KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XXIV
PHÁP HỘI
ƯU BA LY
HỨ HAI MƯƠI BỐN
Hán dịch: Đường, Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi.
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh.
Như vậy tôi nghe một lúc
đức Phật ở nước
Xá Vệ tại vườn
Kỳ Thọ cấp Cô Độc cùng chúng
đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội.
Đại Bồ Tát có năm mươi vạn người.
Bầy giờ
đức Thế Tôn như
Long Tượng Vương nhìn xem
quan sát bảo
chư đại Bồ Tát : Các
thiện nam tử ! Ai có thể ở đời
mạt thế hộ trì chánh pháp nhiếp thọ pháp
Vô thượng Bồ đề được
Như Lai tập họp từ trăm ngàn vạn ức
na do tha a tăng kỳ kiếp và an trụ
bí mật dùng các
phương tiện để
thành thục chúng sanh”.
Liền đó
Di Lặc Bồ Tát rời chỗ trịch y vai hữu gối hữu chấm đất
chắp tay cung kính bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
hộ trì pháp
Vô thượng Bồ đề của
đức Như Lai tập họp từ trăm ngàn vạn ức
na do tha a tăng kỳ kiếp”.
Sư Tử Huệ
Bồ Tát cũng làm lễ bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể an trụ
bí mật dùng các
phương tiện thành thục chúng sanh”.
Vô Tận Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể dùng
quảng đại nguyện độ thoát
vô tận các
chúng sanh giới”.
Bạt Đà La Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các
chúng sanh được nghe tên tôi đều được
thành thục không ai luống công”.
Diệu Đức Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các
chúng sanh chỗ nguyện cầu
thanh tịnh đều được đầy đủ”.
Vô Úy Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
nhiếp thọ vô biên thế giới chúng sanh mà làm
lợi ích cho họ”.
Kim Cương Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
giải thoát chúng sanh khỏi
phiền não trói buộc”.
Trí Tràng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có
thể diệt trừ
vô minh che tối cho các chúng sanh”.
Pháp Tràng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể thường làm
pháp thí độ thoát chúng sanh”.
Nhựt Tràng
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể dùng
an lạc thành thục chúng sanh”.
Nguyệt Tràng
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể dùng các
công đức thành thục chúng sanh”.
Quán Tự Tại Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể ở trong các
ác đạo cứu vớt chúng sanh”.
Đắc Đại Thế Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể độ các
chúng sanh chưa được độ trong các ác đạo”.
Phổ Hiền Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các
chúng sanh nhớ biết
quá khứ đã
trải qua chịu các sự khổ liền được giải thoát”.
Thiện Số
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
điều phục tất cả
chúng sanh khó điều phục”.
Diệu Ý Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể độ những người ưa pháp
Tiểu thừa cho họ thành thục”.
Thiện Thuận
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
thành thục chúng sanh hạ liệt ít trí”.
Quang Tích
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể cứu vớt kẻ bị đọa
súc sanh đạo khiến họ được giải thoát”.
Bất Tư Nghị Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
thương xót thành thục chúng sanh ngạ quỷ khiến họ được giải thoát”.
Đại Oai Lực
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể vì các
chúng sanh mà
đóng cửa ác đạo”.
Vô Tránh Luận
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể vì các
chúng sanh mà chỉ cho họ
con đường giải thoát”.
Nguyệt Quang Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
ban cho các
chúng sanh cứu cánh an lạc”.
Nhựt Quang
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các
chúng sanh kẻ chưa
thuần thục được thành thục”.
Vô Cấu Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các
chúng sanh có
chí nguyện gì đều được viên mãn”.
Đọan Nghi
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
độ thoát tất cả
chúng sanh hạ liệt”.
Vô Khả Úy
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
nhiếp thọ các
chúng sanh xưng tán lợi ích”.
Huệ Thắng
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
tùy thuận các
chúng sanh thắng giải khiến họ đều được thành thục”.
Quang Minh Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể hằng dùng
chánh cần cứu giúp chúng sanh”.
Vô Lượng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể vì các
chúng sanh nơi tất cả
pháp chỉ cho họ
con đường vô vi”.
Vô Sở Úy
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể đều hay
thị hiện theo các thứ
chí nguyện của chúng sanh”.
Bửu Thắng
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể chỉ cho các
chúng sanh khối trân bửu vi diệu”.
Diệu Huệ Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các
chúng sanh thấy tôi họ đều
vui mừng và đều được thành thục”.
Bửu Tạng
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
độ thoát chúng sanh rời lìa các chướng ngại”.
Bửu Hiền
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các
chúng sanh tự biết
túc mạng đều được thành thục”.
Bửu Thủ
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể đem các trân bửu
ban cho chúng sanh khiến họ đều an lạc”.
Thắng Ý
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể làm cho
chúng sanh rời lìa hẳn sự bần cùng”.
Hỉ Kiến Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
bố thí cho các
chúng sanh tất cả đồ họ ưa thích”.
Kim Cương Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể khai thị
chánh đạo cho các chúng sanh”.
Phước Tướng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể làm vui
đẹp lòng chúng sanh khiến họ được giải thoát”.
Pháp Siêu Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể trừ sạch
cấu nhiễm mà
diễn thuyết chánh pháp”.
Vô Cấu Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
yêu thương hộ trì các
chúng sanh khiến họ đều thành thục”.
Pháp Hiện
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
thường dùng chánh pháp độ thoát chúng sanh”.
Không Tịch Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các
chúng sanh diệt trừ độc phiền não”.
Nguyệt Thắng
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể chỉ chỗ nơi
chánh pháp cho các chúng sanh”.
Sư Tử Ý Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
thường dùng pháp thí lợi ích chúng sanh”.
Đồng Tử Quang
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể từ chỗ ti hạ cứu vớt các chúng sanh”.
Giác
Cát Tường Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể khai thị
chánh đạo đóng kín cửa ác đạo”.
Kim Quang Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể
thị hiện thân tướng để
thành thục chúng sanh”.
Cát Tường Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể thường làm
lợi ích cho các chúng sanh”.
Trì Thế Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể vì các
chúng sanh mà
đóng cửa địa ngục”.
Cam Lộ Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể làm cho các
chúng sanh vượt khỏi sanh tử”.
Võng Minh Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có thể đời
mạt thế sau vì các
chúng sanh mà
thị hiện quang minh diệt trừ phiền não”.
Tôn Giả Xá Lợi Phất nghe chư
Bồ Tát dũng mãnh phát
hoằng thệ thành thục chúng sanh như vậy, khen chưa từng có, bạch
đức Phật rằng : “Đấng
Thế Tôn hi hữu !
Chư đại Bồ Tát nầy
bất tư nghị có đủ
đại bi phương tiện thiện xảo dũng mãnh tinh tấn để tự
trang nghiêm.
Tất cả
chúng sanh không ai lường được, không ai ngăn trở được, không gì che chướng ánh sáng các Ngài được.
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi phải
ca ngợi sự chưa từng có của
chư đại Bồ Tát để
cầu xin tất cả tài vật trong thân ngoài thân mà tâm họ không khiếp nhược, nên biết người ấy là
Bồ Tát an trụ
bất tư nghị giải thoát vậy”.
Đức Phật phán : “Nầy
Xá Lợi Phất ! Đúng như lời ông nói.
Trí huệ phương tiện cảnh giới tam muội của
chư đại Bồ Tát ấy, tất cả hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật không thể biết được.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Chư đại Bồ Tát ấy hay hiện được
thần thông biến hóa của Phật, làm đầy đủ chỗ muốn cầu của tất cả
chúng sanh, mà ở nơi các pháp, tâm các ngài không
xao động.
Nếu có
chúng sanh thích làm
cư sĩ kiêu mạn phóng dật, vì
thành thục họ,
đại Bồ Tát hiện thân đại
cư sĩ oai đức để
thuyết pháp giáo hóa họ.
Nếu có
chúng sanh cậy thế lực lớn mà tự
kiêu mạn, vì
điều phục họ,
đại Bồ Tát hiện thân Na la diên đại lực để
giáo hóa họ.
Nếu có
chúng sanh chí cầu
Niết bàn, vì
độ thoát họ,
Bồ Tát hiện thân Thanh Văn mà
giáo hóa.
Nếu có
chúng sanh thích
quán duyên khởi, vì
độ thoát họ,
Bồ Tát hiện thân Duyên Giác mà
giáo hóa.
Nếu có
chúng sanh chí cầu
Bồ đề, vì
độ thoát họ,
Bồ Tát hiện thân Phật khiến họ
nhập Phật trí.
Như vậy, nầy
Xá Lợi Phất ! Chư
Bồ Tát ấy dùng những
phương tiện thành thục chúng sanh đều khiến an trụ trong
Phật pháp. Tại sao, vì chỉ có
Như Lai trí huệ giải thoát cứu cánh Niết bàn, không còn thừa nào khác mà được
độ thoát,
vì lẽ ấy mà gọi là
Như Lai. Vì như thiệt
giác liễu như nên gọi là
Như Lai. Vì biết rõ các
chúng sanh nhiều thứ nguyện cầu đều hay
thị hiện nên gọi là
Như Lai. Vì
thành tựu tất cả căn bổn
thiện pháp dứt trừ tất cả căn bổn
bất thiện nên gọi là
Như Lai. Vì hay khai thị
con đường giải thoát cho
chúng sanh nên gọi là
Như Lai.
Vì hay khiến
chúng sanh an trụ trong
chánh đạo mà xa rời
tà đạo nên gọi là
Như Lai. Vì
diễn thuyết nghĩa như thiệt không của các pháp nên gọi là
Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát biết các thứ
chí nguyện của
chúng sanh như vậy rồi theo chỗ đáng nên mà
thuyết pháp cho họ
được giải thoát, vì hàng
ngu phu khai thị
thiện trí, chẳng động
pháp giới mà hay hiện các thứ
trang nghiêm khiến các
chúng sanh thứ đệ sẽ được đến bờ
Niết bàn.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát tại gia an
trụ tâm từ mẫn chẳng
tổn hại nên tu hai thứ
bố thí : một là
pháp thí, hai là
tài thí.
Bồ Tát xuất gia nên tu bốn thứ
bố thí : một là bút thí, hai là mặc thí, ba là
kinh bổn thí, bốn là
thuyết pháp thí.
Vô sanh pháp nhẫn Bồ Tát nên an trụ ba thứ
bố thí : một là
bố thí ngôi vua, hai là
bố thí vợ con, ba là
bố thí đầu mình tay chưn,
bố thí như vậy gọi là đại thí, là
cực diệu thí”.
Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Chư
Bồ Tát ấy ở nơi
tham sân si chẳng e sợ chăng”?
Đức Phật phán : “Nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả
Bồ Tát có hai điều
phạm giới : một là
tương ưng với sân mà phạm, hai là
tương ưng với si mà phạm, đây gọi là đại
phá giới. Còn
tương ưng với tham mà phạm thì lỗi
vi tế khó bỏ rời,
tương ưng với sân mà phạm thì lỗi thô trọng dễ bỏ rời,
tương ưng với si mà phạm thì lỗi rất nặng càng khó bỏ rời. Tại sao, vì tham kiết hay làm
chủng tử các cõi,
sanh tử dây dưa nối nhau chẳng tuyệt,
vì lẽ ấy nên
vi tế khó dứt. Nhơn sân mà phạm thì đọa
ác đạo có thể trừ được mau. Nhơn si mà phạm bị đọa trong tám
đại địa ngục khó thoát được.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có
Bồ Tát phạm
Ba la di thì nên đối trước mười vị
Tỳ Kheo thanh tịnh rồi dùng tâm
chất trực mà ân trọng
sám hối.
Phạm Tăng tàn thì đối trước năm
Tỳ Kheo mà ân trọng
sám hối. Nếu bị nữ nhơn
nhiễm tâm đụng chạm và nhơn nhìn nhau mà sanh
ái luyến thì đối trước một hai
Tỳ Kheo thanh tịnh mà ân trọng
sám hối.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có
Bồ Tát phạm
ngũ nghịch, phạm
ba la di,
phạm tăng tàn, phạm Tháp,
phạm Tăng và những tội khác thì nên đối trước ba mươi lăm Phật mà ân trọng
sám hối. Nên tự xưng rằng :
Tôi tên là …
quy y Phật,
quy y Pháp,
quy y Tăng.
Nam mô Thích Ca Mưu Ni Phật.
Nam mô Kim Cang Bất Hoại Phật.
Nam mô Bửu Quang Phật.
Nam mô Long Tôn Vương Phật.
Nam mô Tinh Tấn Quân Phật.
Nam mô Tinh Tấn Hỉ Phật.
Nam mô Bửu Hỏa Phật.
Nam mô Bửu
Nguyệt Quang Phật.
Nam mô Hiện Vô Ngu Phật.
Nam mô Bửu Nguyệt Phật.
Nam mô Vô Cấu Phật.
Nam mô Ly Cấu Phật.
Nam mô Dũng Thí Phật.
Nam mô Thanh Tịnh Phật.
Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật.
Nam mô Ta Lưu Na Phật.
Nam mô Thủy Thiên Phật.
Nam mô Kiên
Đức Phật.
Nam mô Chiên Đàn Công Đức Phật.
Nam mô Vô Lượng Cúc Quang Phật.
Nam mô Quang Đức Phật.
Nam mô Vô Ưu Đức Phật.
Nam mô Na La Diên Phật.
Nam mô Công Đức Hoa Phật.
Nam mô Liên Hoa Quang
Du Hí Thần Thông Phật.
Nam mô Tài
Công Đức Phật.
Nam mô Đức Niệm Phật.
Nam mô Thiện Danh Xưng
Công Đức Phật.
Nam mô Hồng
Viêm Đế TràngVương Phật.
Nam mô Thiện Du Bộ
Công Đức Phật.
Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật.
Nam mô Thiện Du Bộ Phật.
Nam mô Châu Tráp
Trang Nghiêm Công Đức Phật.
Nam mô Bửu Hoa Du Bộ Phật.
Nam mô Bửu
Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương PhậtTất cả
thế giới chư
Phật Thế Tôn hi hữu như vậy thường tại ở đời. Chư
Thế Tôn ấy nên
thương nhớ tôi. Hoặc tôi ở đời nầy hoặc tôi ở đời trước từ đời vô thỉ
sanh tử đến nay đã tạo những tội : hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, thấy làm
tùy hỉ ; hoặc vật của tháp, hoặc vật của Tăng, vật
tứ phương Tăng, hoặc tự mình lấy; hoặc bảo người lấy, thấy lấy
tùy hỉ; năm tội
vô gián hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, thấy làm
tùy hỉ; những tội đã làm, hoặc có che giấu, đáng đọa
địa ngục,
ngạ quỉ súc sanh, các
ác đạo khác
biên địa hạ tiện và kẻ
ác kiến, bao nhiêu những tội đã làm như vậy nay đều
sám hối.
Nay chư
Thế Tôn nên chứng biết tôi nên ghi nhớ tôi, tôi lại ở trước chư
Phật Thế Tôn bạch lời
như vầy : Hoặc tôi ở đời này hoặc tôi ở đời khác từng làm
bố thí hoặc giữ
tịnh giới nhẫn đến thí cho
súc sanh thiếu đói chừng một vắt cơm, hoặc tu tịnh có những
thiện căn,
thành tựu chúng sanh có những
thiện căn,
tu hành Bồ đề có những
thiện căn và trí
vô thượng có những
thiện căn, tất cả hội họp so đếm tính lường thảy đều
hồi hướng Vô thượng Bồ đề, như chư
Thế Tôn quá khứ vị lai và
Phật hiện tại
hồi hướng như vậy.
Các tội đều
sám hốiCác phước đều
tùy hỉVà
công đức chư Phật
Nguyện thành trí
vô thượngKhứ lai
hiện tại Phật
Tối thắng trong
chúng sanhBiển
vô lượng công đứcNay tôi
quy mạng lễ.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát nên
quán tưởng ba mươi lăm
đức Phật ấy làm
thượng thủ, lại nên
đảnh lễ tất cả
Như Lai, phải làm pháp
sám hối thanh tịnh như vậy.
Bồ Tát nếu
diệt trừ được
tội chướng ấy thì chư Phật liền
hiện thân cho thấy, vì để độ tất cả
chúng sanh nên
thị hiện các thứ tướng như
vậy mà ở nơi
pháp giới cũng chẳng
di động,
tùy theo các thứ
ưa thích của tất cả
chúng sanh đều làm
viên mãn, đều
được giải thoát.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
Bồ Tát nhập
đại bi tam muội thì có thể
thị hiện địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ, để
thành thục chúng sanh.
Nếu
Bồ Tát nhập
đại trang nghiêm tam muội thì có
thể hiện thân
Trưởng giả để
thành thục chúng sanh.
Nếu
Bồ Tát nhập
thù thắng tam muội thì có thể
thị hiện thân
Chuyển Luân Vương để
thành thục chúng sanh.
Nếu
Bồ Tát nhập xí nhiên oai quang
tam muội thì có thể
thị hiện Đế Thích,
Phạm Vương sắc thân thù diệu để
thành thục chúng sanh.
Nếu
Bồ Tát nhập nhứt hướng
tam muội thì có thể
thị hiện thân
Thanh Văn để
thành thục chúng sanh.
Nếu
Bồ Tát nhập
thanh tịnh tam muội thì có thể
thị hiện thân
Bích Chi Phật để
thành thục chúng sanh.
Nếu
Bồ Tát nhập tịch tĩnh
tam muội thì có thể
thị hiện sắc thân chư Phật để
thành thục chúng sanh.
Bồ Tát nhập tất cả
pháp tự tam muội như vậy tùy
chí nguyện của mình mà hiện các thứ
sắc thân để
thành thục chúng sanh, mà ở nơi
pháp giới cũng không
di động.
Tại sao, vì
Bồ Tát tùy thuận chúng sanh mà
thị hiện nhiều thứ để
thành thục họ, nhưng
Bồ Tát chẳng thấy tướng
sắc thân cũng chẳng thấy tướng
chúng sanh, do vì
vô sở đắc vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Ý ông nghĩ sao, như lúc
đại sư tử vương gầm rống thì các
dã can nhỏ kia có làm được như vậy chăng ?
-Bạch
đức Thế Tôn ! Không làm được.
-Nầy
Xá Lợi Phất ! Như chỗ mang nặng của
đại hương tượng, con lừa kia có mang nổi chăng ?
-Bạch
đức Thế Tôn ! Không mang nổi.
-Nầy
Xá Lợi Phất ! Như
oai đức tự tại của
Đế Thích và
Phạm Vương, ngưòi bần tiện kia có được chăng ?
-Bạch
đức Thế Tôn ! Không có được.
-Nầy
Xá Lợi Phất ! Như
đại lực kim sí điểu vương bay liệng
vận động các chim nhỏ kia có bay như vậy được chăng ?
-Bạch
đức Thế Tôn ! Không bay như vậy được.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chư
Bồ Tát ấy có những
sức lực thiện căn dũng mãnh y nơi trí
xuất ly dứt các
tội cấu xa rời ưu hối được thấy chư Phật và được các
tam muội cũng như vậy.
Các
tội chướng như vậy chẳng phải hàng
phàm phu Thanh Văn và
Duyên Giác mà dứt trừ được.
Bồ Tát nếu hay
xưng danh chư Phật ấy ngày đêm
thường hành ba thứ pháp trên thì dứt các tội rời ưu hối được thấy chư Phật và chứng các tam muội”.
Bấy giờ
Tôn giả Ưu Ba Ly từ
thiền định dậy đến chỗ
Phật đảnh lễ chưn Phật
hữu nhiễu ba vòng đứng qua một bên
bạch Phật rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi ở chỗ vắng ngồi
một mình suy nghĩ rằng
đức Thế Tôn nơi
giới học thanh tịnh Ba la đề mộc xoa vì hàng
tam thừa Thanh Văn,
Duyên Giác và
Bồ Tát mà bảo rằng : thà
mất mạng chớ chẳng bỏ giới.
Bạch đức Thế Tôn ! Hoặc lúc Phật
tại thế hoặc lúc
Phật diệt độ rồi, thế nào gọi là
Thanh Văn,
Duyên Giác Ba la đề mộc xoa, thế nào gọi là
Bồ Tát thừa Ba la đề mộc xoa ?
Bạch đức Thế Tôn !
Đức Phật nói trong những người
trì luật tôi là
đệ nhứt. Tôi sẽ làm sao hiểu được nghĩa Tỳ ni
thiện xảo. Tôi từ bên Phật nghe dạy
thọ trì đến
vô sở úy rồi sau đó mới có thể rộng nói lại cho người. Nay chư
Bồ Tát đến hội họp và
Tỳ Kheo Tăng cũng đã
vân tập. Mong
đức Như Lai nói rộng
quyết định tì ni dứt
trừ nghi hối”.
Đức Phật phán : “Nầy
Ưu Ba Ly ! Nay ông biết hàng
Thanh Văn và chư
Bồ Tát học giới thanh tịnh chỗ
phát tâm chỗ
tu hành khác nhau.
Nầy
Ưu Ba Ly ! Có
Thanh Văn thừa trì
thanh tịnh giới mà ở nơi
Bồ Tát thừa gọi là
phá giới. Có
Bồ Tát thừa trì
thanh tịnh giới mà ở nơi
Thanh Văn thừa gọi là
phá giới.
Thế nào là người
Thanh Văn thừa trì
thanh tịnh giới mà ở nơi
Bồ Tát thừa gọi là
phá giới ?
Nầy
Ưu Ba Ly ! Người
Thanh Văn thừa cho đến chẳng nên
phát khởi một niệm còn thọ thân sau, đây gọi là
Thanh Văn trì
thanh tịnh giới, nhưng ở nơi
Bồ Tát thì gọi là đại
phá giới.
Thế nào là người
Bồ Tát thừa trì
thanh tịnh giới mà ở nơi
Thanh Văn thừa gọi là
phá giới ?
Nầy
Ưu Ba Ly !
Đại Bồ Tát tu hành Đại thừa có thể trong
vô lượng a tăng kỳ kiếp kham chịu thọ thân chẳng hề chán khổ, đây gọi là
Bồ Tát trì
thanh tịnh giới mà ở nơi
Thanh Văn thừa gọi là đại
phá giới.
Vì lẽ trên ấy mà
Như Lai vì người
Bồ Tát thừa nói
vô tận hộ giới, vì người
Thanh Văn thừa nói hộ tận giới.
Như Lai vì người
Bồ Tát thừa nói khai giá giới.
Như Lai vì người
Bồ Tát thừa nói
thâm tâm giới, vì người
Thanh Văn thừa nói
thứ đệ giới.
Thế nào là
Bồ Tát trì bất tận hộ giới và người
Thanh Văn trì tận hộ giới ? Người
Bồ Tát thừa dầu trì
tịnh giới mà ở nơi các
chúng sanh phải nên
tùy thuận, còn người
Thanh Văn chẳng nên
tùy thuận. Thế nên
Bồ Tát trì bất tận hộ giới còn người
Thanh Văn trì tận hộ giới.
Thế nào gọi là
Bồ Tát thừa trì khai giá giới, còn người
Thanh Văn thừa trì giá giới ? Chư
Bồ Tát nếu ở trong
Đại thừa phát nguyện tu hành buổi sáng có chỗ
phạm giới mà buổi trưa chẳng rời tâm
Nhứt thiết trí thì
giới thân chẳng hoại, nếu buổi trưa có chỗ
phạm giới mà buổi chiều chẳng rời tâm
Nhứt thiết trí thì
giới thân chẳng hoại, nếu buổi chiều có chỗ
phạm giới mà buổi tối chẳng rời tâm
Nhứt thiết trí thì
giới thân chẳng hoại, nếu buổi tối có chỗ
phạm giới mà buổi khuya chẳng rời tâm
Nhứt thiết trí thì
giới thân chẳng hoại, nếu buổi khuya có chỗ
phạm giới mà cuối đêm chẳng rời tâm
Nhứt thiết trí thì
giới thân chẳng hoại, nếu cuối đêm có chỗ phạm
giới mà buổi sáng chẳng rời tâm
Nhứt thiết trí thì
giới thân chẳng hoại, thế nên người
Bồ Tát thừa trì khai giá giới, dầu có sai phạm thì chẳng nên
thất niệm vọng sanh ưu hối tự
não loạn tâm mình. Người
Thanh Văn thừa nếu có
phạm giới thì là
phá hoại Thanh Văn tịnh giới, tại sao, vì người
Thanh Văn trì giới dứt
trừ phiền não như chữa đầu cháy, bao nhiêu
chí nguyện chỉ cầu
Niết bàn, do đó nên gọi
Thanh Văn thừa trì duy giá giới.
Lại nầy
Ưu Ba Ly ! Thế nào là
Bồ Tát trì
thâm nhập giới và người
Thanh Văn thừa trì
thứ đệ giới ?
Người
Bồ Tát thừa trong
hằng sa kiếp thọ
ngũ dục lạc du hí
tự tại chưa hề bỏ rời tâm
Bồ đề,
Bồ Tát như vậy chẳng gọi là mất giới. Tại sao, vì
Bồ Tát khéo
giữ gìn an
trụ tâm Bồ đề,
cho đến trong mộng tất cả
kiết sử chẳng làm khổ hại được bao nhiêu
phiền não lần lần sẽ hết, chẳng nên
một đời bèn hết
kiết sử. Người
Thanh Văn thừa thành thục thiện căn như chữa đầu cháy,
cho đến chẳng ưa thọ sanh dầu chỉ một niệm. Vì thế nên người
đại thừa trì
thâm nhập giới nói có khai giá gọi là bất tận hộ. Người
Thanh Văn thừa trì
thứ đệ giới nói duy giá gọi là tận hộ.
Nầy
Ưu Ba Ly ! Người
cầu Đại thừa nơi
Vô thượng Bồ đề rất là khó được, có đủ
đại trang nghiêm mới
thành tựu được. Thế nên
Đại Bồ Tát dầu
vô lượng a tăng kỳ kiếp qua lại
sanh tử mà trọn chẳng có lòng chán lìa.
Vì lẽ ấy nên
Như Lai quan sát vì người
Đại thừa chẳng nên một mặt nói pháp yểm ly, chẳng nên một mặt nói pháp mau chứng
Niết bàn, mà phải nên nói pháp
vô nhiễm vi diệu thậm thâm tương ưng với từ và hỉ,
pháp không buộc chấp xa rời ưu hối,
pháp tánh không vô chướng
vô ngại,
Bồ Tát được nghe rồi ở trong
sanh tử không có lòng chán mỏi mà
quyết định viên mãn Vô thượng Bồ đề”.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Nếu có
Bồ Tát tham tâm tương ưng mà
phạm giới, hoặc có
Bồ Tát sân tâm tương ưng mà
phạm giới, hoặc có
Bồ Tát si tâm tương ưng mà
phạm giới, trong ba thứ phạm ấy người nào nặng hơn?”
Đức Phật dạy : “Nầy
Ưu Ba Ly ! Nếu
Bồ Tát tu hành đại thừa trong
hằng sa kiếp mà
tham tâm tương ưng phạm giới tội nầy còn nhẹ, nếu một niệm
sân tâm phạm giới thì tội rất nặng, tại sao, vì
tham tâm phạm giới thì
nhiếp thọ chúng sanh, còn
sân tâm phạm giới thì
vứt bỏ chúng sanh.
Nầy
Ưu Ba Ly ! Bao nhiêu
kiết sử hay
nhiếp thọ chúng sanh, nơi đây
Bồ Tát chẳng nên có lòng e sợ.
Nầy
Ưu Ba Ly ! Như
đức Phật đã nói :
tham dục khó bỏ vì lỗi ấy
vi tế,
sân hận dễ bỏ vì lỗi này thô nặng, si khó bỏ rời, lỗi thô nặng hơn.
Nầy
Ưu Ba Ly ! Ở trong
phiền não, nếu là
tội phạm vi tế khó xả ly, chư
Bồ Tát phải nên
kham nhẫn. Nếu là
tội phạm lớn nặng dễ xả ly,
phiền não nầy dầu là trong mộng,
Bồ Tát chẳng nên nhẫn thọ.
Vì lẽ ấy nên người
Đại thừa nhơn tham mà
phạm giới, Phật nói người nầy chẳng gọi là phạm, nên nhơn sân mà phạm là
đại phạm giới là
tội lỗi lớn, là
đọa lạc lớn, rất
chướng nạn đối với
Phật pháp.
Nầy
Ưu Ba Ly ! Nếu chư
Bồ Tát ở trong Tỳ ni mà không thiện
phương tiện, nhơn tham
phạm giới thì còn sợ nhơn sân
phạm giới lại không sợ. Nếu chư
Bồ Tát ở trong Tỳ ni có thiện
phương tiện, nhơn tham phạm thì không sợ còn nhơn sân phạm thì rất sợ”.
Bấy giờ
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tất cả các
pháp cứu cánh Tỳ ni
điều phục chỗ nào ?
Đức Phật nói : “Nầy
Văn Thù Sư Lợi ! Nếu hàng
phàm phu biết rõ các
pháp cứu cánh Tỳ ni thì
đức Như Lai trọn chẳng nói về
điều phục, vì họ chẳng biết nên
đức Như Lai vì họ
lần lượt nói các pháp Tỳ
ni để họ rõ biết các
pháp cứu cánh Tỳ ni”.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn !
Đức Như Lai đã nói
quyết định Tỳ ni nầy. Ngài
Văn Thù Sư Lợi ở trong pháp nầy còn chưa nói. Lành nay, xin
đức Như Lai bảo Ngài
Văn Thù Sư Lợi vì
chúng tôi mà nói một ít”.
Đức Phật bảo
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : “Nầy
Văn Thù Sư Lợi ! Nay ông nên nói nghĩa
cứu cánh Tỳ ni
thiện xảo. Ông
Ưu Ba Ly đây muốn được nghe”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với
Tôn giả Ưu Ba Ly: “Tất cả các
pháp cứu cánh
tịch diệt nên gọi là
cứu cánh Tỳ ni. Tất cả các
pháp vô ngã vì không
nhiễm trước nên gọi là
bất hối Tỳ ni. Tất cả các
pháp bổn tánh
thanh tịnh vì không
điên đảo nên gọi là
tối thắng Tỳ ni. Tất cả các
pháp như thiệt tế vì rời các
kiến chấp nên gọi là
thanh tịnh Tỳ ni. Tất cả các pháp
bất lai bất khứ vì
vô phân biệt nên gọi là
bất tư nghị Tỳ ni. Tất cả các pháp
vô trụ vô trước vì
niệm niệm diệt nên gọi là tịnh chư đạo Tỳ ni. Tất cả các
pháp trụ hư không tế vì lìa các tướng nên gọi là
tự tánh viễn ly Tỳ ni. Tất cả các
pháp không khứ lai kim vì
bất khả đắc nên gọi là
tam thế bình đẳng Tỳ ni. Tất cả các pháp chẳng
an lập được vì
tâm bình đẳng nên gọi là
vĩnh đoạn nghi hoặc Tỳ ni.
Nầy
Tôn giả Ưu Ba Ly ! Đây gọi là
pháp giới cứu cánh Tỳ ni. Chư Phật y nơi đây mà
thành đạo.
Nầy
thiện nam tử ở trong pháp ấy mà không khéo
quán sát thì là xa rời
Như Lai tịnh giới vậy”.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch Phật rằng : “Bạch
đức Thế Tôn !
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói nghĩa tất cả pháp bất tư nghị”.
Đức Phật phán : “Nầy
Ưu Ba Ly ! Pháp của
Văn Thù Sư Lợi nói là y nơi nghĩa
bất tư nghị vô ngại giải thoát. Vì thế nên phàm chỗ
thuyết pháp rời lìa
tâm tướng thì gọi là
tâm giải thoát. Vì làm cho người
tăng thượng mạn được rời lìa
tăng thượng mạn vậy”.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch Phật rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Thế nào là người
tăng thượng mạn trong
Thanh Văn thừa và
Bồ Tát thừa ?”
Đức Phật dạy : “Nầy
Ưu Ba Ly ! Nếu có
Tỳ Kheo suy nghĩ rằng : Tôi dứt
tham dục thì gọi là
tăng thượng mạn, tôi dứt
sân hận dứt
ngu si thì gọi là
tăng thượng mạn, pháp
tham dục khác pháp chư Phật khác thì gọi là
tăng thượng mạn, pháp
sân hận khác pháp chư Phật khác thì gọi là
tăng thượng mạn, pháp
ngu si khác pháp chư Phật khác thì gọi là
tăng thượng mạn, rằng có sở đắc là
tăng thượng mạn, rằng có sở chứng là
tăng thượng mạn, rằng có
giải thoát là
tăng thượng mạn, thấy các
pháp không là
tăng thượng mạn, thấy
vô tướng là
tăng thượng mạn, thấy
vô nguyện là
tăng thượng mạn, thấy
vô sanh là
tăng thượng mạn, thấy
vô tác là
tăng thượng mạn, thấy có các pháp là
tăng thượng mạn, thấy pháp
vô thường là
tăng thượng mạn, rằng các
pháp không nào
cần tu tập là
tăng thượng mạn, đây gọi là người
Thanh Văn thừa tăng thượng mạn.
Nếu chư
Bồ Tát suy nghĩ rằng : Tôi nên phải
phát tâm cầu
Nhứt thiết trí là
tăng thượng mạn, tôi nên
tu hành sáu Ba la mật là
tăng thượng mạn, rằng
chỉ y Bát Nhã Ba la mật mà
được giải thoát không còn pháp nào khác mà được
xuất ly là
tăng thượng mạn, pháp này
thậm thâm pháp này chẳng phải
thậm thâm là
tăng thượng mạn, pháp này
thanh tịnh pháp này chẳng
thanh tịnh là
tăng thượng mạn, đây là pháp chư Phật đây là
pháp Duyên Giác, đây là pháp
Thanh Văn là
tăng thượng mạn, pháp này nên làm pháp này chẳng nên làm là
tăng thượng mạn, đây là
thâm pháp đây chẳng phải
thâm pháp là
tăng thượng mạn, đây là pháp
gần đây chẳng phải pháp gần là
tăng thượng mạn, đây
chánh đạo đây
tà đạo là
tăng thượng mạn, nơi
Vô thượng Bồ đề tôi mau được ư tôi chẳng mau được ư là
tăng thượng mạn, tất cả pháp
bất tư nghị không ai biết được mà tôi có thể biết rõ là
tăng thượng mạn,
cho đến nơi
Vô thượng Bồ đề bất tư nghị mà nóng tâm
suy gẫm là đại
chấp trước, đây gọi là người
Bồ Tát thừa tăng thượng mạn vậy”.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch Phật rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Thế nào là
Tỳ Kheo rời lìa
tăng thượng mạn ?”
Đức Phật dạy : “Nầy
Ưu Ba Ly ! Nếu ở nơi tất cả pháp
bất tư nghị mà không chỗ
chấp trước thì gọi là
cứu cánh không
tăng thượng mạn”.
Muốn tuyên lại nghĩa ấy
đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Tất cả
hí luận từ tâm khởi
Chẳng nên
phân biệt pháp phi phápNhư vậy thấy pháp
bất tư nghịNgười này ở đời thường
an lạcPhàm phu mê hoặc theo tâm chuyển
Nhiều
kiếp luân hồi trong các cõi
Nếu biết
pháp tánh đều
vô tánhĐây gọi chơn thiệt
bất tư nghịNếu có
Tỳ Kheo niệm chư Phật
Chẳng phải nghĩ tốt
chánh niệm tốt
Nơi Phật vọng sanh tưởng
phân biệtMà
phân biệt này không chơn thiệt
Nếu có
suy gẫm nơi
pháp khôngPhàm phu như vậy trụ
tà đạoChỉ dùng
văn tự nói nơi không
Văn tự cùng không nào có được.
Nếu có
tư duy pháp tịch tĩnh
Tâm này chẳng có vốn
vô sanhTâm hành giác quán đều
hí luậnVô niệm gọi là thấy các pháp
Tất cả các
pháp không tư niệm
Có tâm có niệm đều không cả
Nếu người
ưa thích quán sát không
Nơi
vô niệm ấy chớ sanh niệm
Pháp đồng cỏ cây
vô tri giác
Nếu rời nơi
tâm bất khả đắcChúng sanh tự tánh vô sở hữuTất cả các pháp đều như vậy
Như nhơn ánh sáng mắt được thấy
Đêm tối không sáng thì không thấy
Nếu mắt tự hay thấy
hình sắcCớ gì chờ duyên mới hay thấy
Mắt thường nhơn các ánh sáng kia
Hay thấy các thứ mầu xanh đỏ
Nên biết
tánh thấy nương các duyên
Vì thế biết mắt chẳng hay thấy
Dầu có nghe
âm thanh đẹp ý
Nghe xong liền mất mà không dùng
Suy tìm chỗ đi chẳng thể được
Do
phân biệt sanh tướng
âm thanhTất cả
pháp chỉ lời và tiếng
Trong ấy giả đặt ra
văn tựTiếng ấy không có
pháp phi phápKẻ ngu chẳng
biết vọng chấp trướcPhật vì
thế gian khen
bố thíMà
bố thí vốn
bất khả đắcTrong không chỗ nói mà diễn nói
Thế nên
Phật pháp bất tư nghịPhật thường khen nói trì
tịnh giớiCũng không
chúng sanh người
phá giớiTánh của
phá giới như
hư khôngThanh tịnh trì giới cũng như vậy
Phật nói
nhẫn nhục là
tối thắngVô kiến vô sanh là
nhẫn tánhThiệt không chút pháp để được sân
Do đây gọi là
thù thắng nhẫn
Phật nói ngày đêm
thường tinh tấn
Thức ngủ luôn giác là
vô thượngDầu trải nhiều kiếp siêng
tu hànhNhưng nơi
sở tác không tăng giảm
Thiền định giải thoát và
tam muộiKhai
thị thế gian môn như thiệt
Pháp tánh bổn lai
vô sở động
Tùy thuận giả nói các
thiền địnhQuan sát biết rõ gọi
trí huệRõ biết các pháp gọi người trí
Các
pháp tự tánh
vô sở hữuCũng không người
quan sát biết rõ
Phật thường khen nói
tu khổ hạnhƯa thích đầu đà pháp tịch tĩnh
Biết được các pháp
bất khả đắcThì gọi người
tri túc thanh tịnhPhật nói
địa ngục các sự khổ
Chết đọa trong
ác đạo ghê rợnVô lượng chúng sanh khởi lòng nhàm
Thiệt không
ác đạo qua lại được
Đao trượng mâu sóc khí cụ khổ
Do vì
phân biệt mà thấy có
Vô lượng khổ sở bức thân họ
Vườn rừng các thứ hoa đẹp nở
Cung điện
châu báu chói sáng nhau
Cũng không có người là
tác giảĐều từ
phân biệt vọng tâm sanh
Các pháp
hư ngụy phỉnh
thế gianPhàm phu chấp trước sanh
điên đảoDường như
phân biệt những
ảo hóaNơi đó thủ xả thẩy đều không
Phật nói
phát tâm đại Bồ đềLợi ích thế gian rất
thù thắngMà thiệt
Bồ đề bất khả đắcCũng không người
phát tâm Bồ đềTâm tánh thanh tịnh thường quang minh
Chơn thiệt không ngụy
không trần nhiễm
Phàm phu phân biệt sanh
tham trướcMà
phiền não kia bổn lai không
Các
pháp tự tánh
thường tịch tĩnh
Nào có
tham dục và
sân siChẳng thấy chỗ sanh tham
ly dụcMới gọi là thiệt được
Niết bànBiết rõ các
pháp như hư khôngThường ở
thế gian vô sở úy
Tâm ấy chưa từng sanh
nhiễm trướcDo đây
thành tựu đại Bồ đềTrong
vô số kiếp tu các hạnh
Độ thoát vô lượng các
chúng sanhChúng sanh tự tánh vô sở đắcThiệt không
chúng sanh để được độ
Ví như thế gian nhà
ảo thuậtHóa ra
vô biên ngàn ức người
Rồi lại hại các hóa nhơn ấy
Nơi
ảo hóa ấy không tăng tổn
Tất cả
chúng sanh như ảo hóa
Cầu
biên tế kia
bất khả đắcNếu biết tánh
vô biên như vậy
Người này ở đời không chán mỏi
Rõ biết các
pháp như thiệt tướngThường đi
sanh tử tức Niết bànỞ trong
dục lạc thiệt không nhiễm
Điều phục chúng sanh nói
ly dụcĐại bi lợi ích các
chúng sanhMà thiệt không nhơn không
thọ giảChẳng thấy
chúng sanh mà
lợi íchNên biết việc ấy là rất khó
Như đưa tay không dỗ trẻ thơ
Bảo là có vật cho nó mừng
Xòe tay trống rỗng không thấy gì
Nơi đây trẻ thơ lại kêu khóc
Như vậy chư Phật
nan tư nghịThiện xảo điều phục loài
chúng sanhBiết rõ
pháp tánh vô sở hữuGiả danh an lập dậy
thế gianDùng
đại từ bi khuyên bảo rằng
Ở trong
ngã pháp rất
an lạcNgươi nên
xuất gia bỏ
ân áiSẽ được
Sa Môn quả thù thắngHọ đã
xuất gia siêng
tu tậpNhư chỗ
tu hành được
Niết BànLại quán các
pháp tướng như thiệt
Thiệt không các quả để được chứng
Nơi đây mới sanh lòng
hi hữuHay thay đấng
Đại Bi Đạo SưHay nói pháp
tương ưng như thiệt
Tất cả các
pháp như hư khôngAn lập trăm ngàn danh
cú nghĩaHoặc nói tên là thiền
giải thoátHoặc gọi
căn lực hoặc
Bồ đềMà
căn lực ấy bổn
vô sanhThiền định Bồ đề cũng chẳng có
Vô sắc vô hình chẳng lấy được
Chỉ dùng
phương tiện dậy
chúng sanhPhật nói
tu hành có chỗ chứng
Nên biết xa rời tất cả tướng
Nếu bảo trong ấy có sở đắc
Đây là chẳng
chứng quả Sa MônCác
pháp tự tánh
vô sở hữuSẽ ở chỗ nào nói được chứng
Nói rằng được chứng là không được
Biết rõ như vậy mới gọi được
Chúng sanh đắc quả gọi
thù thắngPhật nói
chúng sanh bổn
bất sanhCòn không
chúng sanh để có được
Sao lại sẽ có người
đắc quảVí như ruộng tốt không hột giống
Trong ruộng chẳng hề có mọc mầm
Như vậy
chúng sanh bất khả đắcSẽ ở chỗ nào mà nói chứng
Tất cả
chúng sanh tánh
tịch diệtKhông có ai được căn bổ nó
Nếu hay biết rõ
pháp như vậy
Người này
diệt độ hẳn không thừa
Quá khứ vô số trăm ngàn Phật
Không có ai hay độ
chúng sanhNếu
chúng sanh ấy là có thiệt
Cứu cánh không thể được
Niết bànTất cả các pháp đều
tịch diệtChưa từng có pháp nào được sanh
Nếu hay thấy các
pháp như vậy
Người này đã
xuất ly tam giớiThế nên Phật
Bồ đề vô ngạiTrong ấy
cứu cánh vô sở hữuNếu hay biết rõ
pháp như vậy
Phật gọi là người
ly dục hẳn
Lúc
đức Thế Tôn nói kệ ấy rồi, hai trăm
Tỳ Kheo tăng thượng mạn dứt hết các lậu tâm
được giải thoát, sáu vạn
Bồ Tát được
vô sanh nhẫn.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Nên gọi kinh này tên là gì ?
Chúng tôi phải
thọ trì thế nào”?
Đức Phật phán : “Nầy
Ưu Ba Ly ! Kinh này tên là
Quyết Định Tỳ Ni, cũng tên là Tồi Diệt
Tâm Thức, ông phải phụng trì như vậy”.
Đức Phật nói kinh nầy rồi,
Tôn giả Ưu Ba Ly cùng chúng
Tỳ Kheo,
Văn Thù Sư Lợi và
chư đại Bồ Tát, tất cả
thế gian Trời Người,
A Tu La v.v…
nghe lời đức Phật dạy đều rất
vui mừng tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI ƯU BA LY
THỨ HAI MƯƠI BỐN
HẾT