KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
01. Phẩm Khai Hoá Trưởng Giả
Thứ Nhất
(Hán bộ trọn quyển 35)
Như vậy, tôi nghe một lúc đức Bạc Gìa Phạm
an cư tạI thành Thất La Phiệt,quá ba tháng
tự tứ xong, làm
y phục rồi, Ngài cùng chúng
đạI Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi ngườI
du hóa các nước.
Đức Bạc Gìa Phạm ấy
thành tựu danh xưng
quảng đạI vi diệu.Ngài
xuất hiện thế gian được hàng TrờI, NgườI
ca tụng công đức là đấng
Như Lai,
Ứng Cúng, Đẳng Cháng Giác, Minh Hạnh
Viên mãn,
Thiện Thệ,
Thế Gian giảI,
Vô Thượng Sĩ ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật.
Đức Bạc Gìa Phạm ấy ở sâu nơi
tự chứng đầy đủ
thần thông oai đức che chói tất cả
thế gian chư Thiên,
Ma Vương,
Phạm Vương,
A Tu La v.v…Ngài thường vì
thế gian mà nói pháp
vi diệu.LờI khai thị của Ngài trước sau giữa đều lành, văn nghĩa khéo hay thuần nhứt,
viên mãn phạm hạnh thanh bạch.
Bấy giờ
bốn bộ chúng, hàng
Quốc Vương, các quan, các nhà ngoại giao đạo,
Sa Môn ,
Bà La Bộ v.v… đều mang
vô lượng thứ
y phục,
thực phẩm, mền nệm,thuốc men các thứ
cúng dường đẹp
tốt hơn hết dâng lên
đức Như Lai.
Đức Thế Tôn được
đạI chúng vây quanh
cúng dường cung kính tôn trọng ca ngợI du hành lần lần đến nước
Ma Kiệt Đà thành
Vương Xá rồi ở lại núi Linh Thứu.
Trong thành
Vương Xá có
Trưởng Giả tên là
Hiền Thủ.Trưởng Gỉa ấy đã từng thân cận chư Phật
quá khứ trồng các căn lành
phước đức rất lớn,dòng lớn giàu lớn, sản nghiệp
của báu đều đầy đủ.
Trưởng Gỉa
Hiền Thủ nghe
đạI Sa Môn dòng họ Thích chứng
Vô thượng Bồ đề cùng
đạI chúng đến tạI nước nầy.
Đức Phật Thế Tôn ấy
xuất hiện thế gian có danh xưng rất lớn, đủ mườI hiệu,
thành tựu thần thông trí huệ nói pháp
vi diệu,nhẫn đến
viên mãn phạm hạnh thanh bạch.
Trưởng Giả Hiền Thủ nghĩ rằng : nay tôi nên đến núi Linh Thứu để được phụng kiến
đức Như Lai.Nếu tôi được thấy
đức Phật tất sẽ được lợI lành.
Suy nghĩ xong,
Trưởng Giả Hiền Thủ cùng năm trăm
Trưởng Giả ra khỏI thành
Vương Xá hướng đến núi Linh Thứu.
BuổI sáng hôm ấy ,
đức Thế Tôn mặc
y tăng già lê mang bát cùng chúng
Tỳ Kheo thị tùng rờI núi Linh Thứu hướng đến thành
Vương Xá.
Đức Phật đi trước đạI chúng .
Oai nghi của Ngài
nghiêm chỉnh bước đi
an tường .Vì
giáo hóa chúng sanh mà Ngài
hiện thân khất thực.
Lúc
đức Phật sắp vào thành, Ngài dừng lạI giữa đường ,
Trưởng Giả Hiền Thủ và năm trăm
Trưởng Giả từ xa trông thấy
đức Phật oai nghiêm
siêu việt,thân màu
hoàng kim mà ai cũng thích nhìn, đủ ba mươi hai
tướng đạI trượng phu,các căn
tịch định,
thần thái đạm bạc, như
đạI long tượng,
nhiếp hộ các căn
thanh tịnh không náo loạn như ao suốI đứng trong, chưn Ngài bước trên
hoa sen hồng trăm ngàn ức cánh do
bảy báu hiệp thành, được
vô số Thiên ,Nhơn,
Dạ Xoa cúng dường, mưa hoa trờI lớn rảI trên
đức Như Lai.Hoa trờI ấy như dòng thác đổ tràn đầy mặt đất.
Chư Trưởng Gỉa khen chưa từng có,dùng lòng
thanh tịnh đến chỗ
đức Phật đảnh lễ chưn Phật rồI đứng qua một bên mà bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn! Thiệt chưa từng có.
Thần lực của
đức Như Lai chói che cả
chư Tiên ,
chư Tiên cùng
Ma Vương,
Phạm Vương.
Oai đức của
Như Lai đủ cả danh xưng to lớn.Vầng
viên quang màu đẹp lấp cả
đạI chúng.
Thân tướng Như Lai dường tóa núi vàng lớn,
dung mạo đoan nghiêm không ai
sánh bằng.Thê& Tôn
thành tựu tất cả những pháp hi kỳ.Tôi
suy gẫm đức Thế Tôn oai đức như vậy
quan sát những tướng gì mà
vứt bỏ gia nghiệp để
chứng ngộ đạI Bồ đề”.
Liền đó
Trưởng Giả Hiền Thủ ở trước
đức Phật nói kệ rằng:
“ Xưa tôi từng nghe
đức Thế TônCát tường sắc đẹp danh xưng lớn
Nay thấy oai quang hơn chỗ nghe
Như tượng chơn kim đủ mọI đức
Thân sắc Như Lai dường núi vàng
Cao rộng
nghiêm tịnh nhìn không chán
Chúng
Tỳ Kheo oai đức trang nghiêmDường như trăng tròn giữa sao trờI
Đảnh tướng
Như Lai không ai thấy
Cao bày
rực rỡ hơn
Tu DiBúi tóc tròn đầy
tuần tự xoắn
Đảnh tướng bằng nghiêm như lọng trời
Tóc biếc mềm mướt xoay bên hữu
Như ngọc thanh bửu của
Thiên ĐếSạch chói hơn lông cổ chim công
Nay tôi
chiêm ngưỡng không biết chán
Diện mạo
đoan nghiêm trán bằng phẳng
Mày sáng sạch như vành cung trời
Lông trắng chặng mày chói
rực rỡÁnh sáng chiếu suốt như vầng trăng
Mắt trong
diệu hiền rất đẹp lạ
Người thấy đều sanh lòng mến thích
Nay tôi
chiêm ngưỡng chẳng tạm rời
Đảnh lễ mắt
Phật thế gian nương
Sống mũi cao bằng dài và thẳng
Lần rộng tròn trịa như thỏi vàng
Môi đỏ bóng sáng rất
thanh tịnhNhư trái
tần bà ngọc
ma niRăng đẹp sạch trắng thêm sáng bóng
Đồng màu sữa và
ngó sen non
Răng kín bằng phẳng rất sạch sáng
Do điều thuận
đạI định cảm nên
Răng trong răng ngoài chưn sâu chắc
Trên dưới khít khao đều
tề chỉnhRăng nanh sáng trắng hơn tất cả
Như nhạn vương ở giữa đàn nhạn
Tướng lưỡi của Phật rất rộng dài
Che mặt mỏng sạch như
hoa senNhư màu đồng đỏ
châu ma niLóng lánh như gương
mặt trời mọc
Vành tai của Phật rất
đoan nghiêmCõi trời cõi người chẳng nghe thấy
Dòng giống
Cồ Đàm hàm toan nghê
Vô úy dường như
sư tử chúa
Tôi ngắm tướng yết hầu của Phật
Hay nhỉ chất
cam lộ thế gianTrong sạch sáng suốt không
vết nhơĐủ
đạI lực chẳng nghĩ bàn
Trước cổ ngang rộng dài và thẳng
Ở giữa đều không có lằn nhăn
Tôn quý trong ngườI trờI trong trờI
Thường ăn chất vị
đệ nhứt vị
Đầu vai tròn trịa đều đầy bằng
Ngực hông hùng mạnh oai dung thạnh
Tướng của
Thế Tôn đờI chưa nghe
Như trên núi cao
mặt trờI sáng
Tay chưn hai vai và sau gáy
Bảy chỗ sáng sạch đều đầy bằng
Cánh tay tròn dài như vòi voi
Bàn tay thòng xuống rờ đụng gối
Thân mình rộng dầy như thú vương
Viên mãn như cây ni câu luật
Sức
na la diên hiệp
thành thânĐủ trọn
đại lực và
nhẫn lựcLông trên thân Phật đều hướng lên
Cứ mỗi lỗ lông mọc một lông
Bụi khói chẳng đóng như
hoa senXoắn về bên hữu mà mịn nhuyễn
Tôi xưa nghe truyền tướng ẩn kín
Âm tạng sâu như chúa ngựa trời
Vế đùi tròn trịa lần lần thon
Tướng ấy dường như chúa nai trời
Chưn dầy nổi vun gót tròn dài
Bàn tay màn mỏng như nhạn chúa
Bằng đầy vót dài hai mươi ngón
Móng màu xích đồng như
hoa senHai chưn tướng vành xe ngàn căm
Sáng sạch
vi diệu đủ
trang nghiêmNhư Lai dạo bước nơi
thế gianHai mắt cá chưn chẳng chạm nhau
Cách đất bốn ngón đi trên không
Những bông sen đỏ theo chưn hiện
Đoái nhìn
an tường bước
tượng vươngTiến lên đoan túc như
Thiên VươngĐạI Thánh oai nghiêm
vô sở úy
Giữa chúng vượt hơn
sư tử vươngSắc đẹp chói lấp
Tỳ Sa MônOai quang hơn trăm ngàn
mặt trờIThiên Vương Phạm Vương còn không bằng
Có ai hơn được
đức Như LaiĐi đứng
thuyết pháp độ
chúng sanhThiên Tiên Long Thần đều
cung kínhHoặc trổI
nhạc trờI rảI hoa trờI
Lăng xăng ngập tràn đầy
hư khôngNay thấy
Thế Tôn đạI
thần thôngNên tôi trộm sanh lòng
nghi hoặcTrước kia do thấy
công đức gì
Mà Phật
xuất gia chứng
vô thượng ?”.
Bấy giờ
đức Thế Tôn bảo
Trưởng Giả Hiền Thủ : “ Nầy
Trưởng Giả ! Ta xem thấy tất cả
chúng sanh ở
thế gian bị mườI sự khổ
bức bách :
Một là
sanh khổ.Hai lá
lão khổ.Ba là
bịnh khổ.Bốn là
tử khổ.Năm là
sầu khổ.Sáu là
oán hận.Bảy là
khổ thọ.Tám là
ưu thọ.Chín là thống não.MườI là khổ lớn
sanh tử lưu chuyển.
Nầy Trưởng Giả! Ta thấy mườI sự khổ ấy
bức bách chúng sanh.Ta vì được
Vô thượng Bồ đề để
xuất ly sự khổ ấy,nên ta dùng lòng
tịnh tín bỏ cung dòng thích thẳng đến đạo vô thượng”.
Muốn tuyên lạI nghĩa ấy,
đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“ Ta thấy các
phàm phuBị nhốt ngục
lưu chuyểnThường bị sanh
lão bịnhCác khổ làm
bức báchSầu lo và
oán hậnNhững chết chóc kéo dắt
Vì trừ khổ lao ngục
Nên ta thích
xuất ly.
Lại nầy
Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả
chúng sanh ở
thế gian bị mười thứ
não hại ghét ganh lẫn nhau.Những gì là mười ?
Một là đã từng ở nơi thân mình làm điều chẳng
lợi ích nên sanh lòng
não hại.
Hai là hiện nay ở nơi thân mình làm điều chẳng
lợi ích nên sanh lòng
não hại.
Ba là sẽ ở nơi thân mình làm điều chẳng
lợi ích nên sanh lòng
não hại.
Bốn là đã từng ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng
lợi ích nên sanh lòng
não hại.
Năm là hiện nay ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng
lợi ích nên sanh lòng
não hại.
Sáu là sẽ ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng
lợi ích nên sanh lòng
não hại.
Bảy là đã từng ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều
lợi ích nên sanh lòng
não hại.
Tám là hiện nay ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều
lợi ích nên sanh lòng
não hại.
Chín là sẽ ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều
lợi ích nên sanh lòng
não hại.
Mười là ở những nơi
lỗi lầm mà làm điều chẳng
lợi ích nên sanh lòng
não hại.
Nầy
Trưởng Giả ! Ta thấy mườI điều
não hạI ấy làm
não hạI tất cả
chúng sanh thế gian.Ta vì được
Vô thượng Bồ đề để
xuất ly sự
não hạI ấy nên dùng
lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung
họ Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy nên nói kệ rằng :
“Chúng sanh
ganh ghét nhau
Đều do mườI não sanh
Nơi mình và mình ưa
Ba đờI đều
não hạIHoặc nơi mình chẳng ưa
LạI làm những
lợI íchOán chét do đây sanh
Ba đờI đều
não hạIThứ mườI nơi lỗI làm
Sanh trưởng khổ oán ghét
Ta thấy những lỗI ấy
Chán sợ nên
xuất gia.
LạI nầy
Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả
chúng sanh ở
thế gian vào trong mườI thứ rừng rậm
ác kiến .Do chấp
dị kiến mà chẳng tự ra khỏi.
Những gì là mườI ?
Một là rừng rậm
ác kiến về
ngã kiến.
Hai là rừng rậm
ác kiến về
hữu tình kiến.
Ba là rừng rậm
ác kiến về
thọ mạng kiến.
Bốn là rừng rậm
ác kiến về sát thủ thú kiến
Năm là rừng rậm
ác kiến về
đoạn kiếnSáu là rừng rậm
ác kiến về
thường kiến.
Bảy là rừng rậm
ác kiến về
vô tác kiến.
Tám là rừng rậm
ác kiến về vô nhơn kiến.
Chín là rừng rậm
ác kiến về bất
bình đẳng nhơn kiến
Mười là rừng rậm
ác kiến về
tà kiến.
Nầy
Trưởng Giả ! Ta thấy
chúng sanh vào trong mườI thứ rừng rậm
ác kiến không tự ra được.Ta vì được
Vô thượng Bồ đề để dứt hẳn những
ác kiến ấy nên dùng
lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung
họ Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghiã ấy mà nói kệ rằng :
“Tất cả kẻ
phàm phuVào rừng rậm
ác kiếnNgã kiến,hựu
tình kiếnĐoạn kiến vớI
thường kiếnChấp
vô tác kiến thảy
Vì
an lập chánh kiếnNên ta đi
xuất gia.
Lại nầy
Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả
chúng sanh ở
thế gian từ
vô số kiếp gây tạo đủ trăm ngàn
na do tha câu chi tội lỗi,thường bị mười thứ tên độc lớn bắn trúng.Những gì là mười ?
Một là tên độc
ái luyếnHai là tên độc
vô minh.
Ba là tên độc
dục nhiễm.
Bốn là tên
độc tham lam.
Năm là tên độc
lỗi lầm.
Sáu là tên độc
ngu si.
Bảy là tên độc
kiêu mạn.
Tám là tên độc
kiến chấp.
Chín là tên độc có.
Mười là tên
độc không có.
Nầy
Trưởng Giả ! Vì ta thấy
chúng sanh bị mườI thứ tên độc ấy bắn trúng nên ta cầu
Vô thượng Bồ đề để dứt hẳn những tên độc ấy.Do đó mà ta dùng lòng
tịnh tín rờI bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo
vô thượng.
Đức Thế Tôn muốn nói lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“ Quá
câu chi đại kiếpChúng sanh bị tên ái
Tên
vô minh làm mù
Từ tốI vào trong tốI
Tên dục thường bắn trúng
Nhiễm trước gọI tên tham
Tên
lỗI lầm muộn loạn
Mang mũi tên
ngu siCống cao phát tên mạn
Trái cãi sanh
kiến chấpDo tên có không có
Sa vào có và không
Các
phàm phu ngu siMũi nhọn do miệng họ
Cùng nhau sanh
tranh luậnĐây thiệt đây chẳng thiệt
Vì nhổ những tên độc
Như Lai hiện thế gian
Cứu ngườI trúng tên độc
Xuất gia thành thánh đạo.
LạI nầy Trưởng Giả! Ta thấy tất cả
chúng sanh ở
thế gian do mườI thứ
ái luyến kiến lập căn bổn.Những gì là mườI ?
Đó là do ái nên cầu ,do cầu nên được,do được nên có
ngã sở, do
ngã sở nên
nắm chặt,do
nắm chặt nên
tham dục,do
tham dục nên
say đắm,do
say đắm nên bỏn sẻn,do bỏn sẻn nên thâu góp,do thâu góp nên
gìn giữ,do
gìn giữ nên cầm
khí giớI cãi kiện chê bai sanh ra nhiều sự khổ.LạI
do nơi đây mà phát ra
lờI nói ly biệt nuôi lớn những sự ác
bất thiện.
Nầy Trưởng Giả! Ta thấy
chúng sanh do mườI thứ
ái nhiễm kiến lập căn bổn nên cầu
Vô thượng Bồ đề để được
pháp không căn bổn không
sở y.Do đó ta dùng
lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Ái nhiệm nuốt
chúng sanhTheo tìm những
dục lạcĐược
lợI sanh ngã sởDo đây mà
nắm chặtTôi phảI được phảI làm
Dục tham càng thêm lớn
Những
say đắm bỏn sẻn
NốI nhau mà phát sanh
Quá
tham lam bỏn sẻn
Nên chứa thâu càng nhiều
Do chứa nên
giữ gìnSanh nhiều lỗI không hở
NgườI ngu vì
giữ gìnKhí giớI tàn hạI nhau
Gieo những
nghiệp bất thiệnDo đây sanh quả khổ
Thấy
nhơn duyên ái rồI
Các khổ chẳng còn sanh
Trí giác không căn trụ
Hơn hết trong trí giác.
LạI nầy
Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả
chúng sanh ở
thế gian do mườI thứ tánh ác tà mà
kiến lập tà định.Những gì là mườI ?
Một là
tà kiến.Hai là
tà tư duy.Ba là
tà ngữ.Bốn là
tà nghiệp.Năm là
tà mạng.Sáu là tà
tinh tiến .Bảy là tà niệm.Tám là
tà định. Chín là
tà giải thoát .MườI là
tà giảI thoát
tri kiến.
Nầy Trường Già ! Ta thấy
chúng sanh do mườI thứ tà tánh ấy
kiến lập tà định,ta muốn chứng
Vô thượng Bồ đề để
xuất ly các tà tánh như vậy nên dùng
lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung dòng Thích mà hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Chúng sanh hoài
tà kiếnTà tư duy cảnh giớITuyên nói những
tà ngữVà làm những
tà nghiệpTà mạng tà
tinh tiếnTà niệm và
tà địnhThành tựu tà giảI thoát
Và đến tà
tri kiếnTà tánh
quyết định tụ
Chỗ nương của kẻ ngu
Vì khiến trụ
chánh kiếnHướng đến đạo
vô thượng.
LạI nầy Trưởng Giả! Ta thấy tất cả
chúng sanh ở
thế gian do mườI thứ
nghiệp đạo bất thiện mà hay
kiến lập ở nơi
tà đạo phần nhiều phảI đọa vào
ác thú.Những gì là mườI ?
Một là giết chết .Hai là chẳng cho mà lấy. Ba là
tà dâm. Bốn là
vọng ngữ .Năm là lời
ly gián. Sáu là
thô ngữ .Bảy là
ỷ ngữ. Tám là
tham lam.Chín là giận thù.Mười là
tà kiến.
Nầy
Trưởng Giả ! Ta thấy
chúng sanh do mườI thứ
nghiệp bất thiện ấy nương theo
tà kiến mà
xu hướng,phần đông phảI sa vào
ác đạo.Ta vì muốn chứng
Vô thượng Bồ đề siêu xuất tất cả các
tà đạo nên dùng lòng
tịnh tín rờI bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Nào hạI mạng
chúng sanhCướp trộm
của cảI ngườI
Làm hạnh
tà dâm dục
Mau đọa vào
địa ngụcThô ngữ ,
ly gián ngữVọng ngữ trái
tịch tịnhNhững
phàm phu ỷ ngữBị
ngu si ràng buộcTham lam tài sản ngườI
Thường sanh lòng giận thù
KhởI các thứ
tà kiếnNgườI ấy đến
ác đạoBa nghiệp do thân khởI
Bốn nghiệp từ miệng sanh
Ý hay thành
ba nghiệpNên gọI là
ác hạnhLàm những
ác nghiệp rồi
Dắt đến trong
ác đạoNay ta
hiện thế gian
Tế độ khiến ra khỏi.
LạI nầy
Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả
chúng sanh thế gian do mườI pháp
nhiễm ô mà ở tạI
phiền não,sa vào trong
phiền não.Những gì là mườI ?
Một là xan cầu
nhiễm ô.
Hai là
ác giới cấu nhiễm ô.
Ba là sân
cấu nhiễm ô.
Bốn là
giải đãi cấu nhiễm ô.
Năm là
tán loạn cấu nhiễm ô.
Sáu là ác huệ
cấu nhiễm ô.
Bảy là bất tuân
chánh giáo cấu nhiễm ô.
Tám là tà nghi
cấu nhiễm ô.
Chín là
bất tín giải
cấu nhiễm ô.
Mười là bất
cung kính cấu nhiễm ô.
Nầy
Trưởng Giả ! Ta thấy
chúng sanh bị mườI thứ
cấu nhiễm ấy làm
nhiễm ô,ta vì chứng
Vô thượng Bồ đề được pháp
vô nhiễm vô thượng nên dùng
lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Phần đông các
chúng sanhBị mườI thứ
ô nhiễmThích
hữu vi phiền nãoChẳng hề biết chán lìa
Xan cấu là
ô nhiễmTất cả
phàm phu dại
Phạm giới chẳng
tịch tịnhChẳng tập tu
chánh địnhSân cấu trái
nhẫn nhụcLòng họ chẳng chuyên trụ
Người tá trí
ngu độnChẳng
tuân theo lờI dạy
Của
cha mẹ sư trưởngChúng sanh bị lướI nghi
Chẳng cầu trí chiếu thế
Chê bai pháp
thâm diệuCủa
đức Phật dạy truyền
Mặc lấy áo
vô minhKhinh tiện nơi thánh uẩn
Thấy được
ô nhiễm ấy
Có ai thích
hữu viPhảI siêng
cầu tịch diệt
Vô vi không ô nhiễm.
LạI nầy
Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả
chúng sanh ở
thế gian bị mườI thứ
triền phược nó
trói buộc.Những gì là mườI ?
Một là lưới xan tật
trói buộc.
Hai là màn
vô minh che lòa.
Ba là
phiền não làm mê say sa vào hố
ngu si.
Bốn là dòng nước lũ
ái dục đẩy trôi
chìm đắm.
Năm là bị tên độc
tà kiến bắn trúng.
Sáu là khói đặc giận thù xông lấp.
Bảy là ngọn lửa
tham dục đốt cháy.
Tám là thuốc độc
lỗi lầm làm mê loạn.
Chín là những gai độc
ngũ cái làm trở ngại.
Mười là thường ở trong dòng nước
sanh tử trong đồng hoang
đói khát,lười mỏi đối với
chánh cần.
Nầy
Trưởng Giả ! Ta thấy
chúng sanh bị mườI thứ
triền phược ấy
trói buộc nên ta cầu
Vô thượng Bồ đề để
chứng pháp không
triền phược.Ta dùng
lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“TuổI già nuốt trẻ mạnh
TuổI già mất tươi đẹp
TuổI già tổn
niệm huệTrọn bị thần chết nuốt
Bịnh
xô ngã thế lựcCướp đoạt tâm
dũng mãnhLàm hư cả căn thân
Yếu đuốI không nơi dựa
Chết như quỷ
La SátĐộc hại rất
đáng sợThường ở mãi
thế gianUống cạn mạng
chúng sanhTa đã chán
thế gianGià bịnh chết
bức báchNên
cầu pháp xuất giaAn lành không già chết
ĐờI bị ba thứ lửa
Ta thấy không ai cứu
Rưới mưa pháp
cam lộTắt mất ba lửa độc
Thấy những kẻ
lạc đườngMù loà
sanh manh thảy
Vì muốn làm mắt sáng
Dẫn đường nên
xuất giaChúng sanh nuôi lòng nghi
Uẩn cái nó
che lấpVì trừ hối não ấy
Nên
xuất gia thuyết phápKẻ ngu chống
trái nhauRình rập hạI lẫn nhau
Vì hoà giảI oán ghét
Giúp đờI nên
xuất giaVớI
cha mẹ sư trưởngChống khinh không
cung kínhVì dẹp tràng
kiêu mạnNên ta đi
xuất giaThấy
tham lam hại đời
Do
tiền của hạI nhau
Vì được bảy thánh tài
Dứt trừ những pháp tham
Hoặc đến nỗI hạI nhau
LợI mình trọn
vô íchThấy vậy ta
xả thânCầu rờI ngục
tam giớIXưa chưa biết
tam giớISự
lợI ích chơn thiệt
Vì mở sự lợI thiệt
Nên ta đi
xuất giaThấy người đến
địa ngụcNghiệp nhơn ác quá nhiều
Chịu
vô biên khổ nãoVì cứu mà
xuất giaThấy các loài muôn thú
Thường giết hại lẫn nhau
Muốn làm chỗ nó nương
Thương chúng mà
xuất giaThấy các loài
ngạ quỷRất khổ vì
đói khátVì
chứng đạI Bồ đềThí
cam lộ bất tửLoài ngườI khổ vì cầu
Chư Thiên khổ vì chết
Thấy khổ khắp
ba cõiVì cứu mà
xuất giaTa thấy ngườI
tham dụcRờI xa lòng
tàm quýHiếp bức cả
thân thuộcHoang dâm hơn heo chó
LạI thấy những kẻ ngu
Bị gái đẹp nuốt chửng
Phóng dật gây
tộI ácVì bỏ nên
xuất giaThấy
chúng sanh kiếp trượcMa khiến
tộI ác sai
Ta muốn
điều phục họ
Xuất gia thánh
chánh giácTạI gia là gốc tộI
Xuất gia đến
Bồ đềNên bỏ cả quốc thành
Để hết hẳn
sanh tử ».
Năm trăm
Trưởng Giả nghe lời đức Phật dạy chưa từng có,mới biết
đức Như Lai là bực chơn giác.Các
Trưởng Giả liền ở trứơc
đức Phật khác miệng đồng
lời nói kệ rằng :
«
Chúng tôi kinh sợ già chết bức
Xin Phật tuyên dạy hết khổ ấy
Phật khỏi
tam giới đến
thanh tịnhTánh
thanh tịnh rời hẳn
tam giớiXin cứu
chúng sanh thoát
tam giớiVà người
tại gia bị nhốt giam
Thế Tôn ly nhiễm giải thoát nhứt
Rời xa
trần cấu lòng
thanh tịnhĐiều ngự lớn trong pháp
điều ngựXin mở cửa
cam lộ vi diệuĐủ tướng
diệu sắc đại trượng phuTrời người
thế gian không ai sánh
Đấng
tối thắng không ai
sánh bằngXin nói pháp mầu cứu muôn loại
Dứt hẳn
ba độc hết
tội lỗiHuệ nhãn sạch trong tiêu màn lòa
Sạch bụi lìa tối mở lưới si
Xin
đức Thế tôn tuyên
diệu phápChúng sanh quá
khổ không chỗ dựa
Đắm ao
tam giới không ai cứu
Mau vớt lên bờ cao
an ổnSông to
kiêu mạn nước xoáy si
Bịnh tật kiện tụng sóng gào to
Chúng sanh trôi chìm không ai vớt
Xin Phật
từ bi cứu thoát hiểm
Ngàn ức
mặt trờI chói núi vàng
Thân phật
chói sáng hơn sáng ấy
Xin dùng
phạm âm thanh thắng diệu
Tuyên bố pháp
đoan nghiêm tốI thượngTự tánh các pháp vốn
thanh tịnhThể tướng rỗng suốt như
minh châuKhông có
tác giả không
thọ giảBiến
chánh giác chẳng từ ngoài được
Tự nhiên đầy đủ
lực vô úyHiển hiện vô biên hạnh tịnh diệuTrí giảI
vô biên như
hư khôngXin
đấng Pháp Vương tuyên pháp diệu”.
Bấy giờ
đức Thế Tôn nghĩ rằng năm trăm
Trưởng Giả nầy căn lành đã
thành thục có thể
lãnh thọ diệu pháp.Nay ta nên nói pháp cho họ
phát tâm xuất gia dứt
trừ phiền não được
trí huệ vô lậu.
Nghị xong ,
đức Phật liền bay lên
ngồI kiết già trên
hư không.
Các
Trưởng Giả thấy
Phật hiện thần biến khen chưa từng có,càng
kính trọng tín ngưỡng Phật hơn.
Đức Thế Tôn bảo các
Trưởng Giả rằng : “ Các ông lắng nghe !
Trong đờI có mườI sự khổ
bức bách. Đó là asnh khổ,
lão khổ,
bịnh khổ ,
tử khổ,
sầu khổ, oán khổ,
khổ thọ,
ưu thọ và thống não
sanh tử. MườI sự khổ
bức bách như vậy làm khổ
chúng sanh.Nay các ông có muốn
giảI thoát chăng ?
LạI nầy các
Trưởng Giả !
Trong đờI có mườI thứ
não hại. Đó là với thân của mình từng làm sự chẳng
lợI ích,nay làm sự chẳng
lợI ích,sẽ làm sự chẳng
lợI ích , sẽ làm sự chẳng
lợI ích; vớI chỗ ta từng yêu thích làm sự chẳng
lợI ích,vớI chỗ ta hiện nay yêu thích làm sự chẳng
lợI ích, vớI chỗ ta sẽ yêu thích làm sự chẳng
lợI ích; vớI chỗ ta từng chẳng ưa làm sự
lợI ích, vớI chỗ ta hiện chẳng ưa làm sự
lợI ích, vớI chỗ ta sẽ chẳng ưa làm sự
lợI ích, và ở nơi tất cả lỗI chẳng
lợI ích sanh lòng
não hại.MườI sự
não hạI ấy các ông có muốn
giảI thoát chăng ?
LạI nầy các
Trưởng Giả !
Trong đờI có mườI thứ rừng rậm
dị kiến ác kiến. Đó là
ngã kiến,
chúng sanh kiến ,
thọ mạng kiến, sát thủ thú kiến ,
đoạn kiến ,
thường kiến,
vô tác dụng kiến,vô nhơn kiến ,bất
bình đẳng kiến và
tà kiến.MườI rừng rậm
ác kiến ấy các ông có muốn
giảI thoát chăng ?
LạI nầy các
Trưởng Giả !
Trong đờI bị mườI thứ tên độc lớn bắn trúng. Đó là
ái độc,
vô minh độc, dục độc,
tham độc,
quá thất độc,
ngu si độc, mạn độc,
kiến độc ,hữu độc và vô độc.MườI thứ tên độc ấy các ông có muốn
giảI thoát chăng ?
LạI nầy các
Trưởng Giả !
Trong đờI có mườI thứ
pháp ái căn bổn . Đó là do vì ái nên tìm cầu, do vì cầu nên được , do vì được nên có
ngã sở hữu , do vì
sở hữu nên
nắm chặt,do vì
nắm chặt nên
tham dục,do vì
tham dục nên
say đắm,do vì
say đắm nên bỏn sẻn, do vì bỏn sẻn nên góp chứa, do vì góp chứa nên
gìn giữ, do vì
gìn giữ nên dùng những
khí giớI tranh chấp kiện tụng chê bai huỷ báng chia rẽ, những pháp ác
bất thiện khổ não nhơn đây mà
phát khởi.MườI thứ
pháp ái căn bổn như vậy nay các ông có muốn
giảI thoát chăng ?
LạI nầy các
Trưởng Giả !
Trong đờI có mườI thứ tà tánh. Đó là
tà kiến ,
tà tư duy,
tà ngữ,
tà nghiệp ,
tà mạng,tà
tinh tiến, tà niệm,
tà định,
tà giải thoát ,
tà giải thoát
tri kiến. Mười thứ tà tánh như vậy nay các ông có muốn
giải thoát chăng ?
Lại nầy các
Trưởng Giả !
Trong đời có mười
nghiệp đạo bất thiện. Đó là hại mạng, chẳng cho mà lấy ,
tà dâm ,
vọng ngữ,
ly gián ngữ,
thô ác ngữ,
ỷ ngữ ,
tham dục , giận thù và
tà kiến. MườI
nghiệp đạo bất thiện như vậy nay các ông có muốn
giảI thoát không ?
LạI nầy các Trượng Giả !
Trong đờI có mườI thứ pháp
cấu uế nhiễm ô. Đó là bỏn sẻn
cấu uế,
phá giớI cấu uế, giận hờn
cấu uế,
giảI đãi cấu uế,
tán loạn cấu uế ,
ác kiến cấu uế , chẳng tuân lờI dạy
cấu uế,
nghi hoặc cấu uế ,
bất tín cấu uế và chẳng
cung kính cấu uế.MườI thứ
cấu uế nhiễm ô như vậy nay các ông có muốn
giảI thoát không ?
LạI nầy các
Trưởng Giả ! Trơng đờI có mườI sự
sanh tử lưu chuển đạI bố úy. Đó là
trói buộc trong lưới bỏn sẻn
ganh ghét ,che lòa trong màn
vô minh, sa vào hố sâu
ngu si, trôi chìm dòng nước lũ
ái dục, trúng tên
tà kiến ,khói phẫn hận xông lấp ,lửa mạnh
tham dục đốt cháy ,
độc dược lỗI lầm làm mê ,gai độc
ngũ cái ngăn trở và chạy quanh trong đồng hoang đói kém.MườI sự
sanh tử lưu chuyển đạI bố úy như vậy nay các ông có muốn
giảI thoát chăng ?”.
Năm trăm
Trưởng Giả đồng thanh nhứt tâm bạch rằng : “
Bạch đức Thế Tôn ! Nay
chúng tôi muốn được giãi thoát mườI sự khổ
bức bách như là sanh già v.v…nhẫn đến sự
bức bách đi quanh trong đồng hoang đói kém
chúng tôi đều muốn
được giảI thoát tất cả”.
Đừc Phật phán dạy : “ Nầy các
Trưởng Giả ! Các ông nghe kỹ.Nay ta sẽ nói
chánh pháp yếu.
Nấy các
Trưởng Giả ! Nhãn chẳng cầu
giảI thoát , vì nhãn không tác không dụng, nhãn chẳng
suy nghĩ được chẳng hay biết được.Vì thế nên nhãn chẳng phảI là ta, các ông phảI
thọ trì như vậy.
Cho đến nhĩ tỷ
thiệt thân và ý đều chẳng cầu
giảI thoát, vì nhĩ đến ý không tác không dụng, chẳng
suy nghĩ được chẳng hay biết được .Vì thế nên nhĩ đến ý cũng chẳng phảI là ta , các ông phảI
thọ trì như vậy.
LạI nầy các
Trưởng Giả ! Sắc chẳng cầu
giảI thoát ,vì
sắc không tác không dụng , không
suy nghĩ được không hay biết được .Vì thế nên sắc chẳng phài là ta, các ông phảI
thọ trì như vậy. Như sắc, năm
trần thanh hương vị xúc và pháp cũng đều chẳng cầu
giảI thoát vì đều không tác không dụng ,không
suy nghĩ được không hay biết được, đều chẳng phảI là ta, các ông phảI
thọ trì như vậy.
LạI nầy các
Trưởng Giả !
Sắc uẩn chẳng cầu
giảI thoát, vì
sắc uẩn không tác không dụng không
suy nghĩ được không hay biết được, chẳng phảI là ta ,các ông phảI
thọ trì như vậy.Bốn uẩn thọ tưởng hành và thức cũng đều chẳng cấu
giảI thoát, vì không tác không dụng không
suy nghĩ được không hay biết được chẳng phảI là ta , các ông phảI
thọ trì như vậy.
LạI nầy các
Trưởng Giả !
Địa đạI chẳng cầu
giảI thoát ,vì không tác không dụng không
suy nghĩ được không hay biết được không phảI là ta ,các ông phảI
thọ trì như vậy .
Thủy đạI, hoả đạI,
phong đạI ,
không đạI vì thức đạI cũng đều chẳng cần
giảI thoát,vì đều không tác không dụng, không
suy nghĩ được không hay biết được chẳng phảI là ta, các ông phảI
thọ trì như vậy.
LạI nầy các
Trưởng Giả ! Các pháp đều chẳng thiệt, do
phân biệt mà
sanh khởI, nó nương theo các duyên không có
năng lực,nó
chuyển đổI theo các duyên.Nếu có các duyên thì
giả lập các pháp ,
nếu không các duyên thì không các
pháp giả.
Nầy các
Trưởng Giả ! Tất cả các
pháp chỉ là giả đặt ra để ra.Trong ấy không có gì sanh gì lão gì tử gì tận gì khởI cả. Chỉ có
tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài
sanh tử đáng dùng để
quy y. Các ông phảI biết như vậy.
Nầy các
Trưởng Giả ! Tất cả các pháp đều chẳng thiệt ,do
phân biệt mà
sanh khởI ,
y cứ theo các duyên ,nó
yếu kém không
năng lực theo các duyên mà
chuyển đổi. Nếu có các duyên thì
giả lập các pháp .
Nếu không các duyên thì
không pháp giả.
Nầy các
Trưởng Giả ! Tất cả các
pháp chỉ là
giả lập,trong ấy đều không có gì sanh gì laõ gì tử gì tận gì khởI . Chỉ có
tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài
sanh tử, đáng dùng để
quy y.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếu có
phân biệt chẳng thiệt thì có
tác ý giả lập bất chánh.
Nếu không phân biệt chẳng thiệt thì không
tác ý giả lập bất chánh.Nếu có
tác ý bất chánh thì có
vô minh giả lập.
Nếu không tác ý bất chánh thì
không vô minh
giả lập.Nếu có
vô minh thì có
hành giả lập.
Nếu không vô minh thì không các
hành giả lập: Nếu có các hành thì có
thức giả lập.
Nếu không các hành thì không
thức giả lập.Nếu có
thức giả lập thì có
danh sắc giả lập.
Nếu không thức thì không
danh sắc giả lập.Nếu có
danh sắc thì có
sáu nhập giả lập.
Nếu không danh sắc thì không
sáu nhập giả lập.Nếu có
sáu nhập thì có xúc
giả lập.
Nếu không sáu nhập thì không xúc
giả lập.Nếu có xúc thì có
thọ giả lập.
Nếu không xúc thì không
thọ giả lập.Nếu có thọ thì có
ái giả lập.
nếu không thọ thì không
ái giả lập.Nếu có ái thì có thủ
giả lập.
Nếu không ái thì không thủ
giả lập.Nếu có thủ thì có hữu
giả lập.
Nếu không thủ thì không hưũ
giả lập. Nếu có hữu thì có sanh
giả lập.
Nếu không hữu thì không sanh
giả lập.Nếu có sanh thì có laõ tử
giả lập.
Nếu không sanh thì không laõ tử
giả lập.
Nầy các
Trưởng Giả ! Thế nào là laõ ? Đó là tình thức tối suy , đấu bạc
tóc rụng,da dùn mặt nhăn ,
thọ mạng tổn giảm,các căn suy kém, hàng động bất tiện, đó gọi là già.
Thế nào là tử ? Đó là diệt mất đổi dời các uẩn tan rã hư hoại bỏ
chúng đồng phận , đó gọi là chết.
Laõ ấy tử ấy là hiệp lại gọi là laõ tử .
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếusanh mà có thìcó giả
lão tử .Nếu sanh mà không thì không giả
lão tử.
Thế nào là sanh ? Đó là sanh ấy đồng
sanh khởi các uẩn
xuất hiện và có các căn xứ hội hiệp
chúng đồng phận , đó gọi là sanh.
Nầy các
trưởng Giả ! nếu hữu mà có thì có giả sanh.Nếu hữu mà không thì không giả sanh .
Thế nào là hữu ? Đó là
dục hữu sắc hữu và
vô sắc hữu,
phước nghiệp phi phước nghiệp và bất
đồng nghiệp, đó gọi là hữu.
Nấy các
Trưởng Giả ! Nếu thủ mà có thì có
giả hữu.Nếu thủ mà không thì không
giả hữu.
Thế nào là thủ ? Đó là
dục thủ kiến thủ giới cấm thủ và ngã thủ, đó gọi là thủ.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếu ái mà có thì có giả thủ .Nếu ái mà không thì không giả thủ.
Thế nào là ái ? Đó là
sắc ái thanh ái hương ái vị ái xúc ái vá
pháp ái, đó gọi là ái.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếu thọ mà có thì có giả ái.Nếu thọ mà không thì không giả ái.
Thế nào là thọ ? Đó là nhãn xúc sanh ra thọ, nhĩ xúc tỷ xúc thiệt xúc thân xúc ý xúc sanh ra thọ, đó gọi là thọ.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếu xúc mà có thì có giả thọ.Nếu xúc mà không thì không giả thọ.
Thế nào là xúc ? Đó là nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc, đó gọi là xúc.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếu
sáu nhập mà có thì có giả xúc.Nếu
sáu nhập mà không thì không giả xúc.
Thế nào là
sáu nhập ? Đó là
nhãn nhập,
nhĩ nhập ,
tỷ nhập, thiệt nhập ,
thân nhập và ý nhập , đó là
sáu nhập , cũng gọi là
sáu xứ, là sáu căn.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếu
danh sắc mà có thì có giả
sáu nhập . Nếu
danh sắc mà không thì không giả
sáu nhập.
Thế nào là
danh sắc ? Đó là thọ tưởng tư xúc
tác ý bốn đại chủng và sắc sở tạo của
bốn đại chủng tạo ra, đó là
danh sắc.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếu thức mà không thì không
giả danh sắc.
Thế nào là thức ? Đó là
nhãn thức nhĩ thức tỷ thức thiệt thức thân thức và
ý thức, đó gọi là thức.
Nầy các Trường Giả ! Nếu hành mà có thì có giả thức.Nếu hành mà không thì không giả thức.
Thế nào là hành ? Đó là sắc tư thanh tư hương tư vị tư xúc tư và pháp tư, đó gọi là hành.
Nầy các
trưởng Giả ! Nếu
vô minh mà có thì có hiả hành.Nếu
vô minh mà không thì không giả hành.
Thế nào là
vô minh ? Đó là
tiền tế không biết ,
hậu tế không biết, tiến tế
hậu tế không biết ,
nội không biết ,
ngoại không biết ,
nội ngoại không biết,
khổ không biết, tập không biết , diệt không biết, đạo không biết, duyên không biết ,
duyên khởi không biết, với
pháp duyên sanh hoặc đen hoặc trắng, có duyên khôngduyên, có quang ảnh không quan ảnh, có tội không tội, đáng thân cận không đáng thân cận, không biết không thấy không nhìn rõ không thấu hiểu , đó gọi là
vô minh.
Nầy các
Trưởng Giả !
Tác ý bất chánh nếu mà có thì có
giả lập vô minh . Nếu
tác ý bất chánh mà không thì không
giả lập vô minh .
Thế nào là
tác ý bất chánh ? Đó là
quan niệm rằng ở
quá khứ ,ta dòng gì chỗ nào loài nào ? Đến
vị lai , ta dòng gì chỗ nào loài nào. Lại đối với nội
sanh thân sanh nhiều
nghi hoặc : Thế nào gọi là ta , ta là ai, là có hay là không , là hư hay là thiệt , là dòng gì , là chỗ nào , là loài nào , xưa ta chỗ nào đến ở chỗ nọ ?
Phát khởi những
tác ý bất chánh như vậy.
Từ trong sáu
kiến giải tùy sanh ra một
kiến giải nào rồi chấp là có ngã, chấp là không ngã ,hoặc y nơi ngã mà cho là ngã, hoặc chẳng y nơi ngã mà cho là ngã.Lại
hư vọng phát khởi kiến chấp như vầy : ngã tức
thế gian hoặc do duyên
phát khởi là thường là hằng chẳng chuyển chẳng biến còn hoài
mãi mãi. Đó gọi là
tác ý bất chánh.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếu có
phân biệt chẳng thiệt thì có
giả lập tác ý bất chánh.
Phân biệt chẳng thiệt
nếu không thì không
giả lập tác ý bất chánh.
Thế nào gọi là
phân biệt chẳng thiệt ? Đó là ngã ,
hữu tình chúng sanh,
thọ mạng giả,
trượng phu , sát thủ, sanh giả, ý sanh, nhơn,
tác giả ,
thọ giả, đó gọi là chẳng thiệt .Mà lại có
phàm phu không học hiểu
hư vọng phát khởi phân biệt là ngã ,là nhơn, là
hữu tình, là mạng giả,
phân biệt là
trượng phu, là sát thủ, là sanh giả, là ý sanh, là
tác giả ,là
thọ giả, đó là
phân biệt chẳng thiệt.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếu
phân biệt chẳng thiệt ấy mà có thì có
giả lập tác ý bất chánh. Nếu
phân biệt chẳng thiệt mà không thì không
giả lập tác ý bất chánh.
Nầy
Trưởng Giả ! Nếu
tác ý bất chánh mà có thì có
giả lập vô minh .Nếu
tác ý bất chánh mà không thì không
giả lập vô minh .
Nếu
vô minh mà có thì có
giả lập các hành.Nếu
vô minh mà không thì không
giả lập các hành.
Nếu các hành mà có thì có
giả lập thức.Nếu các hành mà không thì không
giả lập thức.
Như vậy nhẫn đến nếu sanh mà có thì có
giả lập lão tử.Nếu sanh mà không thì không giả lão tử”.
Đức Phật phán dạy : “ Nầy các
Trưởng Giả ! Nay các ông phảI biết tất cả các pháp đều do
phân biệt chẳng thiệt
phát khởI , đều
y theo các duyên , nó
yếu kém vô lực theo các duyên mà chuyển. Nếu có các duyên thì có
giả pháp,
nếu không các duyên thì không
giả pháp.
Nầy các
Trưởng Giả ! Tất cả các
pháp chỉ là
giả lập , trong ấy đều không có gi sanh gì lão gì tử gì tận và không có gì
phát khởI, chỉ có
tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài
sanh tử đáng được
quy y.
Nầy các
Trưởng Giả !
Ví như ao nước lớn, các loài tôm cá y nơi sức gì để ở ?”.
Các
Trưởng Giả thưa : “
Bạch đức Thế Tôn ! Các tôm cá ấy y nơi sức nước để ở”.
Đức Phật phán: “Đúng như vậy .Nầy các
Trưởng Giả ! Nước ấy có nghĩ rằng tôi có
sức lực chăng ?”.
Các
Trưởng Giả thua : “
Bạch đức Thế Tôn ! Nước ấy vô lực
vô năng, nào có
suy nghĩ gì”.
Đức Phật phán : “Đúng như vậy.Nầy các
Trưởng Giả ! Các pháp do
phân biệt chẳng thiệt
phát khởI cũng như vậy,chỉ là giả đặt bày , nó không lực không năng theo các duyên mà chuyển.Có các duyên thì có
giả pháp. Hông các duyên thì không
giả pháp.
Nầy các
Trưởng Giả ! Các
pháp chỉ là
giả lập.Trong ấy đều không có gì sanh gì lão gì tử gì tận gì khởi. Chỉ có
tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài
sanh tử đáng được
quy y.Vì thế nên các ông phảI chánh
quan sát các duyên như vậy chẳng phảI là chỗ an ổ khó
bảo trì được, rồI rất sợ sệt đào tẩu
lánh xa nó.
Các ông lạI phảI
quan sát đó là pháp gì, do sợ pháp gì mà chạy đến đây ? Lúc các ông chánh quán như
vậy thì không pháp để được, không sợ không bỏ.TạI sao ? Tất cả các pháp đều là
bất khả đắc, vì tất cả thứ cầu mong đều
bất khả đắc ; tất cả
pháp không ngã vì rờI
lìa trần cấu ; các
pháp không chúng sanh vì xa rờI ngã; các
pháp không thọ mạng vì ra khỏI sanh già bịnh sầu lo
khổ não bức bách ; các
pháp không sát thủ thú vì
ba đờI dứt đoạn ; các
pháp không danh tự vì tất cả ngôn âm không thể nói , các pháp
vô trước vì không
sở duyên ; các
pháp tịch tịnh vì là tướng
tịch diệt ; các pháp
phổ biến vì là tánh
hư không ; các
pháp tánh không vì không địnhthuộc ; các pháp
vô động vì không
sở y; các
pháp y cứ nơi thiệt
tế an trụ nơi
thiện trụ vì
tương ưng vớI
vô động ; các pháp chẳng thể khai xiển vì rờI lià tướng sóng tràn ; các pháp chẳng thể
hiển thị vì
không tướng không hình không có quang ảnh rờI lìa các hành; các pháp chẳng phảI
sở hữu của ngã vì rờI
ngã sở, các pháp chẳng thể
phân biệt vì rờI
tâm ý thức; các
pháp không ái tàng vì
siêu quá nhãn thức nhẫn đến nhĩ tỷ
thiệt thân và
ý thức ; các pháp chẳng thể cất dờI vì rờI sanh trụ hoạI ; các
pháp không tác dụng vì rờI
tâm ý thức ; các pháp thuộc nơi duyên vì tánh
yếu kém.
Nầy các
Trưởng giả ! Ta nói về nhãn ấy , là pháp , do
bốn đạI chủng tạo ra , nó là pháp
vô thường vô trụ vô hằng chẳng bền chắc
yếu kém mau hư khó , bảo tín được,là chỗ hợp của các sự
khổ não nhiều bịnh nhiều
tai hại.Nhãn ấy đã như vậy , các ông chớ nên
y chỉ nó .VớI nhĩ tỷ
thiệt thân và ý cũng như vậy, các ông chớ nên
y chỉ nó. Các ông phảI
quán sát như vậy.
LạI nầy các
Trưởng Giả ! Nhãn như đống bọt nước chẳng rờ nắm được ; nhãn như bóng nước nổI chẳng dừng lâu ; nhãn như dương diệm do
nghiệp cảm ái sanh ; nhãn như cây chuốI tánh chất chẳng bền ; nhãn
như ảo thuật từ
điên đảo phát khởI ; nhãn như cảnh mộng chỉ
hư vọng thấy ; nhãn như vang hệ thuộc các duyên ; nhãn như bóng sáng do ánh sáng
nghiệp ảnh hiện ; nhãn như mây nổI
tụ họp tán loạn ; nhãn như chớp nháng
sát na bèn dứt ; nhãn không có chủ như đất ; nhãn không có ngã như nước ; nhãn chẳng phảI
hữu tình như lửa, nhãn chẳng phảI
thọ mạng như gió ; nhãn chẳng phảI sát thủ thú như
hư không ; nhãn chẳng thiệt
y cứ nơi các
đạI chủng ; nhãn là rỗng không rờI
ngã và ngã sở ; nhãn là
vô tri như cỏ cây đâ&t đá ; nhãn không
tác giả do gió
cơ quan chuyển vận ; nhãn ấy
hư giả là đống mục nhơ ; nhãn ấy
dốI trá là pháp tan rã bể hư dứt mất ; nhãn như gò giếng thường bị sự già suy bức ngặt ; nhãn không ở yên trọn về nơi mòn dứt.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nhãn có nhiều lỗI, các ông phảI
quan sát như vậy , nhẫn đến ý và tất cả các pháp cũng phảI
quan sát như vậy.
LạI nầy các
Trưởng Giả ! Tất cả các
pháp chỉ có vộng dục.Kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục nên họ lầm gọI là nhãn ,lầm gọI là nhĩ , nhẫn đến lầm gọI là ý.
Nầy các
Trưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi , mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọI là sắc , là thanh , là hương vị xúc pháp.
Nầy các rưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi, mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọI là
sắc uẩn, là
thọ uẩn , là tưởng hành
thức uẩn.
Nầy các
Trưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi ,mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọI là
địa đạI chủng ,là thuỷ hỏa phong không thức
đạI chủng.
Nầy các
Trưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi , mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọI là
hữu vi ,là
vô vi .Nhẫn đến cả các pjhap cũng như vậy.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nay các ông phảI bỏ vọng dục mà hướng đến vô dục. VớI
vợ con nhà cửa
của cảI ,các ông phảI biết rõ là
hư vọng chẳng nên
chấp trước .Và chẳng
chấp trước nên dùng lòng
tịnh tín rờI bỏ
gia pháp đến nơi phi gia thì sẽ được vô dục.
Nầy các
Trưởng Giả ! Những gì gọI là
xuất gia vô dục ? Đó là an trụ nơi giớI
biệt giảI thoát nhiếp trì đầy đủ
oai nghi đi đứng , rất sợ
phạm tộI nhỏ , thọ
học luật nghi thành tựu giớI uẩn.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếu các ông phụng
trì giớI được rồI thì đốI vớI sáu căn sáu cảnh
năm uẩn và
sáu đạI chủng biết rõ là
hư giả đều chẳng
chấp trước.Vì chẳng
chấp trước nên gọI là pháp xuầt gia vô dục.
Nầy các
Trưởng Giả ! Nếu chẳng chấo trước nơi nhãn nhẫn đến thức
đạI chủng thì chẳng
bảo hộ.Chẳng
bảo hộ những gì ? Đó là nhãn chẳng
bảo hộ nhẫn đền thức
đạI chủng chẳng
bảo hộ.Vì chẳng
bảo hộ nên không
phiền não .
Nếu không phiền não thì gọI là nhẹ nhàng.
Gì là nhẹ nhàng ? Đó là không
sở kiến.
Nếu không sở kiến thì chẳng
y cứ nơi vật mà
phát khởi lòng sân hại. Do không sân hạI thì không tự hại ,chẳng nghĩ hại người, chẳng nghĩ hại cả mình và người .Vì không hại nên bèn
chứng nhập nơi
vô dư đại Niết Bàn.
Nầy các
Trưởng Giả ! Các ông phải biết ai
chứng nhập nơi
Niết Bàn ?
Nầy các
Trưởng Giả ! Nhãn chẳng
nhập Niết Bàn .Nhĩ tỷ
thiệt thân và ý chẳng
nhập Niết Bàn .Nhưng nhơn nơi nhãn nhơn nơi nhĩ tỷ
thiệt thân và ý
phát khởi vọng chấp : hoặc chấp là ngã , hoặc chấp là
ngã sở.Nếu xa rời hẳn tức là
Niết Bàn.
Xa rời những gì mà là
Niết Bàn ?
Nếu xa rời tham tức là
Niết Bàn . Nếu xa rờI sân tức là
Niết Bàn .Nếu xa rờI si tức là
Niết Bàn. Nếu rờI xa
vô trí tức là
Niết Bàn.
LạI nầy các
Trưởng Giả !
Quá khứ vô trí chẳng thể xa rờI được,
vị lai vô trí chẳng thể xa rờI được ,
hiện tạI vô trí chẳng thể xa rờI được .Nhưng
cần phảI nhơn nơi xa rờI
vô trí mà
chánh trí phát khởi.
Nầy các
Trưởng Giả ! Những gì là trí ? Đó là
tận trí. Những gì là
tận trí ?
Quá khứ chẳng phảI
tận trí ,
vị lai chẳng phảI
tận trí ,
hiện tạI chẳng phảI
tận trí , nhưng nhơn nơi xa rờI
vô trí mà
tận trí ấy pháp sanh.Trí ấy chẳng xa rờI trí.Nhơn vì xa rờI nhãn
vô trí mà trí ấy phát sanh.
LạI nầy các
Trưởng Giả ! Nhãn chẳng phảI là
ngã sở.Nếu đã chẳng phảI
ngã sở, thì chẳng nắm lấy.Nếu chẳng nắm lấy tức là
tốI thượng.Nếu là
tốI thượng tức là
giảI thoát .Chỗ nào
giảI thoát ? Ở chỗ
ngã chấp mà
được giảI thoát , ở chỗ
chúng sanh chấp , ở chỗ
thọ mạng chấp, ở chỗ sát thủ chấp , ở chổ
đoạn thường chấp , ở chỗ tất cả chấp , nhẫn đến ở chỗ
phân biệt chấp mà
được giảI thoát.
Hành giả nếu có thể ở nơi chấp mà
được giải thoát thì chẳng
phân biệt.Nếu chẳng
phân biệt thì chẳng phải
phân biệt chẳng phải chẳng
phân biệt.
Những gì là chẳng
phân biệt ?
Đó là chẳng
phân biệt ngã và ngã sở.
Lúc bấy giờ
hành giả ở nơi tất cả pháp đều ly tán mmà chẳng chứa để, bỏ mà chẳng lấy.Vì xả nên
tịch diệt giải thóat trừ khiển
tối thắng giải thoát rời các
hệ phược.
Ở những chỗ nào gọi là trừ khiển ?
Ở chỗ tất cả khổ mà được trừ khiển .
Các ông nếu cầu
xuất ly thì chớ ở nơi một pháp nào mà sanh lòng nắm lấy cả.Tại sao ? Vì nếu có nắm lấy thì có bố úy,
nếu không nắm lấy thì không bố úy.
Lại nầy các
Trưởng Giả ! Nhãn chẳng phải
tịch diệt , nhĩ tỷ
thiệt thân và ý chẳng phải
tịch diệt ,
sắc thanh v.v…chẳng phải
tịch diệt, nhẫn đến thức
đại chủng chẳng phải
tịch diệt.Nhưng nhơn nơi nhãn v.v…phát khởi
chấp trước ; hoặc chấp làm ngã ,hoặc chấp làm
ngã sở. Nếu xa rời chấp ấy tức là
tịch diệt.
Xa rời những gì mà được
tịch diệt ?
Đó là xa rời tham mà được
tịch diệt ,xa rời sân mà được
tịch diệt, xa rời si mà được
tịch diệt, xa rời si xa rời
vô trí mà được
tịch diệt.
Lại nầy các
Trưởng Giả !
Quá khứ vô trí chẳng thể xa rời được,
vị lai vô trí chẳng thể xa rời được,
hiện tại vô trí chẳng thể xa rời được.Nhưng xa rời
vô trí mà được trí phát sanh.
Nầy các
Trưởng Giả ! Gì là trí ? Đó là
tận trí.Gì là
tận trí ?
Quá khứ chẳng phải
tận trí,
vị lai chẳng phải
tận trí ,
hiện tại chẳng phải
tận trí.Nhưng , nầy các
Trưởng Giả ! Do vì rời
vô trí ấy mà được phát sanh.Trí ấy chẳng rời xa trí .Nhơn vì xa rời nhãn
vô trí chẳng rời xa trí.Nhơn vì xa rời nhãn
vô trí nhẫn đến thức đại
vô trí ấy được phát sanh.Nhãn v.v… nhẫn đến thức đại ấy chẳng phải là
ngã sở.Nếu chẳng phải
ngã sở thì chẳng phải nắm lấy.Nếu chẳng phải nắm lấy tức là
tối thượng.Nếu là
tối thượng tức là giaỉ thoát .Chỗ nào
giải thoát ? Ở chỗ
ngã chấp mà
được giải thoát . Ở chỗ
hữu tình chấp , ở chỗ
thọ mạng chấp v.v… nhẫn đến ở chỗ tất cả
phân biệt chấp mà
được giải thoát.
Hành giả nếu có thể ở nơi chấp
được giải thoát thì chẳng
phân biệt .Nếu chẳng
phân biệt thì chẳng phải
phân biệt chẳng phải chẳng
phân biệt.
Những gì là chẳng
phân biệt ? Đó là chẳng
phân biệt ngã và ngã sở.
Lúc bấy giờ
hành giả ly tán chẳng chứa để bỏ mà chẳng lấy.Vì bỏ nên
tịch diệt giải thoát trừ khiển
tối thắng giải thoát rời các
hệ phược.
Ở chỗ nào trừ khiển ? Ở chỗ tất cả khỏ mà được trừ khiển.
Các ông nếu cầu
xuất ly chờ ở nơi một pháp nào mà sanh lòng nắm lấy cả.Tại sao ? Vì nếu có nắm lấy thì có bố úy,
nếu không thủ trước thì không nắm lấy ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy nên nói kệ rằng :
« Nắm lấy sanh bố úy
Do đây vào
ác đạoThấy có bố úy nầy
Trí giả chẳng nên lấy
Các ông tu
thánh đạoCần phải khéo
quan sátThấy như
vậy thì được
Khác đây thì chẳng được
Tất cả chỗ đều không
Hư động chẳng chơn thiệt
Tham dốI gạt
thế gianNơi ấy chớ sanh loạn
Ta đã biết
pháp khôngRõ các pháp chẳng bền
Lăng yên được
an lànhChứng
diệu lạc vô độngNếu biết rõ các pháp
Đều rỗng không như vậy
Thì
giảI thoát các khổ
Và dứt hết
tranh luậnMuốn ái thọ tất cả
Thì sanh các tai hoạnh
Vì ái thọ
chấp thủChấp thủ sanh các hữu
Do hữu mà có sanh
Vì sanh xa
tịch diệtCó đủ
lão bịnh tử
Các khổ lớn như vậy
Không dục nên không thủ
Không thủ nên
không hữuKhông hữu nên không sanh
Lão bịnh tử cũng không
Tu tập đồ sanh sống
Đều
vứt bỏ tất cả
Và bỏ
vợ con yêu
Giữ
oai nghi Tỳ KheoChớ tham thân và của
Lành thay nhớ
tri túcChớ như
Chiên Đà LaTham
sân tâm hạ tiện
Chớ cậy mình
trì giớiKhinh hủy ngườI
phạm giớiỶ giới lấn người khác
Đây là thiệt
phá giớiVí như nai
bị bắtHoặc trói hoặc
bị giếtNgười mắc lưới
kiêu mạnBị trói giết cũng vậy
Mạn làm
hư tâm lành
Lại tổn tự tha thiện
Nên chớ khinh
phá giớiHuống người gìn
phạm hạnhPhải học bực
đại tiênThường ở chỗ không nhàn
Chớ tiếc luyến
thân mạngHướng
tịch tịnh giả thoát
Phải xa rời
luận bổnCủa
Thuận Thế ,
Ni KiềnNên mến pháp
thậm thâmTương ưng với chơn không
Mười hai xứ trong ngoài
Tôi nói tâm làm gốc
Kia lạI do nghiệp sanh
Nghiệp do
tư tưởng có
Nhãn sắc đều làm duyên
Mà
sanh khởi nơi thức
Thiếu duyên thì chẳng sanh
Ví như lửa do củI
Các pháp sanh như vậy
Hoà hiệp sanh lẫn nhau
Không
tác giả thọ giảHiện
tác dụng như huyễnTất cả pháp trong ngoài
Ta đã biết là không
Kẻ ngu
điên đảo chấp
Cho là
ngã ngã sởTrong nhãn
không hữu tình
Các xứ ngoài cũng không
Chẳng ngã chẳng
thọ mạngCác pháp đều như vậy
Nhãn chẳng nghĩ
giảI thoátNhĩ tỷ thiệt cũng vậy
Thân ý không
tác giảQuán các pháp cũng vậy
Ví như trong biển lớn
Sóng dậy thành đống bọt
NgườI
sáng suốt thấy rõ
Biết đống bọt chẳng bền
Thể chất của
năm uẩnNgườI trí biết chẳng bền
Nên
giảI thoát sanh tửSầu ưu tai hoạnh khổ
Xuất gia trong
Phật phápBiết các
pháp như huyễn
Chẳng hư thọ
tín thíThì gọI
cúng dường Phật”.
Năm trăm
Trưởng Giả nghe pháp ấy xong,liền xa
trần cấu , ở trong các pháp được
pháp nhãn thanh tịnh ; như
y phục sạch sẽ không màu để vào màu nhuộm thì màu ăn màu, các
Trưởng Giả ấy mau được
pháp nhãn thanh tịnh cũng vậy.
Đức Thế Tôn lạI bảo các
Trưởng Giả : “ Nầy các
Trưởng Giả ! Ta nói nhãn ấy ,tánh nó là khổ mà lạI cháy phừng.Những gì cháy phừng ? Đó là lửa tham lửa sân lửa si cháy phừng,lửa sanh già bịnh chết sầu lo khổ sở cháy phừng.
Nầy các
Trưởng Giả ! Như nhãn ,vớI nhĩ tỷ
thiệt thân và ý, ta nói cũng vậy.
Nầy các
Trưởng Giả ! Ta nói sắc ấy ,tánh nó là khổ mà lại cháy phừng.Những gì cháy phừng ? Đó là lửa tham lửa sân lửa si cháy phừng ,lửa sanh già bịnh chết rầu lo khổ sở cháy phừng.Thanh hương vị xúc pháp cũng vậy.
Sắc uẩn đến
thức uẩn cũng vậy .
Địa đạI chủng đến thức
đạI chủng, ta nói tánh nó là khổ mà lạI cháy phừng.Những gì cháy phừng ? Đó là lửa tham lửa sân lửa si cháy phừng ,lửa sanh già bịnh chết rầu lo khổ sở cháy phừng.
Vì thế nên, nấy các
Trưởng Giả ! Nay ta chẳng chấp nhãn nhĩ tỷ
thiệt thân ý , các ông cũng phải học
theo như vậy.Nay ta chẳng chấp
sắc thanh hương vị xúc pháp, các ông cũng phải học
theo như vậy.Nay ta chẳng chấp
sắc uẩn thọ tưởng hành thức uẩn,các ông cũng phải học
theo như vậy.Nay ta chẳng chấp
địa đại thủy hoả phong không thức đại, đời nầy
đời sau, các ông cũng phải học
theo như vậy.
Nầy các
Trưởng Giả ! Ở nơi nhãn tỷ
thiệt thân ý ,nếu các ông chẳng
chấp trước thì chẳng
y cứ nhãn mà an trụ,chẳng
y cứ nhĩ tỷ
thiệt thân ý mà an trụ.Lúc các ông chẳng
y cứ nơi
sắc thanh hương vị xúc pháp thì các ông chẳng
y cứ nơi tất cả pháp mà an trụ. Lúc các ông chẳng
y cứ nơi
sắc uẩn nhẫn đến
thức uẩn ,thì các ông chẳng an trụ nơi
sắc uẩn nhẫn đến
thức uẩn.Lúc các ông chẳng
y cứ nơi
địa đại chủng nhẫn đến thức
đại chủng thì các ông chẳng an trụ nơi
địa đại chủng nhẫn đến thức
đại chủng.Các ông chẳng
y cứ nơi đời này
đời sau và tất cả
thế gian để an trụ, lúc các ông chẳng lấy tất cả
pháp như vậy thì các ông chẳng
y cứ tất cả pháp để an trụ. Nếu các ông có thể chẳng
y cứ tất cả pháp để an trụ, thì gọi là chẳng phải sẽ có chẳng phải chẳng sẽ có.Các ông nếu rõ biết chẳng phải sẽ có chẳng phải chẳng sẽ có ấy,ta gọi các ông
giải thoát những khổ sanh
lão bịnh tử”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Sanh tử cháy phừng mạnh
Đốt cháy các
thế gianBị
khổ không cứu được
Hư mất nơi tháh đạo
Chư
Như Lai chiếu thế
Lâu mớI hiện
một lầnKhông
sát na xa rờI
PhảI khởI
tinh tiến chắc
Tu tập các
chánh hạnhHuệ quán phải xét biết
Như
huệ quán sẹ được
Khác đây thì chẳng được
Nếu
tu tập nơi đây
Phải biết tất cả không
Thấu rõ
pháp không rồi
Tâm không,
Bồ đề không
Tham sân cùng vớI si
Ba thứ lửa độc ấy
Đốt người ngu
thế gianNgủ mãi chẳng hay biết
Sanh
lão bịnh và tử
Sầu ưu các tai khổ
Biết
thế gian khổ rồI
Chớ an trụ các pháp”.
Năm trăm
Trưởng Giả thưa : “
Bạch đức Thế Tôn ! Nay
chúng tôi muốn ở chỗ
đức Phật xuất gia thọ giớI cụ túc tu hạnh
thanh tịnh chẳng biết có được
đức Thế Tôn thương xót hứa cho chăng ?”.
Đức Phật phán : “
Lành thay !
Tỳ Kheo lạI đây”.
Liền được gọI là
xuất gia đủ các giớI rồI thành pháp
Tỳ Kheo.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Chấp thọ
ca sa rồi
Râu tóc
tự nhiên rụng
Tất cả đều cầm bát
Liền đó thành
La HánBiết được
La Hán rồi
Ở trước chúng
Tỳ KheoVà đối hàng
chư ThiênThế Tôn tự tuyên nói
Thuở xưa giúp ích đời
Rộng làm sự
bố thíTùy thọ sanh chốn nào
Thường được nhiều an vui
Nay họ được gặp Phật
LạI có lòng
tịnh tínDo lòng họ
thanh tịnhNên Phật nói
diệu phápNghe pháp được
La HánLià hẳn nơi
ngã kiếnChứng pháp không
hiện tiềnGiải thoát nơi
sanh tử ».
Pháp Hội Bồ Tát Tạng
Phẩm Khai Hóa Trưởng Giả
Thứ Nhất
HẾT