KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XIX
PHÁP HỘI
ÚC GIÀ TRƯỞNG GIẢ
THỨ MƯỜI CHÍN
Hán dịch: Tào Nguy, Pháp Sư Khương Tăng Khải
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy tôi nghe một lúc
đức Phật ở nước
Xá Vệ tại
tinh xá cấp Cô Độc trong rừng Kỳ Đà cùng
Tỳ Kheo Tăng ngàn hai trăm năm mươi người câu hội,
Bồ Tát năm ngàn người:
Di Lặc Bồ tát,
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đoạn
Chánh Đạo Bồ Tát,
Quan Thế Âm Bồ Tát,
Đắc Đại Thế Bồ Tát,
chư đại Bồ Tát như vậy làm
thượng thủ.
Bấy giờ
đức Thế Tôn cùng
vô lượng trăm ngàn
đại chúng cung kính vây quanh mà
diễn thuyết pháp.
Úc Già Trưởng giả cùng năm trăm
quyến thuộc ra khỏi thành
Xá Vệ đến
Kỳ Hoàn tinh xá lễ chưn Phật nhiễu ba vòng rồi ngồi một phía.
Lại có Ái Kính
Trưởng giả, Danh Xưng
Trưởng giả, Thiện Giữ
Trưởng giả, Gia Xa
Đạt Đa Trưởng giả,
Thiện Tài Trưởng giả,
Ái Hành Trưởng giả,
Cấp Cô Độc Trưởng giả, Long Đức
Trưởng giả, Thiệt Hỉ
Trưởng giả. Các
Trưởng giả này đều riêng cùng năm trăm
Trưởng giả câu hội ra khỏi thành
Xá Vệ đến
tinh xá Kỳ
Hoàn lễ chưn Phật nhiễu ba vòng rồi ngồi một phía.
Các
Trưởng giả ấy cùng các
quyến thuộc tất cả đều hướng
Đại thừa trồng
thiện căn dày,
quyết định đến
chánh đạo vô thượng.
Bấy giờ
Úc Già Trưởng giả biết các
Trưởng giả đã
vân tập xong, thừa Phật
thần lực hướng Phật
chắp tay bạch rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn có chỗ thưa hỏi xin thương mà hứa cho”.
Đức Phật phán :”Nầy
Trưởng giả !
Như Lai sẽ nghe,
cho phép ông hỏi, Phật sẽ theo chỗ ông hỏi mà
diễn thuyết cho ông hết nghi vui mừng”.
Úc Già Trưởng giả bạch rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu các
thiện nam thiện nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề, hiểu
Đại thừa, tin
Đại thừa, muốn tập họp
Đại thừa, muốn ngồi lên
Đại thừa, biết
Đại thừa hộ các
chúng sanh an úy phủ dụ, muốn
an lạc trang nghiêm vững chắc tất cả
chúng sanh, muốn độ kẻ chưa độ, thoát kẻ chưa thoát, an úy kẻ không được an úy,
Niết bàn kẻ chưa
Niết bàn, làm cầu đò lớn chở vác tất cả, nghe
Phật trí vô lượng muốn
tu Phật trí, phát
đại trang nghiêm, biết trong
sanh tử có
vô lượng khổ hoạn nơi
vô lượng vô số kiếp không lòng ưu não,
vô lượng kiếp lưu chuyển sanh tử mà không lòng mỏi mệt. Nếu trong đây có
thiện nam thiện nữ an trụ
Bồ Tát thừa hoặc người
xuất gia tu tập pháp hành, hoặc người
tại gia tu tập pháp hành.
Lành thay đức Thế Tôn, vì thương
chúng Thiên nhơn
A Tu La mà
đức Thế Tôn thủ hộ Đại thừa chẳng dứt ngôi Tam bửu, vì
Nhứt thiết trí mà ở lâu
thế gian.
Xin
đức Thế Tôn diễn nói chỗ
giới đức tu hành của hàng
tại gia Bồ Tát.
Thế nào là
tại gia Bồ Tát ở bực
tại gia,
đức Như Lai truyền dạy
tùy thuận tu hành chẳng tổn
hoại pháp trợ
Bồ tát, ở trong hiện
pháp không có nghiệp trói che được
công hạnh tăng thắng.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là
xuất gia Bồ Tát xa bỏ trân bửu
ân ái mà đi
xuất gia, nên bảo các vị ấy
hành pháp thế nào,
tu thiện thế nào, nên trụ thế nào, chẳng nên trụ thế nào”.
Đức Phật phán : “
Lành thay,
lành thay, nầy
Úc Già Trưởng giả ! Như lời ông hỏi là chỗ phải làm của các ông. Các ông lắng nghe khéo
suy nghĩ. Nay Phật sẽ vì các ông mà nói chỗ trụ học được
công hạnh thù thắng của các
Bồ Tát tại gia và
Bồ Tát xuất gia.
Nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia phải
quy y Phật quy y Pháp quy y Tăng. Đem
công đức Tam bửu ấy
hồi hướng đạo chánh chơn
vô thượng.
Thế nào là
Bồ Tát tại gia quy y Phật ?
Tôi muốn được
thành thân Phật đủ ba mươi hai tướng
trang nghiêm, nắm lấy căn lành ấy tập họp ba mươi hai
tướng đại trượng phu, vì tập họp mà siêng
tu hành tinh tấn. Đây gọi là
quy y Phật.
Thế nào là
Bồ Tát tại gia quy y Pháp ?
Bồ Tát này
cung kính Pháp và người
thuyết pháp, vì pháp muốn pháp ưa pháp, rất ưa trợ pháp, trụ
pháp trì pháp hộ pháp, ở vững nơi pháp,
ca ngợi nơi pháp, trụ nơi
pháp hạnh, tăng thêm pháp, cầu được pháp, dùng pháp làm
sức mạnh, dùng pháp làm khí trượng, chỉ có pháp là công vụ, tôi thành
Vô thượng Bồ đề rồi sẽ đem
chánh pháp bình đẳng ban cho tất cả
chúng sanh Trời Người
A Tu La. Đây gọi là
quy y Pháp.
Thế nào là
Bồ Tát tại gia quy y Tăng ?
Bồ tát này thấy bực
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán và cùng
phàm phu, thấy người
Thanh Văn thừa thảy đều kính thuận mau
tiếp rước lời
tốt tiếng hay đi nhiễu
cung kính. Phải tự nghĩ rằng lúc
chúng tôi được đạo chánh chơn
vô thượng vì
thành công đức Thanh Văn mà
diễn thuyết pháp. Dầu
cung kính người
Thanh Văn thừa mà không có
tâm an trụ trong ấy. Đây gọi là
quy y Tăng.
Nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia thành tựu bốn pháp
quy y Phật, đó là chẳng bỏ tâm
Bồ đề, chẳng phế khuyên
phát tâm Bồ đề, chẳng bỏ
đại bi, ở trong các thừa khác trọn chẳng sanh tâm.
Bồ Tát tại gia thành tựu bốn pháp
quy y Pháp, đó là ở nơi
chư Pháp Sư thời thân cận nương gá,
nghe pháp rồi khéo
suy nghĩ, đem pháp được nghe nói lại cho người, đem
công đức thuyết pháp hồi hướng đạo chánh chơn
Vô thượng.
Bồ Tát tại gia thành tựu bốn pháp
quy y Tăng, đó là nếu có ai chưa nhứt định vào
Thanh Văn thừa thì khuyên
phát tâm vô thượng đạo, hoặc dùng của vật để nhiếp hoặc dùng
chánh pháp để nhiếp người, nương gá Tăng
Bồ Tát bất thối mà chẳng nương gá Tăng
Thanh Văn, cầu
công đức Thanh Văn mà
tâm không an trụ trong ấy.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia thấy
Như Lai rồi
tu tập niệm Phật đây gọi là
quy y Phật, nghe
chánh pháp rồi
tu tập chánh pháp đây gọi là
quy y Pháp, thấy Tăng
Thanh Văn đệ tử Phật rồi mà chẳng quên mất tâm
Bồ đề đây là
quy y Tăng.
Lại nầy
Trưởng giả !
Tại gia Bồ Tát thường muốn cùng Phật câu hội mà thật hành
bố thí thì gọi là
quy y Phật,
thủ hộ chánh pháp mà
bố thí thì gọi là
quy y Pháp, đem đức
bố thí ấy
hồi hướng đạo
vô thượng thì gọi là
quy y Tăng.
Lại này
Trưởng giả !
Tại gia Bồ Tát làm
công nghiệp thiện
trượng phu mà chẳng làm
công nghiệp bất thiện trượng phu.
Thế nào gọi là nghiệp thiện
trượng phu chẳng phải
nghiệp bất thiện trượng phu ?
Nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia theo đúng pháp mà chứa họp
tiền của đất nhà, cầu tìm chơn chánh đúng giá mà chẳng phải cầu tìm thô ác hay
bức hiếp người. Được sản nghiệp đúng pháp,
quan niệm vô thường chẳng có
ý tưởng bỏn xẻn,
ưa thích thí xả, đem
tiền của đúng pháp để dâng cho
cha mẹ và
cung cấp cho
vợ con quyến thuộc, các người giúp việc rồi sau đó dùng
chánh pháp bố thí.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia mang vác
gánh nặng phát đại
tinh tấn. Đó là
gánh nặng ngũ ấm của tất cả
chúng sanh, bỏ gánh
Thanh Văn Duyên Giác,
giáo hóa chúng sanh mà không mỏi mệt. Tự bỏ sự vui của mình để vì
chúng sanh, tám sự lợi suy hủy dự xưng cơ khổ lạc không làm khuynh động được, vượt khỏi
thế pháp giàu có vô lượng mà không
kiêu mạn phóng dật,
mất lợi danh xưng mà không lo buồn, khéo
quan sát hành nghiệp giữ gìn chánh hạnh, thấy người
phá giới mà không giận, có đi qua đâu thì khéo an trụ giác sát trừ bỏ khinh tháo đầy đủ
trí huệ, giúp nên việc người mà bỏ việc mình, không hi vọng gì, có làm việc chi không hề bỏ giữa chừng,
biết ơn nhớ ơn, làm giỏi tốt, ban lộc cho kẻ nghèo, với kẻ
thế lực thì dẹp đại
kiêu mạn, với kẻ không
thế lực thì khuyến dụ họ, trừ tên nhọn lo buồn cho người, nhịn người
hạ liệt, trừ bỏ
kiêu mạn và
tăng thượng mạn,
cung kính tôn trọng thân cận người
đa văn, thưa hỏi bực
minh huệ, chỗ thấy
chánh trực, chỗ làm
vô vi không có huyễn hoặc, với
chúng sanh không
ái nhiễm, tu lành không chán,
học hỏi không nhàm, chỗ làm
vững chắc đồng với
hiền thánh, với người không phải thánh thì sanh lòng
đại bi,
thân hữu vững chắc,
oan thân bình đẳng,
tâm bình đẳng đối với
chúng sanh, với tất cả pháp lòng không tham lẫn, khai thị như chỗ đã được học,
suy gẫm chỗ đã nghe học, với các
dục lạc tưởng là
vô thường, chẳng mến luyến thân, xem sanh mạng như giọt sương, xem tài vật như mây
như ảo, với con cái tưởng như lao ngục, với
quyến thuộc tưởng như cảnh khổ, với ruộng nhà tưởng là
tử thi, với chỗ cầu tiền tài tưởng là
phá hư thiện căn, tại nhà mình tưởng là
trói buộc, nơi
thân tộc tưởng như lính ngục, nơi đêm nơi ngày tưởng không sai khác, với thân chẳng bền tưởng
bố thí chỗ bền đó là làm giúp công việc cho người cần giúp, với sanh mạng chẳng bền tưởng
bố thí chỗ bền đó là chẳng mất bổn thiện và thêm
thiện căn hiện tại, với
của cải chẳng bền tưởng là
bố thí chỗ bền đó là
hàng phục lòng tham lẫn mà thật hành
bố thí !
Này
Trưởng giả Úc Già ! Đó gọi là
Bồ Tát tại gia tu tập công hạnh thiện
trượng phu, với chư
Như Lai không tất cả lỗi, gọi là
lời nói tương ưng là
pháp ngữ, không có dị tưởng hướng đến đạo
vô thượng.
Lại này
Trưởng Giả !
Bồ Tát tại gia phải thọ
thiện giới, đó là
ngũ giới.
Bồ Tát này luôn chẳng
sát sanh buông bỏ dao gậy
hổ thẹn kiên thệ chẳng giết hại tất cả
chúng sanh, chẳng não nhiễu tất cả
chúng sanh, với tất cả
chúng sanh lòng thường
bình đẳng thường
từ bi.
Bồ Tát này luôn chẳng trộm, với
của cải mình thì biết đủ, với
của cải người thì chẳng hi vọng, bỏ lòng tham chẳng khởi
ngu si, với phong lộc của người chẳng
tham lam, nhẫn đến lá cây chẳng cho chẳng lấy.
Bồ Tát này rời lìa
tà dâm, tự
vừa đủ vợ mình chẳng mong vợ người, chẳng có
nhiễm tâm nhìn
nữ sắc khác, lòng luôn nhàm sợ coi là
khổ não nên thường trái bỏ, nếu đối với vợ mình sanh ý
dục nhiễm thì phải có
ý tưởng bất tịnh kinh sợ, đó là sức
kiết sử nó làm dục chẳng phải là ta nên làm, phải
tưởng vô thường khổ
vô ngã bất tịnh, phải
suy nghĩ rằng tôi chẳng nên có
ý nghĩ dâm dục huống là hai
thân thể hòa hiệp
rờ rẫm.
Bồ Tát này phải rời
vọng ngữ, phải nói chắc nói thiệt nói như chỗ làm, chẳng dối người,
thành tựu tâm lành,
suy nghĩ trước rồi mới làm, theo chỗ đã thấy nghe mà nói thiệt,
giữ gìn chánh pháp, thà bỏ
thân mạng trọn chẳng
vọng ngữ.
Bồ Tát này phải rời lìa uống rượu, chẳng say chẳng loạn, chẳng
hư vọng nơi
lời nói, chẳng tự khinh tháo cũng chẳng cợt đùa dọa nạt, phải an trụ
chánh niệm rồi sau mới xét biết, lúc muốn
xả thí tài vật thì kẻ cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, lúc
bố thí nên có
quan niệm rằng nay lúc làm
Đàn Ba la mật này tùy người muốn chi tôi đều thí cho, khiến họ được đầy đủ, nếu đem rượu cho người phải nhiếp người ấy nơi
chánh niệm chớ để cuồng say. Tại sao ? Vì
thỏa mãn hết chỗ muốn của người là
Đàn Ba la mật vậy, nên
Bồ Tát đem rượu cho người đối với Phật không có lỗi.
Này
Trưởng giả ! Nếu
Bồ Tát tại gia đem
công đức thọ trì ngũ giới này
hồi hướng Vô thượng Bồ đề, khéo
giữ gìn ngũ giới lại thêm rời lìa
lưỡng thiệt nếu có tranh tụng thì nên hòa hiệp, rời lìa
ác khẩu thốt lời dịu hòa
hỏi thăm trước, chẳng hủy nhục người, nói lời
lợi ích người, lời
pháp ngữ thời ngữ thiệt ngữ, lòi cởi mở, lời
điều phục, lời chẳng đùa chơi, lời đúng hành động, chẳng sanh tham si, thường làm an vui tất cả chẳng có ý hủy hoại, thường tu sức nhẫn nhịn để tự
trang nghiêm, phải luôn
chánh kiến, rời lìa
tà kiến, chẳng thờ lạy các
Thiên thần khác mà khiến
cúng dường Phật.
Lại này Trưỏng Giả Úc Già !
Bồ Tát tại gia nếu ở trong
đại chúng thành ấp quận huyện nên thường vì
mọi người mà
thuyết pháp.
Chúng sanh bất hiếu chẳng biết
cha mẹ,
Sư Trưởng,
Sa Môn,
Bà La Môn, chẳng biết người lớn trẻ nhỏ, chẳng thuận giáo hối chẳng biết
kiêng nể thì khuyên dạy họ
hiếu thuận.
Chúng sanh thiếu học thì làm cho họ được học, tham lẫn thì dạy
bố thí,
phá giới thì khuyên
giữ giới,
sân hận thì khuyên
nhẫn nhục,
giải đãi thì khuyên
tinh tấn,
tán loạn thì khuyên tu
niệm định, không
trí huệ thì khuyên tu
trí huệ, với kẻ nghèo thì cấp
tiền của, kẻ bịnh cho thuốc, không được giúp đỡ thì giúp đỡ, không chỗ về thì làm chỗ về, không chỗ nương thì làm chỗ nương,
Bồ Tát tại gia này phải tùy chỗ sở nghi mà
lợi ích chúng sanh chớ để một người đọa vào
ác đạo.
Này
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia này với
mọi người khuyến đạo như vậy
cho đến bảy lần khiến họ an trụ nơi
đức hạnh, nếu vẫn chẳng khiến an trụ được thì phải sanh lòng
đại bi đối với
chúng sanh ấy mà phát tất cả
trí huệ trang nghiêm rằng nếu tôi chẳng
điều phục ác
chúng sanh này thì tôi quyết chẳng
thành đạo vô thượng chánh chơn. Tại sao ? Vì tôi do cớ này mà phát thệ
trang nghiêm, không siểm không ngụy chẳng phải chuyện đùa, đủ hạnh
giới đức phát
đại trang nghiêm, tôi phải siêng phát
tinh tấn như vậy khiến
việc làm chẳng
uổng công,
chúng sanh thấy tôi thì liền tin kính.
Này
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia ở trong thôn xóm thành ấp mà chẳng
giáo hóa chúng sanh để họ đọa
ác đạo thì bị chư Phật
quở trách. Nên
Bồ Tát phải
trang nghiêm đại trang nghiêm như vậy, nay tôi phải
tu hành công hạnh ấy, ở trong thành ấp
tụ lạc, chẳng để một người sa đọa
ác đạo.
Này
Trưởng giả ! Như trong thành ấp có thầy thuốc giỏi mà để một người bị bịnh độc chết thì
quần chúng quở trách. Cũng vậy
Bồ Tát này ở chỗ nào mà chẳng
giáo hóa chúng sanh để phải đọa
ác đạo thì bị chư Phật
quở trách.
Lại này Trưỏng giả !
Bồ Tát tại gia khéo
tu học hạnh lành.
Gia là gì ? Là giết căn lành, là chẳng bỏ lỗi, là hại nghiệp trợ thiện, do đó mà gọi là gia.
Sao gọi là ở tại tất cả
kiết sử ? Vì ở trong ấy nên gọi là ở tại. Lại vì ở tại giác sát
bất thiện, ở tại chẳng
điều phục, ở tại không
hổ thẹn, hàng
phàm phu ngu tiểu ở tại
bất thiện các ác
tội lỗi nên gọi là gia.
Lại
tại gia thì tất cả
khổ não đều hiện trong ấy, nó hại căn lành trước, nên gọi là gia.
Lại gia ấy, ở tại đó thì không điều ác gì chẳng làm. Ở trong đó thì chẳng kính thuận tốt với
cha mẹ Sư Trưởng nên gọi là gia.
Lại gia ấy, nó làm lớn nhánh lá,
ưu bi khổ não đều sanh trong đó, chiêu họp sự giết hại
trói buộc đánh đập giận mắng, phát sanh
tiếng ác, nên gọi là gia.
Lại nơi ấy, các căn lành chưa làm thì hững hờ chẳng làm, căn lành đã làm thì bỏ hư, bị bực trí
quở trách, bực trí là chư Phật
Thanh Văn, nếu ở trong ấy thì đọa
ác đạo, nếu ở trong ấy thì đọa
tham sân si, do đó mà gọi là gia.
Lại nếu ở trong ấy thì ngại bỏ khối giới khối định khối huệ khối
giải thoát khối
tri kiến giải thoát, nên gọi là gia.
Lại nếu ở trong ấy thì bị thâu nhiếp bởi sự
tham ái cha mẹ vợ con anh em chị em
thân hữu quyến thuộc,
thương nhớ nghĩ
của cải tham dục không chán như biển nuốt chứa trăm sông không đầy, nên gọi là gia.
Nếu ở
tại gia như lửa cháy củi, chỗ
lo nghĩ vô định như gió chẳng dừng, ở
tại gia tiêu thân như uống
độc dược, tất cả
khổ não đều quy tụ về, vì thế nên
lìa bỏ như xa rời
oan gia.
Nếu ở
tại gia thì
chướng pháp thánh sanh nhiều duyên đấu tranh thường trái nghịch nhau.
Ở
tại gia trong ấy duyên
thiện duyên ác lộn lạo nhiều sự vụ.
Tại gia vô thường chẳng còn lâu, là pháp chẳng tạm dừng.
Tại gia rất khổ, vì cầu
gìn giữ nên nhiều lo rầu, là chỗ của oan và thân.
Tại gia vô ngã lầm chấp là
ngã sở hữu.
Tại gia dối trá không có thiệt sự mà hiện tợ thiệt.
Tại gia ly biệt, là chỗ nhiều người ở.
Tại gia như ảo, chứa nhiều
tụ họp không có
chúng sanh thiệt.
Tại gia như mộng, vì hưng suy thay nhau.
Tại gia như giọt sương, vì mau tan vỡ.
Tại gia như giọt mật, vì là vị ngọt chốc lát.
Tại gia như lưới gai nhọn, vì tham ưa
sắc thanh hương vị xúc.
Tại gia như loài côn trùng miệng nhọn tợ kim, vì chẳng khéo giác sát
ăn uống.
Tại gia như
rắn độc, vì xâm hại lẫn nhau.
Tại gia nhiều
hy vọng, vì trong lòng bồn chồn.
Tại gia nhiều kinh sợ, vì là chỗ cướp đoạt của vua giặc lửa nước.
Tại gia nhiều nghị luận, vì nhiều
sai trái.
Này
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia gọi là khéo biết
tại gia như vậy.
Lại này Trưỏng giả Úc Già !
Bồ Tát ở
tại gia khéo
điều phục bố thí phân biệt nhu nhuyến. Phải
quan niệm rằng nếu của đem
bố thí cho người rồi đó là của tôi, của còn lại trong nhà thì chẳng phải của tôi, của đã
bố thí thì
vững chắc, của chưa thí thì chẳng
vững chắc, của đã thí thì vui ngày sau, của chưa thí thì vui
hiện tại, của đã thí khỏi
giữ gìn, của còn lại phải
giữ gìn, của đã thí thì khỏi bị
tham ái trói buộc, của còn lại thì thêm
tham ái. của đã thí chẳng phải bận lòng, của còn lại bận lòng, của đã thí chẳng lo sợ, của còn lại phải lo sợ, của đã thí là cột
chánh đạo, của còn lại là cột ma, của đã thí thì
vô tận, của còn lại thì hữu tận, của đã thí thì vui, của còn lại phải
gìn giữ nên khổ, của đã thí thì lìa gút trói, của còn lại thì thêm gút trói, của đã thí là lộc. của còn lại chẳng phải lộc, của đã thí là
sự nghiệp đại trượng phu, của còn lại chẳng phải
sự nghiệp đại trượng phu, của đã thí được chư Phật khen, của còn lại được
phàm phu khen. Vì thế nên
Bồ Tát phải
bền vững bố thí.
Lại này Trưỏng giả !
Bồ Tát tại gia nếu thấy người xin phải có ba
ý tưởng : một là
ý tưởng thiện tri thức, hai là
ý tưởng đời khác
giàu có, ba là
ý tưởng nên
Bồ đề. Lại có ba
ý tưởng : một là thuận lời dạy của Phật, hai là
quả báo cõi dục, ba là
hàng phục ma. Lại có ba
ý tưởng : với người xin có
ý tưởng thân thuộc, với bốn nhiếp pháp có
ý tưởng nhiếp lấy, với
vô biên sanh có
ý tưởng xuất ly. Lại có ba
ý tưởng : trừ
tham dục, trừ
sân hận, trừ
ngu si.
Này Trưỏng giả !
Bồ Tát tại gia này đều được kém mỏng
tham sân si: lúc
bố thí của cải thì lòng không
tham trước nên tham kém mỏng, với kẻ xin thì lòng thương nên sân kém mỏng,
bố thí rồi
hồi hướng đạo
vô thượng chánh chơn nên si kém mỏng.
Lại này Trưỏng giả !
Bồ Tát tại gia thấy người xin phải có
ý tưởng tu tập đầy đủ
sáu Ba la mật: với vật
sở hữu Bồ Tát này đều có tâm
xả thí đây gọi là
tu tập đến đủ
Đàn Ba la mật. Y nơi tâm
Bồ đề mà
bố thí đây gọi là
tu tập đến đủ
Thi Ba la mật. mà
bố thí đây gọi là
tu tập đến đủ
Thi Ba la mật. Chẳng giận trách kẻ
cầu xin đây là
tu tập đến đủ
Nhẫn Ba la mật. Lúc
bố thí chẳng có
ý nghĩ mình sẽ
thiếu thốn đây là
tu tập đến đủ
Tinh tấn Ba la mật. Lúc
bố thí rồi lòng chẳng lo tiếc mà càng
vui mừng hơn đây gọi là
tu tập đến đủ
Thiền Ba la mật. Lúc
bố thí rồi chẳng thấy có pháp được và chẳng
hy vọng quả báo đây gọi là
tu tập đến đủ
Bát Nhã Ba la mật.
Lại này Trưỏng Giả !
Bồ Tát tại gia đối với
tám pháp thế gian phải phóng xả. Đối với nhà cửa
của cải vợ con chẳng lo chẳng mừng,
giả sử hư mất chẳng có lòng buồn lo,
Bồ Tát ấy nên
quan niệm hữu vi như ảo, là tướng
vọng tưởng,
cha mẹ vợ con thân thuộc đều chẳng phải
sở hữu của tôi, tôi chẳng vì đó mà gây tạo
nghiệp bất thiện, đó là bạn lữ
hiện tại chẳng phải bạn lữ đời khác, là bạn lữ lúc vui chẳng phải bạn lữ lúc khổ, tôi chẳng lo
gìn giữ họ. Chỗ tôi
gìn giữ là
trí huệ bố thí điều phục người
tinh tấn chẳng
phóng dật pháp trợ
Bồ đề các
thiện căn v.v…, những thứ này là
sở hữu của tôi luôn theo sát bên tôi.
Cha mẹ vợ con thân thuộc chẳng cứu được tôi chẳng phải là nơi tôi
quy y chẳng phải là nhà ở của tôi chẳng phải là
đất liền của tôi, chẳng phải chỗ che mát tôi, chẳng phải là
ngã ngã sở. Thân
ngũ ấm này còn chẳng phải
ngã ngã sở huống là
cha mẹ vợ con thân thuộc mà lại là
sở hữu của tôi.
Cha mẹ vợ con là do nghiệp nhơn của họ. Nghiệp
thiện ác của tôi thì tôi
thọ báo theo đó. Họ cũng theo nghiệp của họ mà thọ lấy
quả báo thiện ác.
Bồ Tát tại gia lúc đi đứng ngồi nằm thường
quan niệm như vậy chẳng vì
cha mẹ vợ con thân thuộc mà gây tạo
nghiệp ác bất thiện dầu rất nhỏ như phần sợi lông.
Đối với vợ nhà,
Bồ Tát tại gia phải có ba
ý tưởng là
vô thường,
biến đổi và hư hoại. Lại có ba
ý tưởng là bạn
vui chơi chẳng phải là bạn đời khác, là bạn uống ăn chẳng phải bạn
nghiệp báo, là bạn lúc vui chẳng phải bạn lúc khổ. Lại có ba
ý tưởng là
oan gia xẻo thái và trá thân. Lại có ba
ý tưởng là
la sát tì xá giá và
quỉ mị. Lại có ba
ý tưởng là chẳng phải
sở hữu chẳng phải
nhiếp thọ là kẻ xin cầu. Lại có ba
ý tưởng là gìn thân
ác hành gìn khẩu
ác hành và gìn ý
ác hành. Lại có ba
ý tưởng là
tham dục giác
sân khuể giác và
tổn hại giác. Lại có ba
ý tưởng là
đen tối ô giới và huệ phược. Lại có ba
ý tưởng là chướng giới chướng định và chướng huệ. Lại có ba
ý tưởng là
dua nịnh lưới rập và mèo rình. Lại có ba
ý tưởng là
tai họa nhiệt não và bịnh hoạn. Lại có ba
ý tưởng là yêu mị suy hao và sương giá. Lại có ba
ý tưởng là già bịnh và chết. Lại có ba
ý tưởng là
ma ma nữ và
đáng sợ. Lại có ba
ý tưởng là lo khóc và khổ. Lại có ba
ý tưởng là sói cái lớn cá
ma kiệt và mèo cái lớn. Lại có ba
ý tưởng là
rắn độc đen cá thi thủ và ma đoạt
tinh khí. Lại có ba
ý tưởng là không cứu không quy không hộ. Lại có ba
ý tưởng là mẹ chị và em gái. Lại có ba
ý tưởng là giặc là giết và lính ngục. Lại có ba
ý tưởng là nước mạnh lượn sóng và nước xoáy. Lại có ba
ý tưởng là sình lầy lún sìng và lộn đục. Lại có ba
ý tưởng là đui mù xiềng xích
gông cùm. Lại có ba
ý tưởng là hố lửa hố dao và lửa đuốc cỏ. Lại có ba
ý tưởng là bén nhọn và độc. Lại có ba
ý tưởng là nhốt ngục hình phạt và dao gươm. Lại có ba
ý tưởng là đấu tranh
kiện cáo và trói nhốt. Lại có ba
ý tưởng là oán thù hội họp
ân ái biệt ly và bịnh tật.
Tóm lại nhẫn đến có tất cả
ý tưởng đấu tranh tất cả
ý tưởng cặn dục tất cả
ý tưởng gốc
bất thiện.
Bồ Tát tại gia đối với vợ nhà phải có những
ý tưởng quan niệm như vậy.
Lại này Trưỏng giả !
Bồ Tát tại gia đối với con của mình chẳng nên quá
yêu thương, nếu quá
yêu thương con mình mà chẳng
yêu thương con người thì thì tự hủy hoại. Phải dùng ba pháp để tự răn trách : một là đạo
Bồ đề là
tâm bình đẳng chẳng phải là tâm bất
bình đẳng, hai là đạo
Bồ đề từ
chánh hạnh mà được chẳng phải từ
tà hạnh, ba là đạo
Bồ đề do vô dị hạnh mà được chẳng phải do
tạp hạnh được. Răn trách rồi đối với con mình phải có
ý tưởng là
oan gia, là
ác tri thức, trái
nghịch đức từ
bình đẳng trí huệ của Phật, hại căn lành của ta.
Bồ Tát tại gia nên
tùy theo chỗ mà
điều phục tâm mình, như
yêu thương con mình với tất cả
chúng sanh cũng
yêu thương như vậy, như
yêu thương thân mình với tất cả cũng vậy.
Bồ Tát tại gia phải
quan niệm tôi từ chỗ khác đến, con từ chỗ khác đến. Tại sao ? Vì tất cả
chúng sanh đã từng làm con tôi, tôi cũng từng làm con của tất cả
chúng sanh, trọn chẳng có
ý nghĩ con tôi chẳng phải con tôi. Tại sao ? Vì đến sáu loài làm oán thù lại làm con cái, tôi phải
bình đẳng với kẻ thân kẻ sơ. Tôi lấy cớ gì nơi kẻ thân thì
yêu thương cấp cho mà nơi người sơ thì tất cả chẳng
cấp cho. Nếu tôi có lòng yêu chẳng yêu nơi người sơ tất cả chẳng
cấp cho thì chẳng có thể đến pháp được. Tại sao ? Vì hạnh bất đẳng thì đến chỗ bất đẳng, hạnh
bình đẳng thì đến chỗ
bình đẳng. Tôi chẳng nên làm hạnh bất
bình đẳng ấy. Tôi học
tâm bình đẳng với tất cả
chúng sanh mau đến
Nhứt thiết trí.
Này
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia đối với
của cải chẳng có
ý tưởng ngã sở,
ý tưởng nhiếp hộ, chẳng bận lòng nơi
của cải chẳng tưởng chẳng mến, chẳng sanh
kiết sử.
Lại này Trưỏng giả ! Nếu có kẻ đến xin chỗ
Bồ Tát tại gia để
cầu xin, khi đem của cho người,
Bồ Tát ấy phải
chí tâm nhớ rằng
của cải chẳng đem cho đều sẽ tan mất, nếu chẳng làm tròn đầy
sở nguyện rồi cũng phải chết. Tôi chẳng xả bỏ
của cải,
của cải ấy cũng sẽ bỏ tôi, nay tôi phải
xả thí để làm của
vững chắc rồi sẽ chết.
Xả thí của cải này rồi lúc chết
vui vẻ không
hối hận. Nếu chẳng thể
bố thí được thì nên đem bốn sự thưa với kẻ xin rằng nay tôi
sức lực kém yếu, căn lành chưa
thành thục, tôi là kẻ
sơ cơ trong
Đại thừa, tâm tôi chưa kham
tự tại bố thí, tôi là kẻ trước tướng
chấp ngã ngã sở. Thưa Ngài thiện
đại trượng phu, nay tôi
sám hối cùng Ngài chớ hờn ghét tôi. Tôi sẽ siêng tu
tinh tấn để có thể làm đầy đủ
sở nguyện của tất cả
chúng sanh.
Lại này Trưỏng giả !
Bồ Tát tại gia nghe chư Phật
quá khứ dạy rằng nếu người chưa gặp Phật và
Thánh Tăng thì phải
kính lễ chư Phật mười phương, đối với bổn hạnh của chư Phật
cho đến chư Phật
đắc đạo đều sanh lòng
tùy hỉ. Ngày đêm đều ba thời
thanh tịnh thân khẩu ý gìn
lòng từ thiện, đầy đủ
tàm quý mặc
y phục sạch sẽ, bao nhiêu
thiện căn đã tập họp dùng tâm
Bồ đề mà sanh lòng
tùy hỉ nhu thuận
cung kính dứt
ngã mạn mà
tu hành, ba thời tụng đọc, ba thời
tác pháp, chuyên lòng hối cải những
nghiệp bất thiện chẳng tạo ác mới, tất cả
phước nghiệp đều
tùy hỉ, chứa họp đầy đủ
tướng hảo,
khuyến thỉnh chư Phật
chuyển pháp luân, pháp chư Phật dạy đều
thọ trì, xin Phật ở lâu
thế gian thêm lớn
thiện căn, khiến
quốc độ tôi cũng được như vậy.
Lại này Trưỏng giả !
Bồ Tát tại gia thọ trì bát quan trai giới tu hạnh
Sa Môn thì phải thân cận
Sa Môn Bà La Môn đức hạnh trì giới thanh tịnh,
y chỉ cung cấp hầu hạ chẳng nhìn thấy lỗi của thầy. Nếu thấy
Sa Môn trái vượt
giới hạnh chẳng nên chẳng
cung kính. Lại y
ca sa được xông ướp với
giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến của
chư Phật Như Lai Ứng Cúng Biến
Chánh Giác, không cặn đục, đều bỏ rời tất cả kiết nhiễm, là tràng của bực
tiên thánh, vì thế nên phải
cung kính gấp bội. Đối với
Tỳ Kheo trái vượt
giới hạnh ấy nên có lòng
thương xót mà nghĩ rằng họ chẳng nên phạm
ác hạnh như vậy. Chư
Phật Thế Tôn là bực
tịch tịnh điều phục thấy biết tất cả, mặc lấy tướng thánh tràng mà chẳng
điều phục chẳng
tịch tịnh, chẳng thấy chẳng biết phạm sự
phi pháp ấy. Như
đức Thế Tôn từng dạy chẳng khinh khi người chưa học. Đây chẳng phải lỗi của họ mà
do nơi kiết sử.
Do nơi kiết sử mà
hiện tại phạm tội ác. Trong
Phật pháp có pháp
xuất ly, họ có thể
xuất ly được. Nếu họ cởi mở gút cột ấy mà
tu hành chánh quán được đến bực
sơ quả thì
quyết định thẳng đến đạo chánh chơn
vô thượng. Tại sao ? Vì
trí quán hay
phá hại kiết sử. Lại
đức Thế Tôn còn có lời dạy làm người chớ nên vọng khinh lượng định người, nếu vọng khinh người thì chính là tự hại tự tổn lấy mình. Chỉ
đức Như Lai biết rõ, chớ chẳng phải là ta biết được. Vì thế chẳng nên giận ghét khinh hại họ.
Lại này Trưỏng giả !
Bồ Tát tại gia nếu vào
Tăng phường, nên dừng tại ngõ kính lạy rồi sau sẽ vào. Phải
quan niệm rằng nơi đây là chỗ không hành, là chỗ
vô tướng hành, là chỗ
vô tác hành, là chỗ
từ bi hỉ xả bốn
phạm hạnh, là chỗ
an trí chánh hạnh chánh trụ. Lúc nào tôi sẽ rời
bỏ nhà cầu uế, lúc nào tôi sẽ ở chỗ
chánh hạnh này. Phải có lòng muốn
xuất gia như vậy. Không có ở
tại gia mà tu
thành đạo chánh chơn
vô thượng, thẩy đều
xuất gia đến rừng vắng vẻ
tu tập được
thành Phật đạo.
Tại gia nhiều trần nhiễm,
xuất gia đẹp tốt.
Tại gia đủ sự
trói buộc,
xuất gia vô ngại.
Tại gia nhiều cầu uế,
xuất gia xả ly.
Tại gia bị nhiếp nơi ác,
xuất gia được nhiếp nơi thiện.
Tại gia ngập sâu trong sình lầy
ái dục,
xuất gia viễn ly ái dục.
Tại gia chung cùng
phàm tình,
xuất gia chung cùng
trí huệ.
Tại gia tà mạng,
xuất gia chánh mạng.
Tại gia nhiều lấm dơ,
xuất gia không dơ.
Tại gia suy diệt,
xuất gia không diệt.
Tại gia buồn lo,
xuất gia vui mừng.
Tại gia là bực thang những sự ác,
xuất gia xa lìa.
Tại gia trói buộc,
xuất gia cởi mở.
Tại gia kinh sợ,
xuất gia vô úy.
Tại gia bị
quở phạt,
xuất gia không
quở phạt.
Tại gia nhiều họa hoạn,
xuất gia không họa.
Tại gia phiền nhiệt,
xuất gia không phiền nhiệt.
Tại gia nhiều mong cầu nên khổ,
xuất gia không mong cầu nên vui.
Tại gia rung động,
xuất gia không động.
Tại gia khổ vì nghèo,
xuất gia không khổ vì nghèo.
Tại gia khiếp nhược,
xuất gia không khiếp.
Tại gia hạ tiện,
xuất gia tôn quí.
Tại gia phiền rộn,
xuất gia tịch tịnh.
Tại gia lợi tha,
xuất gia tự lợi. Người
tại gia không nhuận
tinh khí, người
xuất gia tư nhuận.
Tại gia vui nơi
kiết sử,
xuất gia vui nơi
tịch diệt.
Tại gia thêm gai nhọn,
xuất gia không gai nhọn.
Tại gia thành
tiểu pháp,
xuất gia thành
đại pháp.
Tại gia không
điều phục,
xuất gia điều phục.
Tại gia xa lìa giới,
xuất gia hộ trì giới.
Tại gia thêm lớn biển lệ mủ máu,
xuất gia cạn khô biển lệ mủ máu.
Tại gia bị chư Phật,
Thanh Văn Duyên Giác quở rầy,
xuất gia được chư Phật,
Thanh Văn Duyên Giác tán thưởng.
Tại gia không đủ,
xuất gia biết đủ.
Tại gia ma mừng,
xuất gia ma lo.
Tại gia chẳng
hàng phục,
xuất gia hàng phục.
Tại gia nô bộc,
xuất gia chủ nhơn.
Tại gia ở mé
sanh tử,
xuất gia ở mé
Niết bàn.
Tại gia đọa lạc,
xuất gia khỏi
đọa lạc.
Tại gia tối tăm,
xuất gia sáng soi. Người
tại gia sáu căn chẳng
tự tại, người
xuất gia sáu căn
tự tại.
Tại gia cuồng dật,
xuất gia chẳng
phóng dật.
Tại gia chẳng
tương ưng,
xuất gia tương ưng.
Tại gia ngó xuống,
xuất gia nhìn lên.
Tại gia nhiều kinh doanh,
xuất gia ít kinh doanh.
Tại gia ít
sức lực,
xuất gia sức lực lớn.
Tại gia siểm khúc,
xuất gia chánh trực.
Tại gia nhiều lo,
xuất gia không lo.
Tại gia cùng chung với tên nhọn,
xuất gia không tên nhọn.
Tại gia bịnh tật,
xuất gia không bịnh tật.
Tại gia là
già nua,
xuất gia là trai tráng.
Tại gia sống
phóng dật,
xuất gia tu huệ mạng.
Tại gia lừa phỉnh,
xuất gia không phỉnh.
Tại gia nhiều
gian trá,
xuất gia không gian trá.
Tại gia là bình rượu độc,
xuất gia là bình
cam lồ.
Tại gia tai hoạn,
xuất gia không
tai hoạn.
Tại gia chẳng phóng xả,
xuất gia phóng xả. Người
tại gia lấy quả độc, người
xuất gia lấy quả không độc.
Tại gia tương ưng với sự chẳng đáng thích,
xuất gia chẳng
tương ưng với sự chẳng đáng thích.
Tại gia nặng nề
ngu si,
xuất gia nhẹ nhàng
trí huệ.
Tại gia mất
phương tiện,
xuất gia phương tiện thanh tịnh.
Tại gia mất chánh ý,
xuất gia chánh
ý thanh tịnh.
Tại gia mất chí ý,
xuất gia chí
ý thanh tịnh. Người
tại gia chảng làm chỗ cứu vớt được,
xuất gia hay làm chỗ cứu vớt.
Tại gia tạo cùng liệt,
xuất gia chẳng tạo cùng liệt.
Tại gia chẳng phải chỗ ngụ ở,
xuất gia là chỗ ngụ ở.
Tại gia chẳng phải chỗ về,
xuất gia là chỗ về.
Tại gia nhiều sân nộ,
xuất gia nhiều
nhân từ.
Tại gia mang gánh,
xuất gia bỏ gánh.
Tại gia chẳng hết những tranh tụng,
xuất gia không tranh tụng.
Tại gia có lỗi,
xuất gia không lỗi.
Tại gia công việc bận rộn,
xuất gia rảnh việc.
Tại gia nhiệt não,
xuất gia rời
nhiệt não.
Tại gia nhiều cừu thù,
xuất gia không thù.
Tại gia chứa tụ,
xuất gia không tụ chứa.
Tại gia của cải kiên cố,
xuất gia đức hạnh kiên cố.
Tại gia cùng chung với lo rầu,
xuất gia không lo rầu.
Tại gia tốn hao,
xuất gia thêm
lợi ích.
Tại gia là dễ được,
xuất gia là
ức kiếp khó được.
Tại gia là dễ làm,
xuất gia là khó làm.
Tại gia thuận dòng,
xuất gia ngược dòng.
Tại gia ở giữa dòng,
xuất gia ngồi thuyền bè.
Tại gia ở sông
kiết sử,
xuất gia qua khỏi sông.
Tại gia ở bờ này,
xuất gia ở bờ kia.
Tại gia triền phược,
xuất gia không phược.
Tại gia hiềm hận,
xuất gia không hận.
Tại gia pháp vua,
xuất gia pháp Phật.
Tại gia nhiễm ô vì
tham ái,
xuất gia lìa
ô nhiễm.
Tại gia sanh khổ,
xuất gia sanh vui.
Tại gia thiển cận,
xuất gia thâm viễn.
Tại gia dễ làm bạn,
xuất gia khó làm bạn.
Tại gia vợ làm bạn,
xuất gia tâm làm bạn.
Tại gia nhiều việc,
xuất gia lìa việc.
Tại gia bức người nên khổ,
xuất gia lợi người nên vui.
Tại gia tài thí,
xuất gia pháp thí.
Tại gia cầm tràng ma,
xuất gia cầm tràng Phật.
Tại gia ổ hang,
xuất gia lìa hang ổ.
Tại gia phi đạo,
xuất gia lìa
phi đạo.
Tại gia rừng rậm,
xuất gia lìa rừng rậm.
Này
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia lần lượt suy tưởng như vậy, lại nghĩ rằng tôi thiết lễ đồng với hằng ha sa vì các
chúng sanh một ngày đều
bố thí, khéo điều thuần trong
chánh pháp phát tâm xuất gia, đây là chắc thiệt
bố thí đã trọn đủ. Nay tôi phải nên
vững chắc tu
giới hạnh và nghe học
chánh pháp.
Bồ Tát ấy vào
Tăng phường lễ tháp Phật nên có ba
ý tưởng : tôi cũng sẽ được
cúng dường như vậy, tôi cũng sẽ được
thương xót tất cả
chúng sanh mà để
Xá lợi lại, tôi học như vậy, làm như vậy,
tinh tấn như vậy, mau chứng
Vô thượng Bồ đề,
giả sử làm tất cả
Phật sự xong thì như chư
Phật Thế Tôn nhập vào
Niết bàn.
Bồ Tát ấy vào
Tăng phường quan sát tất cả
công đức của chư
Tỳ Kheo : ai là
đa văn, ai là
thuyết pháp, ai là
trì luật, ai trì
a hàm, ai trì
Bồ Tát tạng, ai
tịch tịnh, ai
thiểu dục khất thực mặc y
phấn tảo ở riêng
ly dục, ai siêng
tu hành, ai
tọa thiền, ai chấp tác, ai là chủ chùa.
Quan sát hết
công hạnh của chư
Tỳ Kheo,
tùy theo chỗ muốn của các thầy chẳng có
ý nghĩ chê trách.
Bồ Tát ấy nếu ở tại chùa miễu và lúc qua
tụ lạc có nói năng phải khéo gìn
khẩu nghiệp. Nếu có
Tỳ Kheo thiếu
y bát thuốc men đồ vật
cần dùng nên
tùy theo chỗ đáng cho mà
cung cấp chớ để họ sanh lòng
bực tức. Tại sao ? Vì
chư Thiên và
loài người có
phiền não tật đố, phải
giữ gìn gấp bội cho họ. Lòng người
phàm phu chẳng phải
A La Hán.
Phàm phu phạm lỗi chẳng phải
A La Hán.
Bồ Tát ấy gần bực
đa văn để
tu tập học hỏi, thân người
thuyết pháp để
tu hành quyết định, gần người
trì luật để
điều phục kiết sử chẳng sa vào trong chỗ
phạm tội, thân cận người trì
Bồ Tát tạng để học
tu hành sáu Ba la mật và học
phương tiện, gần người
tịch tịnh để
tu học ở
một mình, thân cận người
tu hành để
tu học đoan tọa.
Nếu có
Tỳ Kheo chưa định
địa vị,
Bồ Tát ấy thấy họ cần y thì cho y, cần bát thì cho bát, khuyên
Tỳ Kheo ấy
phát tâm vô thượng đạo, tại sao ? Vì dùng tài và pháp nhiếp
Tỳ Kheo ấy hướng đến
chỗ tối thắng vậy.
Nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia khéo biết hạnh
Sa Môn như vậy. Nếu có các
Sa Môn đấu tranh thưa kiện thì hòa hiệp họ dầu phải
xả bỏ thân mạng để
thủ hộ chánh pháp.
Nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia thấy
Tỳ Kheo bịnh thì chăm sóc cho được lành dầu phải thí xả máu thịt nơi thân mình.
Nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia chưa mở tâm
bố thí thì chẳng trước mời thỉnh người để
bố thí, lúc thí rồi thì
hối hận. Tất cả gốc lành đều lấy tâm
Bồ đề làm
thượng thủ.
Nầy
Trưởng giả !
Tại gia Bồ Tát lúc ở
địa vị tại gia thì thật hành theo đúng
lời Phật dạy chẳng quên chẳng mất pháp trợ
Bồ đề, pháp
hiện tại không
ô nhiễm, được tăng thêm pháp thù thắng”.
Bấy giờ Trưỏng giả Úc Già cùng các
Trưởng giả đồng thanh khen ngợi
vui mừng rằng : “Đức
hi hữu Thế Tôn khéo nói lỗi họa
tại gia, nhưng
chúng tôi chưa biết
giới hạnh xuất gia,
công đức xuất gia.
Bạch đức Thế Tôn !
Chúng tôi cũng
quan sát tại gia nhiều lỗi,
xuất gia đức lớn. Xin
đức Thế Tôn thương xót,
chúng tôi nguyện được xuất gia”.
Đức Phật bảo : “Này các
trưởng giả !
Xuất gia rất khó, phải
hoàn toàn tịnh hạnh”.
Các
Trưởng giả bạch rằng : “Thiệt như
lời Phật dạy, Xin
đức Thế Tôn cho
chúng tôi xuất gia,
chúng tôi sẽ thật hành đúng như lời Phật dạy”.
Đức Thế Tôn liền cho
xuất gia bảo
Di Lặc Bồ Tát rằng : “Này thiện
trượng phu tất cả
Bồ Tát thanh tịnh làm cho các
Trưởng giả này được xuất gia”.
Di Lặc Bồ Tát và chư
Bồ Tát khiến chín ngàn
Trưởng giả đều
xuất gia thọ giới xuất gia.
Lại có ngàn
Trưởng giả phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Trưỏng giả Úc Già
bạch Phật rằng : “Bạch
đức Thế Tôn !
Đức Thế Tôn đã nói
tội lỗi và
công đức của
tại gia rồi.
Lành thay đức Thế Tôn, xin nói
đức hạnh giới văn của
Bồ Tát xuất gia. Ở trong
diệu pháp,
Bồ Tát điều phục xuất gia lễ bái ngồi đứng đến đi như thế nào ?”
Đức Phật bảo : “Trưởng giả khéo
suy gẫm ghi nhớ, sẽ vì ông mà nói
Bồ Tát xuất gia phải học phải đứng đi như vậy”.
“Bạch
đức Thế Tôn !
Chúng tôi xin kính lắng nghe.
Nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia phải học
như vầy : Do
duyên cớ gì mà tôi bỏ
sự nghiệp xuất gia ? Do vì tu
trí huệ, nên tôi siêng
tinh tấn như chữa đầu bị cháy.
Lại phải
quan niệm nay tôi phải an trụ nơi bốn
thánh chủng thích thật hành
đầu đà.
Thế nào là
Bồ Tát xuất gia tu bốn
thánh chủng ?
Bồ Tát xuất gia tùy theo y phục đã có nên
tri túc,
ca ngợi tri túc, chẳng vì cớ
y phục mà
vọng ngữ. Nếu chẳng được
y phục thì chẳng tưởng chẳng nhớ chẳng lo rầu.
Giả sử được
y phục thì lòng chẳng
tham trước, dầu mặc
y phục mà lòng chẳng
ràng buộc chẳng tham chẳng luyến, biết lỗi của nó biết
xuất ly. Tùy nơi sự
tri túc ấy chẳng tự
khen tặng, chẳng khinh chê người.
Bồ Tát xuất gia tùy theo khất thực được đồ uống ăn,
tùy theo bịnh được thuốc men, nhẫn đến
tùy theo tọa cụ giường phòng đã được đều nên
tri túc và
ca ngợi tri túc, chẳng vì
tọa cụ mà
vọng ngữ. Nếu chẳng được thì chẳng tưởng chẳng nhớ chẳng lo rầu. Nếu được thì chẳng
nhiễm trước, chẳng chứa để với
nhiễm tâm, chẳng tham chẳng luyến, biết lỗi của nó, biết hạnh
xuất ly.
Tùy theo sự
tri túc ấy chẳng tự
khen tặng, chẳng khinh chê người. Ưa dứt ưa lìa ưa
tu tập. Ở nơi sự ưa dứt ưa lìa ưa
tu tập ấy cũng chẳng tự
khen tặng và chê người.
Đây gọi là
Bồ Tát xuất gia an trụ nơi bốn
thánh chủng.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia dùng mười
công đức để gìn và mặc y nơi thân : vì tàm quí, vì che thân, vì muỗi mòng, vì gió dữ, chẳng vì êm dịu, chẳng vì tốt, vì
tiêu biểu giới tướng của
Sa Môn, y
hoại sắc ấy khiến Trời Người
A Tu La v.v… sanh
ý tưởng kính thờ mà
thọ trì vậy, vì
giải thoát mà nhuộm
hoại sắc chẳng phải vì
tham dục mà nhuộm, vì
tịch tịnh Niết bàn chẳng phải vì
kiết sử sanh tử, mặc y ấy chẳng sanh điều ác tu các sự lành, chẳng vì đẹp tốt mà mặc y ấy, biết
thánh đạo rồi tôi làm đúng như vậy, chẳng để
phiền não ô nhiễm dầu chừng một niệm. Đây gọi là
Bồ Tát xuất gia mười sự
công đức gìn mặc y nơi thân.
Lại nầy
Trưởng giả ! Vì thấy mười sự nên
Bồ Tát xuất gia trọn đời chẳng xả bỏ
khất thực !
Nay tôi tự sống chẳng do người mà sống, nếu có ai thí cho tôi ăn phải khiến họ an trụ nơi ba pháp
quy y rồi sau mới ăn, với người không thí cho tôi ăn thì tôi sanh lòng
đại bi đối với họ, vì
chúng sanh ấy mà tôi siêng tu
tinh tấn khiến họ
việc làm xong rồi sau mới ăn món ăn của họ cho, lại tôi chẳng trái lời truyền dạy của
đức Phật, vì trồng đầy đụ nhơn căn bổn, vì
y cứ nơi
hàng phục ngã mạn để chứa nhóm
nhơn duyên tướng
vô kiến đảnh, vì chẳng bị cùng hòa hiệp với đàn bà đàn ông gái trai,
bình đẳng khất thực sanh lòng
bình đẳng đối với các
chúng sanh, vì họp
nhơn duyên trang nghiêm Nhứt thiết trí vậy. Thấy mười sự
lợi ích ấy,
Bồ Tát xuất gia trọn đời chẳng bỏ pháp
khất thực.
Nếu có ai
chí tâm kính tin đến
thỉnh mời thì nên đi. Nếu người
thỉnh mời chẳng
chí tâm, nhưng
quan sát có
nhơn duyên tự lợi và lợi cho họ thì nên đi.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia thấy mười sự
lợi ích nên trọn chẳng bỏ chỗ
tịch tịnh :
Vì
tự tại trừ bỏ, vì gìn
vô ngã, vì bỏ
ái luyến ngọa cụ, vì
tịch tịnh không
ái nhiễm, vì
ở không có gì đáng
cầu lợi, vì bỏ
thân mạng nơi
tịch tịnh, vì lìa đông người
ồn ào, vì làm
việc làm trong pháp của
Như Lai, vì
tịch định thích ý, vì
chuyên niệm không bị
chướng nạn vây. Đây là ý thấy mười
công đức lợi ích nên
Bồ Tát xuất gia trọn đòi chẳng bỏ rời ở chỗ
tịch tịnh.
Nầy
Trưởng giả ! Nếu
Bồ Tát ở chỗ
tịch tịnh vì muốn
nghe pháp, vì có
nhơn duyên Hòa Thượng A Xà Lê, vì thăm bịnh mà phải vào
tụ lạc thì nên nghĩ rằng : Tối nay tôi sẽ
trở về. Nếu vì
đọc tụng mà ở phòng xá, thì nên
quan niệm rằng : Nay tôi vốn ở chỗ
tịch tịnh, chỗ
tịch tịnh tương ưng với
chánh pháp, với tất cả vật không có
ý tưởng cạnh tranh, với tất cả
pháp không có
ý tưởng chướng ngại, thường tập
hợp pháp lành không hề mỏi chán.
Nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia ở chỗ
tịch tịnh,
quan niệm rằng :
Duyên cớ gì mà tôi ở tại chỗ
tịch tịnh, chẳng phải chỉ ở chỗ vắng vẻ mà gọi là
Sa Môn, nơi đây cũng có những thứ chẳng
điều phục, chẳng
tịch tịnh, chẳng
vững chắc, chẳng
tương ưng cùng ở, đó là loài hươu nai, khỉ vượn, chim thú
sư tử, cọp sói, giặc cướp,
chúng nó không có
công đức Sa Môn. Vì thế nên tôi phải có đầy
đủ tư cách người ở
tịch tịnh thật hành
công hạnh nghĩa lợi
Sa Môn, đó là nhiếp niệm chẳng loạn được
đà la ni tu
đại từ đại bi ngũ thông tự tại đầy đủ
sáu Ba la mật chẳng rời bỏ tâm
Nhứt thiết trí,
tu hành phương tiện,
thường dùng pháp thí nhiếp lấy tất cả
chúng sanh giáo hóa tất cả
chúng sanh chẳng rời bỏ nhiếp pháp,
tu hành sáu chánh niệm siêng
học hỏi suy gẫm tu tập chánh hạnh chẳng lấy
trí chứng quả,
hộ trì chánh pháp, tin
nghiệp báo đây gọi là
chánh kiến, dứt tất cả
vọng tưởng phân biệt đây gọi là
chánh tư duy,
tùy theo chánh pháp đã
hiểu biết mà
giải thuyết cho
mọi người đây gọi là
chánh ngữ, trừ hết
nghiệp hữu lậu đây gọi là
chánh nghiệp, dứt trừ
kiết sử phiền não đây gọi là
chánh mạng, siêng thẳng đến
chánh định đây gọi là
chánh tinh tấn, chẳng quên các pháp đây gọi
chánh niệm, được
Nhứt thiết trí đây gọi là
chánh định,
giải không chẳng kinh,
vô tướng chẳng sợ,
vô nguyện chẳng khiếp, tâm chẳng
chấp có, y nghĩa chẳng y ngữ, y trí chẳng y thức,
y pháp chẳng y người, y kinh
liễu nghĩa chẳng y kinh chẳng
liễu nghĩa.
Đây gọi là
Bồ Tát an trụ
pháp Sa Môn.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia chẳng nên thân cận trong chúng đông người, phải nghĩ rằng tôi phải rời xa họ,
thiện căn của tôi vì trọn chẳng bỏ tất cả
chúng sanh mà
tu tập thiện căn.
Xuất gia Bồ Tát có bốn chỗ thân cận được
đức Như Lai hứa khả :
Bồ Tát xuất gia thân cận nghe
chánh pháp, thân cận
thành thục tất cả
chúng sanh, thân cận
cúng dường Như Lai, thân cận chẳng bỏ tâm
Nhứt thiết trí.
Bồ Tát nên thân cận nơi đây chớ thân cận chỗ khác.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia ở chỗ
tịch tịnh phải
quan niệm rằng : Do cớ gì mà tôi đến chỗ nầy ? Tôi đến đây vì sợ sự gì, sợ ai ? Vì sợ đông người ồn náo, vì sợ thân cận, vì sợ
tham sân si, vì sợ cuồng mạn, vì sợ não nhiệt, vì sợ
san tham, vì sợ
sắc thanh hương vị xúc, vì sợ
ấm ma phiền não ma tử ma và
thiên ma, vì sợ
vô thường cho là thường,
vô ngã chấp ngã, vui trong khổ, trong dơ thấy sạch, vì sợ
tâm ý thức, vì sợ sự đánh đập
hiện tại, vì sợ
ngã kiến, vì sợ
ngã ngã sở, vì sợ
ác tri thức, vì sợ
lợi dưỡng, vì sợ
phi thời ngũ, vì sợ chẳng thấy nói thấy, chẳng nghe nói nghe, chẳng nhớ nói nhớ, chẳng biết nói biết, vì sợ
Sa Môn cấu nhiễm, vì sợ
ba cõi Dục Sắc và
Vô Sắc, sợ tất cả các loài
sanh tử, vì sợ
địa ngục súc sanh ngạ quỉ, vì sợ các thứ
đáng sợ ấy mà tôi đến ở chỗ
tịch tịnh này chẳng ở trong
chúng tại gia ốn ào. Nếu tôi chẳng
tu hành chẳng tu
niệm xứ thời chẳng
tương ưng vì
thoát khỏi các sự
đáng sợ ấy mà đến ở đây.
Quá khứ vô lượng đại Bồ Tát đều ở chỗ
tịch tịnh thoát khỏi bố úy được
vô úy Bồ đề Vô thượng.
Vị lai chư
Bồ Tát cũng ở nơi
tịch tịnh thoát khỏi bố úy được
vô úy Bồ đề Vô thượng.
Hiện tại chư
Bồ Tát cũng ở nơi
tịch tịnh thoát tất cả bố úy
tu hành vô úy được
Vô thượng Bồ đề. Vì thế nên nay tôi muốn được
vô úy thoát tất cả bố úy mà ở chỗ
tịch tịnh này.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia ở chỗ
tịch tịnh không bố không úy phải học
như vầy: Nếu người có bố úy là do
chấp ngã đều do
trước ngã, ngã là đầu mối, đều do yêu ngã, khởi ngã, thấy ngã, tưởng ngã, trì ngã,
vọng tưởng nơi ngã,
thủ hộ nơi ngã. Nếu ở chỗ
tịch tịnh mà chẳng bỏ
chấp ngã thì
mất lợi lành.
Nầy
Trưởng giả ! Nếu ở chỗ
tịch tịnh mà không có
ngã tưởng là thiệt ở
tịch tịnh,
nếu không có thấy
chấp ngã là thiệt ở
tịch tịnh,
nếu không trụ
ngã ngã sở là thiệt ở
tịch tịnh.
Nầy
Trưởng giả ! Nói rằng chỗ
tịch tịnh là chẳng y trước nơi tất cả pháp, chẳng trụ các pháp, với các pháp
vô ngại, chẳng y
sắc thanh hương vị xúc mà trụ, an trụ tất cả
pháp bình đẳng vô cấu, an trụ khéo
điều phục tâm, bỏ tất cả bố úy an trụ
vô úy, an trụ thoát tất cả dòng sông lớn
kiết sử, an trụ
thánh chủng, an trụ
thiểu dục, an trụ
tri túc, dễ đủ dễ nuôi, an trụ đầy đủ trí, an trụ đúng như chỗ học mà
tu hành, an trụ
giải thoát vì
quán môn không vô tướng
vô tác, an trụ
giải thoát tri kiến vì dứt
hệ phược, an trụ
biên tế vì thuận
nhơn duyên, an trụ
việc làm đã xong vì
cứu cánh thanh tịnh vậy.
Nầy
Trưởng giả ! Như chỗ trống không những rừng cây cỏ thuốc
không kinh không sợ,
Bồ Tát xuất gia ở chỗ
tịch tịnh phải tự sanh
tâm niệm coi mình như cỏ cây tường vách,
như ảo huyễn, trong đây có ai kinh ai sợ. Phải dùng
vô úy mà
quan niệm thân mình :
thân thể này không
ngã không ngã sở, không
chúng sanh, không
thọ mạng, không người, không
trượng phu, không niên thiếu. Nói rằng kinh sợ đó chỉ là danh từ trống rỗng không sự thiệt. Nay tôi chẳng nên lấy không sự thiệt để
sanh kinh sợ. Như chỗ trống kia những rừng cây cỏ thuốc không an trụ, không
hộ trợ, tôi phải biết tất cả
pháp như vậy rồi mới là khéo ở chỗ
tịch tịnh. Tại sao ? Vì dứt lo dứt tranh nên gọi là
tịch tịnh, vì không
sanh không hộ nên gọi là
tịch tịnh.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia ở chỗ
tịch tịnh phải học
như vầy : trước thuận giới tụ, kế tu
định tụ, tập họp huệ tụ,
tu hành giải thoát, phát sanh
giải thoát tri kiến, mở bầy pháp trợ
Bồ đề, siêng mưòi hai
công đức đầu đà. Ở chỗ
tịch tịnh là để biết chắc
phương tiện, vì khéo biết
ngũ ấm, vì đồng
pháp giới, vì phục trừ các nhập, vì chẳng quên tâm
Bồ đề, vì
quán không vô úy, vì chẳng mất tất cả căn lành, vì là chỗ Phật
Bồ Tát và thánh nhơn
khen tặng, vì là chỗ nương dựa của người muốn
giải thoát. Người muốn
Nhứt thiết trí phải an trụ chỗ
tịch tịnh.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia ở chỗ
tịch tịnh dùng chút ít sự việc có thể đầy đủ
sáu Ba la mật. Tại sao ?
Bồ Tát xuất gia ở chỗ
tịch tịnh chẳng tiếc
thân mạng, đây gọi là
tu tập đầy đủ
Đàn Ba la mật.
Bồ Tát này
giữ giới đầu đà gìn
thân khẩu ý, đây gọi là
tu tập đầy đủ
Thi Ba la mật.
Bồ Tát nầy ở nơi
chúng sanh không có lòng
sân hận mà nhẫn thọ
nhứt thiết trí, đây gọi là
tu tập đầy đủ
Nhẫn Ba la mật.
Bồ Tát nầy có
ý nghĩ rằng tôi ở đây
cần phải được
vô sanh pháp nhẫn, đây gọi là
tu tập đầy đủ
Tinh tấn Ba la mật.
Bồ Tát nầy xả
thiền định để
giáo hóa chúng sanh tu tập các
thiện căn, đây gọi là
tu tập đầy đủ
Thiền Ba la mật.
Bồ Tát nầy thường
quan niệm :
Thân thể này của tôi thế nào thì
hư không cũng vậy.
Thân thể này của tôi thế nào thì
Bồ đề cũng vậy, như
chơn như không
vọng tưởng, như
hư không không
vọng tưởng, đây gọi là
tu tập đầy đủ
Bát Nhã Ba la mật.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia thành tựu bốn pháp thì biết ở chỗ
tịch tịnh, đó là
giới thanh tịnh,
học hỏi nhiều,
suy gẫm tương ưng và
tu hành đúng
như pháp.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia nếu
kiết sử tăng thượng thì chẳng nên gần gũi chỗ
tịch tịnh mà phải dẹp phục
kiết sử.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia ở chỗ
tịch tịnh phải tu
ngũ thần thông để
giáo hóa hàng Thiên, Long,
Dạ Xoa,
Càn Thát Bà.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia ở chỗ
tịch tịnh phải như lòi
đức Phật dạy mà ở chỗ
tịch tịnh, tôi phải đầy đủ tất cả
công đức lành
thanh tịnh, được pháp lành
huân tập rồi đến thành ấp
tụ lạc thuyết pháp.
Đây gọi là
Bồ Tát xuất gia có bốn
pháp như vậy mà ở chỗ
tịch tịnh.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia từ chỗ
tịch tịnh đứng dạy
thọ pháp đọc tụng đến chỗ
Hòa thượng A Xà Lê thượng trung
hạ tọa quan niệm rằng đây là
phước điền của tôi chẳng nên
giải đãi, đây là hạnh nghiệp của tôi chẳng ganh với người tôi phải hầu hạ người.
Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác là
phước điền cúng dường của tất cả Trời, Người,
Ma Vương,
Phạm Vương,
Sa Môn,
Bà La Môn, là cha của tất cả
chúng sanh, Phật chẳng
móng tâm cầu tìm người hầu. Nay tôi muốn học tập, tôi chẳng cầu người hầu hạ tôi mà tôi sẽ làm kẻ hầu hạ cho tất cả
chúng sanh. Tại sao ? Nầy
Trưởng giả ! Nếu
Tỳ Kheo trọng sự hầu hạ thì mất
pháp công đức. Nếu dùng của để
nhiếp thọ sẽ bảo rằng vì muốn
sai bảo tôi nên dùng
tiền của nhiếp tôi chớ chẳng phải vì pháp, do đó mà mất sự
tin tưởng đối với mình. Nếu dùng
tiền của nhiếp kẻ hầu hạ thì không có
quả báo lợi ích lớn. Nếu biết rõ
ý muốn của
Hòa thượng A Xà Lê thì theo đó mà làm chớ để
Hòa thượng A Xà Lê chẳng tin mình chẳng
kính ái mình. Vì
tán tụng pháp mà
xả bỏ thân mạng, vì
tán thán nơi pháp mà thí xả
lợi dưỡng để
vừa ý người để được
lợi ích công đức.
Nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia nếu từ nơi người mà được
thọ trì đọc tụng một kệ bốn câu
tương ưng với thí
giới nhẫn tấn
định huệ trợ đạo Bồ đề,
thọ trì văn tự chương
cú kệ tụng, thì phải vì pháp mà
cung kính như là bực
Hòa thượng A Xà Lê, trong
vô lượng kiếp hầu hạ người ấy,
cúng dường tất cả chẳng sanh lòng dua dối. Như vậy còn chẳng báo được ơn huống là còn
cần phải kính trọng nơi pháp.
Nầy
Trưởng giả ! Nếu được
lòng tin phát khởi niệm lành :
niệm Phật Pháp Tăng, niệm nơi
vô lậu, niệm
tịch diệt điều phục, thì trong
vô lượng kiếp hầu hạ
cúng dường còn chưa báo hết ơn của
Hòa Thượng. Phải
quan niệm rằng nếu được
nghe pháp rồi thì có
vô lượng phước báo được
vô lượng trí huệ, tôi phải
cúng dường Hòa Thượng vô lượng kiếp.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia phải an trụ đúng
như pháp xuất gia. Thế nào là an trụ đúng
như pháp xuất gia ?
Bồ Tát xuất gia ấy nghe
tịnh giới rồi phải học bốn
tịnh giới : đó là an trụ
thánh chủng, thích
hạnh đầu đà, chẳng thân cận hàng
tại gia xuất gia, chẳng dua dối mà ở chỗ
tịch tịnh.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia nghe
tịnh giới rồi phải học bốn
tịnh giới như vầy :
thân giới thanh tịnh mà chẳng thấy có thân, khẩu
giới thanh tịnh mà chẳng thấy có khẩu, lìa rời
thân kiến,
phát tâm Nhứt thiết trí.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia nghe
tịnh giới rồi phải học bốn
tịnh giới như vầy : rời lìa
ý tưởng ngã,
vứt bỏ ngã sở, xa
đoạn thường kiến, hiểu pháp
nhơn duyên.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia nghe
tịnh giới rồi phải học bốn
tịnh giới như vầy : ấm không chỗ có, giới đồng
pháp giới, nhập như
hư không, chẳng ở nơi
giả danh.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia nghe
tịnh giới rồi phải học bốn
tịnh giới như vầy : biết ngã
bất khả đắc, tôi
khai ngộ cho người khiến
tâm thanh tịnh, tâm chẳng thích an trụ nơi tất cả pháp, không có
dao động.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia nghe
tịnh giới rồi phải học bốn
tịnh giới như vầy : hiểu không, chẳng sợ
vô tướng vô tác, với tất cả
chúng sanh khởi lòng đại bi, nhập vào
vô ngã.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia nghe tịnh
tam muội rồi phải học tịnh
tam muội như vầy : tất cả pháp đều
vô sở hữu, không có hai tâm, tâm
chánh nghiệp, tâm nhứt xứ,
tâm không dao động,
tâm không hí luận,
tâm không loạn náo,
tâm không y chỉ, tâm
tự tại,
tâm không trì tán, chẳng an
trụ tâm giới, thấy tâm
như ảo, xem tất cả pháp đồng
như pháp giới không hành không trụ cũng không khởi, chẳng có được trong ngoài
trung gian,
tam muội đồng đẳng, an trụ
pháp như vậy gọi là
tam muội. Đây gọi là
Bồ Tát xuất gia quán định tu
thanh tịnh.
Lại nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia nghe tịnh huệ tụ, nghe rồi phải
quan sát những gì gọi là
thanh tịnh huệ tụ.
Bồ Tát ấy phải
tu học như vầy : biết rõ các pháp
nhơn duyên, trí
sai biệt,
trí biện tài, trí tốc tật, trí biết
chúng sanh, trí nhiếp phục
ngoại chúng sanh.
Nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát xuất gia lại phải học
như vầy : huệ tụ
thanh tịnh cũng gọi là không
hệ phược vì không có thân, không có chỗ
chấp trì không động không dừng không hình
không tướng không
sanh không hành,
ví như hư không vậy. Nếu
quan niệm như
vậy thì gọi là
Bồ Tát an trụ nơi xuất gia”.
Lúc
đức Phật nói pháp trên đây, có tám ngàn
chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, chư
Trưởng giả được
vô sanh pháp nhẫn, ba vạn hai ngàn
chúng sanh xa lìa trần cấu được
pháp nhãn tịnh.
Úc Già Trưởng giả vui mừng hớn hở đem y
giá trị trăm ngàn dưng cúng
đức Phật mà bạch rằng : “Nguyện đem căn lành này thí cho khắp tất cả
chúng sanh, khiến các
Bồ Tát tại gia thành tựu đầy đủ
giới pháp mà
đức Phật đã dạy, cũng nguyện chư
Bồ Tát xuất gia đầy đủ tất cả pháp mà
đức Phật đã dạy.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào
Bồ Tát tại gia ở tại nhà mà
tu học giới
xuất gia ?”
Đức Phật phán : “Nầy
Trưởng giả !
Bồ Tát tại gia đủ năm pháp thì ỏ tại nhà mà
tu học giới
xuất gia.
Bồ Tát ở tại nhà chẳng tiếc tất cả tài vật
sở hữu tương ưng với tâm
Nhứt thiết trí chẳng mong
quả báo.
Bồ Tát ở tại nhà đủ
phạm hạnh thanh tịnh chẳng có
ý tưởng dâm dục huống là hai hòa hiệp.
Bồ Tát tại gia đến chỗ vắng vẻ
tu tập tứ thiền dùng sức phương tiện chẳng nhập vào chánh vị.
Bồ Tát tại gia ở tại nhà phải tột
tinh tấn học
trí huệ tương ưng đức từ đối với
chúng sanh.
Bồ Tát ở tại nhà
gìn giữ chánh pháp cũng khuyên bảo
mọi người.
Trên đây là
Bồ Tát ở tại nhà đủ năm pháp
tu học giới xuất gia”.
Úc Già Trưởng giả bạch Phật rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi ở
tại gia sẽ giữ đúng như Phật dạy làm thêm rộng
Phật đạo, các giới
xuất gia tôi cũng phải học.”
Bấy giờ
đức Thế Tôn liền
mỉm cười. Theo lệ thường của chư Phật lúc
mỉm cười có nhiều
tia sáng màu xanh vàng đỏ trắng từ diệm môn phóng ra chiếu khắp
vô lượng vô biên thế giới, trên đến trời
Phạm Thế che khuất ánh sáng mặt nhựt mặt nguyệt rồi
trở về quanh thân Phật ba vòng sau đó rót vào đảnh đầu
đức Phật.
Thấy vậy Ngài
A Nan rời chỗ ngồi chỉnh
y phục trịch y vai hữu gối hữu chấm đất bạch
đức Phật rằng :
Duyên cớ gì
đức Thế Tôn cười ? Chư
Phật Thế Tôn không bao
giới không duyên cớ mà mỉm cười”.
Đức Phật dạy : “Này
A Nan ! Ông có thấy
Trưởng giả Úc Già
cúng dường Như Lai muốn
tu hành giáo pháp làm
sư tử hống chăng ?
-Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi đã thấy.
-“Này
A Nan !
Trưởng giả Úc Già ở tại đây, trong
Hiền kiếp này
chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian, ông ấy thường ở
tại gia cúng dường cung kính hộ trì chánh pháp. Ông ấy ở
tại gia mà an trụ giới
xuất gia rộng học
Vô thượng Bồ đề của chư Phật Như Lai”.
Đại đức A Nan nói với
Trưởng giả Úc Già : “Ngài thấy
lợi ích gì mà thích ở tại nhà, Ngài có
thánh trí chăng ?”.
Trưởng giả Úc Già nói : “Bạch Ngài
A Nan ! Người chẳng
thành tựu đại bi chẳng nên tự nói tôi là
an lạc. Bạch
Đại đức A Nan !
Đại Bồ Tát nhẫn tất cả khổ chẳng bỏ chúng sanh”.
Đức Phật phán : “Này
A Nan !
Trưởng giả Úc Già đây ở
tại gia hóa độ rất nhiều
chúng sanh trong
Hiền kiếp chẳng phải
Bồ Tát xuất gia trăm kiếp trăm ngàn kiếp làm được. Tại sao ? Vì, nầy
A Nan !
Công đức của trăm ngàn
Bồ Tát xuất gia chẳng bằng
công đức Úc Già Trưởng giả”.
Ngài
A Nan bạch
đức Phật : “Bạch
đức Thế Tôn ! Kinh nầy tên gì phải
thọ trì thế nào ?”.
Đức Phật dạy : “Này
A Nan ! Kinh này tên là
Úc Già Trưởng giả Sở Vấn. Cũng tên là kinh
Tại Gia Xuất Gia Bồ Tát Giới. Cũng tên là kinh Ân Trọng Cấp
Sự Sư Trưởng Phẩm.
Nầy
A Nan ! Nếu có
Bồ Tát được nghe kinh này thì là đại
tinh tấn chớ chẳng phải hạ
tinh tấn. An trụ nơi
phạm hạnh trăm ngàn muôn lần chẳng bằng đưọc. Muốn tự an trụ
tinh tấn, muốn khuyên người an trụ
tinh tấn, muốn tự an trụ tất cả
công đức, muốn khuyên người an trụ tất cả
công đức, thì nên nghe kinh này rồi
thọ trì đọc tụng rộng
giảng thuyết cho người và
tu hành đúng như lời.
Này
A Nan ! Ta đem
kinh pháp này
giao phó cho ông
thọ trì đọc tụng. Tại sao ? Vì pháp này đầy đủ tất cả
công đức. Nếu có
Bồ Tát tương ưng với pháp này thì chẳng rời lìa
tương ưng với
Như Lai. Nếu
Bồ Tát rời pháp này thì là rời Phật. Nếu
Bồ Tát rời pháp này, rời lìa
thọ trì đọc tụng rộng
tu hành như lời thì là rời lìa thấy tất cả chư Phật. Tại sao ? Vì sự việc
xuất gia của chư Phật đều
hiển thị trong kinh này.
Này
A Nan !
Giả sử lửa cháy lớn cả
Tam Thiên Đại Thiên thế giới, vì
chánh giác nên phải đi ngang qua để đến nghe kinh này
thọ trì đọc tụng tu hành đúng như lời.
Này
A Nan ! Nếu vì chư Phật
quá khứ mà xây tháp
bảy báu dùng tất cả đồ cúng để
cúng dường bửu pháp, với chư
Phật hiện tại và
Thanh Văn Tăng dùng các đồ cúng để
cúng dường trọn đời, với chư Phật và chư
Bồ Tát vị lai đều làm
nô bộc và làm
đệ tử để
cúng dường các Ngài, nếu chẳng nghe kinh này chẳng
thọ trì chẳng
đọc tụng chẳng
giảng thuyết chẳng
tu hành, rời lìa
kinh pháp này thì chẳng gọi là
cúng dường chư Phật Như Lai. Nếu có nghe kinh này
thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời,
Bồ Tát này đã là
cúng dường chư Phật
ba đời rồi. Tại sao ? Vì
tu hành đúng như lời chính là pháp
điều phục của
chư Phật Như Lai vậy”.
Đức Phật nói kinh này rồi,
Đại Đức A Nan,
Trưởng giả Úc Già, Trời, Người,
A Tu La,
Càn Thát Bà, tất cả
thế gian nghe lời đức Phật dạy đều rất
vui mừng tin nhận vâng làm
Pháp Hội Úc Già Trưởng Lão- Thứ mười chín
HẾT