến chủ yếu là
hiểu rõ Tứ Diệu Đế. Sự
hiểu biết này là
trí tuệ cao cả nhất nhìn thấy
Sự Thật Tối hậu.
Theo
Phật Giáo có hai loại
hiểu biết: Cái mà ta thường gọi
hiểu biết là
kiến thức về một
sự tích lũy của
trí nhớ, một sự tóm thâu
trí thức của một
vấn đề theo một số
dữ kiện. Điều này gọi là 'cái-biết-phù-hợp'. Nó không sâu lắm.
Hiểu biết thật
sâu xa gọi là 'thâm nhập' (
pativedha), nhìn sự vật theo đúng
bản chất, không phải tên và nhãn hiệu. Sự
thâm nhập này chỉ có thể có được khi nào tâm đã
gột rửa được hết những
bất tịnh và đã
hoàn toàn phát triển qua
thiền định.
Chánh Kiến hay
thâm nhập Trí huệ là kết quả của sự
tu tập thiền định không ngưng,
kiên trì hay sự trau dồi
cẩn thận về tâm. Một người có
Chánh Kiến không thể có một
quan điểm mờ mịt về
hiện tượng, với người đó không thể còn nhiễm những
bất tịnh vì đã
đạt được sự giải thoát không lay chuyển về tâm.
Đi Theo Đường Đạo
Những lời dạy của
Đức Phật giải thích chức năng,
mục đích cua việc trau dồi
đức hạnh, kỷ luật
tinh thần, và
trí tuệ.
Giải thoát có nghĩa là
kinh nghiệm sống về sự
chấm dứt được ba
nguyên nhân gốc rễ
tội lỗi,
Tham Sân Si và
vô minh tấn công vào tâm
con người. Những
nguyên nhân gốc rễ ấy phải được
loại bỏ bằng
giới hạnh, kỷ luật
tinh thần và
trí tuệ.
Cho nên
rõ ràng giáo lý của
Đức Phật nhằm vào sự
thanh tịnh hóa cao nhất,
tinh thần lành mạnh toàn hảo,
thoát khỏi tất cả những
thôi thúc ô uế.
Vậy thì sự giải thoát này khỏi
ô nhiễm tinh thần, khỏi
ác ý,
hoàn toàn và
tuyệt đối nằm trong tay của chính mình chứ không phải người nào khác hay
thần thánh. Ngay cả đến
Đức Phật tối thượng cũng không chuộc
con người khỏi các
gông cùm của cuộc sống ngoại trừ chỉ cho người ấy biết
con đường.
Con đường Giới, Định, Huệ đôi khi được
tham chiếu như Tam (
vô lậu) học (
tividhasikkha), một trong ba cũng không phải là
mục đích, mỗi một chỉ là
phương tiện để đi đến
mục đích. Một không thể
hoạt động độc lập riêng rẽ mà không
tùy thuộc những cái kia. Giống như
trường hợp một kiềng ba chân sẽ ngã khi một chân bị
lấy đi, nơi đây cũng vậy, môt không thể
hoạt động được
nếu không có sự hỗ trợ của những chân kia. Ba cái cùng nhau hành hoạt, cái này hỗ trợ cái kia. Giới hay
đạo đức củng cố Kỷ luật
tinh thần, và Kỷ Luật
tinh thần (Định) đến lượt đẩy mạnh Huệ (Trí Huê).
Trí huệ giúp ta nhìn rõ sự vật - nhìn đời đúng như nó là thế - phải nhìn
đời sống và tất cả sự vật thuộc
đời sống phát sanh và mất đi ra sao.
Mặc dù
kiến thức khoa học lớn mạnh
vững vàng,
con người trên
thế giới vẫn bồn chồn và nhức nhối với
sợ hãi và
bất mãn. Họ vẫn say sưa với
lòng ham muốn thích được
nổi tiếng, có
của cải, quyền hành, và làm
vừa lòng giác quan.
Thế giới hỗn loạn này vẫn sôi động với
hận thù,
ngờ vực,
ham muốn vị kỷ, và bạo lực, lúc này
cần thiết hơn bao giờ hết
thông điệp tình thương và
hiểu biết của
Đức Phật,
Bát Chánh Đạo, dẫn đến việc
chứng nghiệm Niết Bàn. Chỉ có
kiến thức về
con Đường không thôi, tuy đầy đủ, sẽ không kết quả. Trong
trường hợp này, bổn phận của
chúng ta là phải theo
con đường và giữ lấy nó.
Đuơng nhiên
con đường này là khó khăn nhưng
chúng ta luôn luôn chú ý và
giác tỉnh hoàn toàn, bước vào từng
bước một, một ngày nào đó
chúng ta sẽ tới đích. Đứa trẻ học đứng học đi cũng gặp khó khăn. Cũng vậy, có những vĩ nhân
trải qua giai đoạn này đến giai đoạn khác tuy
chồng chất nhiều thất bại nhưng
cuối cùng vẫn đi đến
thành công. Đó là
con Đường dẫn đến sự
chứng nghiệm Sự Thật Tối Hậu,
tự do hoàn toàn,
hạnh phúc, hòa bình nhờ sự toàn hảo về
luân lý,
tinh thần.
Từ bản tường trình
tóm tắt này, ta có thể nhìn thấy đó là
cách sống phải theo,
tu tập và phát triển bởi mỗi
cá nhân. Đó là sự tự kỷ luật về thân, khẩu và tâm ý, sự tự phát triển và sự tự
thanh tịnh hóa. Con đuờng này không có
liên quan gì đến
niềm tin,
cầu nguyện,
sùng bái, hay
lễ nghi.