KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký
Thứ Mười Hai
Đức Phật bảo ngài
Xá Lợi Phất : “Thuở
quá khứ xưa, đức Đại Uẩn
Như Lai Đẳng Chánh Giác vì
Đồng Tử Tinh Tấn Hành mà nói rộng pháp
tứ vô lượng và
sáu Ba la mật rồi. Đức Đại Uẩn Phật lại nói với
Tinh Tấn Hành Đồng Tử rằng : Thế nào là
đại Bồ Tát tùy nhiếp pháp chuyển?
Đại Bồ Tát có đủ bốn nhiếp pháp , do đây mà
đại Bồ Tát mãi mãi nhiếp lấy
chúng sanh.
Những gì là bốn? Đó là
bố thí,
ái ngữ, lợi hành và
đồng sự.
Những nhiếp pháp ấy thế nào ?
Bố thí có hai thứ là
tài thí và
pháp thí.
Ái ngữ là đối với tất cả người đến
cầu xin hoặc muốn
nghe pháp,
Bồ Tát đều
hay nói lời mến thương ủy dụ. Lợi hành là hay làm đầy đủ theo ý thích ưa của mình của người.
Đồng sự là tùy mình có những trí và
công đức vì người mà diễn nói
nhiếp thọ xây dựng tất cả
chúng sanh cho họ an trụ hoặc nơi
trí hoặc nơi pháp.
Lại nầy Đồng Tử! Ở nơi các
chúng sanh đến
cầu xin thì tâm
ý thanh tịnh, đây là
bố thí. Dùng lời lành
an ủi, đây là
ái ngữ. Làm cho đầy đủ
thành tựu nghĩa lợi, đây là lợi hành.
Hiện hành tâm bình đẳng làm thành nghĩa lợi cho họ, đây là
đồng sự.
Lại nầy Đồng Tử!
Bố thí là
chư đại Bồ Tát phát ý hành xả.
Ái ngữ là
phương tiện vô gián. Lợi hành là
thâm tâm không hối.
Đồng sự là
hồi hướng Đại thừa.
Lại
bố thí là theo
từ tâm mà thật
hành xả.
Ái ngữ là thường chẳng bỏ rời tâm
hoan hỉ. Lợi hành là
thành tựu đại bi tâm thường
ưa thích việc
lợi ích chúng sanh.
Đồng sự là tu xả
bình đẳng không cao hạ tâm luôn
hồi hướng Nhứt thiết
chủng trí.
Lại
bố thí là
cầu tài đúng
pháp thường nghĩ
bố thí cứu nghèo thiếu.
Ái ngữ là đã
bố thí rồi còn
an trí họ ở nơi pháp nghĩa.
Lợi hành là
tự lợi lợi tha bình đẳng nhiếp lấy.
Đồng sự là vì muốn
lợi ích tất cả
chúng sanh nên
cứu cánh phát tâm Nhứt thiết
chủng trí.
Lại
bố thí là tất cả
sở hữu trong ngoài đều xả ly cả.
Ái ngữ là nơi tất cả
công đức trí huệ không hề giấu tiếc.
Lợi hành là xả
tự lợi chuyên lo
lợi tha.
Đồng sự là nhiếp tài vật như để trong bàn tay rồi
tùy duyên ban cho lòng không
ưu sầu.
Lại
pháp thí là
như pháp đã nghe nói rộng lại cho người .
Ái ngữ là dùng
tâm không ô nhiểm mà
phân biệt khai thị.
Lợi hành là dạy người
đọc tụng nhẫn đến
thuyết pháp không nhàm mỏi.
Đồng sự là chẳng rời bỏ tâm
Nhứt thiết trí mà đặt để
chúng sanh ở
chánh pháp.
Lại
pháp thí là vì người đến lui cầu
nghe pháp, thì dạy
nói đúng pháp của Phật mà chẳng tuyên nói tạp loạn.
Ái ngữ là dùng
âm thanh vi diệu khai thị
chánh pháp.
Lợi hành là đem
y phục đồ uống ăn mền nệm thuốc men và những đồ thiết dụng
cấp thí cho người
nghe pháp hoặc người
thuyết pháp mà
thiếu thốn.
Đồng sự là thường
phát khởi thâm tâm vô gián thuyết pháp.
Lại
pháp thí là vì biết rõ
pháp thí là
tối thượng trong
bố thí nên
Bồ Tát thường thật
hành pháp thí.
Ái ngữ là những sự
lợi ích được
diễn thuyết.
Lợi hành là
diễn đạt nghĩa ấy chẳng
y theo văn.
Đồng sự là muốn khiến
viên mãn tất cả
Phật pháp nên thường vì
chúng sanh theo đúng chỗ đáng dạy mà
hóa độ họ.
Lại
bố thí là
Đàn na Ba la mật.
Ái ngữ là
Thi la Ba la mật và
Sằn đề Ba la mật. Lợi hành là Tỳ lê gia
Ba la mạt.
Đồng sự là
Tĩnh lự Ba la mật và
Bát Nhã Ba la mật.
Lại
bố thí là chư
Bồ Tát sơ phát tâm.
Ái ngữ là chư
Bồ Tát đã phát hạnh. Lợi hành là chư
Bồ Tát bất thối chuyển.
Đồng sự là chư
Bồ Tát nhứt sanh
bổ xứ.
Lại
bố thí là muốn
vững chắc gốc rễ
Bồ đề.
Ái ngữ là muốn
thành tựu mầm mộng
Bồ đề. Lợi hành là muốn khai phát
diệu hoa Bồ đề.
Đồng sự là muốn
thành thục thắng quả Bồ đề.
Nầy
Tinh Tấn Hành Đồng Tử ! Đây gọi là
đại Bồ Tát bốn thứ nhiếp pháp. Vì muốn
tu hành đại Bồ đề nên
đại Bồ đề dùng bốn nhiếp pháp ấy ở trong đêm dài
nhiếp thọ chúng sanh. Đây gọi là
đại Bồ Tát tùy theo nhiếp pháp mà chuyển.
Nầy
Đồng Tử ! Nhiếp pháp ấy có
vô lượng vô biên đều gọi là đạo
Bồ đề vậy.
Đức Đại Uẩn
Như Lai khai
thị đạo đại Bồ đề như vậy,
Tinh Tấn Hành Đồng Tử ở chỗ Phật
nghe pháp ấy rồi, lại
nghe lời khen ngợi
tam thế chư Phật ;
Đồng Tử ấy rất
vui mừng, liền đem
y phục thượng diệu, đồ uống ăn, mền nệm, thuốc men và các vật
cần dùng dưng cúng
đức Phật Đại Uẩn và chư
Thanh Văn Tăng.
Trải qua chín mươi sáu
câu chi năm
cúng dường cung kính tôn trọng tán thán Phật và tăng như vậy và
phát nguyện đại Bồ đề.
Dầu
Đồng Tử ấy làm
vô lượng công đức như vậy, mà
đức Phật Đại Uẩn chưa
thọ ký Vô thượng Bồ đề cho
Đồng Tử ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Ông có nghĩ
Đồng Tử Tinh Tấn Hành thưở
xưa kia là ai chăng ? Chính là thân ta vậy.
Thuở ấy ta
cúng dường,
phụng thờ Phật Đại Uẩn và
chư Tăng trải qua bao nhiêu năm như vậy lại
phát nguyện đại Bồ đề mà chưa được
thọ ký.
Từ sau đức Đại Uẩn
Như Lai diệt độ trải qua vô số kiếp, có Phật Bửu Tánh
Như Lai xuất thế có tám mươi
na do tha đệ tử Thanh Văn đều là
đại A La Hán chứng được
Đệ nhứt Ba la mật.
Thời kỳ ấy có Chuyễn Luân
Thánh Vương tên
Thiện Kiến đủ
bảy báu. Vua
Thiện Kiến dùng luân bửu oai trấn
tứ thiên hạ, trị thế với
chánh pháp nên hiệu là
Pháp Vương, nhơn đức nuôi người được dân chúng mến trọng, cõi nước nhơn dân chỗ ở
rộng rãi.
Đại thành của vua ngự trị tên
Viên mãn , Đông Tây rộng mười hai
do tuần. Nam Bắc rộng bảy
do tuần,
an ổn giàu vui, nhơn dân đông mạnh, rất đáng mến thích, có nhiều
của báu, đồ dùng dư dật. Trong thành
Viên mãn ấy có
Trưởng giả tên
Thiện Huệ nhà
giàu có lớn.
Trưởng giả ấy đã từng
cúng dường chư Phật
quá khứ gieo trồng cội
công đức.
Bấy giờ Phật Bửu Tánh
Như Lai quan sát Trưởng giả Thiện Huệ biết
Trưởng giả ấy
thiện căn đã thục kham làm
pháp thí đại Bồ Tát tạng và là
pháp khí chư Phật .
Đức Phật liền đến nhà
Trưởng giả ấy
hiện đại thần biến,
ngồi kiết già trên không
khai diễn đạo
Bồ đề cho
Trưởng giả ấy và nói
lời khen tặng
tam thế chư Phật.
Nghe đức Bửu Thắng
Như Lai thuyết pháp khai thị và
nghe lời khen ngợi
tam thế chư Phật,
Trưởng giả Thiện Huệ được
lòng tin thanh tịnh vui mừng lớn, liền đem
y phục thượng diệu đồ uống ăn mền nệm thuốc men đồ
cần dùng cúng dường Phật và
chư Tăng trải qua ngàn năm và
phát nguyện đại Bồ đề.
Dầu vậy vẫn chưa được Phật Bửu Tánh
thọ ký.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Trưởng giả Thiện Huệ thuở xưa ấy chính là thân ta vậy.
Thuở ấy ta
cúng dường Phật và Tăng một ngàn năm vẫn chưa được
thọ ký thành Phật.
Sau khi Phật Bửu Tánh
nhập diệt vô số kiếp có
đức Phật Phóng Quang NHư Lai xuất thế. Tại sao
đức Phật ấy hiệu là
Phóng Quang ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Thuở ấy nhà vua trị vì hiệu là Thắng Oán, đô thành tên Thạnh
Liên Hoa,
an ổn giàu vui, nhơn dân đông mạnh. Nhà vua có một đại thần dòng
Bà La Môn tên Quang Chủ rất được vua mến trọng. Thắng Oán Vương cắt một phần tư nước phong vương cho đại
thần Quang Chủ. Lúc sau vua Quang Chủ sanh
Thái Tử thân hình đoan chánh có đủ ba mươi hai
tướng đại trượng phu, mỗi
thân phần đều phóng
tia sáng như mặt nhựt chói lọi, nhơn đó đặt tên là
Phóng Quang.
Quang Chủ Vương
triệu tập các nhà
xem tướng giỏi vào cung rồi đưa TháiTử ra cho họ
xem tướng. Xem xong họ đồng quyết đoán Vương Tử sẽ
làm Phật. Sau đó ít lâu
Thái Tử Phóng Quang trưởng thành có
trí huệ thông đạt.
Bấy giờ
Trời Tịnh Cư Sắc
Cứu Cánh dùng sức thông trí biết
Thái Tử sắp
lên ngôi Chánh giác, liền đến chỗ
Thái Tử hữu nhiễu xong, ở trước
Thái Tử mà nói kệ rằng :
Chẳng phải ở an trong Vương cung
Sanh được
công đức thắng
thanh tịnhPhải nhờ
xuất gia mặc
ca saChứng quả Vô thượng diệu
Bồ đềTrẻ mạnh qua mau như nước chảy
Lại còn nhanh chóng hơn gió to
Già suy
tồi tệ chẳng nên ưa
Hư hoại những gì người đời mến
Già suy hay làm kém
thế lựcMuốn được
xuất gia cũng khó được
Bồ Tát ngày nay tuổi tráng niên
Phải nên kịp thời phát
tinh tấnLành thay lành thay bực
đại huệLành thay lành thay bực
đại ngộLành thay lành thay mau
xuất giaQuyết thành
Vô thượng Đẳng chánh giác.
Được
trời Tịnh cư khai ngộ,
Phóng Quang Bồ Tát do
lòng tin thanh tịnh mà
xuất gia. Đương đêm
xuất gia ấy liền thành
Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác lấy hiệu là
Phóng Quang Như Lai đủ mười
đức hiệu được tất cả trời người kính thờ
Bấy giờ Thắng Oán Vương đến bảo Quang Chủ Vương rằng : Ta nghe con trai khanh
xuất gia thành Phật. Chẳng rõ
đức Thế Tôn đại từ bi giáng lâm chăng ? Nếu
đức Phật chẳng
thương xót đến nơi đây, thì ta sẽ mang bốn binh chủng đến chỗ
đức Như Lai để ta thân
thờ cúng dường
cung kính.
Quang Chủ Vương liền hội đại thần tuyên rõ việc ấy. Chư đại thần khuyên vua phải tự đến chỗ Phật để bạch hỏi sự việc đức
đại bi Thế Tôn luôn
thương xót chúng sanh muốn đến chỗ Thắng Oán Vương hay là chẳng đến.
Quang Chủ Vương liền xa giá cùng quan quân qua chỗ
đức Phật Phóng Quang đảnh lễ chưn Phật rồi bạch sự việc ấy.
Phóng Quang Như Lai nói với Phụ Vương rằng : Nay Phật sẽ đến chỗ Thắng Oán Vương vì
thương xót chúng sanh vậy !
Đức
Phóng Quang Như Lai liền cùng hai mươi
câu chi đại A La Hán đi qua nước Thắng oán Vương. Phụ Vương Quang Chủ cũng mang quan quân tùy tuần, sắm đủ thứ sự thường
cúng dường Phật và Tăng, đến
biên giới nước được trị vì, Phụ Vương lễ chưn Phật buồn khóc
trở về.
Bấy giờ Thắng Oán Vương
nghe tin đức
Phóng Quang Như Lai và
đại chúng sắp đến thành Thạnh
Liên Hoa, liền truyền
nghiêm sức đô thành, trừ bỏ sỏi đá rác rưới , đường sá sửa sang bằng phẳng sạch sẽ, lại rưới nước hương,
rải hoa đẹp, trải y báu, treo phan lọng, trổi
âm nhạc. Vua lại truyền rao trong và ngoài đô thành có bao nhiêu hương và hoa không ai được đem dùng, nhà vua sẽ mua hết để
cúng dường Phật và Tăng, người nào
vi lịnh sẽ bị
nghiêm phạt.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thắng Oán Vương đem những
vòng hoa, hương thoa hương bột,
y phục quý đẹp,
tràng phan lọng báu, đánh trống trổi nhạc, lai trần thiết nghi vệ oai
thế đại vương ra ngoài đô thành để được
chiêm ngưỡng đức
Phóng Quang Như Lai và
kính lễ cúng dường. Vua cùng quan quân và các hào tộc
Bà La Môn Trưởng Giả Cư Sĩ trong nội thành đồng đến chỗ Phật. Đã đến rồi, trước hết vua Thắng Oán
đảnh lễ chưn Phật đem hoa hương phan lọng
cúng dường. Kế vua truyền lịnh quan quân hào tộc dân chúng cùng đảnh lẽ
cúng dường đức Phật.
Cúng dường xong vua Thắng Oán có đủ tâm
hoan hỉ, tâm diệu thiện, tâm
ly cái chướng, tâm vui đẹp cùng chư thần dân
theo sau đức Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất !Lúc ấy có một
Bà La Môn tên Trân Bửu ở cạnh núi Đại Tuyết, năm trăm
nho đồng tử làm
đệ tử,
Bà La Môn Trân Bửu ấy được
mọi người tôn trọng,
danh đức đồn xa, giỏi nghệ thuật, thong đạt
cứu cánh ba kinh
Tỳ Đà, sách
Ni Kiền Trà, luận Kế
La Bà, luận
Phân Biệt Tự, luận Ý Để Ha Bà, luận
Ngũ Phần Ký, luận
Tùy Thuận Thế, luận Từ
Tự Chủ, luận
Trượng Phu Tướng, ở nơi
tam minh đại giáo của sự
tông sư cũng hiểu rành
lý thú khéo biết khai giá. Trong năm trăm
đệ tử có một
nho đồng tên Mê Già
trí huệ thông đạt tài bằng với Thầy là
Bà La Môn Trân Bửu, kham làm đạo Thủ, Mê Già thưa cùng Thầy rằng :
Đại Sư nên biết cho, tất cả
kinh luận được học đều đã
thông đạt, nay tôi sẽ
trở về sanh quán, làm sao
báo đền được
ơn đức Đại Sư ? Thầy bảo rằng : Nầy Mê Già! Nếu
đệ tử muốn
báo ơn Thầy thì dùng
của báu mới rõ
hậu ý. Đó là những gì ? Nếu kiếm được đủ năm trăm đồng vàng thì đủ để tỏ
hết lòng.
Mê Già
vâng lời kính lễ từ Thầy mà đi.
Nho đồng ấy
du hành khắp thôn thành đình quán quốc ấp vương đô, xứ xứ tìm cầu
của báu để
tạ ơn thầy. Họp đủ số tiền ấy rồi toan đem
báo ơn, đi lần đến đô thành Thạnh
Liên Hoa, xa trông thấy đô thành trang
trí nghiêm lệ,
hỏi thăm được biết ngày ấy có đức Phóng
Quang
Như Lai cùng hai mươi
câu chi đại A La Hán và tám vạn bốn ngàn
Bồ Tát sắp nhập đô thành nên nhơn dân sắm sửa
cúng dường lớn, do đó mà đô thành được
trang nghiêm như vậy.
Thoạt nghe
danh hiệu Phật,
Nho đồng Mê Già được đại
hoan hỉ phát
lòng tin thanh tịnh tự nghĩ rằng :
Chư Phật Như Lai xuất thế rất khó được gặp cũng rất khó như
hoa ưu đàm, như
rùa mù đáy biển gặp được bọng cây nổi, cả trăm ngàn
đại kiếp hoặc được gặp
một lần. Nay ta được gặp thật là
hy hữu, phải đem năm trăm đồng vàng nầy mua hoa quí rải cúng dâng lên đức
Phóng Quang Như Lai, rồi sẽ lại kiếm tiền khác
báo ơn thầy.
Lúc ấy có một nữ nhơn tay ôm bảy cành bông
ưu bát la từ phía chợ đi lại. Mê Già đón hỏi nơi nào có được hoa đẹp sanh
dưới nước thế nầy. Nữ nhơn đáp tôi ở tại chỗ bán
vòng hoa mua những hoa nầy với giá năm trăm đồng vàng. Mê Già nói nay tôi trả lại cô số vàng ấy cô có chịu trao hoa chăng ? Nữ nhơn chẳng chịu. Mê Già lại nói : Nay tôi có năm trăm đồng vàng đây cô giữ lấy
một mình. Còn bảy cành hoa nầy hai người cùng có chung được chăng ? Nữ nhơn hỏi, anh muốn dùng hoa nầy vào việc gì ? Mê
Già đáp sẽ đem
cúng dường đức
Phóng Quang Như Lai. Nữ nhơn nói cứ như lời anh thì từ nay về sau
đời đời thường có lòng thương tưởng làm chồng tôi. Nếu chịu như vậy tôi sẽ giao cho anh hoa nầy. Mê Già nói : Thôi đi, cô chớ nói như vậy. Tại sao ? Vì tánh nữ nhơn
giao động nhẹ dạ nhiều
phóng túng, tôi không thể hứa nhận lời cô được. Vả lại tôi sẽ ở trong
vô số kiếp
tu tập Phật pháp bố thí rộng lớn, hoặc của tiền sản nghiệp, hoặc ngôi vua thành ấp, hoặc
vợ con, hoặc đầu
mắt thịt xương,
đại khái là tất cả
sở hữu trong thân ngoài thân, không vật gì là chẳng đem
bố thí. Hoặc có lúc sẽ bỏ cô mà vào trong
Phật pháp xuất gia. Tánh nữ nhơn
giao động nhẹ dạ
phóng túng, lúc tôi tu
bố thí lớn cô có thể làm
chướng ngại hạnh
đại xả của tôi. Nữ nhơn ấy đáp : Thiệt như lời anh nói thì có
lợi ích lớn cho tôi. Dầu cho hiện nay anh có dem thân của tôi đây bán lấy một đồng vàng, lòng tôi cũng không hối, quyết chẳng làm ngại sự
bố thí của anh. Hoặc chặt thân tôi ra từng đoạn để
xả thí, quyết cũng không đổi lòng làm trở ngại sự
tu tập Phật pháp của anh. Mê Già nói nếu cô có thể bằng lòng như
vậy thì được. Cô nên mau trao hoa cho tôi. Nữ nhơn cầm hoa trao cho Mê Già.
Được hoa Mê Già tức thì đi đến chỗ Phật, xa trông thấy Đức
Phóng Quang Như Lai cùng
vô lượng đại chúng oai nghi tường tự
vô lượng trăm ngàn
công đức trang nghiêm từ đầu kia đi lại.
Thấy
đức Phật Thế Tôn, Mê Già sanh
lòng tin thanh tịnh vô lượng hoan hỉ kính mến đến trước Phật kính lạy chẳng xiết
vui mừng. Lại thấy nhiều người trải y
vô giá để
cúng dường Phật. Mê Già tự nghĩ rằng nay tôi không có y tốt, chỉ có cái y da hươu xấu này nên trải giữa đường đở chưn
đức Phật. Liền cởi y trải trên đất.
Lúc ấy mọi người đua nhau đến lấy y da đem bỏ ngoài xa và đều cười trách rằng sao lại vì đấng báu quí nhứt
trong đời mà lại trải cái y da hươu xấu ấy. Mê Già
Nho đồng vội chạy lượm y da rồi đem trải trên chỗ bùn ướt bên đường ngã tư mà nghĩ rằng
Phóng Quang Như Lai, đấng
đại từ bi thương xót tôi mắt thấy khắp của Phật và trí biết khắp của Phật thấy biết việc nầy mong Phật lấy chưn đạp lên y da hươu của tôi.
Phóng Quang Như Lai cảm thương bèn lấy gót chưn dẫm lên y da hươu. Thấy vậy, Mê Già lòng
vui mừng hớn hở liền đem
hoa ưu bát la ném lên không phiá trên
đức Phật. Trên
hư không lại có
vô lượng chư Thiên đồng thời rải hoa trời
mạn đà la,
ưu bát la, bát đầu ma,
câu vật đầu, phân đà lợi, và các thứ hương trời :
chiên đàn, hương bột.
Âm nhạc trời, thanh ca trời vang khắp
hư không cùng
cúng dường Phật. Hoa của Mê Già ở riêng một chỗ trên không
biến thành vô lượng ngàn
hoa ưu bát la, cánh hoa đều thòng xuống hiệp thành lộng hoa bay theo trên Phật.
Thấy như vậy, Mê Già thêm hớn hở
phát khởi lòng tin thanh tịnh ở trước Phật tháo mở búi tóc màu
hoàng kim mười hai năm để trải trên đất và
phát nguyện Vô thượng đại Bồ đề :
đời sau nếu tôi được
thành Phật, thì nay xin được đức
Phóng Quang Như Lai đưa tay
an ủi. Lại phát thệ lớn
kiên cố rằng : Nếu
đức Phật gót chẳng đạp trên tóc tôi, tay chẳng đưa
an ủi tôi, chẳng
thọ ký Bồ đề cho tôi, thì tôi quyết chẳng
đứng dậy mà chết khô trên chỗ đất nầy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Phóng Quang Như Lai Ứng Cúng Đẳng chánh Giác có mắt thấy khắp, có trí biết khắp, trong
ba đời không sự việc gì mà chẳng thấu tỏ, biết rõ dục giải của Mê Già nên
đức Phật cất gót dẫm lên tóc Mê Già rồi, ngoái ngó bên
hữu bảo chư
Thanh Văn đại chúng rằng : chư
Tỳ kheo chớ đạp tóc nầy. Tại sao ? Vì
nho đồng nầy sau đây
vô số kiếp sẽ
thành Phật hiệu
Thích Ca Mâu Ni.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Lúc ấy Mê Già nghe
Phật thọ ký hớn hở
vui mừng liền bay lên
hư không cao bảy
cây đa la, chứng được trăm ngàn
câu chi na do tha chánh định vô động, do
thần thông trí lực xem thấy phương đông có
hằng sa vô lượng chư Phật đều
thọ ký cho mình rằng.Nầy
nho đồng ! Sau đây
vô số kiếp, ngươi sẽ
thành Phật hiệu
Thích Ca Mâu Ni . Ba phương kia và
bốn hướng thượng hạ
mười phương chư Phật thọ ký cũng như vậy.
Được chư
Phật thọ ký
an ủi rồi, Mê Già từ trên không xuống đến chỗ Phật do
lòng tin mà
xuất gia tu tập phạm hạnh kiên cố thanh tịnh.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Nho đồng Mê Già
thuở ấy chính là thân ta vậy. Nếu có
đại Bồ Tát muốn sớm được
Phật thọ ký thì nên ở nơi
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nghe tụng
hiểu biết nghĩa dạy lại người, lại nên
tu hành chánh hạnh vô tướng. Tại sao ? Vì ta nhớ lúc trước gặp đức
Phóng Quang Như Lai, không có
pháp hạnh bạch tịnh nào mà ta chẳng
tu hành. Dầu
vô lượng cần khổ như vậy nhưng chẳng được
Phật thọ ký. Tại sao ? Vì là
hữu tướng tu. Sau đó ta mới ở nơi
pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng nghe học an trụ
chánh hạnh, đó là
vô tướng hạnh,
vô công dụng hạnh,
vô sở đắc hạnh. Tu hạnh
vô tướng như vậy nên được đức
Phóng Quang Như Lai thọ ký.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Ta nhớ
lúc đầu mới gặp đức
Phóng Quang Như Lai ta được siêu quả tất cả hạnh
hữu tướng hữu công dụng. Lúc mới thấy Phật ta được tùy
giác tánh tất cả pháp , lại được
thông đạt tự tánh vô sanh của tất cả pháp. Kế đó
đức Phật thọ ký cho ta rằng Mê Già
nho đồng sau đây
vô số kiếp sẽ
thành Phật hiệu
Thích Ca Mâu Ni. Đương lúc
Phật thọ ký, ta chứng được
vô sanh pháp nhẫn.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chứng được những
vô sanh pháp nhẫn gì ?
Ta chứng được : Tất cả
sắc pháp vô sở đắc nhẫn,tất cả thọ tưởng hành và thức
vô sở đắc nhẫn, tất cả
pháp uẩn xứ giới
vô sở đắc nhẫn.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nói được nhẫn là nhẫn thọ các pháp đều
vô sở đắc. Tại sao ? Vì chẳng phải lúc chứng được nhẫn như
vậy mà pháp
thế gian còn
hiện hành, chẳng phải pháp
dị sanh ,
pháp hữu học, pháp
vô học, pháp
Độc Giác, pháp
Bồ Tát, Pháp Phật mà còn
hiện hành. Tại sao ? Vì do tất cả pháp
thế gian xuất thế gian chẳng
hiện hành mà nói là đắc nhẫn, do tất cả
pháp cứu cánh không được cũng không bị được nên gọi là đắc nhẫn. Lại nhẫn ấy, trong một
sát na tận hết tất cả tướng và các
sở duyên nên gọi là đắc nhẫn. Lại nhẫn ấy chẳng nhẫn thọ nhẫn cũng chẳng hoại mất nhẫn và các
sở duyên nên gọi là đắc nhẫn, chẳng nhẫn thọ nhĩ tỷ
thiệt thân và ý cũng chẳng hoại mất nhĩ tỷ
thiệt thân và ý cùng các
cảnh duyên nên gọi là đắc nhẫn.
Nhẫn ấy không tận hết
cảnh giới cũng chẳng xu đến
cảnh giới nên gọi là đắc nhẫn.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì thế nên
đại Bồ Tát muốn mau được
Phật thọ ký chứng
vô sanh pháp nhẫn ấy, thì phải ở nơi
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nầy ân trọng nghe học
thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa thú rộng giảng dạy người, an trụ
chánh hạnh, đó là hạnh
vô tướng, hạnh
vô công dụng, hạnh
vô sở đắc, các hạnh ấy gọi là
chánh hạnh vậy”.
Bấy giờ trong
đại chúng có
trưởng giả tử tên
Na La Đạt Đa nghe
đức Thế Tôn nói
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, lại nghe
tán thán công đức của chư Phật chư
Bồ Tát rồi liền rời chỗ ngồi trạch vai hữu, gối hữu chấm đất, hướng
Phật đảnh lễ
cung kính chấp tay mà
bạch Phật rằng : “
Bạch Đức Thế Tôn, trước vì chư
trưởng giả nói rộng các pháp
tương tục bất tuyệt khai thị như vậy,
giáo đạo như vậy làm cho đều
chứng quả A La Hán, tức tại đời nầy tận hết mé
sanh tử, mà chưa từng nghe và nói
pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng và khen ngợi
công đức của chư Phật, chư
Bồ Tát. nay tôi
may mắn được nghe, được
lợi ích lớn nên phát sanh
quan niệm rằng :
Đại thừa như vậy là tôn là thắng là thượng là diệu, là
vô thượng là
vô quá thượng, đó là
Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nay tôi
hiện tiền được thân nghe
đức Phật nói
thọ trì lãnh ngộ mở tỏ các pháp. Các pháp ấy là
phân biệt các
pháp không chỗ nương nắm, không
ngã không ngã sở, không có
nhiếp thọBạch đức Thế Tôn ! Nay tôi nghĩ rằng : Trong tất cả thừa mà
vô thượng đó là
Phật thừa .
Chư Phật Như Lai cũng nói thừa ấy là tối
đệ nhứt, là tối
vô thượng. Từ ngày nay tôi
phát khởi tâm
Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì muốn làm
lợi ích an lạc các
chúng sanh, vì muốn
xót thương các
thế gian . Như
đức Phật xây dựng chư đại Bồ Tát bao nhiêu
học xứ, nay tôi sẽ đều
y theo học hết cả “.
Đức Phật bảo
trưởng giả tử
Na La Đạt La : “
Lành thay !
lành thay ! Nầy
thiện nam tử !
Vô thượng Bồ đề rất khó tin khó chứng, rất khó tu khó học. Nay ông có thể phát được tâm ấy”.
Trưởng giả tử
Na La Đạt La bạch
đức Phật : “
Vô thượng Bồ đề dầu rất khó tin khó chứng, rất khó
tu tập, nhưng nay tôi
phát khởi tâm
dũng mãnh tinh tấn quyết sẽ
tu tập Vô thượng Bồ đề chẳng lấy làm khó, lại ở nơi
Vô thượng Bồ đề ấy tôi phụng tu mạnh chắc quyết
không thối chuyển.
Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi phát
hoằng thệ :
Giả sử phát tâm Bồ đề như
số cát sông Hằng mới chứng được
Vô thượng Bồ đề, ở nơi sự ấy tôi càng
tinh tấn thêm mỗi mỗi đều
phát tâm như vậy
trải qua số kiếp như
hằng sa nhẫn đến
tùy theo chỗ
phát tâm ấy, mỗi mỗi chỗ phát phải do chặt đứt
hằng sa thân phần đầu mình mới
phát khởi được tâm
Bồ đề ấy, tôi ở trong sự
cần khổ ấy càng thêm
tinh tấn trọn chẳng
buông bỏ Vô thượng Bồ đề. Tại sao ? Vì
mặc dầu gặp phải những sự
đau khổ ấy vẫn phải
tu tập nhờ duyên ấy tất chứng
Bồ đề. Huống là chứng
Vô thượng Bồ đề thọ các
an lạc mà chẳng
tu học . Tại sao ? Vì
Vô thượng Bồ đề tánh nó cao rộng đầy đủ lớn khắp.
Phật pháp vô thượng chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể cân lường không có bờ mé chẳng thể tuyên nói. Dầu là
vô ngại trí của chư Phật trải trăm ngàn
câu chi na do tha kiếp dùng các ngôn âm tuyên nói
Bồ đề ấy chẳng dễ hết được.
Trưởng giả tử
Na La Đạt Đa ở trước Phật nói kệ rằng :
“Trăm ngàn
câu chi kiếp
Mới
phát Bồ đề tâmDầu nhiều khổ bức hại
Chẳng bỏ
chúng sanh giớiLúc
phát tâm Bồ đềCần chặt thân và đạo
Khối lượng bằng
Tu DiTôi cũng
kham nhẫn được
Tôi an trụ
Bồ đềVì
lợi lạc chúng sanhNguyện cho tôi
đời sauNhư
Thế Tôn ngày nay
Xa thừa
Thanh Văn kia
Gồm cứu người
hạ thừaNguyện tôi ở
đời sauNhư
Thế Tôn ngày nay
Thừa đây là
đại thừaĐược chư Phật
khen tặngTôi thấy không gì bằng
Nên tôi thích
Bồ đềvì cứu vớt nguy ách
Vì thoát ba
ác đạoVì cầu
Như Lai đây
Xuất thế hiện thành Phật “,
Nói kệ rồi,
Trưởng giả Na La Đạt Đa nghĩ rằng : Nay tôi
minh đạt Phật pháp quảng đại sao tôi chẳng đem
giáo hóa vợ con quyến thuộc.
Trưởng giả liền
đảnh lễ chưn Phật
hữu nhiễuba vòng rồi mau về nhà sắm đồ
cúng dường cùng
vợ con trai con gái và tôi trai tớ gái tất cả đồng có bảy người, mang bảy cặp
y phục thượng diệu và những hoa hương đồ
cúng dường với năm trăm nhạc công cùng nhau đi vội ra khỏi thành
Vương Xá để được phụng kiến
đức Thế Tôn.
Thấy vậy có nhiều người hỏi .
Trưởng giả tử ấy bảo
mọi người rằng: Nay có
đức Phật Như Lai Ứng
Đẳng Chánh Giác ở núi Linh Thứu,
vô lượng trăm ngàn trời người
đại chúng cùng hội.
Đức Phật dùng
vô lượng phương tiện vì
chúng sanh mà tuyên nói khai thị
Phật Pháp quảng đại , nên tôi đem
quyến thuộc đến chỗ
đức Phật ngự để cầu
Phật pháp quảng đại ấy, để cầu
thành tựu Phật trí huệ chẳng nghĩ bàn chẳng cân lượng được ấy , vì muốn gieo trồng cội lành
Vô thượng Bồ đề. Các người nếu muốn
thành tựu Phật pháp quảng đại thì nên cùng nhau đi đến chỗ
đức Phật Như Lai sẽ cùng gieo trồng cội lành
Phật pháp vô thượng quảng đại ấy.
Nghe xong có mười ngàn người ở thành
Vương Xá đều muốn
đi theo trưởng giả tử đến chỗ
đức Phật ngự.
Trưởng giả tử
Na La Đạt Đa cùng
quyến thuộc và mười ngàn người đồng đến chỗ Phật,
đảnh lễ chưn Phật rồi ở qua một bên.
Trưởng giả tử cùng
đại chúng tùy tùng đem hoa
hương y phục phan lọng trỗi nhạc
ca tụng cúng dường đức Như Lai, và đem
y phục báu đẹp trùm lên mình Phật.
Cúng dường xong ,
Trưởng giả tử
vui mừng vô lượng liền ở trước Phật
ca tụng ngợi khen nói kệ rằng :
“Đấng
trượng phu vi diệu đệ nhứtChứng
thanh tịnh Vô thượng Bồ đềPhát khởi vô biên thắng trí kiến
Nay tôi
cúng dường đức Như LaiXưa
vô lượng kiếp nhiều
tu hànhVì lợi
chúng sanh cầu đại giác
Chứng pháp tự tại hiện thành Phật
Nay tôi
cúng dường đức Như LaiTôi cùng
vợ con chúng
quyến thuộcVì lợi
chúng sanh cầu
Bồ đềVà cùng mười ngàn nhơn dân chúng.
Đồng chung
qui y đấng
Đại giác ”.
Trưởng giả tử nói kệ xong bạch
đức Phật : “ Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi cùng
đại chúng đây đến trước
đức Như Lai, tất cả đều đã an trụ
Vô thượng Bồ đề. Xin
đức Thế Tôn vì
thương xót mà lại
thuyết pháp cho họ chẳng còn
thối chuyển Vô thượng đạo. Nay tôi muốn ở chỗ Phật trồng cội lành xin
đức Thế Tôn hiện chứng cho tôi. Sẽ khiến sức
thiện căn ấy làm cho
chúng sanh bình đẳng mau chứng
Vô thượng Bồ đề, lại được
vô lượng Phật pháp quảng đại như
đức Phật hiện nay.
Trưởng giả tử cùng
quyến thuộc và năm trăm nhạc công mười ngàn nhơn chúng
nhứt tâm đồng thanh bạch Phật : “
Bạch đức Thế Tôn !
Chúng tôi nay ở trước
đức Như lai đồng
chí thành quy y với Phật,
quy y với Pháp,
quy y với Tăng. Xin
đức Thế Tôn ghi nhớ
chúng tôi là
Ưu Bà Tắc bắt đầu ngày nay nhẫn đến
thọ chung, thà bỏ
thân mạng chớ chẳng bỏ tâm tin
thanh tịnh quy y. Lại xin
đức thế Tôn ghi nhớ
chúng tôi , bắt đầu ngày nay
cho đến Bồ đề , vì
Vô thượng Bồ đề mà
phát khởi tâm
tăng thượng dũng mãnh. Lại xin
đức Thế Tôn ghi nhớ cho
chúng tôi, nguyện mau chứng
Vô thượng Bồ đề vì các
chúng sanh tuyên nói
chánh pháp như
đức Phật hiện nay. Lại xin
đức Thế Tôn ghi nhớ cho
chúng tôi, nguyện
đời sau lúc
thành Phật,
đại chúng vây quanh như
Phật hiện nay. Lại xin
đức Thế Tôn ghi nhớ cho
chúng tôi, nguyện
đời sau độ thoát vô lượng chúng sanh khổ bức như
Phật hiện nay.
Phát thệ xong,
Trưởng giả tử cùng
đại chúng và các nhạc công lại đem các thứ
âm nhạc vi diệu cúng dường đức PhậtVì thương
đại chúng ấy nên
đức Phật bay lên
hư không ngồi kiết già. Năm trăm nhạc công thấy
Phật hiện thần biến càng sanh
tín tâm đối với
đức Phật. Do oai lực của Phật, các nhạc khí chẳng cần nhiếp trì
tự nhiên bay vọt lên
hư không trỗi các bản
nhạc âm thanh
hữu nhiễu đức Như Lai.
Thấy
thần biến ấy,
Trưởng giả tử và
đại chúng đều cho là chưa từng có
vui mừng hớn hở , đồng
chấp tay kính lễ đức Như Lai.
Bấy giờ trên
hư không giáp vòng đúng một
do tuần lại có
vô lượng trăm ngàn nhạc khí
tự nhiên hiện ra như ổ ong treo
lơ lửng không ai cầm giữ , nhạc khí ấy đồng hòa tấu âm điệu
vi diệu.
Trưởng giả tử cùng
quyến thuộc, năm trăm nhạc công, mười ngàn người thành
Vương Xá, vá
pháp hội đại chúng sáu mươi ngàn người, chư
Tỳ kheo ngàn hai trăm năm mươi người, do oai lực Phật đều bay vọt lên
hư không. Lại do
thần lực của Phật, trên
hư không hiện ra năm trăm nhạc đài, trong đài ấy đều nói
diệu pháp. Lại có bốn đài nhạc lớn hiện trước Phật
trang nghiêm điêu sức đẹp lạ khác
thế gian. Lại có
vô lượng trăm ngàn
câu chi chư Thiên chúng đứng trên không
rải hoa mạn đà la trên
đức Phật. Do
thần lực của Phật, hoa ấy ở trên không
hóa thành tám vạn đài báu cao đẹp.
Đại chúng thấy trong đài trên ấy có những
trang nghiêm rộng lớn như vậy, nên đối với
đức Như Lai càng thêm sanh
lòng tin mến kính khen chưa từng có.
Đức Thế Tôn biết
đại chúng tâm tưởng thanh tịnh, lại biết rõ
Trưởng giả tử
Na La Đạt Đa và chúng mới đến có
ý nguyện thanh tịnh rồi ,
đức Phật hiện mĩm cười, nơi điện môn của
đức Phật phóng ra
vô lượng tia sáng báu đẹp chiếu suốt
mười phương vô lượng chư
Phật quốc độ rộng
làm Phật sự rồi
quay về nhập vào đảnh
đức Phật.
Trưởng lão A Nan liền trịch y vai hữu hướng Phật
chấp tay cung kính làm lễ bạch
đức Phật : “ Bạch dức
Thế Tôn ! Có
nhơn duyên gì mà
đức Phật hiện mĩm cười ? Tôi nghĩ rằng
đức Như Lai hiện
thần biến tất có
nhơn duyên ”.
Đức Phật phán dạy : “ Nầy
A Nan !
Trưởng giả tử
Na La Đạt Đa và
vợ con trai con gái tôi trai tớ gái, ba mươi sáu người nầy do sức
thiện căn cúng dường Phật, đời tương lai trải ngàn
câu chi kiếp chẳng đọa
ác đạo mà qua lại sanh trong trời người hưởng thọ khoái lạc. Qua khỏi kiếp ấy gặp Phật
Thương Chủ xuất thế đủ mười
đức hiệu. Ở nơi
đức Phật ấy họ
cúng dường cung kính tôn trọng tán thán rộng tu
phạm hạnh. Sau đó
trải qua hai mươi
câu chi kiếp chẳng đọa
ác đạo.
Nầy
A Nan ! Bảy người vợ bảy con gái và bảy tớ gái của
Trưởng giả tử ấy từ thân nầy
mạng chung bèn bỏ thân gái được
thành thân nam tử hằng chẳng rời
Na La Đạt Đa cùng tu
Bồ Tát đạo, đời
đương lai đồng ở trong một kiếp thành
Vô thượng Bồ đề.
Na La Đạt Đa đại Bồ Tát thành Phật hiệu
Bình Đẳng Tâm Như Lai đủ mười
đức hiệu . Tất cả
quyến thuộc sẽ
thành Phật đều đồng hiệu A Nhã Mạt Nhã
Như lai đủ mười
đức hiệu. Năm trăm nhạc công
đời sau trải
vô số kiếp chẳng đọa
ác đạo, lại
trải qua làm dực tùng mãn ngàn
câu chi Chuyển Luân Vương ,
Đại lược mà nói, năm trăm nhạc công nầy ở trong kiếp ấy gặp mười ngàn
đức Phật đều được gần gũi
cúng dường không sót, sau đó đồng ở trong một kiếp thành
Vô thượng Bồ đề đều hiệu
Mỹ Âm Như Lai đủ mười
đức hiệu. Mười ngàn người thành
Vương Xá đây do sức
thiện căn cúng dường Phật. Bốn trăm nguời trong số đó sẽ gặp
Từ Thị Như Lai và đều tu
phạm hạnh được
lậu tận mà
nhập Niết bàn. Số người còn lại
trải qua số kiếp hằng sa chẳng đọa
ác đạo, lần lược được gặp ngàn
câu chi đức Phật và rộng
tu Bồ Tát hạnh, sau đó tất cả được thành
Vô thượng Bồ đề đều đồng một hiệu Thậm
Hi Hữu Như Lai đủ mười
đức hiệu.
Nầy
A Nan ! Trong
chúng hội sáu vạn đây có một ngàn người sau khi ta
diệt độ chánh pháp đã hết, lại qua khỏi kiếp đao binh .
Từ Thị Như Lai chưa
xuất thế ,
thời kỳ chúng sanh thọ mạng lần
tăng trưởng, Thiện Bộ Châu có tám vạn
Độc Giác xuất thế, ngàn người ấy đều được gặp và
cúng dường tu pháp lành, sau đó gặp
Từ Thị Như Lai và
cúng dường , sau đó
trải qua hai mươi lăm
câu chi kiếp chẳng đọa
ác đạo, thân
tối hậu làm người do sức
thiện căn phát khởi tỉnh ngộ lòng tin thanh tịnh xuất gia chứng ngộ Duyên Giác Bồ đề. Trong
đại chúng ấy có mười ngàn người phát sanh
thành kiến ,
ngoài ra đồng
phát tâm Vô thượng Bồ đề. Lại còn có sáu mươi
na do tha Thiên Tử xa trần rời cấu
sanh pháp nhãn
thanh tịnh đối với các pháp.
Nầy A Nan! Có ai được thấy
thắng lợi đặc biệt nầy mà chẳng
phát khởi lòng tin thanh tịnh mến ưa
cung kính phát tâm hi hữu đối với
đức Như Lai. Chỉ trừ người
ngu si bất tiếu . Tại sao ? Vì những
đại chúng ấy ở nơi
đức Như Lai chỉ tu căn lành nhỏ mà được
lợi ích lớn như vậy, hoặc lại
chứng nhập Vô thượng Bồ đề”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã ấy mà nói kệ rằng :
“Ở chỗ Phật tu những
cúng dườngĐược
công đức thù thắng như đây
Nếu có mong cầu quả cao lớn
Nên
cúng dường chư
đại Đạo SưHoặc
Phật hiện tại tu
cúng dườngHoặc
thời kỳ Phật đã
Niết bànCúng dường Xá Lợi như hột cải
Thường được hầu kề chư
Như LaiNếu lại muốn tu các
cúng dườngNhư Lai ở đời hoặc
Niết bànCúng dường Xá lợi như hột cải
Hành
tâm bình đẳng quả
bình đẳngNếu người có
tu tâm bình đẳngCúng dường đấng thượng trong
bình đẳngSẽ thành
báo thù thắng
bình đẳngVà chứng diệu
Bồ đề bình đẳngNếu người muốn nhiếp các
thiện đạoNgăn chướng trừ tuyệt các
ác đạoVà muốn
xu hướng đường
Niết BànSẽ được như vậy chẳng là khó
Phật có đủ
thi la thanh tịnhPhật có đủ
tam muội thanh tịnhNgười sanh
lòng tin thắng
thanh tịnhSẽ được quả
Như Lai tối thắngNếu tu
tối thắng các
cúng dườngMau lên
thiện đạo tối
thù thắngVà chứng
chánh kiến đấng
tối thắngTuyên nói pháp
vi diệu tối thắngNếu thích làm người trí
sáng suốtThân trì Phật
chánh pháp thanh tịnhNên tu nguyện muốn chánh
mãnh lợiĐa văn như lý
chánh tư duyCó người được làm
Chuyển Luân VươngHoặc làm
Đế Thích Phạm Thiên VươngRộng tu
vô lượng thắng công đứcQuyết được
vô dư đại Niết Bàn”.
Đức Thế Tôn nói tụng kệ xong, bảo
Trưởng lão Xá Lợi Phất: “Nếu có
thiện nam tử ,
thiện nữ nhân an trụ
Đại Thừa muốn mau chứng được
Vô thượng Bồ Đề, phải ở nơi
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng phát khởi nguyện muốn nghe học
thanh tịnh mãnh lợi ân trọng, nghe rồi
thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa thú rộng giảng dạy
mọi người. Tại sao? Vì ở nơi kinh này mà nghe học
thọ trì nhẫn đến rộng giảng dạy
mọi người thì hay khiến
Tam Bảo chẳng
đoạn tuyệt, thường chẳng xa rời bốn hạnh
vô lượng, thường siêng
tu tập sáu Ba la mật, thường chánh
phương tiện dùng bốn nhiếp pháp nhiếp hóa
chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Pháp môn vi diệu Đại thừa đại Bồ Tát tạng tức là
Bồ Tát đạo, vì
kinh điển này hay nhiếp trì
Vô thượng Bồ đề vậy.
Này
Xá Lợi Phất ! Kinh này là thánh trân bửu tạng của chư
Bồ Tát. Ta
y theo kinh này chánh
tu học rồi,
cứu cánh chứng được
sanh tử dứt hẳn và chứng tất cả
Ba la mật. Do
chứng như vậy nên ta hiệu là đấng
Chánh đẳng Chánh Giác vô thượng.
Này
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai ở nơi tất cả
Ba la mật đều đã
cứu cánh.
Đức Như Lai ở nơi tất cả
việc làm đều đã lặng dứt.
Đức Như Lai ở nơi tất cả địa đều đã chứng được và còn chứng được địa
vô biên. Tại sao ? Do
đức Phật chứng các
Ba la mật ấy nên hay
cứu cánh an trụ tất cả
pháp Ba la mật.
Vì thế nên
chư đại Bồ tát phải ở nơi
pháp môn vi diệu đại Bồ tát tạng này mà
tinh tấn tu hành như chỗ Phật đã chứng được”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Nơi nghiệp phải biết nghiệp
Nơi báo phải biết báo
Không nghiệp cũng không báo
Là
Niết bàn an ổnCác
hữu vi đều khổ
Trong ấy không có trí
Thế nên trí sanh rồi
Hữu vi đều giải thoát”.
Đức Thế Tôn nói kệ xong, Trưởng Lảo
Xá Lợi Phất và các
Tỳ Kheo, cùng Thiên Nhơn
Bát Bộ tất cả
đại chúng nghe lời Phật nói đều rất
vui mừng tín thọ phụng hành.
Pháp hội Bồ tát tạng thứ mười hai
HẾT TẬP III