KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XXV
PHÁP HỘI
PHÁT THẮNG CHÍ NGUYỆN
THỨ HAI MƯƠI LĂM
Hán dịch: Nhà Đưòng, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy tôi nghe một lúc
đức Phật ở thành
Ba La Nại chỗ tiên nhơn ở trong vườn Thí Lộc cùng chúng
đại Tỳ Kheo ngàn người và năm trăm
Bồ Tát.
Lúc ấy trong chúng, có nhiều
Bồ Tát nghiệp chướng sâu nặng, các căn
ám độn,
thiện pháp kém ít, ưa
ồn ào luận nói
việc đời, thích ngủ nghỉ, nhiều
hí luận, rộng lo nhiều việc,
tham trước các thứ, làm những sự chẳng nên làm, quên mất
chánh niệm tu tập tà huệ siêng nơi việc
hạ liệt, làm sự
mê hoặc.
Di Lặc Bồ Tát ở trong
pháp hội thấy chư
Bồ Tát ấy, Ngài nghĩ rằng chư
Bồ Tát ấy đều đã
thối chuyển nơi đạo phần
viên mãn Vô thượng Bồ đề. Nay tôi nên làm cho họ
giác ngộ mở tỏ sanh lòng
vui mừng.
Suy nghĩ như vậy xong, lúc sáng sớm từ
thiền định dậy,
Di Lặc Bồ Tát đến chỗ chư
Bồ Tát ấy
thăm hỏi rồi dùng
lời dịu dàng mà nói
pháp yếu cho họ
vui mừng. Nhơn đó
Di Lặc Bồ Tát bảo họ rằng : “Các ôngở nơi đạo phần
viên mãn Vô thượng Bồ đề được
tăng trưởng mà chẳng
thối chuyển chăng?”
Chư
Bồ Tát ấy đồng bạch rằng : “Bạch
Tôn Giả ! Nơi đạo phần
viên mãn Vô thượng Bồ đề chúng tôi chẳng
tăng trưởng chỉ có
thối chuyển. Tại sao, vì tâm
chúng tôi thường bị
nghi hoặc che ngăn nên nơi
Vô thượng Bồ đề chẳng
hiểu biết được. Thế nào là
chúng tôi sẽ
làm Phật hay chẳng
làm Phật ư ? Nơi pháp
đọa lạc chúng tôi cũng chẳng rõ được. Thế nào là
chúng tôi sẽ
đọa lạc hay chẳng
đọa lạc ư ? Vì những lẽ ấy nên
thiện pháp muốn sanh thường bị
nghi hoặc làm rối mờ”.
Di Lặc Bồ Tát bảo rằng : “Các ông nên cùng tôi đến trước
đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri.
Đức Như Lai ấy là đấng biết tất cả thấy tất cả,
thành tựu đầy đủ trí
vô ngại tri kiến giải thoát.
Đức Phật dùng sức phương tiện biết rõ sở hành của tất cả
chúng sanh, sẽ vì các ông theo
căn tánh mỗi người mà nói pháp cho”.
Trong chúng năm trăm người có sáu mươi
Bồ Tát cùng
Di Lặc Bồ Tát đến chỗ Phật đồng lậy chưn Phật buồn cảm
rơi lệ chẳng dậy được.
Di Lặc Bồ Tát kính lễ Phật xong lui qua một bên.
Đức Phật phán : “Các
thiện nam tử nên dậy chớ có buồn khóc sanh
nhiệt não nhiều. Thuở xưa các ông gây tạo
nghiệp ác, đối với các
chúng sanh các ông
ưa thích giận mắng hủy nhục chướng não
tổn hại,
tùy ý mình mà
phân biệt, chẳng biết được
nghiệp báo sai khác, thế nên nay các ông bị
nghiệp chướng ràng buộc ngăn che mà ở nơi
thiện pháp chẳng
tu hành được”.
Nghe lời đức Phật dạy, chư
Bồ Tát ấy
đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất
chắp tay cung kính mà bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Xin
đức Như Lai vì
chúng tôi mà nói
nghiệp chướng ấy.
Chúng tôi biết tội sẽ tự
điều phục. Từ nay
chúng tôi chẳng dám tái phạm”.
Đức Phật phán : “Nầy các
thiện nam tử ! Thuở xưa trong pháp của đức
Câu Lưu Tôn Như Lai các ông từng
xuất gia tu hành, các ông
tự thị đa văn tu trì tịnh giới thường có lòng
kiêu mạn phóng dật. Các ông lại hành
đầu đà thiểu dục tri túc, ở nơi
công đức nầy lại sanh
chấp trước. Bấy giờ có hai
Tỳ Kheo thuyết pháp có nhiều
thân hữu danh tiếng lợi dưỡng. Với hai
pháp sư ấy, vì lòng tham ganh mà các ông
vọng ngôn dèm chê là hành
dâm dục sự. Các
thân hữu của hai
Pháp Sư ấy bị các ngươi
ly gián nói
phạm trọng tội nên đều
nghi hoặc chẳng còn lòng
tín thọ. Các người ấy đối với hai
pháp sư không lòng
tùy thuận dứt mất
thiện căn. Do
ác nghiệp ấy, các ông phải đọa
A Tỳ địa ngục trong sáu mươi trăm ngàn năm,
ác nghiệp chưa hết lại đã đọa
đẳng hoạt địa ngục bốn mươi trăm ngàn năm, kế đọa thiêu nhiệt
địa ngục sáu mươi trăm ngàn năm, rời khỏi
địa ngục được thân người trong năm trăm đời
sanh manh đui mù, vì nghiệp tàn dư nên
đời đời nhiều
ngu độn quên mất
chánh niệm che chướng
thiện căn phước đức kém ít,
hình dung thô xấu thiếu khuyết chẳng ai ưa nhìn, thường bị chê bai khinh tiện cợt đùa khi ghét, luôn luôn sanh tại
biên địa bần cùng hạ tiện, tài vật hao mất sanh sống
gian nan. Từ thân hiện nay chết,
thời kỳ pháp sắp diệt đời
mạt thế năm trăm năm sau lại sanh làm người tại
biên địa hạ liệt thiếu thốn lạnh đói bị người khinh chê quên mất
chánh niệm chẳng
tu pháp lành, dù có
tu hành bị nhiều lưu nạn, dầu tạm thời
phát khởi ánh
sáng trí huệ nhưng vì
nghiệp chướng nên liền ẩn mất. Sau năm trăm năm
mạt thế ấy các
nghiệp chướng mới
tiêu diệt, sau đó các ông sẽ sanh được
thế giới Cực Lạc, đức
A Di Đà Phật sẽ vì các ông mà
thọ ký Vô thượng Bồ đề”.
Nghe lời đức Phật dạy, chư
Bồ Tát ấy cả mình lông dựng lên rất
hối hận, bèn tự gạt lệ bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Nay tôi
phát lộ sám hối tội lỗi.
Chúng tôi thường đối với người
Bồ Tát thừa khinh mạn ghét ganh và các
nghiệp chướng khác, nay đối trước
đức Phật sám hối tội lỗi.
Chúng tôi ở trước
đức Thế Tôn phát
hoằng thệ nguyện :
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế, nếu
chúng tôi ở nơi người
Bồ Tát thừa thấy có trái phạm mà cử bầy lỗi người, là khi dối
đức Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế, nếu
chúng tôi đối với người
Bồ Tát thừa mà cợt đùa chê ghét
khủng bố khinh tiện, là khi dối
đức Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế, nếu
chúng tôi thấy
Bồ Tát tại gia Bồ Tát xuất gia dùng
ngũ dục lạc
vui hưởng,
chúng tôi trọn chẳng rình tìm lỗi họ mà thường kính
tin tưởng là giáo sư, nếu chẳng như vậy là khi dối
Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế, đối với người
Bồ Tát thừa nếu
chúng tôi bỏn xẻn nhà
thân hữu và các
lợi dưỡng cùng não nhiễu
thân tâm cho họ khổ sở là khi dối
Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế, với người
Bồ Tát thừa nếu
chúng tôi dùng một lời thô làm cho họ chẳng vui là khi dối
Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế, vì
bảo hộ những
hoằng thệ này nên
chúng tôi chẳng tiếc
thân mạng, nếu chẳng như vậy là khi dối
đức Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế, với hàng
Thanh Văn và
Bích Chi Phật nếu
chúng tôi dùng lòng khinh mạn bảo họ chẳng hơn tôi là khi dối
Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế, nếu
chúng tôi chẳng khéo xô phục thân mình tưởng là
hạ liệt như hạng
Chiên Đà La và như loài chó là khi dối
Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế, nếu
chúng tôi tự khen và chê người là khi dối
Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế, nếu
chúng tôi chẳng
ghê sợ chỗ đấu tranh mà đi tránh xa trăm
do tuần mau như gió thổi mạnh là khi dối
Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế, ở nơi những
công đức trì giới
đa văn đầu đà thiểu dục tri túc nếu
chúng tôi tự khoe khoang là khi dối
Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến
vị lai tế,
tu pháp lành
chúng tôi chẳng tự
kiêu căng,
phạm tội nghiệp
chúng tôi hổ thẹn phát lộ, nếu chẳng như vậy là khi dối Như Lai”.
Đức Phật khen : “Lành thay,
lành thay ! Các
thiện nam tử khéo nói pháp
giác ngộ như vậy, khéo phát
thệ nguyện rộng lớn như vậy. Hay dùng tâm
quyết định như vậy để an trụ trong ấy thì tất cả
nghiệp chướng đều
tiêu diệt,
vô lượng thiện căn cũng sẽ tăng trưởng”.
Đức Phật lại bảo
Di Lặc Bồ Tát : “Nầy
Di Lặc ! Nếu có
Bồ Tát muốn tịnh trừ các
nghiệp chướng nên phát
thệ nguyện rộng lớn như vậy”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Có
thiện nam tử thiện nữ nhơn
hộ trì thệ nguyện ấy sẽ được
viên mãn bất thối chuyển chăng ?”
Đức Phật phán : “Nầy
Di Lặc ! Nếu có
thiện nam tử thiện nữ nhơn
hành đạo Bồ Tát hộ trì thệ nguyện ấy thì họ thà bỏ
thân mạng chớ trọn không để kém khuyết cho thối chuyển”.
Di Lặc Bồ Tát lại bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Đời
mạt thế, năm trăm năm sau lúc pháp sắp diệt,
Bồ Tát hành bao nhiêu pháp để
an ổn không não nhiễu mà
được giải thoát ?”
Đức Phật phán : “Nầy
Di Lặc ! Đời
mạt thế, năm trăm năm sau lúc pháp sắp diệt,
Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì
an ổn không nhiễu não mà
được giải thoát : một là nơi
chúng sanh chẳng tìm lỗi họ, hai là thấy chư
Bồ Tát có chỗ trái phạm trọn chẳng cử lộ, ba là nơi nhà
thân hữu và
thí chủ chẳng
chấp trước, bốn là dứt hẳn lời thô cộc”.
Muốn tuyên lại nghĩa ấy,
đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Chẳng tìm
lỗi lầm người
Cũng chẳng cử tội người
Rời thô cộc
bỏn xẻnNgười nầy
được giải thoát.
Nầy
Di Lặc ! Lúc pháp sắp diệt
Bồ Tát nên
thành tựu bốn pháp thì
an ổn không não nhiễu mà
được giải thoát : một là chẳng nên thân cận người
giải đãi, hai là bỏ rời tất cả chúng ồn náo ở riêng rảnh vắng, ba là thường tu
tinh tiến, bốn là dùng thiện
phương tiện điều phục thân mình”.
Muốn tuyên lại nghĩa ấy
đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Nên rời bỏ
giải đãiXa lìa những ồn náo
Tịch tĩnh thường
tri túcNgười nầy sẽ giải thoát”.
Nói kệ xong
đức Thế Tôn bảo
Di Lặc Bồ Tát : “Nầy
Di Lặc !
Vì thế nên thuở
mạt thế năm trăm năm sau,
Bồ Tát muốn tự không nhiễu não
được giải thoát, người muốn
trừ diệt tất cả các
nghiệp chướng phải nên rời bỏ chỗ ồn náo ở trong rừng
tịch tĩnh a lan nhã,
các loại người chẳng nên làm mà làm cùng lười nhác biếng trễ đều phải
xa lìa, chỉ tự
xét mình chẳng
tìm lỗi người, thích
điềm tĩnh nín lặng, siêng tu
công hạnh tương ưng với
Bát Nhã Ba la mật, nếu muốn ở nơi các
chúng sanh mà
thương xót làm
lợi ích nhiều cho họ thì phải dùng
tâm không hy vọng thuyết pháp thanh tịnh.
Lại nầy
Di Lặc ! Nếu lúc
Bồ Tát dùng
tâm không hy vọng mà
hành pháp thí, chẳng trước
danh văn lợi dưỡng quả báo, lấy sự
lợi ích người làm trên hết, thường vì
chúng sanh mà rộng tuyên
chánh pháp thì sẽ được
thành tựu hai mươi thứ
lợi ích, đó là
chánh niệm thành tựu,
trí huệ đầy đủ, có sức
kiên trì, tu hạnh
thanh tịnh, sanh
tâm giác ngộ, được trí
xuất thế, chẳng bị các ma được dịp tiện, ít
tham dục, không có
sân hận, cũng chẳng
ngu si, được chư Phật ghi nhớ,
Phi nhơn thủ hộ,
vô lượng chư Thiên giúp thêm
oai đức,
quyến thuộc thân hữu không ai ngăn phá được,
lời nói ra người đều
tín thọ, chẳng
bị oan gia rình
tìm dịp tiện, được
vô sở úy, nhiều sự khoái lạc, được các người trí khen ngợi, giỏi
thuyết pháp mọi người kính ngưỡng.
Bồ Tát như vậy lại được
thành tựu hai mươi thứ
lợi ích, đó là
biện tài chưa sanh mà được sanh,
biện tài đã sanh trọn không quên mất, thường siêng
tu tập, được
đà la ni, dùng ít
công dụng khéo hay
lợi ích vô lượng chúng sanh, dùng ít
công dụng khiến các
chúng sanh khởi tâm tăng thượng cung kính tôn trọng, được
thân khẩu ý thanh tịnh luật nghi,
siêu quá tất cả
ác đạo bố úy, lúc
mạng chung tâm được
hoan hỉ,
hiển dương chánh pháp, xô dẹp dị luận, tất cả hào khí
oai đức tôn nghiêm còn chẳng thể rình trông được huống là các
chúng sanh ít phước
hạ liệt, các căn
thành tựu không ai chói che được, đầy đủ
nhiếp thọ ý lạc thù thắng, được
xa ma tha tỳ bát xá na, các
hạnh khó làm đều được
viên mãn,
phát khởi tinh tấn, khắp
hộ trì chánh pháp, mau được lên bậc
bất thối chuyển, trong tất cả
công hạnh tuỳ thuận an trụ.
Lại nầy
Di Lặc ! Ông
quan sát đời
mạt thế năm trăm năm sau có chư
Bồ Tát rất là
vô trí, lúc họ
hành pháp thí nếu được
lợi dưỡng thì sanh lòng
vui mừng, lúc chẳng được lợi duỡng thì chẳng vui. Lúc họ vì người
thuyết pháp, họ nghĩ rằng làm sao khiến các
thân hữu đàn việt quy thuộc nơi tôi. Họ lại nghĩ làm sao khiến các
Bồ Tát tại gia xuất gia đối với tôi họ sanh lòng
tịnh tín cung kính cúng dường y phục ẩm thực ngọa cụ thuốc thang. Chư
Bồ Tát nầy vì
tài lợi mà vì người
thuyết pháp,
nếu không được
lợi dưỡng thì họ chán mỏi.
Nầy
Di Lặc !
Ví như có người tâm thích sạch sẽ, hoặc bị đem thây rắn chết chó chết người chết sình thúi mủ máu đeo vào cổ, người này
khổ não rất gớm nhàm
mê muội chẳng an. Cũng vậy người
thuyết pháp đời
mạt thế năm trăm năm sau nơi chỗ không
lợi dưỡng không
thuận lòng họ không có
thú vị, họ sanh lòng chán mỏi bỏ đi mà nghĩ rằng ở nơi đây ta
thuyết pháp vô ích, tại sao, vì các người nơi đây đối với
tứ sự cần dùng của tôi họ chẳng lo đến, ở đây nói pháp làm gì cho nhọc mệt
uổng công. Các
Pháp sư nầy tự cầu
cúng dường cung cấp tôn trọng mà
nhiếp thọ chúng xuất gia và
tại gia chớ chẳng vì pháp và sự
lợi ích người mà
nhiếp thọ. Các
Pháp sư nầy tự cầu
tứ sự lợi dưỡng mà dối hiện
dị tướng vào vương thành quốc ấp
tụ lạc chớ chẳng
vì lợi ích thành thục chúng sanh mà làm
pháp thí.
Nầy
Di Lặc !
Đức Phật chẳng nói người có mong cầu là làm
pháp thí thanh tịnh. Tại sao, vì lòng có mong cầu thì
pháp không bình đẳng.
Đức Phật chẳng nói người tâm tham ô mà hay
thành thục được
chúng sanh. Tại sao, vì tự mình chưa
thành thục mà hay
thành thục người không bao giờ có.
Đức Phật chẳng nói người
tôn trọng cúng dường an lạc tự thân tham nhiếp vật
bất tịnh mà làm sự
lợi ích. Tại sao, vì người
cầu tự thân
an ổn đầy đủ
vui sướng nhiếp thọ chúng tôi thì chẳng thể khiến người an trụ
chánh tín.
Đức Phật chẳng nói người
dối trá là ở
a lan nhã tịch tĩnh, người
phước đức mỏng ít là
thiểu dục, người tham vị ngon là
tri túc, cầu nhiều
thức ăn ngon là
khất thực.
Đức Phật chẳng nói người khất cầu các thứ
y phục đẹp là trì
phấn tảo y.
Đức Phật chẳng nói người mà hàng
tại gia xuất gia không ai
quen biết là người lìa ồn náo.
Đức Phật chẳng nói người
siểm khúc gặp Phật ra đời mà tìm lỗi dở của người là
tu hành đúng lý, người làm nhiều sự
tổn hại là giới tụ
thanh tịnh, người
tăng thượng mạn là
đa văn đệ nhứt.
Đức Phật chẳng nói người ưa bè đảng là trụ
luật nghi, người tâm
cống cao là
tôn kính Pháp sư, người
ỷ ngữ khinh đùa là
thuyết pháp giỏi, người cùng
thế tục giao tạp là có thể ở trong
Tăng chúng mà rời lìa các
lỗi lầm.
Đức Phật chẳng nói bỏ bớt thắng
phước điền là
bố thí chẳng mong báo, người cầu
báo ơn là nhiếp các sự việc tốt, người cầu
cung kính lợi dưỡng là chí thích
thanh tịnh, người nhiều
vọng chấp là
xuất gia.
Đức Phật chẳng nói người
phân biệt bỉ ngã là ưa
trì giới, người chẳng
tôn kính là
nghe pháp, người
ưa thích sách
thế tục chú ếm
ngôn luận là yêu
chánh pháp.
Đức Phật chẳng nói người ở nơi
tánh không chẳng có
thắng giải là có thể
xuất ly sanh tử, người nhiều
chấp trước là rời lìa các hành.
Đức Phật chẳng nói người ở nơi
Bồ đề phần an trụ
hữu sở đắc là
chứng trí.
Đức Phật chẳng nói người không
thế lực là
thành tựu nhẫn nhục, người ít
phiền não là
luật nghi thanh tịnh, người hành
phương tiện là
tu hành đúng pháp.
Đức Phật chẳng nói người ưa nói chuyện là an trụ
nhứt tâm, người ưa kinh doanh sự đời là chẳng tổn
chánh pháp, người
chí nguyện thanh tịnh là đọa các đạo, người
tu tập trí huệ là làm hành ồn náo.
Đức Phật chẳng nói
phương tiện tương ưng là
siểm khúc, chẳng
cầu lợi dưỡng là
vọng ngữ,
không chấp trước là hủy báng
chánh pháp, người hộ
chánh pháp mà tiếc
thân mạng,
việc làm hạ liệt là không thắng mạn.
Nầy
Di Lặc ! Đời
mạt thế sau sẽ có
Bồ Tát độn căn thiểu trí
siểm khúc hư cuống an trụ nơi tặc hạnh, ông phải
thủ hộ họ”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Đời
mạt thế trong năm trăm năm sau, chỉ có sáu mươi
Bồ Tát nầy bị
nghiệp chướng trói buộc, hay là còn chư
Bồ Tát khác”.
Đức Phật phán : “Nầy
Di Lặc ! Đời
mạt thế, năm trăm năm sau có chư
Bồ Tát phần nhiều bị
nghiệp chướng trói buộc. Các
nghiệp chướng ấy hoặc có
tiêu diệt hoặc lại
tăng trưởng.
Nầy
Di Lặc ! Trong hàng năm trăm
Bồ Tát đây có hai mươi
Bồ Tát nghiệp chướng kém ít, năm trăm năm sau sẽ sanh lại nơi thành ấp
tụ lạc chợ phố núi đồng nầy, dòng giống hào tôn có
oai đức lớn,
thông minh trí huệ phương tiện khéo hay, tâm ý điều nhu
thường có lòng từ mẫn làm nhiều
lợi ích,
dung mạo đoan nghiêm,
biện tài thanh diệu, số thuật công xảo đều giỏi, tự ẩn dấu
tài đức mình mà an trụ
hạnh đầu đà công đức, sanh chỗ nào đều
bỏ nhà vì đạo, đã ở trong
vô lượng a tăng kỳ câu chi kiếp chứa họp
Vô thượng Bồ đề hộ trì chánh pháp chẳng tiếc
thân mạng, ở
a lan nhã trong rừng vắng rảnh, thường siêng tu
tinh tấn chẳng
cầu lợi dưỡng, khéo nhập vào
tâm hành của tất cả
chúng sanh,
chú thuật ngôn luận đều biết rõ cả, nơi các
nghĩa lý nghe ít hiểu nhiều,
biện tài trí huệ đều đầy đủ. Ở nơi pháp nầy chư
Bồ Tát ấy siêng năng
tu tập được
đà la ni vô ngại biện tại, ở trong hàng
tứ chúng tuyên nói
chánh pháp, do sức
oai đức gia bị của Phật nên ở nơi Pháp của Phật nói
mười hai bộ kinh đều được
thông thạo biện tài tự tại. Hai mươi
Bồ Tát tài giỏi ấy ở nơi
Hòa Thượng A Xà Lê được nghe
vô lượng trăm ngàn
khế kinh đều có thể
thọ trì, sẽ nói thế nầy :
Pháp môn nầy của tôi là tôi đích thân nghe thọ với
Hòa Thượng A Xà Lê ấy không có
nghi hoặc.
Nầy
Di Lặc ! Vào
thời kỳ ấy có hàng
Bồ Tát tại gia Bồ Tát xuất gia vì không có
trí huệ thiện xảo phương tiện nên đối với pháp được nói bởi
Bồ Tát thọ trì chánh pháp nầy, họ
chê cười khinh hủy
phỉ báng rằng :
Pháp như vậy là do các người dùng lời khôn khéo
tùy ý chế tạo ra thiệt chẳng phải của
Như Lai tuyên nói,
chúng tôi ở nơi pháp ấy chẳng thể tin ưa
phát tâm hi hữu. Do đây nên có
vô lượng chúng sanh đối với các
Pháp sư nầy đều sanh lòng
phỉ báng bỏ đi mà bảo nhau rằng : Chư
Tỳ Kheo ấy không có
quỷ phạm nhiều
tà thuyết, chẳng
y cứ khế kinh, chẳng
y cứ giới luật, như tuồng ca hát xướng kỹ,
mọi người chớ nên tin ưa
phát tâm hi hữu, chẳng phải là
chánh pháp vậy.
Nầy
Di Lặc ! Những người ngu ấy bị ma nó nhiếp trì đối với pháp nầy họ chẳng hiểu được mà cho là chẳng phải của
Như Lai nói, với chư
Tỳ Kheo trì pháp họ
phỉ báng tạo nghiệp
hoại pháp do đây sẽ đọa
ác đạo.
Nầy
Di Lặc !
Vì lẽ ấy nên chư
Bồ Tát có
trí huệ thiện xảo muốn hộ
chánh pháp phải ẩn
tài đức mình, với các
chúng sanh nhiều
phân biệt phải cần
hộ niệm chớ để họ sanh lòng ác bất thiện”.
Di Lặc Bồ Tát lại bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Đời
mạt thế năm trăm năm sau có chư
Bồ Tát rất
vô trí ở trong
đại chúng phỉ báng chánh pháp và người
trì pháp, nơi trong ấy sẽ có
biện tài và
đà la ni mà họ chẳng
tín thọ được.
Bạch đức Thế Tôn ! Ví dụ như có người khát nước đi đến suối ao để uống, trước đó người ấy đã đem phẩn dơ đổ xuống ao nầy rồi, lúc sắp uống họ ngửi nước ao nghe
mùi hôi thúi nên chẳng uống. Đây là họ tự làm dơ uế mà
đổ lỗi tại nước đến đỗi bảo rằng rất lạ sao nước nầy quá hôi thúi. Họ chẳng biết lỗi tại họ
trở lại oán trách nước ao.
Bạch đức Thế Tôn ! Như nước ao ví dụ cho chư
Tỳ Kheo trí pháp do
thần lực Phật mà khéo
giải thuyết nơi
pháp nhãn nầy. Còn người
ngu si đem phẩn dơ đổ xuống ao rồi không nhớ biết lúc sau muốn uống, lại trách nước hôi là dụ cho chư
Bồ Tát vô trí trong đời mạt thế năm trăm năm sau đối với
chánh pháp và người
trì pháp sanh lòng
phỉ báng, rồi sau đó lại đến người
trì pháp nghe thuyết
chánh pháp, họ chẳng tự biết lỗi vì
nghi hoặc ô nhiễm ý căn nên họ khi dễ
cười chê pháp sư, khinh hủy
chánh pháp,
tìm tòi chỗ dở nói lời
ô nhục nhàm chán bỏ đi”.
Đức Thế Tôn khen rằng : “Lành thay,
lành thay,
Di Lặc khéo nói ví dụ như vậy. Nầy
Di Lặc ! Nên biết có bốn
biện tài mà tất cả chư Phật đều tuyên nói, lại có bốn
biện tài mà tất cả chư Phật đều cấm ngăn.
Những gì là bốn
biện tài được chư Phật tuyên nói : đó là
tương ưng với
lợi ích chẳng phải
tương ưng với
bất lợi,
tương ưng với
chánh pháp chẳng phải
tương ưng với pháp,
tương ưng với
phiền não diệt tận chẳng phải
tương ưng với
phiền não tăng trưởng,
tương ưng với
Niết bàn công đức chẳng phải
tương ưng với
sanh tử quá lậu, đây là bốn
biện tài được chư Phật tuyên nói. Nếu chư
Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni,
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di, người muốn
thuyết pháp nên an trụ nơi
biện tài nầy. Các
thiện nam tử thiện nữ nhơn có lòng
tín thuận, đối với người như vậy nên sanh
ý tưởng như Phật, coi là giáo sư và thính thọ
chánh pháp nơi người ấy. Tại sao, vì chỗ nói của người ấy là chỗ nói của chư
Như Lai, là lời thành thiệt của tất cả chư Phật vậy.
Nầy
Di Lặc ! Nếu có ai
phỉ báng bốn
biện tài nầy cho rằng chẳng phải Phật nói chẳng có lòng
cung kính tôn trọng, người nầy do lòng oán ghét nên đối với bốn
biện tài của tất cả
chư Phật Như Lai đã nói sanh lòng
phỉ báng, họ
phỉ báng pháp rồi gây nghiệp
hoại pháp, tạo nghiệp
hoại pháp rồi họ phải đọa
ác đạo.
Vì thế nên, nầy
Di Lặc ! Nếu có
thiện nam tử tịnh tín vì muốn
thoát khỏi tội nghiệp phỉ báng chánh pháp nên chẳng vì ghét bỏ người mà ghét bỏ
chánh pháp, chẳng vì người có lỗi mà qui lỗi nơi
chánh pháp, chẳng vì oán người mà oán cả
chánh pháp.
Nầy
Di Lặc ! Thế nào là bốn thứ
biện tài mà tất cả
Như Lai ngăn cấm. Đó là
tương ưng với phi
lợi ích mà chẳng
tương ưng với
lợi ích,
tương ưng với
phi pháp mà chẳng
tương ưng với pháp,
tương ưng với
phiền não mà chẳng
tương ưng với
phiền não diệt tận,
tương ưng với
sanh tử mà chẳng
tương ưng với
công đức Niết bàn”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Như lời
đức Phật đã dạy, nếu có
biện tài tăng trưởng sanh tử thì chẳng phải là chỗ tuyên nói của chư
Như Lai, tại sao
đức Phật nói các
phiền não hay làm sự
lợi ích của
Bồ Tát,
đức Phật lại khen ngợi
nhiếp thủ sanh tử mà hay
viên mãn pháp
Bồ đề phần, những biện thuyết ấy há chẳng phải là chỗ nói của
Như Lai ư ?”.
Đức Phật phán : “Nầy
Di Lặc ! Nay Phật hỏi ông
tùy ý ông đáp. Nếu có
lời nói rằng
Bồ Tát vì
viên mãn thành tựu Bồ đề phần mà
nhiếp thủ sanh tử, lại nói dùng các
phiền não làm sự
lợi ích.
Lời nói trên đây là
tương ưng với
lợi ích hay với phi
lợi ích, là
tương ưng với pháp hay với
phi pháp ?”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn! Nếu là chánh thuyết thì
tương ưng với
lợi ích và pháp, vì hay làm cho pháp
Bồ đề phần của
Bồ Tát được viên mãn”.
Đức Phật phán : “Nầy
Di Lặc ! Nếu nói
Bồ Tát vì
viên mãn pháp
Bồ đề phần mà
nhiếp thủ sanh tử, lại nói các
phiền não hay làm sự
lợi ích của
Bồ Tát, biện thuyết như vậy là chỗ tuyên nói của
chư Phật Như Lai. Tại sao, nầy
Di Lặc ! chư
Bồ Tát ấy được
pháp tự tại các
phiền não được
phát khởi không có lầm lỗi, đây là
Bồ Tát thiện xảo phương tiện, chẳng phải là
cảnh giới của
Thanh Văn Duyên Giác.
Nầy
Di Lặc ! Nếu có
phiền não chẳng làm
lợi ích được cho người, chẳng hay làm
viên mãn Bồ đề phần, chẳng
tương ưng với
lợi ích chẳng
tương ưng với pháp lúc nó
phát khởi chỉ làm
nhơn duyên cho
thiện căn hạ liệt, trong
trường hợp nầy
Bồ Tát thà bỏ
thân mạng chớ chẳng
tùy theo các
phiền não ấy mà thật hành.
Nầy
Di Lặc ! Nếu có
Bồ Tát vì được
trí lực nên ở nơi các
phiền não hiện có phan duyên, có
Bồ Tát khác vì không
trí lực nên ở nơi các
phiền não tăng trưởng chấp trước”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Như tôi hiểu nghĩa của
đức Phật nói, nếu chư
Bồ Tát thuở
mạt thế năm trăm năm sau muốn lìa sự
trói buộc của các
nghiệp chướng, tự không
tổn hại mà
được giải thoát, người nầy sẽ sanh
tín giải sâu ở trong
Bồ Tát hạnh, vì
lỗi lầm của người chẳng sanh
phân biệt, chí cầu
công đức chơn thiệt của Như Lai”.
Đức Phật phán : “Đúng vậy. Nầy
Di Lặc ! Vì thế nên phải sanh
tín giải sâu ở trong
phương tiện hạnh của chư
Bồ Tát, tại sao, vì
phương tiện hạnh của huệ hành
Bồ Tát rất khó
tín giải vậy.
Nầy
Di Lặc !
Ví như vị
Tu Đà Hoàn thị hiện phàm phu hạnh. Hàng
phàm phu với
Tu Đà Hoàn ngôi vị đều
sai biệt. Người
phàm phu vì sự
trói buộc của
tham sân si mà đọa
ác đạo, mà người
Tu Đà Hoàn hay khéo
liễu đạt tham sân si trọn chẳng bị sa đọa
ác đạo.
Huệ hành
Bồ Tát cũng như vậy, ở nơi
tập khí tham sân si chưa dứt mà cũng khác với sơ nghiệp
Bồ Tát. Tại sao, vì tâm của huệ hành
Bồ Tát chẳng bị
phiền não che lấp chẳng đồng với các sơ nghiệp
Bồ Tát.
Đơn hành
Bồ Tát không có
thiện xảo đồng với
phàm phu chẳng
xuất ly được.
Nầy
Di Lặc ! Tất cả
trọng tội, huệ hành
Bồ Tát dùng sức trí huệ đều hay xô diệt, cũng chẳng nhơn đó mà đọa
ác đạo.
Ví như có người đem củi gỗ ném vào khối lửa lớn, luôn luôn thêm củi, do đó ngọn lửa càng thêm sáng không hề tắt. Cũng vậy, nầy
Di Lặc, huệ hành
Bồ Tát dùng lửa
trí huệ đốt củi
phiền não luôn luôn thêm củi gỗ
phiền não, do đó khối lửa
trí huệ thêm sáng mãi không hề tắt.
Nầy
Di Lặc ! Đúng vậy, sức
trí huệ thiện xảo phương tiện của huệ hành
Bồ Tát rất khó biết rõ”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Sơ nghiệp
Bồ Tát đã
xuất gia rồi mà chưa được sức
trí huệ, nay muốn được thì nên xả bỏ pháp gì nên
tu pháp gì để cho huệ lực chưa sanh thì được sanh, huệ lực đã sanh thì tăng trưởng”.
Đức Phật phán : “Nầy
Di Lặc ! Sơ nghiệp
Bồ Tát đã
xuất gia rồi muốn huệ lực được
tăng trưởng, nên đối với
lợi dưỡng biết rõ
tội lỗi của nó và cần xả ly. Với những lỗi ưa ồn náo nói chuyện
thế tục, ưa ngủ nghỉ làm nhiều công việc thích
hí luận đều phải xa rời. Phải bỏ
lợi dưỡng mà tập
thiểu dục, bỏ nơi ồn náo mà thích
vắng lặng, bỏ chuyện đời mà quán thiệt nghĩa, đầu hôm cuối đêm phải xa rời ngủ nghỉ để
quan sát tư duy tùy hành
tu tập, xả bỏ các công vụ và các
hí luận mà
tu đạo xuất thế,
thương nhớ chúng sanh.
Nầy
Di Lặc ! Sơ nghiệp
Bồ Tát đã
xuất gia rồi chưa được huệ lực mà muốn được thì phải bỏ và tu như vậy. Tại sao, vì chẳng bỏ
lợi dưỡng để tu
thiểu dục mà muốn sanh huệ lực chưa sanh muốn
tăng trưởng huệ lực đã sanh thì chẳng bao giờ có. Chẳng bỏ ồn náo chẳng thích ở
vắng lặng chẳng bỏ chuyện đời chẳng quán thiệt nghĩa mà muốn sanh và trưởng huệ lực cũng chẳng bao giờ có. Đầu hôm cuối đêm ham ưa ngủ nghỉ chẳng
giác ngộ nhiếp niệm
tư duy, chẳng bỏ công vụ ưa
hí luận, chẳng
tu đạo xuất thế, với
chúng sanh chẳng
thương nhớ mà muốn sanh huệ lực đã sanh cũng đều chẳng bao giờ có. Tại sao, vì
Bồ Tát trí lực từ
nhơn duyên sanh,
nếu không nhơn duyên thì trọn chẳng sanh được.
Nhơn duyên hòa hiệp mới được sanh sức trí huệ”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Thế nào là lỗi của
lợi dưỡng, nếu lúc
quán sát hay khiến
Bồ Tát thích
xa lìa chẳng phát sanh
nhiệt não ?”.
Đức Phật phán : “Nầy
Di Lặc ! Sơ nghiệp
Bồ Tát nên
quan sát lợi dưỡng vì sanh
tham dục vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì hư mất
chánh niệm sân khuể vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì
quan niệm đắc thất sanh
ngu si vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì hay sanh tâm cao hạ tất đố vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì ở nơi nhà
thân hữu xan lẫn ham ưa sanh cuống hoặc vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì gây nên
ưa thích sanh
siểm khúc vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì bỏ bốn
thánh chủng không tàm quí vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì tất cả chư Phật chẳng
hứa khả, quen
phóng dật sanh cao mạn vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì bỏ thắng
phước điền khởi khinh mạn làm ma đảng vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì là căn bổn các điều ác mà
phá hư các điều lành vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì nhiều sự
tham trước như sương tuyết vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì ở nơi nhà
thân hữu xem chờ
nhan sắc sanh ưu não vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì yêu mến đồ vật tổn hoại bị lòng lo rầu nhiễu loạn vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì ở nơi
bốn niệm xứ nhiều quên mất làm kém hao
bạch pháp vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì ở nơi
bốn chánh cần nhiều thối thất hay khiến tất cả tha luận thắng vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì tự khoe nói đã được
thần thông trí huệ sanh sự
sai trái vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì trước sau
đắc thất sanh lòng oán ghét vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì giận ghét nhau nói
lỗi lầm nhiều
giác quán vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì lo sanh sống mà kinh doanh nghiệp đời so tính suy tư giảm mất sự
an lạc vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì với những
thiện căn cho đến thiền định giải thoát tam muội tam ma bát đề lòng như
dâm nữ hay thối thất vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì bỏ rời
trí đức đoạn đức đọa vào các
ác đạo địa ngục súc sanh ngạ quỉ vậy, nên
quan sát lợi dưỡng vì cùng
Đề Bà Đạt Đa và Ô Đà
Lạc Ca đồng pháp đồng trụ phải đọa
ác đạo vậy.
Nầy
Di Lặc ! Sơ nghiệp
Bồ Tát quan sát tội lỗi của
lợi dưỡng như vậy rồi thích ưa
thiểu dục chẳng sanh
nhiệt não. Tại sao, vì
Bồ Tát thiểu dục thì chẳng sanh tất cả
tội lỗi có thể làm
pháp khí thanh tịnh của Phật, chẳng hệ thuộc
tại gia hay
xuất gia, an trụ
trí nguyện chơn thiệt
tối thắng, chẳng làm ti hạ cũng chẳng kinh sợ vì rời lìa sự lo sợ
đọa lạc ác đạo vậy, không gì
che lấp được vì bỏ sự
say đắm vậy, vì được
thoát khỏi các
cảnh giới ma vậy, được tất cả chư Phật
ngợi khen,
chư Thiên và
mọi người cũng sẽ kính mến, với các
thiền định cũng chẳng
nhiễm trước vì an trụ
biên tế vậy,
lòng dạ chất trực không
siểm khúc, ở trong
ngũ dục chẳng
phóng dật vì thấy lỗi của nó,
tu hành đúng pháp hay an trụ
thánh chủng, người đồng
phạm hạnh cũng sẽ mến ưa.
Nầy
Di Lặc ! Nếu có
Bồ Tát trí huệ thông sáng ở nơi
công đức nầy có thể biết như vậy, do
ý nguyện thù thắng nên bỏ
lợi dưỡng, do
ý nguyện thù thắng an trụ
thiểu dục, vì dứt
tham ái mà pháp khởi vậy.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Thế nào gọi là lỗi ở trong ồn náo, lúc
quan sát Bồ Tát ở riêng
vắng lặng chẳng sanh nhiệt não”.
Đức Phật phán : “Nầy
Di Lặc ! Sơ nghiệp
Bồ Tát nên
quan sát tội lỗi của ồn náo có hai mươi thứ, lúc
quan sát hay khiến
Bồ Tát ở riêng
vắng lặng chẳng sanh
nhiệt não.
Thế nào ưa nơi ồn náo có hai mươi điều lỗi ?
Một là chẳng
hộ thân nghiệp, hai là chẳng hộ
khẩu nghiệp, ba là chẳng hộ
ý nghiệp, bốn là nhiều
tham dục, năm là thêm
ngu si, sáu là ưa nói chuyện đời, bảy là rời lời
xuất thế, tám là với
phi pháp tôn trọng tu tập, chín là bỏ lìa
chánh pháp, mười là
thiên ma được dịp tiện, mười một là nơi hạnh
bất phóng dật chưa từng
tu tập, mười hai là nơi hạnh
phóng dật thường có lòng
nhiễm trước, mười ba là nhiều
giác quán, mười bốn là tổn giảm
đa văn, mười lăm là chẳng được
thiền định, mười sáu là không có
trí huệ, mười bảy là mau chóng được các
phi phạm hạnh, mười tám là chẳng mến Phật, mười chín là chẳng mến Pháp, hai mươi là chẳng mến Tăng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Bỏ rời những tham sân
Chẳng ở nơi ồn náo
Nếu có chuyên ở đó
Là lỗi chẳng nên làm
Kiêu mạn và
giác quánĐều do ồn náo sanh
Người
không giới không hạnhKhen tặng nơi ồn náo
Kẻ ngu thích
thế luậnThối thất
đệ nhứt nghĩaPhóng dật nhiều
giác quánLỗi nầy chẳng nên làm
Tỳ Kheo bỏ
đa vănNgôn luận chẳng đúng lý
Tổn giảm các
thiền địnhThường
tư duy thế gianNgười ham ưa
tư duyLàm sao được
tịch tĩnhLòng họ thường
phóng dậtLìa hẳn các
chỉ quánMau được
phi phạm hạnhỒn náo không
luật nghiHọ chẳng mến nơi Phật
Cũng chẳng mến
Thánh chúngVất bỏ pháp
ly dụcSay mê lời
phi phápTa thường bỏ ngàn thân
Tay chân và đầu mắt
Vì
cầu đạo vô thượngNghe pháp không chán đủ
Các ngưòi
phi pháp nầy
Nghe chút ít liền bỏ
Xưa ta làm
quốc vươngVì cầu bốn câu kệ
Cả
vợ con của báuĐều hay đem
bố thíNào có bực
trí giảMà chẳng siêng
nghe phápTa thường bỏ tất cả
Những
hí luận phi phápVì trong trăm ngàn kiếp
Khó
được giải thoát vậy
Các ông nên
ưa thíchChí
cầu pháp vi diệuNếu người ưa
giải thoátCác
công đức tối thắngNhững
sự nghiệp thế gianĐều chẳng nên hỏi đến
Áo cơm không lợi tốt
Cũng chẳng chứng
Niết bànNên
ngợi khen tối thắngChư
Tỳ Kheo thiện laiPhải trải tòa mời ngồi
Cùng nhau nói
pháp yếuThân người rất khó được
Tùy phần tu
bạch phápĐọc tụng và
thiền địnhÔng phải hỏi như vậy
Đức Phật nhập Niết bànChánh pháp sẽ
hoại diệtTỳ Kheo nhiều
phóng dậtƯa đông bỏ rảnh vắng
Vì uống ăn
lợi dưỡngNgày đêm thuận sự đời
Người ngu ở trong mộng
Kinh sợ và trôi đắm
Tự biết
phạm tội nhiều
Sẽ đọa ba
ác đạoNên sanh lòng
hoan hỷỞ riêng nơi rảnh vắng
Hoặc ở
a lan nhãChí
cầu đạo vô thượngChẳng nên thấy lỗi người
Tự khoe
tôn thắng nhứt
Kiêu căng gốc
phóng dậtChớ khinh kẻ
hạ liệtHọ ở trong
chánh phápLần lượt sẽ
giải thoátTỳ Kheo dầu
phá giớiMà sâu tin
Tam bảoĐây là nhơn
giải thoátChẳng nên thấy lỗi họ
Khó dẹp phục tham sân
Chớ kinh sợ
phóng dậtThói quen nên phải vậy
Vì thế chẳng nên nói
Nếu
Tỳ Kheo thanh tịnhRình tìm lỗi của người
Rất là chẳng chơn thiệt
Chẳng gọi tu
chánh phápNgười
tu hành đúng pháp
Phải nên tự
quan sátChư
Tỳ Kheo cầu đạoBỏ rời
ngôn luận ác
Thường dùng tâm
hoan hỷỞ riêng nơi rảnh vắng”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn !
Ham thích ồn ào bèn có
vô lượng tội lỗi như vậy thối thất
công đức không được
lợi ích thêm lớn
phiền não sa đọa
ác đạo rời lìa
bạch pháp. Nào có
Bồ Tát cầu pháp lành được nghe
tội lỗi nầy mà chẳng thích ở riêng rảnh vắng.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào gọi là lỗi của sự nói chuyện đời, nếu lúc
quan sát Bồ Tát nên an trụ nghĩa
quyết định, do
quán sát nghĩa ấy mà chẳng sanh
nhiệt não ?”.
Đức Phật phán : “Nầy
Di Lặc ! ! Sơ nghiệp
Bồ Tát phải nên
quán sát nói chuyện đời có hai mươi điều lỗi, lúc
quán sát có thể làm cho
Bồ Tát an trụ
quyết định nghĩa, do quán nghĩa ấy mà chẳng sanh
nhiệt não.
Những gì gọi là ưa nói chuyện đời có hai mươi điều lỗi ?
Một là lòng sanh kiêu tứ chẳng kính
đa văn, hai là ở nơi các
tranh luận sanh nhiều
chấp trước, ba là mất
chánh niệm tác ý đúng lý, bốn là làm sự chẳng nên làm thân nhiều tháo động, năm là mau chóng cao hạ hư
hoại pháp nhẫn, sáu là tâm thường cương cường chẳng
huân tu thiền định trí huệ, bảy là nói
phi thời bị
ngôn luận ràng buộc, tám là chẳng thể
kiên cố chứng
Thánh trí, chín là chẳng được
Thiên Long cung kính, mười là bị người
biện tài thường có lòng khinh rẻ, mười một là bị người
thân chứng quở trách, mười hai là chẳng an trụ
chánh tín thường có lòng
hối hận, mười ba là lòng nhiều
nghi hoặc dao động chẳng an, mười bốn là như hàng xướng kỹ
theo dõi âm thanh, mười lăm là
nhiễm trước các
dục lạc theo cảnh
lưu chuyển, mười sáu là chẳng
quan sát chơn thiệt
phỉ báng chánh pháp, mười bảy là có mong
cầu chi thường chẳng được
toại nguyện, mười tám là tâm chẳng điều thuận bị người chê bỏ, mười chín là chẳng biết
pháp giới tùy thuận ác hữu, hai mươi là chẳng rõ các căn hệ thuộc phiền não”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Kiêu ngạo nơi
đa vănChấp trước các
tranh luậnThất niệm bất chánh tri
Đây là lỗi chuyện đời
Xa rời
chánh tư duyThân tâm chẳng
tịch tĩnhThối thất nơi
pháp nhẫnĐây là lỗi thế thoại
Tâm họ chẳng điều thuận
Xa rời
xa ma thaVà
tỳ bát xá naĐây là lỗi thế thoại
Chẳng
tôn kính Sư TrưởngƯa thích các
thế luậnTrí huệ chẳng
kiên cốĐây là lỗi thế thoại
Chư Thiên chẳng
cung kínhLong thần cũng như vậy
Thối thất nơi
biện tàiĐây là lỗi thế thoại
Bực thánh thường
quở tráchCác người
đam mê ấy
Luống uổng nơi
thọ mạngĐây là lỗi thế thoại
Các hành đều khuyết giảm
Xa lìa đại Bồ đềMạng chung sanh ưu não
Đây là lỗi thế thoại
Nghi hoặc tâm
giao độngNhư gió thổi động cỏ
Trí huệ chẳng
kiên cốĐây là lỗi thế thoại
Ví như người xướng kỹ
Khen nói là
dũng kiệnNgười ấy cũng như vậy
Đây là lỗi thế thoại
Theo dõi ngữ ngôn đời
Nhiễm trước các cảnh dục
Thường làm những
tà đạoĐây là lỗi thế thoại
Mong cầu lòng chẳng toại
Siểm khúc nhiều
tranh luậnXa rời các
Thánh hạnhĐây là lỗi thế thoại
Người ngu được chút lợi
Lòng họ thường
dao độngNhư khỉ vượn tháo nhiễu
Đây là lỗi thế thoại
Nhiều thối
thất trí huệ
Không có lòng
giác ngộBị kẻ ngu nhiếp trì
Đây là lỗi thế thoạ
Mê hoặc nơi mắt tai
Nhẫn đến ý cũng vậy
Thường cùng
phiền não chung
Đây là lỗi thế thoại
Kẻ ngu ưa thế thoại
Trọn đời thường luống qua
Chẳng bằng suy nhứt nghĩa
Được
lợi ích vô biênVí như vị ngọt mía
Dầu chẳng rời vỏ đốt
Mà được vị ngọt ngon
Vỏ đốt như nói chuyện
Nghĩa lý như vị ngọt
Vì thế bỏ hư ngôn
Suy gẫm nơi thiệt nghĩa
Chư
Bồ Tát trí huệHay biết lỗi thế thoại
Nên thường thích
suy gẫmCông đức đệ nhứt nghĩaPháp vị và
nghĩa vịGiải thoát vị đệ nhứtAi là người có trí ?
Mà lòng chẳng
ưa thíchVì thế nên phải bỏ
Các
ngôn luận vô lợiThường ưa siêng
suy gẫmĐệ nhứt nghĩa thù thắngPháp đệ nhứt như vậy
Được chư Phật
ngợi khenVì thế người trí sáng
Nên vui siêng tu tập”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn !
Đức Như Lai khéo
hay nói lỗi của thế thoại và
công đức lợi ích suy gẫm nghĩa
thù thắng, nào có
Bồ Tát chí cầu
trí huệ chơn thiệt của Phật mà lại còn ưa chuyện trò sự đời hư cuống.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là lỗi của ngủ nghỉ, nếu lúc
quán sát Bồ Tát nên phải
phát khởi tinh tấn chẳng sanh
nhiệt não ?”.
Đức Phật phán : “Nầy
Di Lặc ! Sơ nghiệp
Bồ Tát nên
quán sát ngủ nghỉ có hai mươi điều lỗi, lúc
quán sát có thể làm cho
Bồ Tát phát khởi tinh tấn ý nguyện chẳng mỏi : Một là
giải đãi lười nhác, hai là
thân thể trầm trọng, ba là
nhan sắc tiều tụy, bốn là thêm tật bịnh, năm là hơi nóng ấm kém yếu, sáu là ăn chẳng
tiêu hóa, bảy là
thân thể sanh mụn ghẻ, tám là chẳng siêng
tu tập, chín là thêm lớn
ngu si, mười là
trí huệ yếu kém, mười một là da thứa tối đục, mười hai là
Phi Nhơn chẳng kính, mười ba là
việc làm ngu độn, mười bốn là
phiền não ràng buộc, mười lăm là
phiền não che lấp tâm trí, mười sáu là chẳng thích pháp lành, mười bảy là
bạch pháp tổn giảm, mười tám là làm việc hạ tiện, mười chín là ghét ganh
tinh tấn, hai mươi là bị người khinh rẻ”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Thân nặng không nghi kiểm
Giải đãi ít kham nhiệm
Nhan sắc không sáng nhuần
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Người ấy nhiều bịnh não
Tích tập nhiều phóng nhiệt
Tứ đại ngược
trái nhauLà lỗi ưa ngủ nghỉ
Ăn uống không
tiêu hóaThân thể không sáng nhuần
Tiếng nói chẳng
trong suốtLà lỗi ưa ngủ nghỉ
Thân họ sanh ghẻ chốc
Ngày đêm thường say ngủ
Các trùng độc nảy sanh
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Thối thất hạnh
tinh tiếnThiếu hụt các
của báuNhiều mộng không
giác ngộLà lỗi ưa ngủ nghỉ
Lưới
si mê thêm lớn
Thích ưa các
kiến chấpMạnh chắc khó
đối trịLà lỗi ưa ngủ nghỉ
Tổn giảm các
trí huệThêm lớn các
ngu siChí ý thường
hạ liệtLà lỗi ưa ngủ nghỉ
Họ ở
a lan nhãMà lòng thường biếng lười
Quỷ thần được
tiện lợiLà lỗi ưa ngủ nghỉ
Mù mờ mất
chánh niệmPhúng tụng chẳng
thông thuộcThuyết pháp nhiều lãng quên
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Do si sanh
mê lầmAn trụ trong
phiền nãoLòng họ chẳng an vui
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Công đức đều tổn giảm
Thường sanh lòng lo buồn
Thêm lớn các
phiền nãoLà lỗi ưa ngủ nghỉ
Xa rời các
thiện hữuCũng chẳng cầu
chánh phápThường đi trong
phi phápLà lỗi ưa ngủ nghỉ
Chẳng mong
cầu pháp lạc
Tổn giảm các
công đứcXa rời các
bạch phápLà lỗi ưa ngủ nghỉ
Tâm người ấy khiếp nhược
Ít khi có
hoan hỷTay chưn thường ốm gầy
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Tự
biết mình giải đãiGhét ganh người
tinh tiếnThích rao nói lỗi người
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Người trí hiểu lỗi ấy
Thường xa rời ngủ nghỉ
Kẻ ngu thêm
kiến chấpVô ích tổn
công đứcNgười trí
thường tinh tiến
Siêng
tu đạo thanh tịnhThoát khổ được
an lạcChư Phật thường
ngợi khenCác kỹ nghệ
thế gianVà công xảo
xuất thếĐều do sức
tinh tiếnNgười trí phải
tu tậpNếu người hướng
Bồ đềBiết rõ lỗi ngủ nghỉ
An trụ sức
tinh tiếnGiác ngộ sanh
tàm quýVì thế những người trí
Thường sanh lòng
tinh tiếnBỏ rời sự ngủ nghỉ
Gìn giữ giống Bồ đề”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Kẻ ưa ngủ nghỉ có
vô lượng lỗi lầm như vậy. Nếu ngưòi nào được nghe mà chẳng sanh lòng
lo lắng nhàm lìa để
phát khởi tinh tiến, nên biết rằng người này rất
ngu si.
Nếu
Bồ Tát có chí cầu
Vô thượng Bồ đề nghe nói
cú nghĩa chơn thiệt
công đức lợi ích như
vậy mà đối với pháp lành chẳng
phát khởi tinh tiến an trụ các phần
Bồ đề lại sanh lòng
giải đãi thì không bao giờ có.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là lỗi trong các sự vụ mà lúc
quan sát khiến chư
Bồ Tát chẳng kinh doanh sự vụ ?”.
Đức Phật dạy : “Nầy
Di Lặc ! Hàng
Bồ Tát sơ nghiệp phải nên
quan sát người ưa kinh doanh sự vụ có hai mươi điều lỗi, lúc
quan sát như vậy có thể làm cho
Bồ Tát chẳng kinh doanh sự vụ mà siêng
tu tập Phật đạoNhững gì là hai mươi lỗi về kinh doanh sự vụ ?
Một là
ham thích nghiệp
hạ liệt thế gian. Hai là bị chư
Tỳ Kheo chuyên
đọc tụng tu hành khinh rẻ. Ba là bị chư
Tỳ Kheo chuyên tu thiền định quở trách. Bốn là tâm thường
phát khởi nghiệp
sanh tử lưu chuyển từ vô thỉ. Năm là luống
thọ sự cúng thí của các
cư sĩ có
tín tâm. Sáu là lòng tham ưa tài vật. Bảy là thường ưa rộng mở sự vụ
thế gian. Tám là tưởng nhớ
gia nghiệp mà lòng thường
lo lắng. Chín là tánh tình hung dữ phát ngôn
thô lỗ. Mười là lòng thường tưởng nhớ
gia nghiệp. Mười một là
ham thích món ngon thêm lớn
tham dục. Mười hai là các nơi không
lợi dưỡng thì chẳng sanh lòng
hoan hỷ. Mười ba là hay
sanh nghiệp não hại chướng ngại. Mười bốn là thường ưa thân cận các
Ưu Bà Tắc và
Ưu Bà Di. Mười lăm là chỉ nhớ
ăn mặc mà qua ngày đêm. Mười sáu là luôn hỏi
việc làm ăn
thế gian. Mười bảy là thường ưa nói lời
phi pháp. Mười tám là cậy mình kinh doanh sự vụ mà sanh
kiêu mạn. Mười chín là chỉ
tìm lỗi người mà chẳng tự
quan sát. Hai mươi là đối với người
thuyết pháp ôm lòng khinh rẻ”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“An trụ nghiệp
hạ liệtRời xa hạnh
thù thắngThối
thất lợi ích lớn
Là lỗi ưa sự vụ
Bị chư
đại Tỳ KheoTụng kinh và
tham thiềnKhinh khi và
quở tráchLà lỗi ưa sự vụ
Thường tạo nghiệp
sanh tửXa rời nhơn
giải thoátLuống thọ của
tín thíLà lỗi ưa sự vụ
Thích nhận các
của báuChẳng được thì lo khổ
An trụ hạnh
hạ liệtLà lỗi ưa sự vụ
Người ấy nhiều
ái nhiễmQua lại nhà
dâm nữNhư chim chui vào lồng
Là lỗi ưa sự vụ
Thường lo rầu
gia nghiệpLuôn ôm lòng nóng khổ
Lời nói người chẳng tin
Là lỗi ưa sự vụ
Chẳng thích nghe thầy dạy
Chống trả lại khinh tiện
Hủy
phạm giới thanh tịnhLà lỗi ưa sự vụ
Lòng họ nhiều tưởng nhớ
Siêng toan lo nghiệp đời
Chẳng thể tu
định huệLà lỗi nhiều sự vụ
Lòng tham thường xí thạnh
Thích ưa những ngon đẹp
Không hề biết
tri túcLà lỗi nhiều sự vụ
Được lợi lòng
vui mừngThất lợi lòng buồn lo
Tham lẫn không
từ tâmLà lỗi nhiều sự vụ
Hại người không
xót thươngThêm lớn những
nghiệp ácDây ái cột chặt nhau
Là lỗi nhiều sự vụ
Xa rời các
Sư TrưởngGần gũi các bạn dữ
Chê đuổi người
trì giớiLà lỗi nhiều sự vụ
Ngày đêm
không tưởng khác
Chỉ nhớ đến
ăn mặcChẳng thích các
công đứcLà lỗi nhiều sự vụ
Thường hỏi chuyện
thế gianChẳng ưa lời
xuất thếSay mê các
tà thuyếtLà lỗi nhiều sự vụ
Tự thị biết công việc
Khinh mạn chư
Tỳ KheoChẳng khác kẻ cuồng say
Là lỗi nhiều sự vụ
Thường rình
tìm lỗi ngườiChẳng thấy lỗi của mình
Khinh chê người có đức
Là lỗi nhiều sự vụ
Người
ngu si như vậy
Không có
phương tiện hay
Khinh mạn người
thuyết phápLà lỗi nhiều sự vụ
Sự nghiệp hạ liệt ấy
Có đủ những
lỗi lầmĐâu có người
trí huệLại ưa học tập nó
Nghiệp
thanh tịnh thù thắngĐầy đủ các
công đứcĐây là chỗ người trí
Ưa thích thường học tập
Nếu kẻ ưa sự đời
Người trí nên
quở tráchNhư người bỏ
thất bảoTham lấy những sỏi đá
Thế nên người trí sáng
Nên bỏ
sự nghiệp đời
Phải
cầu pháp thắng thượng
Chư Phật thường khen ngợi”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Chư
Bồ Tát ấy bỏ rời hạnh nghiệp
tinh tiến thù thắng mà
phát khởi sự vụ
hạ liệt thế gian, nên biết họ là kẻ thiểu trí giác huệ cạn kém”.
Đức Phật dạy : “Nầy
Di Lặc ! Nay ta bảo thiệt ông : Nếu có
Bồ Tát chẳng tu
công hạnh chẳng dứt
phiền não chẳng tập thiền
tụng kinh chẳng cầu
đa văn, ta gọi người ấy chẳng phải người
xuất gia.
Nầy
Di Lặc ! Nếu có người siêng tu
công hạnh trí đoạn, trí xuất sanh,
trí thành tựu, chẳng làm nghiệp
thế gian, chẳng kinh doanh sự vụ, ta gọi người nầy an trụ lời dạy
Như Lai.
Nếu là
Bồ Tát thì chẳng nên ưa nghiệp
thế gian kinh doanh sự vụ. Nếu ưa làm thì ta gọi là kẻ an trụ
sanh tử. Vì thế nên chư
Bồ Tát phải xa rời.
Nầy
Di Lặc ! Nếu có
Bồ Tát kinh doanh nhiều sự vụ xây tạo tháp
bảy báu khắp cõi
Đại Thiên cũng chẳng làm cho ta
hoan hỷ, cũng chẳng phải
cung kính cúng dường ta.
Nầy
Di Lặc ! Nếu có
Bồ Tát ở nơi pháp
tương ưng với
Ba la mật,
cho đến thọ trì bài kệ bốn câu rồi
đọc tụng tu hành giảng nói cho người, đây nói là
cung kính cúng dường ta. Tại sao? Vì
chư Phật Bồ đề từ
đa văn mà xuất sanh chớ chẳng phải từ các sự vụ.
Nầy
Di Lặc ! Nếu có
Bồ Tát kinh doanh nhiều sự vụ khiến các
Bồ Tát trì tụng
tu hành giảng thuyết đồng kinh doanh sự vụ, nên biết đó là
tăng trưởng nghiệpchướng không có phước lợi. Tại sao ? Vì ba thứ
phước nghiệp đã được nói đều
từ trí huệ mà phát sanh. Vì thế nên
Bồ Tát kinh doanh sự vụ đối với chư
Bồ Tát trì tụng
tu hành diễn thuyết chẳng nên làm
chướng ngại. Chư
Bồ Tát trì tụng
diễn thuyết đối với chư
Bồ Tát tu thiền định chẳng nên làm
chướng ngại lưu nạn.
Nầy
Di Lặc ! Chư
Bồ Tát kinh doanh sự vụ trong một
Diêm Phù Đề nên
cúng dường thân cận
thừa sự một
Bồ Tát đọc tụng tu hành diễn thuyết. Chư
Bồ Tát trong một
Diêm Phù Đề đọc tụng tu hành diễn thuyết nên thân cận
thừa sự cúng dường một
Bồ Tát chuyên cần tu thiền định.
Thiện nghiệp như vậy được
Như Lai tùy hỉ được
Như Lai hứa khả.
Nếu
thừa sự cúng dường Bồ Tát siêng tu
trí huệ sẽ được khối
phước đức vô lượng. Tại sao ? Vì
nghiệp trí huệ là
vô thượng tối thắng siêu hơn tất cả
hành nghiệp của
tam giới. Vì thế nên có
Bồ Tát nào
phát khởi tinh tiến thì nên siêng
tu tập trí huệ”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn !
Đức Như Lai đã khéo nói những
lỗi lầm của hàng sơ nghiệp
Bồ Tát ưa thích ồn náo nói chuyện
thế gian ngủ nghỉ và nhiều sự vụ.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là lỗi của
hí luận mà lúc
quan sát khiến chư
Bồ Tát sẽ an trụ
tịch tĩnh không có những
tranh luận.
Đức Phật dạy : “Nầy
Di Lặc ! Sơ nghiệp
Bồ Tát hí luận có
vô lượng vô biên lỗi lầm nay ta lược nói hai mươi lỗi :
Một là
hiện tại sanh nhiều
khổ não, hai là
tăng trưởng sân khuể thối thất
nhẫn nhục, ba là bị kẻ oán thù làm hại, bốn là ma và dân
ma đều
vui mừng, năm là
thiện căn chưa sanh đều chẳng sanh, sáu là
thiện căn đã sanh hay bị thối thất, bảy là thêm lòng oán ghét đấu tranh, tám là gây nghiệp
địa ngục ác thú, chín là sẽ mắc quả xấu ác, mười là lưỡi chẳng dịu mềm nói năng cứng rít, mười một là
giáo pháp được thọ chẳng thể ghi nhớ, mười hai là với kinh chưa từng nghe khi nghe không hiểu được, mười ba là bị chư
thiện tri thức bỏ rời, mười bốn là mau gặp các
ác tri thức, mười lăm là
tu hành đạo hạnh khó được
xuất ly, mười sáu là thường phải
nghe lời không
vừa ý, mười bảy là sanh vào chỗ nào cũng nhiều nghi lầm, mười tám là thường sanh chỗ nạn chẳng được nghe
chánh pháp, mười chín là
tu hành bạch pháp thì bị
chướng ngại, hai mươi là chỗ
thọ dụng bị nhiều oán ghét.
Bồ Tát ham
hí luận có hai mươi lỗi như vậy”.
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
“Hiện đời thường
khổ nãoMất nhẫn nhiều
sân hậnOán thù sanh lòng hại
Là lỗi ưa
hí luậnMa và
quyến thuộc ma
Đều sanh lòng
hoan hỉHư mất các pháp lành
Là lỗi ưa
hí luậnLành chưa sanh chẳng sanh
Thường ở trong đấu tranh
Gây tạo
nghiệp ác đạo
Là lỗi ưa
hí luậnThân hình nhiều thô xấu
Sanh vào
nhà hạ liệt
Phát ngôn lời cứng rít
Là lỗi ưa
hí luậnNghe pháp chẳng nhớ được
Hoặc nghe chẳng lọt tai
Thường xa rời
thiện hữuLà lỗi ưa
hí luậnGặp gỡ các
ác hữuTu hành khó
xuất lyThường
nghe lời trái ý
Là lỗi ưa
hí luậnTùy họ sanh chỗ nào
Thường ôm lòng nghi lầm
Chẳng hiểu được
giáo phápLà lỗi ưa
hí luậnThường sanh trong
bát nạnXa rời chỗ không nạn
Có đủ sự
vô íchLà lỗi ưa
hí luậnPháp lành nhiều
chướng ngạiHư mất
chánh tư duyThọ dụng bị oán ghét
Là lỗi ưa
hí luậnCác
lỗi lầm như vậy
Đều
do nơi hí luậnVì thế nên người trí
Phải mau xa rời nó
Những người ưa
hí luậnKhó
chứng đại Bồ đềVì thế nên người trí
Cũng chẳng nên thân cận
Chỗ
hí luận tranh cãi
Phát sanh nhiều
phiền nãoNgười trí phải xa rời
Cách xa trăm
do tuầnCũng chẳng cất nhà ở
Gần những chỗ
hí luậnVì thế người
xuất giaChẳng ở nơi
tranh luậnXuất gia không ruộng nhà
Vợ con và tôi tớ
Cũng không có chức vị
Cớ chi sanh
tranh luậnXuất gia ở
tịch tĩnhThân mặc toàn
pháp phụcTiên thần đều kính thờ
Phải
tu tâm nhẫn nhụcNhững người ưa
hí luậnThêm lớn lòng
độc hạiSẽ phải đọa
ác thúVì thế phải
nhẫn nhụcTù cấm và xiềng xích
Hình phạt và đánh khảo
Các sự khổ như vậy
Đều
do nơi tranh luậnNhững người ưa
hí luậnThường gặp
ác tri thứcDanh tiếng bị hư mất
Luôn không lòng
hoan hỉNếu người bỏ
tranh luậnKhông ai rình
gặp dịpQuyến thuộc chẳng trái lìa
Thường được gặp
thiện hữuNơi đạo được
thanh tịnhNghiệp chướng hết không thừa
Xô dẹp các quân ma
Siêng tu hạnh
nhẫn nhụcTranh luận nhiều
tội lỗiVô tranh nhiều
công đứcNếu là người
tu hànhPhải an trụ nhẫn nhục”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Hi
hữu Thế Tôn có thể khéo nói
lỗi lầm của
hí luận như vậy khiến chư
Bồ Tát sanh lòng
giác ngộ.
Bạch đức Thế Tôn ! Đời
mạt thế sau trong năm trăm năm, có
Bồ Tát nghe nói lỗi
hí luận như vậy hay sanh lòng ưu hối rời lìa
phiền não chăng ?”
Đức Phật dạy : “Nầy
Di Lặc ! Đời
mạt thế sau trong năm trăm năm ít có
Bồ Tát hay sanh ưu hối lìa
phiền não, có nhiều
Bồ Tát tâm cang cường chẳng
tôn kính nhau, ôm lòng
tăng thượng mạn phải trái lẫn nhau, họ nghe nói
nghĩa thú thậm thâm công đức thù thắng như vậy, dầu họ trì
đọc tụng diễn thuyết, nhưng vì
nghiệp chướng sâu nặng nên chẳng sanh được
công đức thù thắng, nên họ chẳng tin,
nghi hoặc kinh điển nầy rồi chẳng còn
thọ trì diễn thuyết. Bấy giờ
ma Ba Tuần thấy sự ấy, muốn
gạt gẫm liền
hiện hình Tỳ Kheo đến chỗ họ bảo rằng : Các
kinh điển ấy là do người
thế tục giỏi
văn từ chế tạo ra, chẳng phải do
Như Lai tuyên nói. Tại sao ? Vì
công đức lợi ích trong kinh ấy nói các ngài đều chẳng được. Do lời
gạt gẫm của
ma Ba Tuần mà họ sanh lòng
nghi hoặc đối với
khế kinh thậm thâm tương ưng với nghĩa lợi
tánh không nầy rồi
phát khởi tranh luận chẳng còn
thọ trì đọc tụng diễn thuyết.
Nầy
Di Lặc ! Các người
ngu si ấy chẳng biết được do
nghiệp chướng của họ nên chẳng được
công đức thù thắng, lúc
nghiệp chướng tiêu rồi họ
quyết định sẽ được”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Như Phật đã nói
công đức của đức
A Di Đà Phật và
Cực Lạc thế giới. Nếu có
chúng sanh phát mười
tâm nguyện, tùy mỗi tâm
chuyên niệm A Di Đà Phật, khi
mạng chung người ấy sẽ được
vãng sanh Thế Giới Cực Lạc.
Bạch đức Thế Tôn ! Những gì là phát mười
tâm nguyện, do tâm ấy
niệm Phật A Di Đà mà sẽ được
vãng sanh thế giới Cực Lạc của
đức Phật ấy ?
Đức Phật dạy : “Nầy
Di Lặc ! Mười
tâm nguyện như vậy chẳng phải kẻ
phàm ngu bất thiện đủ
phiền não mà phát được.
Những gì là mười
tâm nguyện ?
Một là đối với tất cả
chúng sanh phát khởi tâm
đại từ không làm
tổn hại.
Hai là đối với tất cả
chúng sanh phát khởi tâm
đại bi không làm bức não.
Ba là đối với
chánh pháp của
Phật phát khởi tâm ưa thích thủ hộ chẳng tiếc
thân mạng.
Bốn là đối với tất cả pháp phát sanh thắng nhẫn không có tâm
chấp trước.
Năm là
phát tâm nguyện
thanh tịnh cung kính tôn trọng chẳng
tham lợi dưỡng.
Sáu là
phát tâm cầu Phật Nhứt thiết
chủng trí không hề quên mất bất luận
thời gian nào.
Bảy là đối với tất cả
chúng sanh phát tâm tôn trọng cung kính không
hạ liệt.
Tám là chẳng ham
thế luận đối với
Bồ đề phân sanh tâm
quyết định.
Chín là
tâm thanh tịnh trồng các
thiện căn không
tạp nhiễm.
Mười là đối với
chư Phật Như Lai rời bỏ các tướng
phát khởi tâm
tùy niệm.
Nầy
Di Lặc ! Đây là mười
tâm nguyện. Do phát mười
tâm nguyện ấy mà
Bồ Tát sẽ được
vãng sanh thế giới Cực Lạc của Phật
A Di Đà.
Nầy
Di Lặc ! Trong mười
tâm nguyện ấy, tùy
thành tựu một tâm nào rồi ưa muốn sanh về
thế giới Cực Lạc của Phật
A Di Đà, nếu người nầy chẳng được
vãng sanh thì không bao giờ có”.
Tôn giả A Nan bạch rằng : “Hi
hữu Thế Tôn hay khai thị diễn nói
công đức chơn thiệt của
Như Lai,
phát khởi chí nguyện thù thắng của
Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn ! Kinh nầy sẽ đặt tên là gì ?
Chúng tôi sẽ
thọ trì như thế nào ?”.
Đức Phật dạy : “Nầy
A Nan ! Kinh nầy tên kinh
Phát Khởi Bồ Tát Chí Nguyện Thù Thắng, cũng gọi là kinh
Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn. Các ông nên
thọ trì như vậy.
Đức Phật nói kinh nầy rồi,
Di Lặc Bồ Tát và chư
Thanh Văn tất cả
thế gian Thiên Nhơn,
A Tu La,
Càn Thát Bà v.v…
nghe lời Phật dạy đều rất
vui mừng tín thọ phụng hành.
HẾT