KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XVII
PHÁP HỘI
PHÚ LÂU NA
Thứ mười bảy
Hán dịch : Dao Tần, Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM BỒ TÁT HẠNH
THỨ NHỨT
Như vậy tôi nghe một lúc
đức Phật trong
Trúc Viên thành
Vương Xá cùng câu hội với chư
đại Tỳ Kheo và
chư đại Bồ Tát số ấy đông
vô lượng.
Bấy giờ
Huệ Mạng Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử từ chỗ ngồi
đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất
chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Bạch Thế Tôn! Tôi muốn hỏi ít lời mong
Như Lai sót thương hứa cho".
Đức Phật phán: "Tuỳ ý ông hỏi, ta sẽ
giải đáp cho ông vui mừng".
Tôn giả Phú Lâu Na bạch
đức Phật : "Nay tôi vì
chư đại Bồ Tát là những nguời thật hành
công đức cao thượng
danh tiếng cao xa thường vì
chúng sanh cầu sự an vui mà có lời thỉnh hỏi ".
Huệ mạng Phú Lâu Na nói kệ rằng:
"Làm
công đức tối thượngDanh tiếng rất cao xa
Người giới tịnh ưa pháp
Tôi hỏi sở hành ấy
Sửa trị tâm thế nào
Rộng
bố thí thế nào
Độ
chúng sanh thế nào
Hỉ tâm
thường hành đạo.
Bạch Thế Tôn! Nay tôi vì chư
Đại Sĩ mà hỏi sự như vậy .
Bồ Tát tu tập đa văn như biển cả chẳng cạn
hết thế nào ? Hay chứa họp
đa văn bửu tạng hay ở các pháp được nghĩa
quyết định ở các
ngữ ngôn giỏi rõ chương cú thế nào ?
Bồ Tát thế nào cầu
Đa văn như biển cả
Nơi pháp được định nghĩa
Hay giỏi biết
Phật đạoThế nào ở một lời
Mà hiểu
vô lượng nghĩaHay
dùng sức trí huệThông đạt tất cả pháp
Đa văn vô cùng tậnGạn hỏi lòng chẳng động
Xót thương mà
thuyết phápĐể dứt
chúng sanh nghi.
Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi
tùy theo trí lực của tự địa mà thỉnh hỏi
đức Như Lai và
chư đại Bồ Tát thế nào được chẳng
thối chuyển Vô thượng Bồ đề ?
Thế nào rời lìa mạn
Được gặp gỡ chư Phật
Mau được tin
thanh tịnhĐược tin
vô thượng rồi
Bỏ được sự khó bỏ
Vứt bỏ tất cả rồi
Gắng
tu đạo vô ngạiThế nào ưa
xuất giaNhàn tĩnh tu không trí
Thế nào chẳng nghịch pháp
Mong đáp đủ sự ấy.
Bạch Thế Tôn!
Chúng tôi đều biết
đức Phật đã đủ cả
trí huệ dã trọn tất cả
Thần thông Ba la mật, ở trong
tam giới là cao tôn
đệ nhứt không ai sánh được,
đại trí vi diệu đi không
chướng ngại nơi trong các pháp, vì thế nên nay tôi thỉnh hỏi sự ấy.
Phật đủ thượng
công đứcĐã vượt bờ
thần thôngĐược trí không
chướng ngạiTôi vì
Bồ Tát hỏi
Giỏi học tất cả pháp
Công đức rất cao thắng
Phá tối sanh huệ sáng
Khiến chúng đều
hoan hỉOán thân không ghét thương
Không lo không khi dối
Đại chiến thắng vua chết
Dẹp phá chúng quân ma
Chẳng cầm nơi dao gậy
Hàng phục các
oán địchThường có lòng từ bi
Bền
giữ giới thanh tịnhThế Tôn không
siểm khúcKhông mạn không cợt đùa
Chứng được trí
giải thoátCông đức rất
tối thắngNhư xưa chỗ
hành đạoThắng
trí huệ đã được
Mong nay vì tôi nói
Tu thế nào được Phật".
Bấy giờ
đức Phật bảo ngài
Phú Lâu Na rằng: "Lành thay tốt thay, ông có thể hỏi
Phật sự như vậy. Lắng nghe
suy nghĩ kỹ, sẽ vì ông mà nói chư
Bồ Tát phát tâm tu hành chứa họp
vô lượng Phật pháp".
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Nay ta nói
Bồ TátSơ phát tâm Bồ đềThường dùng sức
dũng mãnhƯa làm đạo
Bồ TátSở hành của
Bồ TátCác
công hạnh thâm tâmNơi Phật được
thọ kýSự ấy sẽ lược nói
Thâm tâm lòng ưa pháp
Vô lượng và
vô biênCác thứ
công hạnh tuChẳng do một sự thành
Hỉ tâm đã
sung mãnMà thật hành
bố thíThí xong lòng không hối
Trong tâm càng
vui mừngBồ Tát suy nghĩ rằng
Chúng sanh thường nghèo cùng
Không có của
đa vănTôi sẽ cầu cho họ
Chúng sanh thường nghèo cùng
Đều
do nơi giải đãiTôi sẽ siêng
tinh tiếnTừ đó được
Bồ đềTôi sẽ vì
chúng sanhGia tâm tu nhẫn nhục
Mắng nhiếc chửi đánh chém
Nín nhận chẳng hề báo
Sẽ nghĩ ai mắng tôi
Kẻ mắng
bất khả đắcNgười mạ lị
sân hậnThảy đều là không sự
Suy nghĩ như vậy rồi
Lòng không có giận hờn
Thường
tu hành nhẫn nhụcDo đây
thành Phật đạo
Chúng sanh không tâm lành
Vì họ tôi làm đèn
Cho họ có chỗ về
Không của cho họ của
Chúng sanh đáng
xót thươngĐều cùng đi đường tà
Tôi sẽ
độ thoát họ
Khiến an trụ
Niết bànChúng sanh đều nghèo cùng
Không có của
trí huệTôi được
Nhứt thiết tríKhiến họ được
sung túcChư
Bồ Tát như vậy
Vì độ
chúng sanh nên
Phát tâm cầu
Bồ đềHành các nguyện như vậy.
Này
Phú Lâu Na !
Chư đại Bồ Tát nhiều thứ
nhơn duyên thị hiện tâm mình chẳng trụ một pháp nào cả. Tại sao vậy? Vì
chư đại Bồ Tát học tất cả pháp rồi sau
đắc đạo.
Bồ Tát có bốn sự
hi hữu, chẳng thấy có pháp khác hơn sự ấỵ Những gì là bốn ?
Bồ Tát có thể ở nơi
chúng sanh giải đãi mà siêng
tu hành tinh tấn, đây gọi là sự
hi hữu thứ nhứt.
Bồ Tát có thể ở giữa
chúng sanh ngang ngược giận thù mà siêng
tu hành nhẫn nhục, đây gọi là sự
hi hữu thứ haị
Bồ Tát thấy các
chúng sanh đi đường tà mà tự mình siêng
tu hành chánh đạo, đây gọi là sự
hi hữu thứ ba.
Bồ Tát vì độ
chúng sanh chuyển khỏi
sanh tử mà dùng
thâm tâm phát
Vô thượng Bồ đề, đây gọi là sự
hi hữu thứ tư.
Bốn sự trên đây gọi là bốn sự
hi hữu tối đại của Bồ Tát".
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Thấy
chúng sanh giải đãiLòng siêng tu
tinh tấnTôi chẳng nên theo họ
Mà làm sự
phi phápChẳng bắt chước giận thù
Phật đạo chẳng giận thù
Thường
tu tâm từ biBồ đề từ đó sanh
Chúng sanh ưa đường tà
Y chỉ nơi
tà đạoBồ Tát cầu
chánh đạoKhiến người tu nẻo chánh
Thấy lỗi họa
sanh tửNhứt tâm cầu
Phật tríTôi được pháp
vô thượngSẽ độ các
chúng sanhBốn sự
hi hữu ấy
Sự khác không hơn được
Do đây nên phải biết
Được rời pháp
chướng ngạiGiả như áo mặc cháy
Đầu cháy còn chẳng chữa
Lòng
giải đãi nếu khởi
Liền phải mau
trừ diệt.
Này Phú Lâu Na!
Bồ Tát có bốn sự hay sanh
tâm hỉ. Những gì là bốn ?
Một là thấy các
chúng sanh ở trong
sanh tử chẳng
tinh tấn được.
Bồ Tát tự thấy mình ở trong
Phật đạo tu hành tinh tấn bèn sanh hỉ tâm.
Hai là thấy các
chúng sanh lòng họ thường
giải đãi,
Bồ Tát tự thấy mình ở trong
Phật pháp tu
tinh tấn nên sanh hỉ tâm.
Ba là thấy các
chúng sanh sân hận tật đố,
Bồ Tát tự thấy mình không sân không đố
thường có lòng từ bi nên sanh hỉ tâm.
Bốn là
Bồ Tát chẳng thấy người khác siêng
tu Phật pháp bằng mình nên sanh hỉ tâm”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Thấy
chúng sanh giải đãiTự mình tu
tinh tấnVì thế
Bồ Tát này
Tự sanh lòng
vui sướngThấy
sanh tử lỗi họa
Mà sanh lòng chán lìa
Kinh sợ ngục
tam giớiLòng siêng cầu bỏ lìa
Chúng sanh ưa giận thù
Tự mình thường
từ biVì thế
Bồ Tát này
Lòng luôn khởi
vui vẻCác việc
chúng sanh làm
Thường là việc chẳng nên
Vì thế
Bồ Tát cầu
Phật đạo tối
vô thượngĐây gọi là thiệt trí
Được chư Phật khen ngợi
Bồ Tát học trí này
Làm chỗ về cho chúng
Vì thế
Bồ Tát này
Thường được lòng
vui mừngTừ
hữu vi hư ngụyThường
sanh pháp chơn thiệt.
Lại này
Phú Lâu Na !
Bồ Tát có bốn pháp
xa lìa được các nạn mà gặp chỗ không nạn, được gặp rồi không mất có thể
tu hành Phật pháp. Những gì là bốn ?
Một là
Bồ Tát khiêm tốn dịu hòa, hễ thấy người thì chào hỏi trước, hòa nhan
vui vẻ cùng họ nói chuyện, lúc nói luôn
mỉm cười.
Hai là
Bồ Tát nhứt tâm cầu pháp thường ưa thưa hỏi siêng cầu học hiểu không hề nhàm đủ.
Ba là
Bồ Tát thường thích
rảnh rang vắng vẻ
một mình.
Bốn là tự mình an trụ đạo
Vô thượng Bồ đề cũng
giáo hóa chúng sanh an trụ
Phật đạo.
Bồ Tát có bốn pháp trên đây nên được khỏi các nạn gặp được chỗ không nạn, gặp rồi chẳng mất có thể
tu hành Phật pháp".
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Trong lòng luôn hòa dịu
Thường ưa làm
từ biLúc cùng người nói chuyện
Khiêm tốn vui
mỉm cườiThường
cầu pháp thâm diệuĐược chư Phật khen ngợi
Luôn
giữ giới thanh tịnhƯa tu
hạnh đầu đàDầu tu
hạnh đầu đàCũng tu trí
thâm diệuVì thế
Bồ Tát này
Lìa nạn không
gặp nạnThường ở trước chư Phật
Thỉnh hỏi những pháp sâu
Do đó
trí huệ tăng
Chẳng sanh vào chỗ nạn
Thường thích ở vắng rảnh
Thanh tịnh tu
đầu đàVì thế
Bồ Tát này
Lìa nạn không
gặp nạnNhững người có
trí huệThân cận bốn pháp này
Lìa được tất cả nạn
Thường được gặp chư Phật
Được gặp chư Phật rồi
Có đủ
bất hoại tín
Hay phát thượng
tinh tấnĐể cầu
Phật trí huệVì thế người cầu trí
Phải nên học
chánh phápNếu hay học
chánh phápĐược
thành Phật chẳng khó".
XVII
PHÁP HỘI
PHÚ LÂU NA
Thứ mười bảy
Hán dịch : Dao Tần, Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM ĐA VĂN
THỨ HAI
Đức Thế Tôn bảo Ngài
Phú Lâu Na : "Bồ Tát có bốn pháp thì hay
tu tập đa văn bửu tạng, hay ở nơi các pháp được nghĩa
quyết định, hay ở nơi các
ngữ ngôn giỏi biết chương cú, dường như
đại hải chẳng cạn hết được. Những gì là bốn ?
Một là
Bồ Tát cầu học
mười hai bộ kinh, cầu học rồi
đọc tụng,
đọc tụng rồi ghi nhớ, ghi nhớ đúng rồi thật hành theo.
Hai là
Bồ Tát ở trong tất cả
pháp không y chỉ, dầu nhập
thiền định mà không
sở y chỉ, vì không
sở y nên ở trong các pháp được trí bất trụ, được trí bất trụ rồi ở trong các pháp được
tri kiến vô ngại, tại sao vậy, vì không có
pháp bị tham làm
chướng ngại vậy.
Ba là
Bồ Tát do pháp
nhơn duyên mà
niệm Phật và
niệm Phật pháp. Lúc
niệm Phật và
niệm Pháp,
Bồ Tát chẳng thấy có pháp được tham ưa. Vi` chẳng tham ưa nên ở nơi tất cả pháp lòng không nắm lấy. Vì
không chấp trước tất cả pháp nên
Bồ Tát ở nơi sự
vấn đáp đều không
chướng ngại.
Bốn là
Bồ Tát thành tựu vô sở đắc từ ở nơi
việc làm đều
vô ngại.
Vô sở đắc từ là chẳng nhận thọ các
sự tướng, tại sao vậy, vì nếu
trụ tướng này hay
trụ tướng kia thì hoặc sanh
tham dục hoặc sanh
sân khuể hoặc sanh
ngu si,
trụ tướng,
sự tướng,
vật tướng, ấm tướng, nhập tướng,
giới tướng,
pháp tướng phi pháp đều hoặc sanh
tham dục sân khuể ngu si. Phàm có nhận
thọ sự tướng đều gọi là
tà kiến.
Bồ Tát đều diệt tất cả tướng mà
tu tập từ tâm vậy.
Vì
chúng sanh bại hoại nên tướng cũng
bại hoại, vì tướng
bại hoại nên sự cũng
bại hoại, vì sự
bại hoại nên kiến cũng
bại hoại. Bấy giờ
Bồ Tát hoại tất cả pháp mà
tu tập tâm từ. Từ như đây gọi là
vô sở đắc từ, cũng gọi là Pháp từ và Phật từ.
Tại sao gọi là Phật từ, vì
vô tác vô hoại vậy, vì như thiệt
thông đạt tất cả pháp vậy".
Ngài
Phú Lâu Na bạch : "Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là như thiệt
thông đạt tất cả pháp ?".
Đức Phật dạy : "Này
Phú Lâu Na ! Chỗ được
thông đạt đó chẳng nói là thị pháp, chẳng nói là
phi pháp. Tại sao vậy, vì nếu nói có pháp thì tức là
phi pháp. Nếu ở nơi
pháp hữu pháp vô mà không có
phi pháp thì ở trong ấy không có
hí luận,
nếu không hí luận thì gọi là
Niết bàn. Ông
quan sát kỹ coi là cực viễn hay cực cận ?
-Bạch
Thế Tôn ! Chẳng xa chẳng gần. Tại sao, vì nghĩa như vậy không phương
không xứ không
nội không ngoại.
-Này
Phú Lâu Na ! Đúng như vậy,
đức Như Lai ở nơi pháp tác số.
-Bạch
Thế Tôn ! Ở nơi pháp nào mà
đức Như Lai vì nó tác số ?
-Này
Phú Lâu Na ! Như các
phàm phu chấp trước các pháp,
đức Như Lai chẳng được chẳng tu chẳng chứng chẳng
thông đạt,
pháp như vậy
Như Lai vì nó tác số.
Này
Phú Lâu Na ! Các
pháp số ấy chẳng để
phân biệt pháp vậy. Nay vì ông mà nói
pháp tịch diệt
đệ nhứt có thể nhiếp được
Phật đạo.
Này
Phú Lâu Na !
Đời sau có người ưa theo thế lợi, nếu nghe kinh này họ chẳng thích nghe nhận.
Này
Phú Lâu Na !
Bồ đề này của Phật, các ông chỉ do
âm thanh chương cú mà biết chút ít thôi, còn
nghĩa thú trong ấy các ông chẳng biết.
Nghĩa thú ấy
sâu xa chẳng thể lấy lời mà tuyên bày được, chỉ có người trí mới có thể khế hội được thôi".
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
"Người chẳng biết được nghĩa
Nghe
Phật pháp thì khổ
Nếu người biết được nghĩa
Phật làm thầy cho họ
Người được Phật làm thầy
Thì ưa cầu
Niết bànKhông có lòng tránh tụng
Hay
suy gẫm chánh phápTrong ấy
không pháp sanh
Cũng không có
pháp diệtKhông sanh cũng không diệt
Là
thiệt tướng các pháp
Nếu pháp đã không sanh
Thì không có tác khởi
Thị phi cùng nhứt dị
Trong pháp ấy đều không
Đây gọi là
Niết bànTrong ấy không có diệt
Nếu nói cực
viễn cậnHai thứ ấy đều không
Nếu người biết được không
Thì gọi biết
Niết bànNếu người biết
Niết bànThì gọi
đệ tử Phật.
Này
Phú Lâu Na !
Bồ Tát có bốn pháp này thì có thể
tu tập đa văn bửu tạng, có thể ở nơi các pháp được
quyết định nghĩa, ở nơi
ngữ ngôn giỏi biết chương cú, dường như
đại hải chẳng cạn hết được".
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
"Thường muốn cầu
đa vănĐược chư Phật khen ngợi
Được thiệt nghĩa
quyết địnhVì thế như
đại hảiCó thể trong một chữ
Và với nghĩa một câu
Suốt ngàn vạn
ức kiếpDiễn nói mãi không hết
Thế nên cầu
chánh phápCầu được rồi
suy gẫmChớ tham lấy
pháp tướngChẳng tham được Phật khen
Tưởng nhớ chư
Như LaiVà nhớ nơi
chánh phápChẳng dùng lòng tham tranh
Mà cầu nơi
Đạo SưThường nơi các
chúng sanhTu hành lòng từ mẫn
Mà chẳng chấp
chúng sanhTan diệt tất cả pháp
Bồ Tát danh tiếng lớn
Tu tập pháp như vậy
Mau được
đà la niĐa văn từ đây sanh
Dường như tánh
hư khôngKhông tăng cũng không giảm
Pháp tánh cũng như vậy
Không tăng và không giảm
Phật
dùng sức trí huệThuyết pháp vô lượng kiếpThuyết pháp vô lượng số
Còn chẳng gọi là thuyết
Hết các tánh
chúng sanhĐều khiến được thân người
Đều cùng
tu xuất gia
Đa văn như
A NanĐà la ni Bồ TátVì tất cả người ấy
Thuyết pháp ngàn
ức kiếpTrí huệ vẫn chẳng hết
Phật trí huệ vô đẳngĐồng
hư không vô lượngHư không không
sanh khởiTrí huệ cũng như vậy
Như rồng chẳng lấy nước
Mà hay mưa nhiều nước
Nước ấy không chỗ trụ
Mưa xuống không
cùng tậnBồ Tát cũng như vậy
Được
đà la ni này
Các
pháp không chỗ trụ
Thuyết pháp không
cùng tậnThế nên cầu
đa vănCầu rồi
chánh tư duyDùng
pháp duyên niệm PhậtĐa văn từ đây sanh
Lòng từ khắp
chúng sanhTan
diệt tướng chúng sanhCũng diệt các
pháp tướngĐa văn từ đây sanh".
XVII
PHÁP HỘI
PHÚ LÂU NA
Thứ mười bảy
Hán dịch : Dao Tần, Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM BẤT THỐI
THỨ BA
Đức Phật bảo Ngài
Phú Lâu Na : "Bồ Tát
thành tựu bốn pháp có thể chẳng
thối chuyển nơi
Vô thượng Bồ đề. Những gì là bốn ?
Một là
Bồ Tát nghe pháp chưa nghe
suy nghĩ nghĩa lý chẳng vội liền nói là sai, do đây chẳng
thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Nghe pháp chưa được nghe
Lòng
Bồ Tát chẳng nghịch
Suy lường
nghĩa lý ấy
Chẳng vội nói
phi phápNếu nghe nói
pháp khôngThường tìm
nghĩa lý ấy
Vì
thế trí huệ tăng
Phật pháp từ đây sanh
Nghe pháp chưa từng nghe
Phải tìm cầu
nghĩa lýChẳng
thối chuyển Bồ đềTrí huệ được
tăng trưởngNghe pháp chưa từng nghe
Chẳng sanh lòng ghét khinh
Chẳng sanh lòng
siểm khúcSanh thì trái
Bồ đềNghe pháp chưa từng nghe
Phải
tìm hiểu nghĩa ấy
Trước dầu chưa từng nghe
Phải
nhứt tâm suy gẫmLúc người này
cầu phápThì được nghe
chánh phápThường được gặp chư Phật
Chẳng thối thất
Bồ đềĐã được thấy Phật rồi
Thì có thể thỉnh hỏi
Người
Thanh Văn được nghe
Đều lấy làm
vui mừngNgười này rất
hi hữuCó thể hỏi như vậy
Chúng tôi còn
vô tâmHuống được nghe sự ấy
Thanh Văn khen
hi hữuThiên thần đều
vui mừngChư Phật khen tên hiệu
Đây là quả
đa vănNếu có lúc thưa hỏi
Phật đáp được lời hỏi
Vô lượng các
đại chúngĐều được
lợi ích lớn
Được nghe nơi
Bồ TátĐa văn này hỏi đáp
Vô lượng chúng đều được
Pháp nhãn tối
vô thượng.
Này
Phú Lâu Na ! Do
nhơn duyên ấy phải biết
Bồ Tát nghe pháp chưa
nghe tin nhận chẳng trái, chánh tâm
suy gẫm chẳng vội nói sai thì có thể
lợi ích vô lượng chúng sanh.
Này
Phú Lâu Na !
Quá khứ xưa
vô lượng vô biên bất tư nghị a tăng kỳ kiếp, bấy giờ có Phập hiệu là Nhứt Thiết
Công Đức Quang Minh Vương Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn, thọ tám mươi ức tuổi, hội thứ nhứt độ chúng
Thanh Văn đệ tử chẳng thọ một pháp
lậu tận giải thoát số đông như
số cát sông Hằng chẳng tính đếm được, chúng
Bồ Tát cũng đông nhiều như vậy. Sau khi Phật ấy
diệt độ,
chánh pháp trụ thế sáu vạn năm, vì
lúc ấy Phật sắp
nhập Niết bàn có trăm ức
Bồ Tát đồng hưng khởi
thần lực để
hộ pháp đều khắp trăm ức
Diêm Phù Đề, trong mỗi
Diêm Phù Đề đều có một
Bồ Tát.
Này
Phú Lâu Na ! Sau khi Phật Nhứt Thiết
Công Đức Quang Minh Vương nhập diệt, chúng
đệ tử lần lần
giải đãi, chẳng còn
tụng trì kinh sâu diệu như vậy. Kinh
Chư Pháp Không kinh
Tịnh Giới Đầu Đà đều
lần lượt diệt mất, vì chúng chẳng có thể
đọc tụng diễn nói vậy. Pháp ấy rộng lớn có tám trăm bốn
vạn pháp tạng. Mỗi
pháp tạng có sáu mươi tám trăm vạn ức
na do tha tu đa la. Mỗi
tu đa la có ba vạn sáu ngàn
ưu đà na. Mỗi
ưu đà na có bảy trăm sáu vạn ức kệ. Lúc
tối hậu pháp sắp diệt ở trong ngần ấy
pháp tạng còn dư lại chỉ có một
tu đa la ưu đà na, bấy giờ có một Tì Kheo
Pháp Sư tên
Na La Diên ở trong
Diêm Phù Đề này được Phật ban
thần lực để
hộ pháp.
Pháp Sư Na La Diên ấy
đa văn rộng rãi giỏi
thuyết pháp nghiêm sức văn từ nghĩa lý rõ ràng, thường ưa nói pháp chưa từng nghe. Lúc
thuyết pháp có
đa số thính chúng trái nghịch huỷ báng.
Pháp Sư Na La Diên liền nghĩ rằng, nơi pháp chưa từng nghe này
thính chúng đây nghe chẳng tin được, chẳng thích nghe nhận, nếu nghe mà chẳng hiểu thì lòng họ chẳng
tuỳ thuận trái nghịch
phá hoại mà cho là chẳng phải Phật nói, chẳng phải
Đại Sư dạy, tại sao, vì
chúng nó chưa từng được nghe
Sư Trưởng Hòa Thượng nói kinh như vậy, lại các hàng
Trưởng Lão Tỳ Kheo cũng lại chẳng nói là được xoay vần nghe nơi
Sư Trưởng Hòa Thượng, nay chư
Tỳ Kheo chỉ còn dư một
tu đa la ưu đà na, tại sao tôi chẳng ở riêng mình nơi
rảnh rang vắng vẻ.
Pháp Sư Na La Diên suy nghĩ như vậy rồi,
một mình vào thâm sơn.
Bấy giờ trong
Diêm Phù Đề từ
kiếp sơ đến nay có sáu vạn tám ngàn thành lớn, thành dài mười hai
do tuần, rộng bảy
do tuần trang nghiêm đẹp, đường sá tương đương
nhân dân đông đúc
an ổn giàu vui. Sau đó nối tiếp tạo tám mươi bốn ức thành nhỏ, có thành rộng bảy
do tuần, hoặc rộng sáu năm bốn ba hoặc hai
do tuần, thành nhỏ nhứt rộng một
do tuần.
Lúc ấy trong
Diêm Phù Đề có một thành lớn tên là
An Lạc, trong thành ấy có một
Trưởng Giả tên là Xà Nặc, ông này có một con trai tên là
Ma Ha Nựu Ma Đà. Có một
thiên thần đến nói với
Trưởng Giả tử Ma Ha Nựu Ma Đà rằng :
Ngài phải siêng
cầu phápCầu rồi
chánh tư duyCông Đức Vương
Như LaiĐã ký ngài
làm Phật.
Thiên thần nói kệ xong liền ẩn mất.
Trưởng Giả tử đến thưa với cha rằng : Tôi muốn
xuất gia ở trong pháp của Phật Nhứt Thiết
Công Đức Quang Minh Vương tu
phạm hạnh.
Xà Nặc
Trưởng Giả nói kệ đáp rằng :
Nhà ta nhiều
của báuBạc vàng
vô số lượng
Diêm Phù Đề không có
Mà nhà ta có đủ
Ta tìm cầu
của báuCho con hưởng
dục lạcSao con đi
xuất giaBị đời họ khinh miệt.
Ma Ha Nựu Ma Đà nói kệ đáp cha :
Tôi
ưa thích cầu phápCầu rồi
chánh tư duyChẳng thích thọ
giàu sangSẽ
làm Phật trong đờiChẳng cần
gia nghiệp giàu
Tôi muốn tìm
thiểu dụcSản xuất những
pháp tàiNay phải đi
xuất giaChư Phật
xuất thế khó
Phật thuyết pháp cũng khó
Nay tôi gặp
Phật phápSao lại rời bỏ pháp.
Trưởng Giả tử đầu mặt lạy chưn cha, rồi đi ra mà nói kệ rằng :
Dầu có một ức cha
Và có trăm ức mẹ
Còn chẳng ngăn được tôi
Lòng tôi quyết
xuất giaTôi bỏ thân
thọ mạngCha me,
thân tộc, của
Chỉ chẳng bỏ
Phật phápSẽ
xuất gia cầu đạo.
Nói kệ xong
Trưởng Giả tử
xuất gia hành đạo, đến
Pháp Sư Na La Diên cầu muốn
nghe pháp.
Pháp Sư liền giảng nói kinh chưa từng nghe.
Tỳ Kheo Ma Ha Nựu Ma Đà nghe kinh chưa từng nghe rồi thưa hỏi
Pháp Sư Na La Diên rằng kinh này từ trước chưa từng nghe, ai đọc, ai tụng, ai
thọ trì, từ đâu Ngài được nghe ?
Pháp Sư Na La Diên nói : Ta do
túc mạng thiện căn và cũng nhờ
thần lực của Phật
Công Đức Vương nên kinh
thâm diệu ấy
tự nhiên tại tâm.
Nghe Pháp Sư nói như vậy,
Tỳ Kheo Ma Đà chuyên lòng
suy gẫm liền sanh
trí huệ,
dùng sức phương tiện đại trí huệ gạn hỏi
Pháp Sư Na La Diên.
Pháp Sư ấy theo
nghĩa giải đáp xong bảo
Tỳ Kheo Ma Đà rằng
thời kỳ Phật Nhứt Thiết
Công Đức Quang Minh Vương có một
Tỳ Kheo hỏi Phật về sự ấy như lời ông vừa hỏi và Phật cũng
giải đáp như vậy.
Tỳ Kheo Ma Đà nghe nói
vui mừng lại thưa hỏi
pháp sư,
giải đáp xong
Pháp Sư cũng bảo là
xưa kia thuở Phật
Công Đức Vương có một
Tỳ Kheo hỏi như vậy và Phật cũng
giải đáp như vậy. Nghe xong
Tỳ Kheo Ma Đà
vui mừng rồi lại bạch hỏi
Pháp Sư,
giải đáp xong
Pháp Sư lại cũng bảo là thuở Phật
Công Đức Vương cũng có một
Tỳ Kheo hỏi như vậy và Phật cũng
giải đáp như vậy.
Nghe Pháp Sư nói Ma Đà
vui mừng bạch rằng
thuở trước ngài theo Phật
nghe được bao nhiêu sự
vấn đáp như vậy.
Pháp Sư Na La Diên nói thôi chớ hỏi, sự ấy khó tin, những người chưa thiệt
chứng pháp tăng thượng cũng khó tin.
Tỳ Kheo Ma Đà lại hỏi như vậy lần thứ hai thứ ba.
Pháp Sư Na La Diên bảo thôi chớ hỏi, sự ấy khó tin. Nay bất đắc dĩ dùng
thí dụ nói cho ông. Các người có trí do
thí dụ mà được hiểu.
Này
Tỳ Kheo ! Ở chỗ Phật Nhứt Thiết
Công Đức Quang Minh Vương, ta được nghe tánh
chúng sanh nhiều hơn
địa chủng.
Giả sử tất cả
chúng sanh trong cõi
tam thiên Đại Thiên, hoặc loài có
sắc không sắc, loài có tưởng
không tưởng, loài chẳng phải có tưởng chẳng phải
không tưởng, đều làm cho tất cả đều được thân người đều có sức
trí huệ, mỗi mỗi
chúng sanh ấy
trong khoảng khảy ngón tay có thể khởi
hằng hà sa lời hỏi khác nhau. Này
Tỳ Kheo ! Cứ như vậy
lần lượt đến
vô dư thế giới mười phương, tất cả
chúng sanh hoặc một kiếp hoặc hơn một kiếp
phát khởi lời hỏi khác nhau. Lại có một người, có khả năng trong
thời gian khảy ngón tay
phát khởi ngần ấy lời hỏi của tất cả
mọi người trước. Một người như vậy
lần lượt lại hết tất cả
vô dư chúng sanh hoặc một kiếp hoặc dưới một kiếp
phát khởi các lời hỏi sai khác.
Này
Tỳ Kheo ! Ý ông thế nào, những lời hỏi trên ấy có nhiều chăng ?
-Bạch
Pháp Sư ! Rất nhiều, chẳng phải
thí dụ mà có thể
thí dụ được.
-Này
Tỳ Kheo ! Nay ta nói rõ với ông, chớ có
nghi hối. Như tất cả
vô dư chúng sanh ấy
phát khởi lời hỏi sai khác hoặc trong một kiếp hoặc dưới một kiếp, ta theo Phật
nghe lời hỏi đáp trong một
pháp môn còn nhiều hơn. Như vậy hai môn ba môn đến muôn ngàn trăm ức môn. Này
Tỳ Kheo ! Ta sẽ lược nói tất cả bao nhiêu toán số
danh tự vô lượng vô tận chẳng thể nghĩ bàn còn hơn các số này, ta đều
tụng trì cả. Này
Tỳ Kheo ! Các lời đáp ấy đều ở trong một
pháp môn, ta đều biết rõ. Đó là
đức Phật Công Đức Quang Minh Vương nói những câu đạo, câu môn, câu ấn, câu
bổn sự, câu
kim cương, câu trọng, câu bất khả động, câu khó thấu đáo.
Này
Tỳ Kheo ! Trong một môn nhiếp tất cả pháp, đó là môn
vô tác. Môn này là gốc của tất cả pháp tất cả câu, tất cả đều vào môn này. Tất cả
tu đa la ưu đà na đều vào môn câu,
phân biệt một chữ hay vào nhiều chữ. Này
Tỳ Kheo ! Như vậy, hay vào bảy vạn tám ngàn môn
đà la ni, trong ấy có chín vạn hai ngàn các căn
sai biệt. Trong môn
chúng sanh hành ấy có tám vạn ức
hình sắc nơi các loài sai khác. Các
hình sắc ấy, ta biết tên nó. Trong mỗi mỗi sắc ta biết trăm tên hai trăm tên ba trăm tên nhẫn đến biết ngàn tên đều ở tại
Diêm Phù Đề , và lại khắp đến
mười phương Phật quốc, trong ấy có những duyên những
danh tự ta đều biết được cả.
Tóm lại, bao nhiêu
trí lực của Phật ở trong các pháp có những
sai biệt hỏi đáp khác nhau ta đều biết được cả, đó là sức
oai thần của Phật
Công Đức Quang Minh Vương gia bị cho ta vậy.
Bấy giờ
Tỳ Kheo Ma Đà thưa
Pháp Sư Na La Diên rằng : "Ngưỡng mong
Chánh Sĩ trở lại thành ấp
tụ lạc để
chuyển pháp luân của Phật
Công Đức Quang Minh Vương, tôi sẽ
hộ vệ để được
lãnh thọ giáo pháp.
Pháp Sư Na La Diên bảo : Thôi chớ có thỉnh ta. Đời nay
Tỳ Kheo phần nhiều
giải đãi, không có ai quyết muốn chứa họp pháp lành.
Tỳ Kheo Ma Đà thưa từ này tôi ở nơi pháp lành quyết mong muốn chẳng dám
giải đãi, mong
Pháp Sư trở vào
tụ lạc thuyết pháp, tôi sẽ theo
hộ vệ thưa hỏi để được nghe kinh chưa từng nghe.
Này
Phú Lâu Na ! Ma Đà
Tỳ Kheo thuở ấy được phần đông
đại chúng cúng dường cung kính. Thời nhơn gọi ông là người
trì giới đa văn tối thượng công đức vô lượng.
Bấy giờ
Tỳ Kheo Ma Đà vào thành ấp
tụ lạc khen ngợi
Pháp Sư Na La Diên để khiến
chúng sanh vào
chánh pháp, và cũng khiến
Phật pháp được
lưu bố khắp
mọi nơi. Ma Đà dắt dẫn nhiều người
cúng dường cung kính hộ vệ Pháp Sư Na La Diên để được
nghe pháp. Sau đó,
Pháp Sư Na La Diên được Ma Đà
thủ hộ rồi vào thành ấp
tụ lạc nói rộng đạo
Bồ đề của Phật Nhứt Thiết
Công Đức Quang Minh Vương đã
tu tập trong
a tăng kỳ kiếp khiến
lưu bố khắp nơi.
Tỳ Kheo Ma Đà suốt trong một trăm năm thường theo
Pháp Sư Na La Diên thưa hỏi
chánh pháp thường là mới lạ
chưa bao giờ nói lập lại. Nhờ
Tỳ Kheo Ma Đà
hộ trợ,
Pháp Sư Na La Diên khiến
vô lượng chúng sanh an trụ trong
chánh pháp,
vô lượng chúng sanh an trụ Phật
Bồ đề.
Này
Phú Lâu Na !
Pháp Sư Na La Diên khéo
giữ gìn chánh pháp khéo
thuyết pháp thuở
quá khứ ấy chính là
Di Lặc Bồ Tát hiện nay vậy. Còn
Tỳ Kheo Ma Đà
hộ vệ Pháp Sư tá trợ thưa hỏi, do
năng lực phước đức ấy sau khi
mạng chung liền sanh nước Phật Thượng Chúng
tại thế giới thứ mười ở Hạ phương. Ở trước Phật Thượng Chúng ấy, ông hỏi kinh Đoạn
Nhứt Thiết Chúng Sanh Nghi. Phật ấy nhiều
lời khen lành thay tốt thay rồi vì ông ấy mà nói kinh Đoạn
Nhứt Thiết Chúng Sanh Nghi, lúc
thuyết kinh ấy khiến
vô lượng chúng sanh sơ phát tâm Bồ đề liền nhập vào
chánh định tụ. Sau đó ông ấy lại gặp Phật
Tu Di Sơn thưa hỏi kinh Nhiếp Xuất Nhứt Thiết
Pháp Môn khiến
vô lượng chúng sanh chánh định tụ đều được
Vô thượng Bồ đề. Sau đó ông ấy lại gặp
Phật Sơn Vương thỉnh hỏi kinh
Chư Pháp Môn khiến
vô lượng chúng sanh quyết định nơi
Vô thượng Bồ đề. Sau đó ông ấy lại gặp Phật
Phạm Âm Thanh thỉnh hỏi kinh Nhiếp Nhứt Thiết Pháp khiến
vô lượng chúng sanh quyết định Vô thượng Bồ đề.
Lần lượt như vậy,
Tỳ Kheo Ma Đà gặp chư Phật thỉnh hỏi
kinh pháp làm cho
vô lượng vô số chúng sanh an trụ
Vô thượng Bồ đề, nếu ta có dùng một kiếp hay hơn một kiếp để thuật nói
danh hiệu chư Phật ấy và những
chúng sanh được an trụ
Vô thượng Bồ đề cũng chẳng thể hết được.
Này
Phú Lâu Na ! Vì thế nên biết rằng
đại Bồ Tát nghe
kinh pháp chưa từng nghe mà
suy gẫm nghĩa lý thì được
công đức lợi ích lớn như vậy.
Này
Phú Lâu Na !
Tỳ Kheo Ma Ha Nựu Ma Đà theo
Pháp Sư Na La Diên nghe
kinh pháp chưa từng nghe
tùy thuận nghĩa thú ấy nay chính là Kiều Việt Đâu
Bồ Tát vậy.
Thuở ấy Tỳ Kheo Ma Ha Nựu Ma Đà
thủ hộ chánh pháp nghe kinh chưa từng nghe
tùy thuận nghĩa thú chẳng chấp
ngôn từ, do đó mà gặp
vô lượng Phật được nghe
vô lượng kinh
thâm diệu.
Do nơi thiện căn thuở xưa ấy nên nay ở trước ta, Phật
Thích Ca Mâu Ni, cũng thỉnh hỏi kinh Nhiếp Nhứt Thiết PháP
Đại Hải Pháp Môn. Lúc ta
thuyết kinh ấy có
vô lượng chúng sanh được
lợi ích lớn".
Đức Thế Tôn muốn utyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
"Bồ Tát nghe chưa nghe
Phải suy
nghĩa lý kinh
Chẳng nên vội nói rằng
Từ truước tôi chưa nghe
Nghe pháp chưa từng nghe
Chánh niệm suy
nghĩa lýDo đó
trí huệ tăng
Như biển nhận các dòng
Đa văn càng
tăng thượngTrí huệ tăng cũng vậy
Được nghe các
Phật sựRộng
lợi ích chúng sanhHọp
đa văn như biển
Trí huệ không
cùng tậnGiỏi biết được chương cú
Hạng nhứt trong
sai biệtThế nên phải nên nghe
Pháp chưa từng được nghe
Cầu pháp chưa từng nghe
Được
quả báo vô thượng.
Lại này
Phú Lâu Na ! Hai là
Bồ Tát chơn thiệt
tinh tấn,
Bồ Tát thành tựu pháp này thì chẳng
thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Đại Bồ Tát ở nơi sự cầu
đa văn sanh lòng rất mong muốn, ở nơi sự
rảnh rang vắng vẻ sanh lòng rất
ưa thích,
nhứt tâm siêng cầu
Vô thượng Bồ đề, cầu rồi vì dứt
sân khuể mà
tu tập từ quán, vì dứt
tham dục mà
tu tập bất tịnh quán, vì dứt
ngu si mà
tu tập nhơn duyên quán.
Này
Phú Lâu Na ! Những gì là
Bồ Tát tinh tấn,
Bồ Tát tu tập tinh tấn thế nào ?
Này
Phú Lâu Na !
Bồ Tát hoặc trong một kiếp hoặc dưới một kiếp, hoặc đi hoặc ngồi thường phát
tinh tấn. Đây chẳng gọi là chơn thiệt
tinh tấn.
Có
Bồ Tát hoặc trong một kiếp hoặc dưới một kiếp
tu hành tịnh giới khổ hạnh khó làm, đầy đủ
đầu đà, tùy
sở duyên sự sanh lòng nguyện cầu sâu mà rời lìa
thiệt tướng các pháp, đây chẳng gọi là chơn thiệt
tinh tấn.
-Bạch
Đức Thế Tôn ! Thế nào là
Bồ Tát chơn thiệt
tinh tấn được chư Phật khen, người trí
thế tục chẳng chê ghét?
-Này
Phú Lâu Na ! Ở nơi kinh chưa từng nghe đúng
pháp không sâu
diệu không có chút tướng dạng hiệp
đệ nhứt nghĩa,
Bồ Tát chẳng trái chẳng nghịch biết rõ nghĩa ấy siêng phát
tinh tấn lòng chẳng lui mất nghe nhận
đọc tụng giải thuyết cho người. Đây gọi là
Bồ Tát chơn thiệt
tinh tấn. Vì nghe kinh
thâm diệu thông đạt nghĩa lý chẳng trái chẳng nghịch,
tinh tấn như vậy được chư Phật khen ngợi người trí
thế gian chẳng
chê trách được.
Thế nên
Bồ Tát phát
trang nghiêm như vầy : Chỗ mà
chúng sanh thế gian chẳng thể thấu đáo được thì tôi ở trong ấy sẽ thấu đáo hết, chỗ mà
chúng sanh thế gian có thể bị chìm mất tôi ở trong ấy chẳng nên để bị chìm, chỗ mà
chúng sanh thế gian phải kinh sợ tôi ở trong ấy chẳng nên kinh sợ. Tại saỏ Vì tôi phát
trang nghiêm chẳng hiệp với
thế gian, vì rời lìa
thế pháp mà tôi phát
trang nghiêm chớ chẳng phải đi trong
thế pháp mà tôi phát
trang nghiêm, vì chẳng đi trong
thế pháp mà tôi phát
trang nghiêm chớ chẳng phải vì
tùy theo thế pháp mà tôi phát
trang nghiêm, vì
chuyển thế pháp mà tôi phát
trang nghiêm.
Này
Phú Lâu Na ! Đây gọi là
Bồ Tát chơn thiệt
tinh tấn.
Bồ Tát thành tựu pháp thứ hai này thì chẳng
thối chuyển Vô thượng Bồ đề vậy".
Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
"Bồ Tát cầu
thâm phápThường siêng phát
tinh tấnSuy gẫm nghĩa lý ấy
Chẳng theo nơi
âm thanhBồ Tát chẳng theo lời
Biết nói điều
hư dốiVì biết các
pháp khôngChỉ cầu nơi lời lành
Nếu trong ngàn vạn ức
Vô lượng các kiếp số
Ngày đêm luôn đi ngồi
Chuyên tâm tu khổ hạnhMà chẳng tin
thâm kinhThì chẳng phải
tinh tấnThấu đáo
nghĩa lý sâu
Chẳng gọi là
giải đãiTinh tấn được như vậy
Là chỗ khen của Phật
Thế gian chẳng thấu đáo
Bồ Tát thấu đáo được
Thế gian bị sợ mất
Bồ Tát chẳng sợ mất
Chuyên tâm thường mong cầu
Pháp không tịch chơn diệu
Trong
pháp không vô uýCũng không có lui mất
Vì
trụ tướng ngã phápNên sanh lòng sợ mất
Tán hoại tất cả pháp
Đây gọi đạo
Bồ đềChuyên tâm phát
tinh tấnMau thành biển
đa văn.
Lại này
Phú Lâu Na ! Ba là
Bồ Tát khéo biết
ngũ ấm, khéo biết
mười hai nhập, khéo biết
thập bát giới, khéo biết mười hai
nhơn duyên, vì khéo biết các pháp nên
thành tựu trí
vô y chỉ, vì được trí
vô y chỉ nên ở nơi tất cả pháp chẳng niệm chẳng
phân biệt, vì chẳng niệm chẳng
phân biệt nên
thuyết pháp cho
chúng sanh phá tất cả
kiến chấp khiến trừ
thân kiến.
Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì chẳng
thối chuyển Vô thượng Bồ đề".
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
"Bồ Tát biết
ngũ ấmMười hai nhập đều không
Biết rõ
thập bát giớiThông đạt mười hai duyên
Chẳng
tùy theo năm ấmBiết thân này
hư dốiNơi các
nội ngoại nhập
Đều biết nó
tánh khôngBiết các
pháp như vậy
Biết rồi nói với người
Vì thế nên
Bồ TátTrí huệ càng cao lớn.
Lại này
Phú Lâu Na ! Bốn là
đại Bồ Tát như sở
kiết giới như sở
thuyết giới đều khéo theo học không có khuyết phạm. Những gì là
Bồ Tát học giới ?
Học tất cả pháp là
Bồ Tát học giới. Tại sao, vì
Bồ Tát học tất cả pháp nên được trí tất cả pháp, do
pháp trí ấy mà được
vô phân biệt huệ, do huệ
vô phân biệt ấy mà biết được tất cả sự. Biết tất cả sự thế nào ?
Bồ Tát biết hết tất cả nội sự, tất cả ngoại sự tất cả
nội ngoại sự.
Cớ chi gọi là nội tên nội ? Phàm bao nhiêu chỗ thọ có
thể tham trước thì gọi là nội thân, từ mười hai
nhơn duyên sanh, trong ấy chỉ có
thế tục giả danh, đó là mắt này, tai này, mũi này, lưỡi này, thân này, ý này. Đây gọi là nội. Vì pháp này được
phàm phu tham trước nên gọi là nội, họ bảo rằng tôi sẽ được mắt như vậy, được tai mũi lưỡi thân và ý như vậy chẳng làm tai mũi lưỡi thân và ý như vậy. Trong ấy chỉ do
nghiệp duyên đã khởi mà có
quả báo sanh nên gọi là nội, trong ấy
sai biệt mà
phàm phu tham trước gọi là mắt là tai mũi lưỡi thân ý đều gọi là nội cả.
Này
Phú Lâu Na ! Nội gọi là hai. Sự ấy
hư dối. Những người
phàm phu tham trước nhận lấy nó mà sanh tranh cãi. Nơi ấy,
đức Như Lai từ trước
đến nay biết nó đúng thiệt nên chẳng
tham trước. Thế nào biết rằng
đức Như Lai biết nó đúng thiệt mà chẳng
tham trước ?
Đức Như Lai ở trong pháp ấy chẳng làm về nương. Ai chẳng làm về nương ? Đó là ái kiết. Mắt chẳng làm về nương, rời mắt chẳng làm về nương. Tai mũi lưỡi thân ý chẳng làm về nương, rời tai mũi lưỡi thân ý chẳng làm về nương. Tại sao, vì nơi các pháp,
đức Như Lai chẳng được nội chẳng được ngoại, thế nên trong pháp ấy
đức Như Lai chẳng làm về nương.
Đức Như Lai là đấng nói lời chơn thiệt, bảo các
Tỳ Kheo rằng mắt chẳng phải là các ông cũng chẳng phải người khác. Tại sao, vì bổn thể nó
bất khả đắc nên pháp nào là mắt, mắt ấy thuộc ai, pháp nào là tai mùi lưỡi thân ý, thuộc về ai. Tại sao, vì bổn thể nó
bất khả đắc vậy.
Này
Phú Lâu Na ! Mắt ấy, nay nên suy kiểm, tai mũi lưỡi thân và ý ấy, nay nên suy kiểm. Nơi
pháp không chỗ tham thọ được. Tại sao, nếu có pháp nhận thọ thì
sanh khổ não, vì
sanh khổ não nên không có vui. Vì thế nên nơi pháp mà có nhận thọ thì đều thọ
khổ não, nếu thọ
khổ não thì chẳng rời lìa khổ. Đây gọi là suy kiểm mắt suy kiểm tai mũi lưỡi thân và ý, không có nhập xứ, tại sao, vì nếu có chỗ nhập thì có chỗ xuất. Thế nên
đức Như Lai nói mắt là
không vô ngã vô ngã sở bổn tánh nó
tự như vậy, tai mũi lưỡi thân ý
không vô ngã vô ngã sở bổn tánh nó
tự như vậy. Tánh ấy không có tánh, không có tánh như
vậy thì không tác không hoại.
Pháp tánh như vậy, hoặc chư Phật
xuất thế hay chẳng
xuất thế, tánh ấy luôn
thường trụ. Ở nơi các pháp sanh,
đức Như Lai biết là chẳng sanh, nên
Như Lai là đấng nói lời chơn thiệt mà nói rằng hoặc có Phật hay không có
Phật tánh ấy
thường trụ.
Này
Phú Lâu Na ! Thế nào gọi là
vô sanh, thế nào gọi là trí
vô sanh ? Này
Phú Lâu Na ! Các
pháp bình đẳng gọi là
vô sanh, đạo gọi là trí
vô sanh. Khổ hêt gọi là
vô sanh, đạo gọi là trí
vô sanh. Đây là
Như Lai nói có hai đế :
thế đế và
đệ nhứt nghĩa đế.
Này
Phú Lâu Na !
Như Lai nói tướng khổ tức là nói
vô tướng. Thế nào gọi là tướng khổ, đó là tướng
vô vi,
vô vi tức là
vô tướng, người trí biết
vô vi là
vô tướng.
Này
Phú Lâu Na ! Người trí thế nào biết
vô vi là
vô tướng ? Đó là biết
vô vi pháp không, biết là
tịch diệt, biết là chỗ về, biết là
lợi ích đệ nhứt, biết là không có
nhiệt não. Người trí biết
vô vi là như vậy, trong trí biết ấy cũng chẳng sanh tướng.
Này
Phú Lâu Na ! Nếu người có tác thì có hoại,
nếu không tác thì không hoại.
Tướng không hoại là không,
tướng không hoại là
vô tướng,
tướng không hoại là không nguyện.
Này
Phú Lâu Na !
Không pháp không có người tác không có người hoại.
Vô tướng và
vô nguyện cũng không có người tác người hoại.
Đây gọi là tướng
bất hoại là
Vô thượng Bồ đề của chư Phật. Những gì là
Vô thượng Bồ đề của chư Phật, đó là chư Phật sở bất đắc vậy.
-Bạch
Thế Tôn ! Những pháp gì là chư Phật sở bất đắc ?
-Này
Phú Lâu Na ! Tất cả pháp là chư Phật sở bất đắc.
-Bạch
Thế Tôn !
Vì lẽ ấy mà tất cả pháp là
Vô thượng Bồ đề của chư Phật chăng ?
-Này
Phú Lâu Na ! Đúng như vậy, tất cả pháp là
Vô thượng Bồ đề của chư Phật đó chỉ là
thế tục giả danh ngôn để nói thôi. Người chẳng
tinh tấn khó hiểu khó biết. Tại sao, vì người chẳng
tinh tấn chẳng
tu tập được các
pháp bình đẳng. Nếu bất
bình đẳng thì trái chống với chư Phật.
Này
Phú Lâu Na ! Người nào chẳng
tu tập bình đẳng được ?
Này
Phú Lâu Na ! Tất cả
thế gian hành bất
bình đẳng. Trong
Bồ đề của chư Phật không có đẳng cũng không có bất đẳng. Ta do đạo ấy mà được
Vô thượng Bồ đề. Do
nhơn duyên ấy mà trong kinh Phật nói tất cả pháp ở trong chánh vị đều nhập
tất định, đây gọi là môn
tất định nhập
Bồ đề. Vì thế nên, này
Phú Lâu Na, tất cả pháp đều là
Bồ đề vậy".
Bấy giờ
Huệ Mạng Phú Lâu Na bạch rằng: "Hi
hữu Thế Tôn!
Vô thượng Bồ đề của chư Phật cũng định cũng
bất định, cũng vào
văn tự cũng chẳng vào
văn tự, cùng vào
ngữ ngôn cũng chẳng vào
ngữ ngôn. Tại sao, bạch
Thế Tôn, nay tôi theo Phật nghe nói kinh này, ở nơi các pháp tôi được
quyết định quang minh. Tôi ở trong các pháp được
quyết định quang minh như vậy, tôi ở trong một sự biết tất cả sự, ở trong tất cả sự biết một sự".
Đức Phật khen Ngài
Phú Lâu Na rằng : "Lành thay, tốt thay, này
Phú Lâu Na, ông có thể mau nhập được tất cả
pháp lợi của chư Phật như vậy, phải biết thuở đời
quá khứ ông đã từng
cúng dường chư Phật gieo trồng các căn lành, hầu gần thỉnh hỏi. Này
Phú Lâu Na !
Ta nhớ thuở
quá khứ ở trong phần
hư không của cõi đất này, ông đã từng ở chỗ sáu vạn tám ngàn
đức Phật được nghe nói kinh này, do vì
thiện căn công đức ấy nên nay ông ở nơi các pháp được khắp
quyết định quang minh.
-Bạch
Thế Tôn ! Nếu tôi đã ở nơi chư Phật ấy được nghe kinh này, tại sao tôi lại chẳng dùng một niệm phát
Vô thượng Bồ đề ?
Này
Phú Lâu Na ! Ta nhớ thuở
quá khứ ông đã có một kiếp
phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chẳng rời lìa các tâm khác nên lại thối thất. Do vì
phước đức ấy, nay ta nói ông ở trong các
Pháp Sư là tối
đệ nhứt.
Bạch
Thế Tôn ! Tôi khi trước làm
tội chướng gì nên trong một kiếp
phát tâm Bồ đề lại thối thất ?
Này Phú Lâu Na! Do vì theo
y chỉ ác tri thức, lại vì chẳng có thể
lưu bố rộng
chánh pháp nên ông thối thất tâm
Bồ đề.
Này
Phú Lâu Na ! Có bốn pháp thối thất tâm
Vô thượng Bồ đề mà thành
Thanh Văn thừa. Những gì là bốn ?
Một là vì
Bồ Tát thân cận
ác tri thức nên có thể ở nơi
thiện căn tăng thêm
ác niệm viễn ly mà nói rằng : Cần gì
phát tâm Bồ đề như vậy,
sanh tử dài lâu
vô lượng khổ não qua lại trong năm loài được không nạn rất khó, gặp Phật càng khó mà sanh lòng
tịnh tín lại khó hơn, dầu được gặp Phật nhưng
xuất gia lại khó, đời nay ngươi được gặp không nạn chớ để mất, nơi chư Phật người chưa được
thọ ký thiện căn chưa nhứt định, nếu chẳng được
Niết bàn thì phải
luân chuyển năm loài. Người ấy
nghe lời của
ác tri thức nói trên đây rồi sanh lòng thối thất đạo
Bồ đề giải đài chẳng an vui. Đây là pháp
ban đầu mà do đó
Bồ Tát thối thất
Bồ đề thành
Thanh Văn thừa.
Hai là
Bồ Tát chẳng nghe các kinh đúng với
Bồ Tát, đó là các kinh
Bồ Tát Tạng, kinh
Phát Bồ Đề Tâm, ,kinh Nhiếp
Bồ Tát Sự, kinh đúng
sáu Ba la mật, do vì chẳng nghe nên chẳng hành
Bồ Tát hạnh chẳng học
Bồ Tát đạo. Người này chẳng biết
Bồ Tát nên thân cận pháp gì nên xa rời pháp gì, pháp nào nên
thọ pháp nào chẳng nên thọ, pháp gì là
Bồ Tát pháp, pháp gì là
Thanh Văn pháp. Vì chẳng biết
rõ ràng nên với pháp nên thân cận mà chẳng thân cận
trở lại thân cận pháp chẳng nên thân cận, do đó nên thối thất đạo
Vô thượng Bồ đề tâm
giải đãi nhàm yếu bỏ phế bổn nguyện. Có pháp thứ hai này thì
Bồ Tát thối thất
Bồ đề thành
Thanh Văn thừa.
Ba là
Bồ Tát chấp được các
tham trước ngô ngã hành
tà kiến sa vào
biên kiến chìm trong
ác kiến khó
cứu khỏi. Người này được nghe kinh sâu diệu đúng
đệ nhứt nghĩa không có mảy tướng dạng thì trái nghịch chẳng tin chẳng
thông đạt được gây tội
phá pháp, do đó mà sanh tại chỗ nạn chẳng gặp được Phật chẳng được
nghe pháp, vì chẳng
nghe pháp nên chẳng gặp
giáo pháp chư Phật nên chẳng được gặp
thiện tri thức, vì chẳng gặp
thiện tri thức nên mất chỗ vô nạn mà sanh tại chỗ nạn, vì sanh chỗ nạn nên rời lìa
thiện tri thức gặp
ác tri thức, vì cùng tùng sự với
ác tri thức nên quên mất bổn niệm, vì mất bổn niệm nên bỏ tâm
Bồ Tát bỏ
Bồ Tát thừa mà
thối chuyển mất tâm
Bồ đề chỉ làm pháp
sanh tử chẳng
tu tập được
hành pháp Đại thừa. Có pháp thứ ba này thì
Bồ Tát thối thất
Bồ đề thành
Thanh Văn thừa.
Bốn là
Bồ Tát được nghe các kinh
thâm diệu mà chẳng
thâm tâm giáo hóa người khác,
tâm niệm thối thất chỉ thích tu
một mình lòng
tham tiếc chẳng muốn tuyên nói, chẳng có thể dùng
Chánh pháp nhiếp nhiều người, do căn
bất thiện này mà
mất trí niệm huệ, đã
mất trí huệ niệm chẳng cùng người
đọc tụng Đại thừa kinh chẳng đem pháp
Đại thừa cùng người
cộng đồng, người này chuyển thân đời khác, mất tâm
Bồ Tát quên niệm
Bồ Tát. Có pháp thứ tư này thì
Bồ Tát thối thất
Bồ đề thành
Thanh Văn thừa".
Đức Thế Tôn muốn tuyên rõ lại sự ấy mà nói kệ rằng :
"Thân cận
ác tri thứcGiải đãi nơi
Bồ đềDo vì
duyên cớ ấy
Mất tâm thượng
Bồ đềSâu sanh ác
ngã kiếnSa vào biên
tà kiếnMà gây tội
phá phápSanh tại nơi nạn xứ
Sanh nơi nạn xứ rồi
Thì dứt tâm
Bồ đềQuên mất bổn
niệm trướcDo đó mất
Bồ đềNgười này chẳng
nghe đượcPháp sanh
Bồ đề tâmTâm ấy nếu
tăng trưởngThì thành được
Bồ đềĐược pháp
diệu quảng đại
Tham lẫn chẳng muốn nói
Do vì
duyên cớ ấy
Mà thối thất
Bồ đềBồ Tát cầu Đại thừa
Phải biết bốn pháp ấy
Nếu biết bốn pháp ấy
Bồ đề sẽ được sanh
Vì thế nên xa rời
Bốn pháp ác như vậy
Siêng
tu hành pháp khôngĐược gần
thiện tri thứcĐược kinh
thâm diệu rồi
Chẳng nên tham
bỏn xẻnLòng siêng nói dạy người
Do đây sanh
Bồ đề.
Lại này Phú Lâu Na!
Bồ Tát thành tựu bốn pháp tùy
hồi hướng Bồ đề tâm chẳng mất, tùy
hồi hướng các
thiện căn cũng chẳng mất. Những gì là bốn ?
Bồ Tát trì giới thanh tịnh,
ức niệm thành tựu có niệm
an huệ, tâm siêng
tinh tấn mà chẳng lười bỏ,
thành tựu đa văn sanh huệ.
Bồ Tát có bốn pháp ấy thì tùy
hồi hướng tâm
Bồ đề chẳng mất, tùy
hồi hướng các
thiện căn cũng chẳng mất".
Đức Thế Tôn muốn tuyên rõ lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
"Bồ Tát đủ
trì giớiChỗ ghi nhớ
sâu xaTâm siêng
thường tinh tấn
Đa văn trang nghiêm huệ
Bồ Tát thường thân cận
Bốn
pháp như trên ấy
Tùy ý muốn khởi sự
Đều có thể
thành tựuVì thế phải thường trì
Tịnh giới siêng
tinh tấnChẳng dứt pháp
ức niệmThường siêng cầu
đa vănTrì giới tịnh chỗ sanh
Ức niệm tịnh
đại tríTinh tấn tịnh Phật pháp
Đa văn sanh
đại huệVì thế các
Bồ TátPhải học bốn pháp trên
Học bốn pháp trên rồi
Sẽ chuyển vô thương luân.
Lại này
Phú Lâu Na !
Bồ Tát có bốn pháp thì có thể
lợi ích Bồ đề :
Trì giới là
pháp lợi ích
Bồ đề,
nhẫn nhục là
pháp lợi ích
Bồ đề,
tinh tấn là
pháp lợi ích
Bồ đề,
đa văn là
pháp lợi ích Bồ đề".
Đức Thế Tôn muốn tuyên rõ nghĩa mà nói kệ rằng :
"Bồ Tát tịnh
trì giớiLợi ích cho
Bồ đềNhẫn nhục và
tinh tấnĐa văn cũng như vậy
Người
trì giới thanh tịnhSở nguyện đều được thành
Giới tịnh nhiều
lợi íchBồ đề được chẳng khó
Bồ Tát tu nhẫn nhục
Thân tướng trí huệ thành
Nên
tu hành nhẫn nhụcCầu Phật
tướng trí huệ
Tinh tấn cũng có thể
Lợi ích nhiều
Bồ đềNgười luôn tu
tinh tấnĐược
Bồ đề chẳng khó
Đa văn cũng
lợi íchNghe rồi được gần pháp
Xa rời các
phi phápĐược
Bồ đề chẳng khó
Bốn pháp là
chủng tửTừ đó sanh
Bồ đềThế nên chư
Bồ TátPhải gần bốn pháp ấy.
Lại này
Phú Lâu Na !
Đại Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được
thân sắc đầy đủ, tài vật đầy đủ,
quyến thuộc đầy đủ,
mạng chung thường chẳng sanh xứ ác nạn, thường gặp chư Phật, được chư Phật khen. Những gì là bốn :
Một là
Bồ Tát hành từ chẳng sân chẳng não tất cả
chúng sanh. Thế nào là
Bồ Tát hành từ chẳng sân chẳng não tất cả
chúng sanh ? Này
Phú Lâu Na !
Bồ Tát hành từ đối với
chúng sanh phát khởi ý tưởng tôi
thương mến cứu độ họ. Thấy
chúng sanh thân
khổ tâm khổ thì nghĩ rằng tôi phải siêng tu
tinh tấn độ các
chúng sanh ấy khỏi khổ
sanh tử ban cho họ an vui.
Bồ Tát phát tâm ấy rồi siêng tu
tinh tấn, tu
sáu Ba la mật :
Bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định và trí huệ.
Này
Phú Lâu Na !
Bồ Tát nhơn
Bát Nhã Ba la mật mà tròn đủ
sáu Ba la mật. Những gì là
Bồ Tát Bát Nhã Ba la mật, tại sao
Bồ Tát do
Bát Nhã Ba la mật mà siêng phát
tinh tấn ?
Bồ Tát suy gẫm : Pháp gì là ngã, pháp gì là
ngã sở. Lúc suy như vậy,
Bồ Tát chẳng thấy pháp là ngã, chẳng thấy pháp là
ngã sở. Ở trong pháp ấy không
ngã pháp không
ngã sở pháp. Vì rời lìa ngã,
ngã sở nên
Bồ Tát biết thân không, vì thân không nên
chúng sanh không. Tại sao, vì trong các
pháp ngã và
ngã sở còn không huống là
chúng sanh.
Bồ Tát vì lìa rời
ngã ngã sở như vậy nên biết
chúng sanh không. Vì
chúng sanh không nên biết
sắc ấm không. Vì
sắc ấm không nên
thọ tưởng hành thức bốn ấm cũng đều không. Vì biết các ấm không nên biết
đại chủng không, đó là địa
thủy hỏa phong
hư không và thức
đại chủng đều không.
Đại chủng ấy không có
tác giả không có ai sai tạo tác.
Nếu không tác giả thì pháp ấy là không. Vì biết các
đại chủng tướng các
đại chủng không nên
Bồ Tát biết các
nhập không, vì các
nhập không nên tướng các
nhập không. Các
nhập không tác giả không ai sai tạo tác,
nếu không tác giả thì pháp ấy là không.
Này
Phú Lâu Na !
Bồ Tát quán tất cả
pháp không như vậy. Lúc quán tất cả
pháp không chẳng thấy bổn thể các pháp chỗ có thể sanh được sân.
Đây gọi là
Bồ Tát đại từ, là từ
biết thân không, là từ
chúng sanh không, là từ ấm nhập
đại chủng không.
Bồ Tát có thể hành đức từ như
vậy thì gọi là hành tất cả
pháp không từ. Đây là
Bồ Tát hành nơi
đại từ.
Bồ Tát nầy rời lìa tâm
ngã ngã sở rất sanh lòng cầu muốn
Vô thượng Bồ đề, sanh lòng
đại từ đối với
chúng sanh. Nếu có
chúng sanh chẳng biết được
thiệt tướng như vậy nên
Bồ Tát phát
đại trang nghiêm. Tôi cứu họ nên gọi là từ, tôi làm nên gọi là bi.
Bồ Tát thành tựu đại từ như
vậy thì có thể ở nơi các
chúng sanh có thể làm
cứu độ làm chỗ về làm nhà làm chỗ ở có thể làm
cứu cánh. Thế nên
Bồ Tát phải
tu hành đại từ như vậy chẳng
tham trước nơi
chúng sanh cũng chẳng
sân hận. Đây gọi là
Bồ Tát chúng sanh không từ chẳng có
sân hận.
Này
Phú Lâu Na ! Nếu
Bồ Tát nhơn nơi đức từ nhơn nơi
lợi ích nhơn nơi
pháp không có thể vào tất cả pháp
bất sanh bất diệt thì gọi là
Bồ Tát thường hành đại từ.
Bồ Tát thông đạt các
pháp như vậy thì các ma,
ma dân và ma sở sử đều chẳng
phá hoại được.
Bồ Tát thành tựu pháp
ban đầu này thì có thể dứt được
triền phược trong tất cả
công đức, do đây được
Bình đẳng Ba la mật".
Đức Thế Tôn muốn
sáng tỏ sự ấy mà nói kệ rằng:
"Bồ Tát thường tu từ
Mà
quán không như vậy
Biết ấm nhập giới ly
Trong đây không có ngã
Hai
pháp ngã ngã sởCũng
quyết định chẳng có
Vì chẳng được các pháp
Mà
tu hành từ tâmChẳng
y chỉ các pháp
Cũng chẳng phải chẳng y
Đây gọi các
Phật đạoCác pháp chẳng
y chỉHay được
vô thượng nhẫnNhẫn
thiệt tướng các pháp
Các
pháp không sanh diệtHay
thông đạt lý ấy
Những người có trí lớn
Thân cận nơi pháp ấy
Thường được
thân sắc đẹp
Cũng được
lạc thuyết biện
Thường được gặp chư Phật
Biết nghĩa lợi các pháp
Vì thế
Bồ Tát này
Được đạo thượng
vô vi.
Lại này
Phú Lâu Na ! Hai là
đại Bồ Tát chuyên cần cúng dường cung kính chùa tháp chư Phật, dùng hương quí hoa đẹp thơm các
chuỗi ngọc phan lọng
kỹ nhạc các loại đồ cúng để
cúng dường.
Bồ Tát thành tựu pháp thứ hai này thì có thể đầy đủ tất cả công đức".
Đức Thế Tôn muốn
sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng :
"Bồ Tát dùng hoa hương
Và phan lọng thượng diệu
Cúng dường chùa tháp Phật
Để cầu thượng
trí huệDo duyên
công đức này
Báo thân thường đoan chánh
Của nhiều
châu báu đủ
Quyến thuộc đều
thành tựuQuyết định nơi
Bồ đềThường an trụ nơi pháp
Nơi nơi chỗ thọ sanh
Công đức càng cao thêm
Các vua chúa đều kính
Trời Rồng Thần thường mến
Tất cả các
chúng sanhCũng đều chung
cung kínhNếu người
cúng dường PhậtHiện tại hoặc
nhập diệtSanh ra được
cúng dườngThường ở chỗ không nạn.
Lại này
Phú Lâu Na ! Ba là
đại Bồ Tát thường phải
chuyên cần cúng dường chánh pháp. Sao gọi là
chánh pháp ? Thế nào gọi là
cúng dường chánh pháp ?
Đó là
Tứ niệm xứ,
Tứ chánh cần,
Tứ như ý túc,
Tứ thiền,
Ngũ căn,
Ngũ lực,
Thất giác ý,
Bát chánh đạo,
Chỉ quán,
Minh giải thoát, Ba
giải thoát môn,
Tận trí vô sanh trí, đây gọi là
chánh pháp.
Ở trong các pháp ấy đúng như lời mà thật hành
tùy thuận chẳng trái nghịch sanh dục nguyện
tinh tấn đầy đủ
tu tập, đây gọi là
cúng dường chánh pháp.
Lại
chánh pháp là các kinh như vậy.
Cúng dường pháp là tin hiểu suy tư
phân biệt tùy thuận tâm chẳng trái nghịch.
Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì có thể được
thành tựu đầy đủ tất cả công đức".
Đức Thế Tôn muốn
sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:
"Thường siêng
cúng dường pháp
An trụ đúng như lời
Nghe pháp không
thâm diệuTâm thuận không trái nghịch
Do đó thân đoan chánh
Được
lạc thuyết biện tàiNhư pháp được Phật khen
Do đây càng cao thêm.
Lại này
Phú Lâu Na ! Bốn là
đại Bồ Tát chuyên cần cúng dường Thánh chúng đệ tử Như Lai. Dùng
hương hoa chuỗi ngọc phan lọng
y phục thức ăn uống đồ nằm y dược các vật
cần dùng hoặc xây
Tăng phòng, hoặc lập vườn rừng, hoặc dọn chỗ
kinh hành, hoặc sắm ao tắm, hoặc là giếng suối, hoặc người giúp việc, đem các thứ như vậy
cúng dường Thánh chúng.
Bồ Tát thành tựu pháp thứ tư này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức".
Đức Thế Tôn muốn
sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng :
"Đồ
cúng dường vô thượngĐem
cúng dường thánh chúngDo duyên
công đức này
Sanh ra được
giàu cóThân sắc thường đoan chánh
Cũng được
lạc thuyết biện
Đầy đủ các
công đứcTrí huệ càng cao thêm
Tâm
cúng dường chánh trựcKhông có
ngã ngã sởDo
nhơn duyên trí này
Sanh ra được
cúng dườngĐược chư Phật khen ngợi
Thường thân cận bốn pháp
Sanh ra thường
tôn quíCông đức càng cao thêm".
XVII
PHÁP HỘI
PHÚ LÂU NA
Thứ mười bảy
Hán dịch : Dao Tần, Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM CỤ THIỆN CĂN
THỨ TƯ
Đức Phật bảo
Huệ Mạng Phú Lâu Na : "Đại
Bồ Tát phát tâm Đại thừa thường phải
tu tập thân cận bốn pháp thì có thể nhiếp hết tất cả pháp lành cũng có thể đầy đủ cả căn lành. Những gì là bốn pháp ?
Này
Phú Lâu Na !
Thiện nam thiện nữ phát tâm Đại thừa gần gũi
tu tập thật
hành pháp nhẫn nhục. Lúc
tu hành pháp nhẫn nhục như vậy, do vì như
tâm bình đẳng thì được
Bình đẳng Ba la mật, cũng được tất cả
chúng sanh Bình đẳng Ba la mật.
Bồ Tát ấy được
tâm Bình đẳng
Ba la mật, trí
Bình đẳng Ba la mật, hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi hoặc nằm hoặc thức hoặc ngủ, bấy giờ có người mang bình phẩn hoặc bình độc , bình nước sôi, hoặc các thứ rác rưởi, hoặc than lửa tro nóng, hoặc cứt đái đến đổ trút lên đầu lên thân, đối với sự gia hại này,
Bồ Tát chẳng nên
sân hận mà tâm phải
tán loạn, chẳng nên tự nói tôi có tội gì, cũng chẳng dùng
ác tâm nhìn họ, chỉ nên
nhứt tâm cầu pháp tự lợi, ở nên sự đang
tu tập chuyên tâm chẳng bỏ rời. Phải
điều phục tâm mình thế này : Người đó cớ chi mang các thứ ấy đổ trút lên đầu lên thân ta, thân ta chẳng vì các vật ấy mà phải
đau khổ. Phải
quan sát các pháp
nhơn duyên như vầy : Ai mang vật đến , vật ấy đổ cho ai, vật gì đổ cho người nào.
Suy gẫm như thiệt như vậy chẳng thấy có pháp nào là người mang cho, là người
lãnh thọ, cái gì là vật.
Chánh niệm quan sát suy gẫm như vậy vì
nhận thấy đây kia đều
bất khả đắc nên tất cả pháp cũng đều
bất khả đắc đều chẳng thấy có được. Vì
Bồ Tát chẳng được và chẳng thấy tất cả pháp nên chẳng sanh lòng
sân hận.
Nếu lúc
suy xét như trên mà vẫn còn có niệm
sân hận khởi lên thì
Bồ Tát lại phải
chánh niệm suy xét thế này : Do chạm xúc gì khiến thân ta đau, các thứ chạm xúc ấy nó chạm xúc chỗ nào, chạm xúc nơi thân hay chạm xúc nơi tâm. Nếu nó chạm xúc nơi thân, thì thân như cỏ cây ngói đá bóng tượng không hay không biết chẳng phải đây chẳng phải kia. Nếu nó chạm xúc nơi tâm, thì
tâm không hình sắc niệm niệm sanh diệt chẳng tạm dừng chẳng phải đây chẳng phải kia, chỉ do
hư vọng ghi nhớ
phân biệt mà nói là khổ là vui là chẳng khổ vui, nay ta chẳng nên
sanh khởi ghi nhớ
phân biệt hư vọng ấy, nay ta phải quán
bình đẳng thiệt tướng, ta phải
tu tập việc làm của
hiền thánh, chẳng nên theo
việc làm của
phàm phu. Những gì là
việc làm của
hiền thánh, đó là xa rời
giải thoát đối với các pháp, ta vì xa rời mà học chớ chẳng phải vì hòa hiệp mà học. Lòng ghi nhớ
phân biệt hư vọng ấy đều là hòa hiệp. Là ai hòa hiệp, là
tham dục sân hận ngu si hòa hiệp. Sao gọi là
tham dục sân hận ngu si hòa hiệp, do vì thân si,
thân kiến si, vì tham
thân kiến nên lúc thân bị khổ thì giận thù người kia đây gọi là
sân hận hòa hiệp , có người vì
thân kiến si vì tham
thân kiến, vì chẳng
vừa ý mà
sân hận người kia đây gọi là
ngu si hòa hiệp. Nếu người bị
ba độc trói buộc mà hoặc
phát khởi những
tội nghiệp như
vậy thì chư Phật chẳng cứu được huống là người khác, ta phải khéo quán các pháp
nhơn duyên, quán các
pháp không.
Bồ Tát tuỳ thuận quán các pháp
nhơn duyên như vậy chẳng thấy pháp có, ai hại ai chịu dùng vật gì để hại.
Bấy giờ
Bồ Tát nên
suy nghĩ rằng : Tất cả các pháp từ nhiều duyên mà sanh vốn không
tự tánh quyết định bất khả đắc, tại sao ta lại ở trong pháp
hư vọng vô sở đắc mà có được pháp
tác nghiệp để sanh
sân hận phát khởi hành nghiệp. Nay ta phải sanh lòng không
sân hận mà
tu hành pháp
vô tác vô khởi
vô sanh, ta phải
quán pháp không, chẳng chìu theo tâm ý
chấp kiến. Nay ta phải
quán pháp bất tác bất khởi
vô sanh, chẳng nên
y chỉ pháp tác khởi. Ta phải
suy gẫm các pháp đúng như thiệt. Nay ta chẳng nên ở trong
hư vọng vô sở hữu này mà cưỡng khởi tác, gì là cưỡng khởi tác, đó là
sân hận. Tại sao, vì
y chỉ nơi pháp thì có
sân hận, nay ở trong các
pháp thiệt tướng
cứu cánh không, không có
pháp bổn thể để có
y chỉ được.
Bồ Tát suy gẫm các
pháp như vậy thì tâm vắng bặt chẳng khởi
sân hận.
Lại nữa, lúc
Bồ Tát đi đứng nằm ngồi, hoặc lúc thức lúc ngủ, bấy giờ có người đến mang
hương hoa thơm đẹp rải lên thân, hoặc đem những
vòng hoa chuỗi ngọc phủ lên thân, hoặc đem
y phục mịn đẹp trùm lên thân, hoặc đem phan lọng che lên trên, hoặc đem
hương hoa châu báu cõi trời đắp lên thân, hoặc đem dưng các đồ uống
ăn ngon ngọt,
Bồ Tát đối với các sự
cúng dường ấy chẳng nên
ưa thích mà sanh lòng
tham trước, chẳng vì sự việc ấy mà
thân phụ người kia
tùy thuận ý họ qua lại
thăm viếng, chẳng nên
thiên vị mà sanh
ái trước.
Bồ Tát đối với sự việc ấy nên dùng
tâm bình đẳng
thông đạt các
pháp bình đẳng. Phải
suy nghĩ rằng: Đối với các
chúng sanh ta chẳng nên
sân hận, chẳng nên
thương nhớ, tại sao, vì ghét thương hai thứ đều là
phiền não. Nay ở đây ta chẳng nên sanh lòng
thương yêu, ta phải khéo
thông đạt các pháp đúng thiệt. Ở trong các
phiền não, chỗ hòa hiệp của
ái duyên là tối trọng,
phiền não này sâu đến xương tủy, nghĩa là ở trong pháp hay sanh
kiết sử tâm
ái nhiễm trước, đối với sự
ái trước nếu chẳng
vừa ý thì sanh
sân hận.
Mọi người đều tự có
lòng dục nhiễm ái trước thân mình, có ai đến xâm não thì sanh
sân hận. Do đây mà biết
sân hận là quả của
ái nhiễm, còn
tham ái là quả của người si. Nay ta phải xa rời tâm ác
ái nhiễm, đối với các
pháp không hề
tham trước.
Ta chẳng vì
tham dục mà học, chẳng vì
sân hận mà học, chẳng vì
ngu si mà học. Ta phải rộng học các pháp chơn thiệt. Đối với các
pháp tướng thì
quan sát đúng như thiệt, theo đúng như lời mà
tu hành như thiệt. Chỉ nên
y chỉ nghiệp báo, đối với các sự bị hại và
cúng dường đều phải biết đó là duyên lành của nghiệp nhơn
thuở trước, vì thế nên ở trong sự
tùy thuận chẳng sanh mừng thích, trong sự trái nghịch chẳng sanh
sân hận, chỉ giữ lòng
thanh tịnh không hề thương ghét chẳng
để tâm mình theo các pháp ác
tham sân si.
Bồ Tát thành tựu các pháp
ban đầu này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức".
Đức Thế Tôn muốn
sáng tỏ nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
"Phật thường khen
trí huệCũng khen người
trì giớiĐề cao
tu nhẫn nhục
Cũng luôn ngợi
đa vănPhật khen làm pháp lành
Người
từ tâm ái ngữVì lợi ích chúng sanhTùy nghi khen
công đứcPhật thường quở
ngũ dụcNgười
sân hận ngu siGanh ghét kiêu dua vạy
Trược loạn hại
chúng sanhLòng lười nhác
giải đãiNgang ngỗ khó cùng nói
Bội ơn không đền đáp
Việc nhỏ giận hờn to
Kẻ tham
cầu lợi dưỡng
Muốn mình được
tài lợiChẳng muốn người khác được
Hạng này Phật chẳng khen
Nơi
lợi dưỡng ít trí
Tự muốn ganh người được
Khổ sầu thấy người được
Hạng này Phật chẳng khen
Vì cầu được
lợi dưỡngChuyển đổi các
oai nghiCách sống ấy chẳng sạch
Rời rất xa
Phật phápNgười chẳng
chuyên hành đạo
Có các
lỗi lầm ấy
Những
ác nghiệp đạo ấy
Không một việc
đáng khenChẳng dứt ác
ngã kiếnTâm
tham ái thì nhiều
Vì tâm nhiều
tham áiNên siêng
cầu lợi dưỡng
Bồ Tát tự nghĩ rằng
Nhẫn nhục lợi
chúng sanhXô dẹp tâm cương cường
Mau được
thành Phật đạo
Tôi phải
tu tâm từ
Nhẫn nhục thương
chúng sanhMà biết các
pháp khôngDo
duyên sanh vô ngãCớ sao có các pháp
Pháp ấy khởi nơi tâm
Vọng tưởng sanh
sân hậnChẳng nhớ nó liền không
Vọng tưởng sanh
tam giớiThân nối nhau chẳng tuyệt
Chẳng
vọng tưởng phân biệtThì không có lỗi ấy
Thường
suy xét các pháp
Biết nó từ
duyên sanhThường quán các
pháp khôngMà hay độ mọi loài
Chúng sanh phá giới khổ
Bị
kiêu mạn làm hại
Dạy họ
pháp diệt khổ
Có nhiều
lợi ích lớn
Nếu có kẻ phương Đông
Nam Tây Bắc
bốn hướngTay cầm bình cứt đái
Đổ trút lên đầu tôi
Tôi chẳng sanh lòng giận
Ai hại ai chịu lấy
Cái gì gọi là ta
Siêng
tinh tấn quan sátChẳng giận hờn nhìn họ
Tội gì mà hại tôi
Chỉ sanh lòng
chánh niệmBiết là nghiệp
thuở trướcTừ tâm thương xót họ
Biết là nghiệp
thuở trướcNay nhận
quả báo này
Trả xong chẳng gây nữa
An trụ trong
Phật đạoNgười khác không có sự
Khinh hủy làm
khổ nãoĐây tất là
ác nghiệpDầu lâu mà chẳng mất
Chúng sanh tại thế gian
Luôn tạo nghiệp
thiện ácNay tôi chịu khổ này
Nên biết do nghiệp trước
Nếu giận mắng hại họ
Sau lại thọ quả khổ
Đâu nên đem khổ hại
Mà hại lại người kia
Phải
cầu pháp vô thượngCầu rồi dạy lại người
Độ thoát tất cả loài
Ra khỏi tất cả khổ
Nếu người đem
hương hoaChâu báu cúng dường tôi
Chẳng nên sanh lòng tham
Phải tập quán
bình đẳngGhét thương thì trái đạo
Phải thường
tu tâm xả
Nên chánh quán các pháp
Ai làm ai chịu lấy
Tất cả pháp đều không
Nội không ngoại cũng không
Không chẳng có làm chịu
Tất cả đều
vô ngãKhông chẳng có tham sân
Không chẳng có
phiền nãoCũng không có
thanh tịnhRời cấu tịnh là không
Trong không chẳng
phân biệtKhông chẳng có các tánh
Không thường
không vô tướng
Đây là đạo
thanh tịnhGiả sử có người đến
Chặt đứt rời thân tôi
Trọn chẳng sanh lòng giận
Biết do nghiệp
thuở trướcChúng sanh gây
thiện ácTheo nghiệp tự thọ quả
Chắc đời trước tôi ác
Nay phải chịu báo khổ
Nay chịu lấy khổ báo
Quán thân như bóng tượng
Bọt nước
ảo hóa mộng
Là không
tất cánh khôngNếu có người
thành tâmGiúp đỡ
nuôi dưỡng tôi
Phải nhớ
báo ơn họ
Mà chẳng sanh lòng mừng
Cúng dường chẳng
vui mừngMắng hại chẳng giận hờn
Mừng giận đều
chướng ngạiChẳng phải đạo chơn chánh
Phải xa rời tất cả
Lòng
tham ái sân hậnThường phải tu
không tịchDứt hết các
chướng ngạiNhẫn nhục gốc
thập lựcChư
Phật thần thông nguyện
Trí
vô ngại đại biĐều do nhẫn làm gốc
Tứ đế niệm
chánh cầnCăn lực giác đạo phần
Đều dùng nhẫn làm gốc
Người trí nên
tu nhẫnPhật tại
Ba La NạiChuyển pháp luân vô thượngCũng lấy nhẫn làm gốc
Chư Phật thường khen nhẫn
Các ông cũng phải tu
Không nhẫn vô sanh diệtCác
pháp tướng thường không
Thì được Phật
công đức.
Lại này
Phú Lâu Na !
Đại Bồ Tát có thể rời lìa
ngũ dục, thường thích
xuất gia tâm thuận
xuất gia xu hướng xuất gia chẳng ham
ngũ dục. Được
xuất gia rồi rời chốn
ồn ào náo ở xa nơi
núi rừng chẳng mất pháp lành.
Bồ Tát thành tựu pháp thứ hai này thì hay đầy đủ tất cả công đức".
Đức Thế Tôn muốn
sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:
Lòng thường thích
xuất giaMà hay thường
xuất giaThường thích ở
núi rừngChỗ
tăng ích công đứcỞ tại chỗ rảnh vắng
Thì lìa
năm dục lạc
Nơi ấy không ồn náo
Không mất duyên pháp lành
Không phải bận chuyện trò
Đến lui
thăm viếng nhau
Ưa
rảnh rang vắng vẻ
Được chư Phật khen ngợi
Vì thế chư
Bồ TátPhải thường ở rảnh vắng
Chớ tham ưa thành thị
Chỗ sanh tâm
lợi dưỡngNếu được lợi thì mừng
Nếu mất sanh lo buồn
Người này dầu
cúng PhậtChẳng gọi là
cúng dườngMuốn trừ các lỗi này
Phải thường lìa
lợi dưỡngXa lìa ở rảnh vắng
Tu tập các
pháp không.
Lại này
Phú Lâu Na !
Bồ Tát thường học
cầu pháp. Cầu được rồi
đọc tụng. Đó là cầu
tịnh giới các pháp
đầu đà tế hạnh, chẳng cầu những pháp
đa dục không chán đủ.
Cầu pháp diệt tham dục, chẳng cầu thêm
tham dục.
Cầu pháp phá sân chẳng thêm sân. Cầu dứt
ngu si chẳng thêm
ngu si. Cầu trừ
kiêu mạn chẳng thêm
kiêu mạn. Cầu phá
ngã mạn chẳng thêm
ngã mạn. Cầu hết
ngã ngã sở chẳng thêm
ngã ngã sở.
Cầu pháp vô ngã chẳng
y chỉ ngã nhơn
chúng sanh thọ mạng. Thường
cầu pháp hay được
trí huệ lớn chẳng
cầu pháp thối
thất đại trí huệ. Thường
cầu pháp để được
trí huệ vô thượng chẳng
cầu pháp để được
trí huệ nhỏ.
Cầu pháp được tất cả
công đức chẳng
cầu pháp chẳng đủ
công đức.
Cầu các
pháp như vậy, được rồi
tư duy cháng quán làm đúng theo lời đem dạy lại người, chẳng cầu thế lợi
danh tiếng khen ngợi, siêng dạy các
chúng sanh cho họ an trụ trong pháp ấy.
Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức".
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
"Bồ Tát thích
xuất giaTrì giới hạnh đầu đàDo đó sanh
trí huệMưa trí thêm các dòng
Được pháp
thâm tịnh rồi
Chánh niệm suy
ý nghĩaỞ trong các pháp ấy
Làm được đúng như lời
Thường dùng tâm thanh tịnhGiảng rộng lại cho người
Lợi ích các
chúng sanhLòng không chút
hy vọngĐược
mùi vị công đứcTụ ở trong pháp ấy
Cũng khiến người được ở
Do đây tăng
Phật phápNếu trong
vô lượng kiếpTập họp các
công đứcĐều khiến
hiện ra trước
Nhiếp vào
Bồ Tát đạoNên phải cầu
thâm phápĐược chư Phật khen ngợi
Thường nói cho
chúng sanhDo đây sanh
công đức.
Này
Phú Lâu Na !
Đại Bồ Tát an trụ trong
pháp trì giới
đầu đà thì có thể đầy đủ
thiện căn công đức.
Này
Phú Lâu Na !
Quá khứ lâu xa
vô lượng vô biên số kiếp, có
Phật hiệu Di Lâu Kiện Đà
Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thọ sáu ngàn tuổi, một hội
thuyết pháp có tám mươi ức
Tỳ Kheo đắc quả A La Hán, sau khi Phật
nhập diệt,
pháp trụ năm trăm năm. Phật ấy
nhập niết bàn rồi, trong bảy ngày, các
đại đệ tử cũng đều
nhập diệt theo Phật.
Này
Phú Lâu Na !
Đức Phật Di Lâu Kiện Đà
xuất thế cũng đủ năm thứ trược như ta hiện nay vậy. Sau khi chư
đại A La Hán đệ tử Phật diệt độ, có nhiều
chúng sanh nghĩ rằng : Trong
pháp Sa Môn
an ổn khoái lạc sao ta chẳng cùng
xuất gia. Họ nghĩ như vậy rồi đều cạo bỏ râu tóc mặc
pháp phục xuất gia. Sau khi
xuất gia họ chỉ làm ba việc : Một là thường qua lại nhà
bạch y, hai chỉ tham
cầu lợi dưỡng để sinh sống, ba là chuyên lo mập béo mà không
tu phước huệ. Họ chỉ làm ba việc ấy mà chẳng tu hạnh gì khác. Sau đó trăm năm,
chư đại đệ tử đã
diệt độ cả, các
Tỳ Kheo ấy phần đông cùng hòa hiệp với người
bạch y,
đa số phế bỏ các kinh
thâm diệu trì giới đầu đà các
tế hạnh của Phật dạy, họ chẳng còn
đọc tụng nữa. Lúc bấy giờ chúng
Tỳ Kheo thích
ngũ dục ham
ăn uống.
Quốc Vương thuở ấy chỉ có một
Thái Tử tên Đà Ma
Thi Lợi rất được vua quí trọng. Lúc ở
thanh vắng,
Thái Tử nghĩ rằng :
Đức Phật Di Lâu Kiện Đà
đắc pháp gì
thành Phật, sao nay các
đệ tử đều
phóng dật làm giống các
bạch y. Lúc suy tư và nghĩ vậy, có
Thiên Thần đến
ẩn thân mà bảo
Thái Tử rằng :
Đức Phật Di Lâu Kiện Đà
đắc pháp thâm diệu thanh tịnh quyết định.
Nghe
Thiên Thần nói,
Thái Tử liền hỏi :
Đức Phật Di Lâu Kiện Đà
đắc pháp thâm diệu thanh tịnh quyết định, pháp ấy thế nào ?
Thiên Thần đáp : Pháp ấy
không sắc, không
thọ tưởng hành thức, không ấm giới nhật, không có
ngũ dục cũng không có
dục tâm. Phật
đắc pháp ấy và dạy
chúng sanh pháp ấy.
Thái Tử lại hỏi : Tôi có được
nghe pháp ấy để được
hiểu biết thật hành chăng ?
Thiên Thần bảo : Ngài siêng tu
tinh tấn thì được đó không khó.
Này
Phú Lâu Na !
Thái Tử tự nghĩ nay
Thiên Thần khai ngộ cho ta, ta nên
xuất gia để
cầu pháp thâm diệu ấy.
Thái tử đến trước
cha mẹ cúi lạy thưa xin được
xuất gia tu hành trong pháp của
đức Phật Di Lâu Kiện Đà.
Cha mẹ bảo : Nay con cần gì bỏ
chúng ta mà
xuất gia, vì
hiện tại các người
xuất gia đều không khác gì hàng
bạch y cả.
Cha mẹ nói kệ bảo
Thái Tử :
Nay các chúng
Tỳ KheoPhóng dật thọ
ngũ dụcCanh tác đi buôn bán
Chẳng khác hàng
bạch yHạng nghèo
cùng khổ não
Chẳng lấy gì để sống
Các hạng người như vậy
Cầu sống nên
xuất giaNay con sanh nhà vua
Giàu sang đủ
ngũ dụcChâu báu có rất nhiều
Cần
xuất gia làm gì.
Thái Tử Đà Ma
Thi Lợi nói kệ thưa
cha mẹ :
Con chẳng cầu ngôi sang
Nếu được cũng
lìa bỏNay con chỉ muốn cầu
Phật pháp giới thanh tịnhCó
Thiên Thần khai ngộKhuyên con đi
xuất giaThâm pháp của Phật dạy
Con mong được nghe biết
Con nghe
Thiên Thần dạy
Lòng con rất
vui mừngPhật pháp nay muốn diệt
Con muốn giúp
hộ trì.
Cha mẹ nói kệ bảo
Thái Tử :
Thâm kinh đã diệt hết
Không có người
tụng trìNay con sẽ từ đâu
Được nghe kinh
thâm diệuNếu ở trong
tứ chúngCó người tụng
thâm kinhCon trước theo họ học
Rồi sau hãy
xuất gia.
Thái Tử nói kệ thưa
cha mẹ :
Nay con siêng
tinh tấnTrì giới hạnh đầu đàỞ xa trong
núi rừngCầu
Phật pháp thâm tịnh.
Này
Phú Lâu Na ! Nói kệ xong,
Thái Tử Đà Ma
Thi Lợi cúi lạy
cha mẹ từ biệt đi
xuất gia,
cha mẹ lăng yên chẳng
ngăn cản được.
Thái Tử đến chỗ chư
Tỳ Kheo cạo bỏ râu tóc mặc
cà sa thọ giới rồi
hết lòng cung kính bạch chư
Tỳ Kheo cầu được
nghe pháp của Phật
Di Lâu Kiện Đà đã truyền dạy để
tu hành theo.
Chư
Tỳ Kheo bảo rằng :
Chúng tôi chẳng
nghe pháp của Phật dạy mà chỉ làm theo các ông
Hòa Thượng và chư Sư thôi. Nay ông cũng nên làm
theo như vậy.
Tỳ Kheo Đà Ma
Thi Lợi bảo chư
Tỳ Kheo rằng : Các Thầy tất từ nghèo hèn mà
xuất gia nên chỉ biết
quý trọng cơm áo, những việc của các Thầy làm chẳng khác hàng
bạch y. Các Thầy nên cùng tôi cầu tìm pháp
thâm diệu của Phật.
Chư
Tỳ Kheo nói kệ đáp rằng :
Việc làm của
chúng tôiĐều đã được lợi tốt
Cơm áo rất đầy đủ
Khỏi phải việc vua quan
An ổn rất khoái lạc
Không ai dám khinh mạn
Nay đều không còn có
Khổ não như
bạch yChính đây là
Niết bànKhoái
an lạc đệ nhứtNgoài công việc này ra
Chúng ta không còn cần
Chúng ta có nhiều
y bátThuốc men
vật dụng nhiều
Thí chủ thường
cung cấpNhà
đàn việt cũng đông.
Nghe lời đáp của chư
Tỳ Kheo, Đà Ma
Thi Lợi buồn rầu rơi lệ đến xin các
tinh xá khác bạch thưa cũng đều được
chư Tăng đáp như trên, liền bỏ chư
Tỳ Kheo một mình vào núi sâu, chỗ rừng rậm xa vắng,
nhứt tâm chí thành cầu pháp thâm diệu của Phật.
Trước đó, trong hàng
đại đệ tử của Phật có một
đại A La Hán đủ
tam minh lục thông bát giải thoát tên là
Kiên Lao, như
Ma Ha Ca Diếp hiện nay.
Kiên Lao A La Hán ấy ở thâm sơn khắc lời kệ lên vách đá :
Sanh tử chẳng dứt được
Là
do nơi tham dụcNuôi thù vào gò mả
Luống phải chịu
đau khổThân thúi như
tử thiChín lỗ chảy
bất tịnhNgu si tham luyến thân
Chẳng khác giòi tham phẩn
Nhớ tưởng vọng
phân biệtLà gốc sanh
ngũ dụcNgười trí chẳng
phân biệtThì
ngũ dục đoạn diệtTà niệm sanh
tham trướcTham trước sanh
phiền nãoChánh niệm không
tham trướcPhiền não khác cũng hết.
Tỳ Kheo Đà Ma
Thi Lợi vào
hang núi thấy bốn
bài kệ khắc trên vách đá liền
đọc tụng và
suy gẫm ý nghĩa, không bao lâu được
ngũ thần thông. Sau đó
Tỳ Kheo Đà Ma
Thi Lợi đến chỗ trước kia
trà tì Phật
Di Lâu Kiện Đà
đảnh lễ hữu nhiễu ba vòng rồi
ngồi kiết già phát thệ rằng : Nếu tôi không thấy Phật và chẳng nghe các pháp khác thì chẳng dậy rời khỏi chỗ ngồi này.
Này
Phú Lâu Na !
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn
tụng trì kinh Bát Bá
Thiên Môn Của Phật
Di Lâu Kiện Đà truyền.
Thiên Đế biết Đà Ma
Thi Lợi rất mến
chánh pháp, liền từ
trời Đao Lợi xuống trước Đà Ma
Thi Lợi tuyên
đọc kinh Bát Bá
Thiên Môn, lại truyền cho các
kinh Tứ Đa Văn Bổn Cú, Thất Chủng Trọng Cú,
Thập Tứ Môn Cú. Nghe xong, Đà Ma
Thi Lợi tụng trì, ở trong các pháp được
trí huệ sáng suốt,
tự nhiên thông thuộc các kinh
thâm diệu thanh tịnh nghĩa không nghĩa ly của Phật
Di Lâu Kiện Đà.
Đức Phật ấy cũng
hiện thân cho Đà Ma
Thi Lợi thấy và hiện chúng
Tỳ Kheo cả
tinh xá phóng giường
đại hội tứ chúng Thiên Long Bát Bộ đều khiến được thấy cả.
Tỳ Kheo Đà Ma
Thi Lợi ở trong các pháp được
trí huệ nhãn, rời chỗ ngồi đi
du hành lần về đến bổn quốc, vì
cha mẹ và
quyến thuộc giảng nói các kinh
thâm diệu thanh tịnh nghĩa không nghĩa ly,
ca ngợi công đức Tam bảo Phật Pháp Tăng.
Nghe pháp ấy xong, Vương phụ Vương mẫu các cung nhơn các quan thuộc sanh
lòng tin cung kính thưa với
Tỳ Kheo Đà Ma
Thi Lợi xin được
xuất gia trong pháp Phật
Di Lâu Kiện Đà.
Bấy giờ có đến tám vạn bốn ngàn người đồng
xuất gia theo
Quốc Vương và Phu Nhơn và đồng lấy hiệu là Đà Ma
Thi Lợi.
Tỳ Kheo Đà Ma
Thi Lợi làm cho pháp của Phật
Di Lâu Kiện Đà
trở lại thạnh hành, rất nhiều
chúng sanh được an trụ trong ấy. Đó là do tâm
đại từ bi nguyện hộ
Phật pháp từ đời trước của
Tỳ Kheo ấy. Đà Ma
Thi Lợi đi khắp nơi, từ
tụ lạc này đến
tụ lạc khác, từ thành này đến thành khác, từ nước này đến nước khác, tuyên nói
giảng giải các
kinh pháp thâm diệu thanh tịnh nghĩa không nghĩa ly của Phật
Di Lâu Kiện Đà và xưng dương
ca ngợi công đức của
Tam bảo Phật Pháp Tăng.
Tỳ Kheo ấy rất được
mọi người cung kính tôn trọng cúng dường danh tiếng khắp nơi.
Làm
lợi ích cho rất nhiều người rồi, Đà Ma
Thi Lợi mạng chung theo bổn nguyện sanh
trở lại nhà vương gia cõi này tên là Đắc Niệm
xuất gia trong pháp của Phật
Di Lâu Kiện Đà, bấy giờ cách
đức Phật ấy
diệt độ ba trăm năm. Do bổn nguyện
túc mạng trí nên
Tỳ Kheo Đắc Niệm
tự nhiên lại được các môn cú các
đà la ni cũ. Do sức của
đà la ni nên các kinh chưa từng nghe mà có thể tuyên nói giảng rộng cho
chúng sanh, chẳng giảng nói các
kinh pháp đã được nói nơi
tiền thân lúc còn là
Tỳ Kheo Đà Ma
Thi Lợi.
Này
Phú Lâu Na !
Lúc ấy trong chúng
Tỳ Kheo Đà Ma
Thi Lợi, những người
thiện căn sâu dầy
trí huệ sáng suốt, nghe
kinh pháp của Đắc Niệm nói đều
tùy hỷ tin nhận
cung kính cúng dường thủ hộ. Những người ngu tối
thiện căn mỏng cạn thì chẳng tin trái nghịch bảo rằng : Các kinh ấy
chúng tôi chưa nghe
Hòa Thượng các Thầy giảng dạy, cũng chẳng nghe
Đại Sư Đà Ma
Thi Lợi nói.
Này
Phú Lâu Na ! Các người có
trí huệ sâu
y chỉ nơi
ý nghĩa mà chẳng theo
ngữ ngôn. Và
y chỉ nơi
ý nghĩa nên chẳng trái nghịch. Vì chẳng trái nghịch nên
hộ trì pháp của Phật
Di Lâu Kiện Đà và
cung kính thủ hộ Tỳ Kheo Đắc Niệm, số này có đến tám mươi
na do tha người gồm đủ
tứ chúng Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni,
Ưu Bà Tắc và
Ưu Bà Di. Bấy giờ chia làm hai bộ chúng : Một tên chúng
Tỳ Kheo Đà Ma
Thi Lợi, hai tên chúng
Tỳ Kheo Đắc Niệm.
Tỳ Kheo Đắc Niệm chẳng nói chính mình là
Tỳ Kheo Đà Ma
Thi Lợi. Tại sao, vì
mọi người đều cho Đà Ma
Thi Lợi chứng quả A La Hán chẳng phải
Bồ Tát, còn
Tỳ Kheo Đắc Niệm thì
mọi người đều gọi là
Bồ Tát, nếu tự nói ra sợ
mọi người nghi hoặc.
Lợi ích chúng sanh xong, Đắc Niệm
Tỳ Kheo mạng chung theo bổn nguyện sanh lại cõi này nơi nhà
Trưởng giả tên là Gia Xá, do bổn nguyện nên nhớ biết
túc mạng mới bảy tuổi đã
xuất gia tu hành được các
đà la ni, bấy giờ là
thời kỳ bốn trăm năm sau
đức Phật Di Lâu Kiện Đà
diệt độ.
Này
Phú Lâu Na ! Do sức
đà la ni nên Gia Xá có thể vì
mọi người giảng thuyết các kinh trước chưa từng nghe. Torng chúng Đà Ma
Thi Lợi và chúng Đắc Niệm, những người
thiện căn sâu dày
nghe pháp của Gia Xá nói đều rất
vui mừng được
pháp lạc. Những người này y nghĩa chẳng
y lời nghe Gia Xá
thuyết pháp thâm diệu hiệp
đệ nhứt nghĩa liền tin nhận
thọ trì đọc tụng y theo tu hành. Còn những
Tỳ Kheo ám độn thiện căn mỏng cạn thì chẳng tin mà bảo rằng : Pháp của Gia Xá nói,
chúng tôi chưa từng nghe
Hòa Thượng các Thầy nói, cũng chẳng nghe
Đại Sư Đắc Niệm
Bồ Tát dạy.
Này
Phú Lâu Na ! Các
Tỳ Kheo tin thọ theo pháp của Gia Xá đều bị các
Tỳ Kheo chẳng tin thọ trong hai chúng Đà Ma
Thi Lợi và Đắc Niệm
ganh ghét xa lánh, họ hủy báng là chẳng phải pháp Phật nói, chẳng phải lời
Đại Sư dạy.
Gia Xá
Tỳ Kheo rộng
truyền pháp của Phật
Di Lâu Kiện Đà từ một
tụ lạc đến một
tụ lạc, từ một thành đến một thành, từ một nước đến một nước, sau đó
mạng chung theo bổn nguyện lại sanh vào cung vua cõi này, lúc sanh
chư Thiên ở
hư không xướng rằng : Vương Tử này sẽ
lợi ích lớn cho
chúng sanh, do theo lời xướng ấy mà đặt tên cho Vương tử mới sanh là
Đạo Sư. Đến năm mười bốn tuổi Vương Tử
Đạo Sư xuất gia, bấy giờ là
thời kỳ năm trăm năm sau
đức Phật Di Lâu Kiện Đà
diệt độ.
Tỳ Kheo Đạo Sư ấy
hiểu biết rộng
thông thuộc nhiều kinh sách
văn từ thanh biện thuyết pháp rất khéo giỏi. Từ một
tụ lạc đến một
tụ lạc, từ một thành đến một thành, từ một nước đến một nước,
Tỳ Kheo Đạo Sư lưu truyền pháp của Phật
Di Lâu Kiện Đà đem
lợi ích lớn lại cho nhiều
chúng sanh.
Lúc ấy các chúng
Tỳ Kheo Đà Ma
Thi Lợi, Đắc Niệm và Gia Xá
tụ họp đến chỗ
Tỳ Kheo Đạo Sư để huỷ phá.
Tỳ Kheo Đạo Sư hỏi chúng
Tỳ Kheo rằng Chư
Tỳ Kheo các Ngài
vấn nạn sự gì, dùng sự gì để hỏi, tại sao mà hỏi ?
Chư
Tỳ Kheo nghe lời ấy đều
ưu sầu chẳng vui nín lặng chẳng đáp được, chẳng làm
chướng ngại Đạo Sư được.
Này
Phú Lâu Na !
Tùy theo thọ mạng của
Bồ Tát Đạo Sư
tại thế thì
Phật pháp xí thạnh, nếu
mạng chung thì
Phật pháp diệt.
Đạo Sư giáo hóa tám trăm vạn người
phát tâm Vô thượng Bồ đề đều được sanh lên các
cõi trời.
Này
Phú Lâu Na !
Tỳ Kheo Đạo Sư đêm nay
mạng chung thì đêm mai
pháp diệt. VÌ pháp của Phật
Di Lâu Kiện Đà diệt nên
kinh pháp thâm diệu nghĩa không nghĩa ly
thanh tịnh đều diệt hết.
Này
Phú Lâu Na !
Đại Bồ Tát dùng kinh
thâm diệu để
thủ hộ Phật pháp có thể tự đầy đủ
thiện căn công đức.
Bồ Tát Đạo Sư sau khi
mạng chung liền sanh về
Phật độ ở
thế giới thứ mười tại
thượng phương hiện có Phật hiệu Thiện Nhãn
Như Lai Đẳng Chánh Giác, liền
xuất gia, do
thiện căn phước đức đời trước nên
trí huệ sáng lẹ,
biện tài vô tận vô ngại tu Phật pháp suốt tám vạn bốn ngàn năm, sau khi
mạng chung lại sanh gặp
đức Phật thứ hai hiệu Nhựt Tăng Kiên
Như Lai Đẳng Chánh Giác cũng
xuất gia tu các
thiện căn cầu
Vô thượng Bồ đề, sau khi
mạng chung sanh
trở lại cõi ấy gặp
đức Phật sau rốt hiệu
Bất Không Hành
Như Lai Đẳng Chánh Giác cũng
xuất gia lấy tên là Thủ La trong bảy vạn năm siêng
tu thiện căn cầu
Vô thượng Bồ đề.
Đức Phật Bất Không Hành
thọ ký rằng : Sau khi ta
diệt độ,
Tỳ Kheo Thủ La đây sẽ
làm Phật hiệu
Vô Ngại Nhãn
Như Lai Đẳng Chánh Giác.
Này
Phú Lâu Na !
Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì có thể đầy đủ tất cả
công đức ".
Đức Thế Tôn muốn
sáng tỏ nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
"Bồ Tát
nghe pháp sâu
Thanh tịnh diệu
quyết địnhTự mình hay an trụ
Cũng nói dạy
mọi ngườiThế gian chẳng thấu đáo
Bồ Tát thường
thông suốtAn trụ trong
tịnh giớiRộng
lợi ích chúng sanhBổn sự và
thí dụĐem
Phật đạo dạy người
Lời chư Phật nói tuyên
Đều là pháp
quyết địnhBồ Tát hay
tư lợiCũng
lợi ích chúng sanhThủ hộ pháp chư Phật
Dạy
Bồ đề cho người
Việc đúng pháp của người
Bồ Tát vì họ làm
Đem
Phật đạo dạy người
Đây thì gần
chánh giácHộ trì đạo chư Phật
Rộng
lợi ích chúng sanhChư Thiên Long
Quỉ ThầnTrời Người đều
tôn kínhThế nên được
nghe phápKhông
thâm tịnh thâm diệuPhải
nhứt tâm suy tìm
Thì
tăng trưởng trí huệ.
Lại này
Phú Lâu Na !
Đại Bồ Tát đầy đủ
công hạnh, do
công hạnh đầy đủ nên có thể đầy đủ
thiện căn phước đức. Những gì là
công hạnh ? Đó là
Bồ Tát gần gũi
thiện tri thức tu hành bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định trí huệ phương tiện. Những ai là
thiện tri thức của
Bồ Tát ? Đó là chư Phật, chư
A La Hán và chư
Bồ Tát có
thâm tâm cầu
Phật đạo mà từ đó
Bồ Tát này được nghe các
kinh pháp thâm diệu và
phương tiện giáo hoá. Các bực ấy đều gọi là
thiện tri thức của
Bồ Tát.
Bồ Tát thành tựu pháp thứ tư này thì có thể đầy đủ tất cả
công đức ".
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
"Phật nói chư
Bồ TátPháp mà họ phải hành
Bố thí rồi
vui mừngKhông hề có
hối hậnVui mừng như thế nào
Là vui khắp cả thân
Thường dùng lòng vui ấy
Mà
hành đạo Bồ TátBồ Tát làm
bố thíHồi hướng đạo
Bồ đềLợi ích các
chúng sanhTự lợi vô biên lượng
Nếu thấy có người xin
Lòng tưởng họ như Phật
Quan niệm người ấy đến
Ban
Phật đạo cho tôi
Tôi nhơn nơi người ấy
Thanh tịnh được
Phật độNgười ấy chỉ bày Phật
Dạy
Phật đạo cho tôi
Nay tôi gặp người ấy
Rất được các lợi lớn
Vui mừng khắp
toàn thânChẳng còn vui gì khác
Nếu có ai đến tôi
Xa thấy tôi chưa hỏi
Ngài có
cần dùng gì
Tôi sẽ xin
cung cấpNếu họ nói không cần
Bồ Tát cũng
vui mừngVì muốn
giáo hoá tôi
Nên họ nói không cần
Người ấy đem sở đắc
Pháp
thiểu dục tri túcNay đến
khai ngộ tôi
Khiến được duyên
Bồ đềNay tôi nhơn người này
Lại được dạy pháp lành
Ngài nói không
cần dùngLời ấy tốt lắm vậy
Nếu họ nói
cần dùngVật ấy
cấp cho tôi
Nếu
Bồ Tát mà có
Vui mừng mang trao cho
Khi đem
bố thí rồi
Sau đó không hề hối
Do
thường niệm Phật đạo
Nên tâm thường
vui mừngBố thí rồi
hồi hướngChúng sanh đều có phần
Khiến đều không chỗ thiếu
Cho họ được
tri túcNếu
hành đạo Bồ TátChúng sanh nghe danh tôi
Tự nhiên biết thôi đủ
Chẳng sanh lòng
xan thamNay
chúng sanh nước tôi
Thuận đạo đều
tri túcBỏ lìa ham
ngũ dụcĐều thích đi
xuất giaVô lượng hạnh như vậy
Bố thí mà
hồi hướngNguyện thường làm
bố thíChúng sanh bắt chước tôi
Bồ Tát làm
bố thíDùng từ
che chở người
Tất cả các
thế gianKhông có vui như vậy
Như
Trưởng giả giàu lớn
Nhiều của tiền trân bửu
Mà chỉ có một con
Nhiều năm bỏ đi xa
Trưởng giả nghe con về
Vui mừng khắp
toàn thânCách xa mà nay về
Cầm bằng sống
trở lạiBồ Tát thấy người xin
Trong lòng rất
vui mừngCòn hơn
Trưởng giả mừng
Cả mười sáu lần hơn
Nếu làm được
bố thíTrong lòng rất
vui mừngTâm từ sanh vui ấy
Vui ấy không gì sánh
Như vua trị người tội
Truyền chặt gãy tay chân
Đao phủ đem đi giết
Cất dao sắp chặt xuống
Vua tha ban chức cao
Người tội rất mừng vui
Vẫn chẳng bằng
Bồ TátBố thí được
vui mừngLúc
Bồ Tát hành đạo
Chẳng mong cầu
phước điềnCó ai xin liền cho
Nên được
vui vẻ lớn
Bồ Tát nếu gặp Phật
A La Hán Duyên GiácCung kính biết khó gặp
Nên đến siêng
cúng dườngBồ Tát có
oai đứcLòng
sáng suốt điều thuận
Thích
công đức cầu đạoCúng dường Phật và chúng
Chẳng đem lòng
cung kínhPhụng sự các
thiên thầnChỉ kính cúng chư Phật
Và chư
Phật đệ tửNếu có
Bích Chi PhậtTự nhiên đắc
Niết bànCũng đến kính
cúng dườngCó những
công đức ấy
Bồ Tát cũng biết được
Phước điền thiện
bất thiệnNhững người trí
thế gianChẳng kính
ngoại đạo ác
An trụ giữa
giới phẩmTừ tâm giúp
chúng sanhTinh tấn không ai bằng
Nhẫn trí đa văn rộng
Làm các
công đức ấy
Bực cao tôn
thế gianHay chứng Phật
Bồ đềChuyển pháp luân vô thượngBồ Tát hay
tu hànhĐủ bốn
pháp như trên
Tất cả các
thiện cănThảy đều được đầy đủ
Vô lượng ức
số kiếpĐã tu các
công đứcĐều nhiếp vào đây cả
Là đạo
Bồ Tát tu
Thế nên chư
Bồ TátPhải thường
tu tâm từ
Xuất gia ở
núi rừngThích ở chỗ rảnh vắng
Thường
cầu pháp thanh tịnhThậm thâm diệu
quyết địnhBồ Tát hạnh đầy đủ
Do đây được tăng trưởng".
XVII
PHÁP HỘI
PHÚ LÂU NA
Thứ mười bảy
Hán dịch : Dao Tần, Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM THẦN THÔNG LỰC
THỨ NĂM
Bấy giờ
Đức Thế Tôn dùng sức thần thông, từ mỗi mỗi lỗ lông trên thân đều phóng ra trăm ngàn vạn ức
tia sáng, từ mỗi lỗ lông lại đều phát ra ngọn lửa mạnh lớn như
núi Tu Di, từ mỗi lỗ lông lại đều
xuất hiện hằng sa chư
Phật thuyết pháp. Toàn hội
đại chúng đều thấy khắp cả
thần thông lực rộng lớn ấy.
Hiện
thần lực xong,
Đức Thế Tôn nhiếp lại như cũ bảo
Huệ Mạng Phú Lâu Na rằng : "Ông có thấy
đức Như Lai từ các lỗ lông
xuất hiện thần lực như vậy chăng ?".
-Bạch
Đức Thế Tôn ! Đã được thấy.
-Này
Phú Lâu Na !
Đức Như Lai thường có thần lực như vậy không lúc nào thôi bỏ. Khiến các
đệ tử chỉ thấy biết
đức Như Lai ở tại đây
thuyết pháp. Mà
Như Lai thiệt thường
làm Phật sự ở
hằng sa thế giới mười phương. Không lúc nào thôi bỏ, cùng thường
thuyết pháp ở các
thế giới mười phương.
Này
Phú Lâu Na ! Nếu có người nói lời chơn thiệt : Ai là
Vô đẳng dẳng là người
vô tỷ tròn đủ
phước trí là
phước điền vô thượng, rất sâu khó lường,
công hạnh vô biên, cất một bước chân tất cả
chúng sanh chẳng biết được, chẳng suy lường được tâm gì hạnh gì dở chưn hạ chưn ? Nên nói chính là
đức Phật đây vậy.
Này
Phú Lâu Na ! Tất cả
chúng sanh chẳng thể suy lường được
đức Như Lai do nghĩ gì tâm gì làm gì mà dở chưn hạ chưn.
Đức Thế Tôn muốn
sáng tỏ nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
"Đức Phật do nghĩ gì
Làm gì dở hạ chưn
Chúng sanh động
bất độngĐều chẳng thể biết được
Thần thông lực vô lượngChỗ làm cũng
vô lượngVì
công đức vô lượngNên cao tôn
đệ nhứtTrí huệ lớn
vô lượngKhông ai biết hết được
Giả sử tất cả người
Trí huệ thần thông lựcĐều như
Xá Lợi PhấtVà giống Đại
Mục LiênCũng chẳng biết được Phật
Dở chưn và hạ chưn
Dầu cho tất cả người
Đều làm
Bích Chi PhậtChẳng hiểu Phật một bước
Huống là
thâm pháp khác
Giả sử vô lượng nhựt
Hiệp làm một mặt nhựt
Sáng chẳng bằng
tia sángMột lỗ lông của Phật
Giả sử bảy vạn ức
Na do tha thế giớiMặt nhựt ngang rộng bằng
Chiếu sáng
vô lượng cõi
Các mặt nhựt lớn ấy
Số nhiều như
hằng saHiệp làm một mặt nhựt
Tia sáng bằng
Tu DiCác mặt nhựt lớn ấy
Thường chiếu mười phương cõi
Đem sánh ánh sáng Phật
Luốt mất như than đen
Áng sáng các mặt nhựt
Chẳng thấu qua lá cây
Núi sông và vách đá
Đều có thể
chướng ngạiTia sáng của
Như LaiTất cả
núi Tu DiNúi
Thiết Vi Kim CươngChiếu thấu qua không chướng
Quang minh thần thông lựcOai đức đều
vô lượngAi thấy chẳng
phát tâmChỉ trừ kẻ
bất tínChúng sanh thấy
quang minhThần thông lực của Phật
Nhiều
phát tâm vô thượngNguyện tôi cũng sẽ được
Bấy giờ Phật
mỉm cườiAn Nan liền quỳ thưa
Thế Tôn cớ sao cười
Xin
xót thương giải đápĐức Phật bảo An Nan
Nay
chúng sanh thấy Phật
Hiện
thần thông lực lớn
Phát tâm nguyện
làm PhậtCó đến ba vạn người
Nguyện
hộ trì Phật pháp
Sau khi
Phật diệt độ
Chúng tôi tụng kinh này
Những người ấy
đời sauĐược nghe
kinh pháp này
Thời giữa và thời sau
Nghe rồi làm đúng pháp
Người phát
đạo tâm khó
Sâu ưa
Phật pháp khó
Đời sau hay
tụng trìCác kinh này càng khó
Ngàn vạn ức
số kiếpPhật
xuất thế rất khó
Trong đời mạt sau này
Nói kinh này khó hơn".
Đức Phật bảo ngài
A Nan: "Phật đem kinh này
giao phó cho ông lần nữa. Tại sao, vì trong
Diêm Phù Đề tùy theo chỗ nào có kinh
Bồ Tát Tạng như
vậy thì chỗ ấy có
Phật pháp.
Này
A Nan ! Vì các kinh
thâm diệu như vậy nên
pháp như thuyết hành cũng diệt. Vì
pháp như thuyết hành diệt nên
Phật pháp diệt.
Này
A Nan ! Nay ông nên đem đồ
cúng dường đệ nhứt dâng cúng lên Phật.
Thế nào là hàng
đệ tử đem đồ
cúng dường đệ nhứt dâng cúng lên Phật ? Ông chớ cho là những hoa đẹp hương tốt phan lọng
chuỗi ngọc y phục kỷ nhạc
ca tụng Như Lai là
đệ nhứt cúng dường lên Phật.
Nếu có người được nghe
kinh pháp thâm diệu như vậy
thọ trì đọc tụng làm đúng như lời thì gọi là đem đồ
cúng dường đệ nhứt dâng cúng
cung kính tôn trọng ca tụng đức Phật.
Tại sao ? Vì chư Phật đều cùng
cúng dường cung kính tôn trọng nơi pháp mà chẳng quí đồ
cúng dường thế gian.
Này
A Nan ! Thế nên nay
đức Phật đem
kinh pháp này
trịnh trọng ân cần giao phó cho ông.
Này
A Nan !
Đức Phật do học các kinh như
vậy mà nay được
Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân vô thượng.
Chư Phật
quá khứ, lúc hành
Bồ Tát đạo cũng học các kinh như
vậy mà được
Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân vô thượng.
Vị lai chư Phật cũng học các kinh như
vậy mà được
Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân vô thượngHiện tại chư Phật ở
mười phương thế giới thuở tu
Bồ Tát đạo cũng học các
kinh pháp như
vậy mà được
Vô thượng Bồ đề hiện nay
chuyển pháp luân vô thượng.
Này
A Nan !
Vì lẽ ấy nên kinh
Bồ Tát Tạng này gọi là kinh
chuyển pháp luân, phải nên phụng trì.
Này
A Nan ! Ngày trước ở nước
Ba La Nại núi Lê Sư trong
Lộc Viên, Phật
chuyển pháp luân cho hàng
Thanh Văn đệ tử. Nay ở tại
Trúc Viên này, Phật
chuyển kinh Bồ Tát Tạng pháp luân bất thối chuyển dứt nghi cho tất cả
chúng sanh.
Này
A Nan !
Quá khứ chư Phật cũng đều ở tại địa phận
hư không này mà nói kinh
Bồ Tát Tạng này.
Vị lai chư Phật cũng sẽ đều ở tại địa phận
hư không này nói kinh
Bồ Tát Tạng này.
Nay
đức Phật Vô thượng Bồ đề cũng ở tại địa phận
hư không này nói kinh
Bồ Tát Tạng này.
Vì thế nên biết chỗ địa phận này là tháp lớn của Phật, là chỗ
cúng dường của Trời Người.
Này
A Nan ! Chỗ địa phận này riêng có
công đức bất cộng, đó là
quá khứ chư Phật nói kinh
thâm diệu tại đây.
Này
A Nan ! Bao nhiêu
chúng sanh tham dục sân hận ngu si khi vào
Trúc Viên này thì chẳng phát sanh
tham sân si.
Đức Như Lai dâù cũng có ở các
tinh xá khác mà những nơi ấy không có
công đức như vậy. Tại sao ? Này
A Nan ! Nay các
rừng trúc Ca Lan Đà này,
súc sanh nào vào đây thì chẳng phát
dâm dục, các chim vào đây chẳng kêu hót
phi thời.
Đại Vương Bình Sa nước
Ma Kiệt ngày xưa lúc đăng vị cùng các thể nữ vào trong vườn này để cùng vui, lúc vào rồi nhà vua tự
cảm thấy lòng mình không có ý dục chẳng thích các sự
vui đùa, chúng thể nữ cũng đều tự
cảm thấy không lòng
tham dục vui đùa.
Bấy giờ nhà vua
vui mừng luôn thầm nguyện rằng : Cầu mong
thế gian có Phật
xuất thế tại nước tôi, tôi sẽ được thấy, thấy rồi kính tin, tin rồi
cúng dường. Tôi sẽ đem vườn trúc này dâng lên Phật. Phật sẽ ở trong đó, tôi sẽ được
nghe pháp. Tại sao ? Vì chỉ có bực đáng
cúng dường mới nên ở tại vườn này, chẳng phải người
ngũ dục nên ở.
Này
A Nan ! Vua
BÌnh Sa vào vườn này
phát tâm nguyện lành như vậy đều do
quá khứ chư Phật ở trong vườn này nói kinh
Bồ Tát Tạng. Vì thế nên
công đức của vườn này chẳng cùng hàng với các
nơi khác. Vườn này tất cả Trời Người
Bát Bộ đều nên
lễ kính.
Này
A Nan ! Vườn này không có ruồi muỗi
độc trùng rắn rít đốt cắn. Nếu nó có ở nơi đây thì chẳng còn tâm độc. Đây cũng là
công đức bất cộng của
Trúc Viên.
Dầu cả trăm năm,
đức Phật khen nói
công đức của
Trúc Viên cũng không hết. Nay
Trúc Viên này
thành tựu vô lượng công đức,
nơi khác không có".
Ngài
A Nan bạch rằng : "Bạch
Đức Thế Tôn ! Tôi vốn chẳng biết
Trúc Viên này có
công đức như vậy.
Bạch
Thế Tôn ! Trước kia tôi chẳng muốn
làm thị giả Phật, nay tôi sám
tạ tội lỗi ấy".
Đức Phật bảo
A Nan : "Lúc ông mới được
pháp nhãn thanh tịnh ở các pháp thì đã trừ dứt tội ấy rồi".
XVII
PHÁP HỘI
PHÚ LÂU NA
Thứ mười bảy
Hán dịch : Dao Tần, Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM ĐẠI BI
THỨ SÁU
Bấy giờ Ngài
Đại Mục Kiền Liên suy nghĩ rằng :
Đức Thế Tôn hi hữu.
Đức Thế Tôn thành tựu đại bi như vậy hay khéo
giải thuyết sự việc của chư
Bồ Tát. Tại sao ? Bởi Chư
Bồ Tát đầy đủ
tu tập Phật pháp vì
vô sanh diệt mà khai
thị giác ngộ các
chúng sanh.
Đức Phật biết chỗ
suy nghĩ của
Đại Mục Kiền Liên nên bảo Ngài rằng : "Đúng như vậy, này Đại Mục Kiền Liên! Chư Phật
thành tựu tâm
đại bi, nếu hàng
đệ tử của ta nghe nói đầy đủ nghĩa
đại bi ấy thì
chắc chắn tâm sẽ mê loạn không còn
vui thích gì nữa. Này Đại Mục Kiền Liên! Đừng nói
đại bi của
Như Lai, nếu
Phật tự thuật
đại bi được có lúc Phật làm
Bồ Tát, ông nghe cũng sẽ mê muộn không còn
vui thích gì nữa".
Ngài
Đại Mục Kiền Liên bạch rằng : "Lành thay
Đức Thế Tôn ! Xin nói chút ít phần
đại bi thuở
đức Phật làm đạo Bồ Tát".
Đức Phật bảo Ngài
Đại Mục Kiền Liên : "Nay ông lắng nghe, khéo nhớ và
thọ trì sẽ vì ông mà nói chút ít phần
đại bi lúc làm đạo
Bồ Tát. Sẽ dùng
thí dụ để
giải thuyết nghĩa ấy.
Thuở trước lúc tu
Bồ Tát đạo thật hành
đại bi nói chẳng hết được. Mà
đại bi ấy
y chỉ nơi bốn sự. Những gì là bốn ?
Đại bi ấy của
Bồ Tát, theo chỗ an trụ nơi
đại bi Bồ Tát hay
tu tập Phật pháp, gọi là
đại bi.
Trước kia Phật có
đại bi như vậy, có
đại nguyện như vầy : Bao nhiêu
chúng sanh bị
khổ não nơi
a tì địa ngục, nơi hỏa nhiệt
đại địa ngục, nơi hàn băng
đại địa ngục, tôi thường thay thế các
chúng sanh ấy mà chịu khổ trong các
đại địa ngục,
cho đến lúc tội xong hết chịu các sự khổ, lòng tôi không hề
hối hận.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Nếu có các
chúng sanh do
nhơn duyên ấy mà
đắc độ, ta có thể thay thế tất cả khiến các
chúng sanh ra khỏi
đại địa ngục, ta thay thế họ chịu khổ,
một lần vào
địa ngục làm mãn hết
tội nghiệp của các
chúng sanh trong ấy, lúc bấy giờ lòng ta không hề lo buồn
ăn năn.
Thuở ấy, ta phát
đại nguyện tinh tấn như vậy rồi tìm hỏi các bực
trí huệ, đó là chư Phật và hàng
đệ tử Phật có được
đạo lý nhơn duyên thay thế
chúng sanh chịu khổ như
vậy mà làm cho các
chúng sanh ra khỏi
địa ngục chăng ?
Các bực
trí huệ nghe ta hỏi, đều vì ta mà
tán thán nói về
đa văn sâu
phát tâm Bồ đề Bố thí,
Trì giới,
Nhẫn nhục,
Tinh tấn, khen nói sự gần gũi
thiện tri thức.
Được
nghe lời khen dạy ấy, ta phát đại
tinh tấn. Vì cầu
Phật pháp nên ta phát
đại nguyện cầu được
thành tựu pháp lớn của chư Phật, siêng tu
tinh tấn đầy đủ các
Ba la mật, thật hành sâu về hạnh
nhẫn nhục.
Này
Đại Mục Kiền Liên !
Thuở trước ta thật hành sâu về hạnh
nhẫn nhục thế nào ? Lúc làm
Bồ Tát ta
phát tâm như vầy : Bao nhiêu
chúng sanh ở
mười phương, hoặc có sắc hay
không sắc, hoặc có tưởng hay
không tưởng, hoặc
phi hữu tưởng phi
vô tưởng,
giả sử các
chúng sanh ấy đều được thân người đều đến chỗ ta mà nói rằng : Ông
phát tâm Vô thượng Bồ đề,
chúng ta phần đông
thiếu thốn ngũ dục lạc, thiếu những đồ cần để sống, nếu ông chẳng
cung cấp đủ cả cho tất cả
chúng tôi thì ông chẳng được
Vô thượng Bồ đề.
Vì chẳng được
vừa ý nên các
chúng sanh ấy đều
ác khẩu mắng nhiếc chửi rủa và dùng dao gậy ngói đá gia hại thân ta,
lúc ấy ta chẳng nên giận hờn, chẳng nên
hối hận. Ta phải tự
điều phục tâm mình
như vầy : Các
chúng sanh ấy
ngu si chẳng biết
sanh khởi nghiệp
ngu si. Nếu đối với các
chúng sanh ngu si ấy mà ta khởi giận hờn thì có khác gì họ là chẳng
nhập đạo.
Nay ta
nhập đạo lành nơi các
chúng sanh ấy lãnh nhận sự khổ chẳng khởi sân nghiệp, lòng ta phải như mặt đất
bình đẳng hứng chịu các thứ tốt xấu.
Thuở trước ta sâu thật hành
nhẫn nhục như vậy.
Lại này
Đại Mục Kiền Liên ! Từ lâu ta thường xem tất cả
chúng sanh như con một.
Như
trưởng giả giàu lớn tu trăm hạnh
trai giới cầu sanh được một con trai rất cưng yêu không biết chán đủ.
Trưởng giả ấy đối với con trai thường cầu sự tốt, thường cho sự tốt, thường ban
lợi ích, chẳng để suy não.
Cũng vậy, này
Đại Mục Kiền Liên ! Từ lâu ta đối với các
chúng sanh thường
xem như con một, thường vì các
chúng sanh mà cầu sự tốt để
lợi ích cho họ chẳng để suy não.
Với các
chúng sanh thất đạo, các
chúng sanh tà đạo, ta chỉ dạy họ
chánh đạo khiến họ an trụ trong
chánh đạo.
Do cớ ấy nên biết rằng
đức Như Lai từ lâu đối với các
chúng sanh rất
thương nhớ họ xem họ như con một.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Thuở
quá khứ có đoàn người đi buôn ban đêm
lạc đường, vì đêm tối nên chẳng biết phải đi hướng nào đều nói rằng :
Chúng ta lạc đường không ai cứu không chỗ về không nơi
y chỉ, có ai hoặc Trời hoặc Rồng hoặc Thần hoặc Nhơn,
Phi Nhơn dẫn dắt
chúng tôi giữa đêm tối đến đường chánh, ai có thể
thương xót làm
lợi ích chúng tôi, làm ánh sáng cho
chúng tôi giữa đêm
tối tăm nơi đường hiểm này.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Bấy giờ trong rừng vắng có tiên nhơn ở
thảo am giữa đêm nghe đoàn người buôn kêu than ai oán tự nghĩ rằng : Giữa đêm tối nới rừng vắng này đoàn người bị
lạc đường nếu ta chẳng cứu họ thì chẳng phải. Hoặc họ sẽ bị các
ác thú giết hại. Nghĩ xong tiên nhơn kêu to bảo các người buôn rằng : Các người chớ sợ, tôi sẽ cứu các người, tôi sẽ làm ánh sáng chỉ
con đường chánh.
Kêu gọi
an ủi đoàn người buôn xong, tiên nhơn ấy lấy áo lông bó quấn hai tay nhúng đầy dầu rồi châm lửa đốt làm đuốc sáng
chỉ đường cho đoàn người buôn.
Mọi người thấy vậy đều nghĩ rằng : Nay tiên nhơn này thật
hi hữu vì cứu
chúng ta mà chẳng tiếc
thân mạng.
Lúc tiên nhơn dùng ánh sáng nơi hai cánh tay
chỉ đường cho đoàn người buôn xong, đối với các
chúng sanh lòng từ bi càng tăng thêm nguyện rằng : Lúc tôi được
Vô thượng Bồ đề, với
chúng sanh tà đạo, tôi sẽ làm ánh sáng pháp dạy họ
chánh đạo.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Thuở
quá khứ ấy dầu đốt hai tay mà
thân tâm ta chẳng
biến đổi. Tại sao ? Vì
thâm tâm của
Bồ Tát ở nơi sự
lợi ích cho người chẳng
tham tiếc thân mạng, do
nhơn duyên dùng
tâm thanh tịnh bố thí nên hai cánh tay
bình phục như cũ chẳng có thương tích. Đoàn người buôn được đường chánh đến sáng thấy hai cánh tay tiên nhơn không
bị thương tích liền sanh
ý tưởng hi hữu : Nay tiên nhơn này có
đại thần lực, suốt đêm đốt hai cánh tay
soi sáng cho
chúng ta được
con đường chánh
mà cả hai tay đều không
bị thương tích,
chắc chắn đã nên hạnh lớn,
chắc chắn có đức lớn. Họ thưa tiên nhơn rằng :
Lành thay đại tiên, có thể làm
khổ hạnh khó làm
đệ nhứt, nay dùng
công hạnh này Ngài muốn nguyện
điều chi ?
Tiên nhơn nói với đoàn người buôn : Do sự việc này ta nguyện khi được
Vô thượng Bồ đề rồi sẽ độ các người ra khỏi khổ s?
sanh tử, với
chúng sanh tà đạo sẽ vì họ mà nói
chánh đạo.
Đoàn người buôn đều rất
vui mừng thưa rằng :
Chúng tôi nên dùng gì để
báo đáp ơn đức của Ngài ?
Tiên nhơn bảo : Các người nên chuyên làm điều lành chớ có
phóng dật.
Đoàn người buôn đồng thưa : Kính
nghe lời dạy. Họ đều
vui mừng cung kính từ biệt mà đi.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Thuở
quá khứ ấy, tiên nhơn đốt hai cánh tay làm đuốc sáng soi
đường chính là thân ta, còn đoàn người buôn này là ngàn hai trăm năm mươi
đại Tỳ Kheo vậy.
Từ lâu
đức Như Lai đối với
chúng sanh sợ hãi thì
bố thí vô uý cho họ. Đối với
chúng sanh tà đạo thì chỉ
con đường chánh. Với
chúng sanh không mắt sáng thì khiến họ được mắt
thanh tịnh. Với
chúng sanh bệnh nặng thì chữa trị cho lành. Do
duyên cớ ấy nên phải biết rằng
Như Lai từ lâu thường đối với các
chúng sanh rất có lòng
đại bi.
Lại này
Đại Mục Kiền Liên !
Quá khứ xa xưa, trong
Diêm Phù Đề này đến kiếp bịnh tật lớn, khắp nơi
chúng sanh bị bịnh lớn làm khổ. Bấy giờ vua
Diêm Phù Đề tên
Ma Ha Tu Na có tám vạn bốn ngàn
đại thành, vua có oai thế
tự tại.
Phu nhân lớn nhất mang thai, nếu lấy tay chạm đến ai thì người ấy liền lành bệnh. Đầy tháng sanh con trai. Vừa sanh xong hoàng nam ấy liền
cất tiếng nói : Tôi có thể chữa trị các người bịnh. Lại lúc sanh, trong
Diêm Phù Đề chư Thiên quỉ thần đều xướng lời rằng : Hoàng nam được sanh đây là nhơn dược. Vì
âm thanh ấy vang khắp nơi,
mọi người đều nghe nên đặt tên là Nhơn Dược.
Người thời ấy đều
tuần tự mang bịnh nhơn đến cho Vương Tử
điều trị. Khi bịnh nhơn đến, Vương Tử hoặc tay chạm thân đụng thì bịnh liền lành
an ổn khoái lạc.
Trong ngàn năm Vương Tử Nhơn Dược trị bịnh cho
mọi người, sau đó
mạng chung. Các người bịnh đến
hay tin Vương Tử đã chết đều
buồn rầu khóc than : Ai là người
cứu khổ chúng tôi. Họ tìm đến chỗ thiêu thi hài lấy tro xương tán mịn thoa lên thân tất cả bịnh liền lành. Họ đồng xướng to rằng tro tàn của thi hài Vương Tử Nhơn Dược còn có thể trị lành bệnh. Khi đã dùng hết tro xương,
mọi người lấy đất chỗ thiêu thi hài thoa lên
thân bịnh cũng được lành.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Vương Tử Nhơn Dược thuở xưa dùng
phương tiện trị bịnh cho người ở kiếp đại bịnh ấy chính là thân ta vậy.
Đối với các
chúng sanh bịnh tật không ai cứu không chỗ y tựa, ta cứu trị cho họ. Nay ta được
Vô thượng Bồ đề cũng dùng thuốc
đại trí huệ chữa trị cho các
chúng sanh cứu cánh hết khổ. Ta vì
chúng sanh mà thọ thân,
tùy theo sự gì có thể
lợi ích cho họ thì làm
lợi ích.
Lại này
Đại Mục Kiền Liên !
Quá khứ xa xưa ta từng di
một mình, có
ác thú đến muốn
ăn thịt. Lúc sắp chết lòng ta
phát nguyện rằng :
Sau khi chết tôi sẽ sanh trong rừng vắng này làm thân thú lớn, sẽ làm cho các
ác thú sát hại tôi đều được no đủ. Tại sao, vì các
ác thú thường bắt giết các thú nhỏ ăn mà chẳng được no đủ.
Sau khi chết ta liền sanh làm thân thú to lớn ở tại rừng
hoang vắng ấy cho các
ác thú uống máu
ăn thịt, tất cả đều được no đủ. Như vậy
lần lượt đến trăm ngàn vạn ức
na do tha đời ấy ta
cố ý thọ thân để làm
lợi ích các
chúng sanh.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Nếu ta tự nói lúc
hành đạo Bồ Tát đem thịt máu nơi thân mà
bố thí cho
chúng sanh được no đủ, dầu nói đến cả một kiếp hay dưới một kiếp cũng chẳng hết.
Với các
chúng sanh khổ não ta sanh lòng
đại bi làm
lợi ích cho họ như vậy.
Lại này
Đại Mục Kiền Liên !
Quá khứ xa xưa ta nhớ thân trước của ta thấy các
chúng sanh khổ não nên nghĩ rằng : Nay tôi chẳng nên bỏ họ mà chẳng cứu. Liền đến chỗ họ mà hỏi họ có sự khổ gì có cần muốn gì ? Họ đáp :
Chúng tôi rất
đói khát. Hỏi : cần thứ gì để
ăn uống ? Họ đáp : Nay
chúng tôi chỉ muốn uống máu
ăn thịt.
Nếu có thể đem thân máu thịt cho
chúng tôi ăn uống thì
chúng tôi rất
sung sướng không còn
đau khổ nữa.
Lúc ấy ta hứa cho và liền cắt thịt hứng máu cho họ
ăn uống. Lòng ta chẳng hề
hối hận chẳng sầu chẳng mê, chỉ
suy nghĩ rằng : Nay tôi cắt thịt cũng sứt được phần khổ
sanh tử cho họ. Tôi sẽ
mãi mãi vui thích bố thí như vậy.
Bố thí như vậy rồi ta rất
vui sướng.
Do
duyên cớ ấy mà biết rằng
Như Lai đối với các
chúng sanh có lòng
đại bi rất sâu vậy.
Lại này
Đại Mục Kiền Liên ! Ta nhớ thuở
quá khứ có
Quốc Vương tên
Đại Lực có đức lớn
thiện căn dầy. Nhà vua ấy nghĩ rằng : Nay ta sao chẳng
lập hội đại thí
tha hồ kẻ đến
cầu xin : cần ăn cho
thức ăn, cần uống cho
thức uống, cần
y phục cho
y phục, cần
ngọa cụ cho
ngọa cụ, cần thuốc men cho thuốc men, cần
vàng bạc thất bửu
của cải đều
cấp cho cả, đến tôi trai tớ gái xe cộ voi ngựa bò dê ruộng đất sản nghiệp
hương hoa phan lọng lục vải cũng đều
cung cấp đủ.
Bấy giờ
Thiên Đế Thích nghĩ rằng : Sao ta chẳng làm
sự chướng ngại cho vua ấy chẳng trọn
bố thí. Liền hóa làm
Bà La Môn đến hỏi vua
Đại Lực rằng nay hội thí này
bố thí thứ chi ? Vua đáp : Tôi có thứ gì đều
bố thí cả chẳng
hối tiếc.
Bà La Môn hỏi :
Chí nguyện của nhà vua như vậy, nay tôi có chỗ muốn
cầu xin, có cho được chăng ? Vua đáp : Tôi đã nói có gì đều cho cả.
Bà La Môn nói : Nhà vua đã bảo như vậy, nay tôi cần từng phần thân của vua.
Đại Lực Vương nghĩ rằng :
Bà La Môn này chẳng cần của
tiền đồ vật mà muốn phá sự đại thí này. Nếu ta chẳng đem
thân phần của ta để cho ông ấy thì chính ta tự phá hội đại thí.
Suy nghĩ xong, vua bảo
Bà La Môn : Tôi cho người
thân phần của tôi, người cứ chặt lấy
mang đi.
Bà La Môn hỏi : Nhà vua nói như
vậy mà chẳng
hối hận ư ? Vua nói : Lòng tôi chẳng
hối tiếc. Chỉ vì hôm nay có nhiều người từ bốn phương đến xin tôi đều phải
cung cấp cho họ được đầy đủ.
Bà La Môn nói : Nay
một mình tôi còn chẳng đầy đủ luận chi đến người khác. Bấy giờ vua
Đại Lực cầm dao bén tự chặt đứt cánh tay cho
Bà La Môn nói rằng : Người nên lấy một cánh tay này.
Lúc chặt cánh tay, vua
Đại Lực không động
tâm không hối hận, vì
nhứt tâm bố thí và vì hay xả bỏ tất cả nên cánh tay vua
bình phục như cũ.
Thiên Đế Thích do
duyên cớ ấy mà mất hết phước trời lòng nóng đốt
khổ não kêu la,
hiện thân sa vào
đại địa ngục
A Tỳ.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Thuở xưa ấy vua
Đại Lực đem thân mình
bố thí chính là thân ta. Còn
Thiên Đế Thích muốn
chướng ngại hội đại thí là thân trước của Điều Đạt vậy.
Thuở xưa ấy, Điều Đạt si nhơn lòng ganh tị muốn phá hội đại thí của ta mà chẳng phá được rồi bị đọa
địa ngục A Tỳ. Ngày nay ta được
Vô thượng Bồ đề lập
đại pháp thí, Điều Đạt si nhơn vẫn còn ganh tị
tham lợi dưỡng cùng người hiệp mưu muốn giết ta. Trong lúc ta
kinh hành dưới
núi Kỳ Xà Quật, Điều Đạt trèo lên núi dùng
cơ quan xeo lăn đá khối tự phá căn lành của mình sanh lòng ác đối với ta mà phải
mất lợi dưỡng
thế lực tôn quí đọa vào
đại địa ngục
A Tỳ.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Đối với Điều Đạt si nhơn từ nào ta không có
thân khẩu ý ác, mà ông ấy mãi oán thù ta,
đời đời muốn
chướng ngại sự
tu tập hạnh lành của ta, nhưng vẫn chẳng
chướng ngại được. Ta thường lấy đức
từ bi ban bố mà vẫn chẳng khiến được ông ấy có tình thân với ta. Điều Đạt
đời đời chẳng
biết ơn ta, cũng chẳng
biết ơn Trời Người
thế gian. Người như
vậy thì nhập vào hạng
tà định.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Sau này lúc sắp vào
địa ngục A Tỳ, đối với ta mới sanh
lòng tốt sâu chắc, đó cũng lá do sức
oai thần của
Như Lai.
Lúc sắp sa vào
địa ngục A Tỳ, Điều Đạt si nhơn chẳng
biết ơn ấy nghe có
tiếng gọi to rằng : Điều Đạt si nhơn giận thù
đức Phật, nơi đấng chẳng thể giết hại được mà muốn ngang khởi
nhơn duyên giết hại, do tội ấy nên nay sa vào
đại địa ngục
A Tỳ.
Nghe lời xướng to ấy, Điều Đạt
rất đỗi kinh sợ, lòng liền
điều phục mà nói rằng : Nay tôi đem cả cốt tủy
nhứt tâm quy mạng nơi Phật. Kêu lớn như vậy xong, lòng Điều Đạt liền được an vui kính tin nơi Phật, liền sa vào
địa ngục A Tỳ. Do duyên lành ấy, sau này khi ra khỏi
địa ngục được sanh trong
loài người xuất gia tu hành thành
Bích Chi Phật hiệu là Cốt Tủy.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Nay
Phật thọ ký cho Điều
Đạt được làm
Bích Chi Phật rồi thì đã thoát khổ
sanh tử. Ta độ cho Điều Đạt như bổn nguyện của ta. Đời trước ta muốn độ Điều Đạt mà bảo rằng : Ta sẽ độ ngươi mà không độ ai khác.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Điều Đạt chỉ ở chỗ ta mà gieo
nhơn duyên Niết bàn chớ chẳng gieo chỗ khác. Từ đây về sau Điều Đạt cũng chẳng ở chỗ khác trồng căn lành mà chỉ ở chỗ ta phát
lòng tin thanh tịnh nói rằng
quy mạng Phật. Do
nhơn duyên căn lành này nên ngày sau sẽ được đạo
Bích Chi Phật.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Ta thường từ lâu
thương nhớ chúng sanh như
cha mẹ thương nhớ con một, thương họ
côi cút nghèo cùng không có tài vật, qua lại
sanh tử ác đạo hiểm nạn
ngu si vô trí mù lòa không con mắt, ai dắt đường họ, ai hay cứu họ, chỉ có
một mình Phật phải dắt cứu họ.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Ta
nghĩ tưởng như vậy rồi, nếu có
chúng sanh ác khẩu mắng ta ta chẳng mắng lại, trách chửi ta ta chẳng chửi lại, giận thù ta ta trọn chẳng giận lại. Tại sao ? Vì đối với tất cả
chúng sanh ta phải thường
ban cho an vui
trọn vẹn, phải thường trừ dứt tất cả
khổ não suy loạn mà chẳng nên làm khổ làm não họ. Đối với các
chúng sanh ấy, ai có thể nhẫn nhịn, chỉ có ta hay nhẫn nhịn. Nay ta phải học
pháp chúng sanh nhẫn,
pháp thiện tịch diệt, pháp nhu
hòa thuận, phải như voi chúa
điều phục chớ chẳng như voi chẳng
điều phục.
Ví như voi chúa
điều phục lúc vào chiến trận lòng chẳng thối khuất có thể chịu được tiếng trống tiếng loa tiếng sừng tiếng hô to, nghe các thứ tiếng
ghê rợn ấy chẳng kinh chẳng sợ, có thể
chịu đựng được lạnh nóng muỗi mòng
độc trùng gió mưa
đói khát, có thể chịu được vết thương vì đao kiếm cung nỏ roi gậy mà xông thẳng vào trận chiến chẳng lui chẳng khuất. Voi lớn
điều phục ấy chẳng có
ý nghĩ ta chẳng xông vào được trận giặc mà nó chỉ nghĩ ta sẽ thắng giặc.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Lúc ta
hành đạo Bồ Tát phát tâm nguyện lớn cũng như vậy, đối với các
chúng sanh ta
điều phục tâm mình. Nếu có ai
ác khẩu chửi mắng ta chẳng mắng lại, họ giận thù đánh giết
tranh giành ta đều chẳng báo oán. Ta luôn chẳng
thối chuyển nơi
Vô thượng Bồ đề cũng chẳng
phân biệt sự này chịu được sự kia chẳng chịu được, đây nên thân cận, kia chẳng nên thân cận. Trong tất cả sự không lo sầu không
hối hận không giận hờn. Lòng không hề chán rời sự
Bồ Tát, chẳng bao giờ có
ý nghĩ ta chẳng vào được trận giặc lớn
ma chướng phiền não, mà chỉ nghĩ rằng ta có thể phá tan trận giặc ác to lớn để được
Vô thượng Bồ đề hầu
cứu độ vô lượng chúng sanh trong tam giói
sanh tử khổ. Này
Đại Mục Kiền Liên ! Thuở ta làm đạo
Bồ Tát trước kia, ta
tu hành nhẫn nhục, bao nhiêu sự
từ bi đối với
chúng sanh, nếu dùng lời để nói thì không thể hết được.
Lại này
Đại Mục Kiền Liên !
Quá khứ xa xưa có
ngoại đạo tên
Nhẫn Lực thọ pháp như vầy : Với các
chúng sanh tôi chẳng sanh lòng giận hờn.
Bây giờ có ma tên
Ác Ý nghĩ rằng nay ta sẽ đến chỗ tiên nhơn
phá hoại pháp nhẫn nhục khiến sanh
sân hận hư mất tâm
nhẫn nhục. Ma liền sai ngàn người
mắng chửi giỏi đến vây quanh tiên nhơn
buông lời ác chửi mắng, lúc đi cũng mắng, vào
tụ lạc cũng mắng, lúc ăn cũng mắng, ăn xong cũng mắng,
đứng dậy cũng mắng, ra khỏi
tụ lạc cũng mắng, về đến rừng cây chỗ
cư ngụ cũng mắng, lúc đứng lúc ngồi nằm lúc
kinh hành đều
mắng chửi,
cho đến thở ra thở vào cũng mắng, luôn theo
mắng chửi không lúc nào nghỉ. Ngàn ngưòi do ma
sai khiến ấy
mắng chửi suốt tám muôn bốn ngàn năm, còn ma
Ác Ý lúc tiên nhơn vào
tụ lạc nó tự lấy cứt đái đổ lên đầu lên bát lên y lên thân của tiên nhơn.
Tiên nhơn
Nhẫn Lực dấu bị mắng nhục cả tám vạn bốn ngàn năm mà lòng chẳng hề giận hờn, chẳng hề có
quan niệm lui bỏ hạnh tu, chẳng tự nói tôi có
tội lỗi gì, cũng chẳng dùng ác nhãn nhìn ngó kẻ ác.
Sau tám vạn bốn ngàn năm vây quanh
mắng chửi tiên nhơn
Nhẫn Lực, ngàn người giỏi mắng ấy biết chẳng
phá hoại được nên sanh
lòng tin thanh tịnh sám hối trừ tội và thưa rằng : Ngài
tu tập cầu được pháp gì
chúng tôi cũng nguyện được pháp ấy. Họ
cung kính cúng dường tôn trọng khen tặng tiên nhơn. Được
cung kính cúng dường,
Nhẫn Lực cũng chẳng sanh lòng
tham ái.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Tiên nhơn
Nhẫn Lực thuở xưa chính là thân ta.
Thuở ấy ta
tu pháp nhẫn nhục, ma
Ác Ý sai sai ngàn người
mắng chửi làm nhục suốt tám vạn bốn ngàn năm cũng chẳng khiến lòng ta đổi khác được. Ngàn người giỏi mắng sau khi
hối hận sanh
lòng tin sám hối tội lỗi theo học tiên nhơn
phát tâm Vô thượng Bồ đề, an trụ trong
Phật pháp. Ngàn người ấy đầy đủ
sáu Ba la mật thứ đệ thành Phật đều đã nhập
vô dư Niết bàn rồi. Còn ma
Ác Ý ấy chính là Điều Đạt vậy.
Lại này
Đại Mục Kiền Liên ! Ta nhớ đời
quá khứ tự đem thân
bố thí cho
chúng sanh vì người đời mà làm
nô bộc.
Thuở ấy mọi người sai sử ta. Có người sai ta đổ rửa phân tiểu, có người sai ta đổ đất, dọn cỏ, lấy
thóc gạo sữa bơ dầu mật, có người sai ta lấy củi than nước lửa, bao nhiêu thứ dịch vụ như vậy đều sai ta làm.
Này
Đại Mục Kiền Liên !
Thuở ấy ta chẳng hề sanh
tâm niệm rằng có người
sai khiến ta làm việc dơ dáy mà không
tùy theo, còn
sai bảo lấy hoa hương
châu báu vật thực dưa trái thì liền tuân lời, ta cũng chẳng hề ham sự vụ tốt mà chê sự vụ cực, ta cũng chẳng hề có
quan niệm giai cấp theo Sát Lợi chẳng theo
Bà La Môn, theo
Bà La Môn chẳng theo Sát Lợi. theo
Tỳ Xá chẳng theo
Thủ Đà, theo
Thủ Đà chẳng theo
Tỳ Xá, ta chẳng hề
phân biệt người lớn người nhỏ, theo kẻ này chẳng theo kẻ kia, hễ ai kêu ta trước thì ta liền
vui vẻ theo làm.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Thuở ta
tu đạo Bồ Tát, ta chẳng nhớ có ai sai ta làm sự việc đúng pháp mà ta chẳng làm dầu ta trọn không có sức, không bao giờ làm việc gì mà không
cứu cánh, không bao giờ làm
việc lành mà
việc lành ấy chẳng
trọn vẹn.
Nói
tóm lại, thuở ta
tu đạo Bồ Tát, ta chưa hề tham thân huống là tài vật. Ở trong tài vật, ta chẳng có
ý tưởng là tài vật của mình, chỉ do nghiệp nhơn
quả báo trước mà ta có tài vật, ở nơi tài vật ấy ta
quan niệm tài vật ấy nên cùng
chúng sanh dùng chung, ta có phần trong ấy thì
chúng sanh cũng có phần.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Ta
tu đạo Bồ Tát được gần
Phật pháp thì ở trong ấy, vui chẳng
tham trước chẳng nhiếp cũng lấy, vui rời xa các pháp, chẳng ưa nhận lấy các pháp, vui tất cả
pháp không, chẳng ưa tất cả pháp có, vui tất cả
pháp tịch diệt, chẳng ưa tất cả
pháp sự tướng, vui bổn tánh
vô sở hữu, chẳng ưa bổn tánh có
sở hữu.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Ta nhớ thuở ta
tu đạo Bồ Tát vô lượng trăm ngàn vạn đời, trong đêm
tối tăm ta tự đốt thân mình để
soi sáng dắt đường cho người
đi lạc, tự cắt thịt thân mình
bố thí cho loài
chúng sanh ăn thịt bị đói, tự chích lấy máu mình thí cho loài
chúng sanh uống máu khiến chúng đều được no đủ
vui sướng.
Nói
tóm lại, ở trong
thế gian tất cả tài vật đồ dùng sanh sống
cho đến thân thể, đối với các
chúng sanh ta trọn chẳng
tham tiếc, chẳng não chẳng hại
chúng sanh, được ngưòi trí bằng lòng, được
hiền thánh khen ngợi, trong đêm trường ta thường thật hành lòng bi
sâu xa đối với các
chúng sanh.
Lại này
Đại Mục Kiền Liên ! Ta nhớ thuở
quá khứ làm chủ đoàn buôn tên là Cát Lợi vào
đại hải lấy được nhiều
châu báu an ổn ra khỏi biển
trở lại bổn quốc vào thành về đến trước cổng nhà.
Hay tin, có nhiều kẻ ăn xin đến vây quanh nói rằng :
Lành thay đại thí chủ Cát Lợi,
chúng tôi có chỗ muốn xin, nếu ngài
vui lòng chúng tôi sẽ
cầu xin. Cát Lợi nói :
Mọi người cứ xin, nếu tôi có thể cho được thì không hề
tham tiếc. Chúng ăn xin nói : Ngài Cát Lợi vào
đại hải được bao nhiêu
vật báu quí xin cho hết
chúng tôi, được vậy
chúng tôi đều được lợi tốt. Cát Lợi liền đem tất cả trân bửu cho chúng ăn xin có đến tám mươi ức
châu ma ni, mỗi
châu ma ni đều
giá trị trăm ức lượng vàng.
Bố thí xong, Cát Lợi chẳng vào nhà mình mà
trở lại vào biển tìm lấy trân bửu. Sau khi vào
đại hải được
châu báu gấp bội, hơn tám mươi năm mới về đến bổn quốc. Lúc muốn vào thành thấy người
phạm tội bị trói
mang đi đến chỗ giết. Kẻ tử tội xa thấy Cát Lợi liền kêu to : Xin chủ đoàn buôn
ban cho tôi sự
vô úy cứu tôi khỏi tội chết ban tôi mạng sống. Ngài là
đại thí chủ người tốt
hiền lành. Cát Lợi nói với tử tội : Vâng, tôi sẽ cứu người khỏi tội chết
ban cho người sự
vô úy. Cát Lợi liền đến chỗ ban giám sát tặng mỗi người một
châu ma ni giá trị một ức lượng vàng để
yêu cầu tạm đình án lịnh chờ Cát Lợi vào tâu
Quốc Vương. Cát Lợi liền
gấp rút vào thành tâu với
Quốc Vương xin đem trân bửu tốt mua mạng sống người ấy.
Quốc Vương nói : Tội người ấy chẳng
tha thứ được, chẳng thể mua được. Nếu quyết muốn mua thì có bao nhiêu tài vật ông phải nộp hết cho ta và ông phải chịu chết mới tha người ấy được. Cát Lợi
nghe lời phán của
Quốc Vương lòng rất
vui mừng mà nói rằng tôi được lợi lớn được sở
mãn nguyện, cứu được người ấy rất
vừa ý tôi. Cát Lợi liền đem tất cả
tài sản và tất cả
châu báu lấy được ở
đại hải kể có
vô lượng ngàn ức
vàng bạc châu báu nộp cho
Quốc Vương mà tâu rằng : Xin tha người ấy, tất cả
sở hữu của tôi đều hiện ở đây.
Quốc Vương nhận tài vật xong truyền đem Cát Lợi đi chém, tay cầm đao bén đưa lên mà chém xuống chẳng được. Thị thấn cả kinh đem Cát Lợi về triều tâu sự việc ấy lên
Quốc Vương. Nghe tâu,
Quốc Vương liền tự cầm đao lên muốn chém xuống, cả hai cánh tay vua liền rơi rụng xuống đất, quá đau tức, vua kêu to lên mà chết.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Chủ đoàn buôn
thuở ấy chính là thân ta. Còn
Quốc Vương kia là Điều Đạt người
ngu si vậy.
Thuở xa xưa ấy Điều Đạt muốn giết ta mà chẳng giết được. Đến đời nay ta được
Vô thượng Bồ đề, Điều Đạt cũng muốn giết ta mà cũng chẳng được. Tại sao, vì với
Như Lai, tất cả
thế gian Trời, Người,
A Tu La không ai có thể hại được, huống là người
ngu si Điều Đạt. Nay Điều Đạt mưu mô tập họp những kẻ ác đến muốn giết ta, ông ấy cũng tự
phương tiện muốn giết cho được ta, do đó ông ấy phải
mất lợi dưỡng
danh tiếng thế lực, thân sống sa thẳng vào
địa ngục A Tỳ.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Lúc thật
hành đạo Bồ Tát ta chẳng thấy làm
lợi ích cho ai bằng làm
lợi ích cho Điều Đạt, mà ông ấy chẳng
biết ơn nghĩa.
Lúc
tu đạo Bồ Tát, ta đối với
chúng sanh như
cha mẹ, do đó mà biết rằng
tâm từ của
Như Lai luôn luôn sâu đậm đối với
chúng sanh.
Lại này
Đại Mục Kiền Liên ! Thuở
quá khứ xa xưa ở bên núi Tuyết có bầy voi năm trăm con, trong đó có voi chúa lớn
thân hình khả ái
sức mạnh có trí. Chỗ ở của bầy voi rất
hiểm trở chỉ có một
con đường để đi ra. Bấy giờ có thợ săn rình thấy bầy voi liền suốt đêm đào hố
sâu rộng giữa đường hiểm rồi
xua đuổi bầy voi đến bên hố, bầy voi không thể
vượt qua hố được. Voi chúa liền nằm ngang miệng hố làm cầu cho bầy voi chạy qua. Bầy voi qua hết rồi voi chúa vọt mình qua khỏi hố.
Lúc ấy sơn thần nói kệ rằng:
Kẻ ác đào hố sâu
Bầy voi có voi chúa
Độ chúng cũng độ mình
Uổng công đào hố sâu.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Thuở xưa voi chúa ấy chính là thân ta, bầy voi năm trăm con ấy nay là năm trăm
Tỳ Kheo bị Điều Đạt khuyến dụ đó, thợ săn
thuở ấy nay là bọn ông Điều Đạt như
Tỳ Kheo Kiển Đà
Đạt Đa,
Tỳ Kheo Ca Lâu La Đề Xá,
Tỳ Kheo Tam Văn Đà Đạt,
Tỳ Kheo Câu La Lê
Bà Đạt Đa.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Từ lâu xa, thấy
chúng sanh bị bố úy, ta
ban cho họ sự
vô úy, thấy
chúng sanh khổ não, ta
ban cho họ sự an vui, thấy
chúng sanh nghèo cùng, ta
ban cho họ tài vật, thấy
chúng sanh tà đạo, ta chỉ cho họ
chánh đạo, thấy
chúng sanh bịnh khổ, ta trừ bịnh cho họ, thấy
chúng sanh đói khát, ta cho họ
ăn uống, đem cả
thân thể mình cho các
chúng sanh ăn thịt uống máu.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Khi ta
phát nguyện gì, ta đều làm đúng và
trọn vẹn, khi ta đã hứa
điều chi với
chúng sanh thì không bao giờ ta biếng trễ.
Này
Đại Mục Kiền Liên ! Từ lúc ta
phát tâm Vô thượng Bồ đề đến nay thành bực
Vô thượng Chánh Đẳng Giác, trong
thời gian giữa,
lời nói ra đều thành thiệt không hề đổi khác,
việc làm đều
tinh tiến không hề
giải đãi thôi bỏ. Bao giờ ta cũng làm đúng như
lời nói và
lời nói đều đúng như việc làm”.
( Hết Phẩm
Đại Bi)
XVII
PHÁP HỘI
PHÚ LÂU NA
Thứ mười bảy
Hán dịch : Dao Tần, Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM ĐÁP NẠN
THỨ BẢY
Bấy giờ trong
pháp hội có một
Tỳ Kheo tên Tượng Thủ rời chỗ ngồi trịch y vai hữu gối hữu chấm đất
chắp tay bạch
đức Phật : “Bạch
Đức Thế Tôn ! Tôi nghe
đức Phật nói sự khó như vậy cả mình rởn ốc, nước mắt nước mũi chảy tuôn. Nay tôi muốn hỏi một việc.
Đức Thế Tôn tự nói lúc tu hạnh
Bồ Tát việc làm đúng như lời và
lời nói đúng như
việc làm. Lúc
ban sơ đức Thế Tôn nguyện độ tất cả
chúng sanh. Nếu đã nguyện như
vậy mà hiện nay
chúng sanh được độ chưa hết
đức Thế Tôn lại sẽ
nhập Niết bàn. Sau khi
đức Thế Tôn diệt độ, hoặc có người đến chất vấn các
Tỳ Kheo rằng
Đại Sư của các Thầy bổn nguyện sẽ độ tất cả
chúng sanh.
Chúng sanh chưa hết mà đã tự
diệt độ. Nếu họ hỏi như
vậy thì phải đáp thế nào?”
Đức Phật bảo
Tỳ Kheo Tượng Thủ : “Nếu có người chất vấn như
vậy thì nên hỏi lại họ : Ngài lấy pháp gì làm
chúng sanh ? Nếu họ đáp là ấm nhập giới là
chúng sanh thì lại hỏi họ là ấm nhập giới hoà hiệp là
chúng sanh hay ấm nhập giới ly tán là
chúng sanh ? Nếu họ nói ho hiệp là
chúng sanh thì lại nên bảo họ rằng Ngài đã tự
trả lời rồi. Tại sao ? Vì hoà hiệp là
chúng sanh, ấm nhập giới chẳng phải
chúng sanh. Pháp của Phật nói là để vì ly tán chớ chẳng phải để vì hoà hiệp.
Đức Phật thích hạnh ly tán mà chẳng thích hoà hiệp. Trong hoà hiệp không có
chúng sanh.
Nếu họ lại nói chỉ ấm nhập giới là
chúng sanh thì nên hỏi lại họ rằng nếu như
vậy thì tất cả cỏ cây ngói đá đều là
chúng sanh cả vì trong ấy cũng có ấm nhập giới. Nếu họ nói trong các thứ ấy không có tâm, không có
tâm sở nên chẳng phải là
chúng sanh , thì nên hỏi lại họ rằng nếu như
vậy thì tất cả
chúng sanh lẽ ra là một
chúng sanh. Tại sao ? Vì
đức Phật chẳng nói ấm nhập giới có khác. Nếu họ lại nói trong kinh Phật nói có
chúng sanh vì vậy nên có
chúng sanh, thì nên bảo lại họ rằng Ngài đã tự đáp rồi. Tại sao ? Vì trong kinh
đức Phật nói ly hữu ly vô. Nếu họ nói rằng như thế thì không có
đạo quả, thì nên hỏi lại họ Ngài lấy gì làm quả ? Nếu họ nói là lấy
quyết định đệ nhất nghĩa làm
đạo quả thì nên hỏi lại họ trong
quyết định đệ nhứt nghĩa không có
âm thanh ngữ ngôn. Trong không có
âm thanh ngữ ngôn chẳng được nói
quyết định có không có. Ngài nói
quyết định đệ nhứt nghĩa là quả, trong
quyết định đệ nhứt nghĩa ấy không có
chúng sanh không có
danh tự chúng sanh. Thế nên Ngài nói có
chúng sanh thì
lời nói ấy tự phá rồi.
Lại này Tượng Thủ ! Trong kinh cuả Phật nói trong các
pháp không có cái gì diệt chỉ dứt
diệt khổ não thôi. Phật
thông đạt thiệt tướng các
pháp như vậy. Theo pháp của mình được mà đem dạy
chúng sanh. Pháp của Phật nói là để vì không tham lấy, vì
viễn ly, vì không
hí luận, vì không tác khởi.
Này Tượng Thủ ! Nếu người nào biết pháp nghĩa của Phật như
vậy thì có thể chẳng bị sự có không có mà khởi sanh
hành nghiệp. Nếu người đã chẳng vì có không có mà
khởi hành nghiệp thì người ấy đâu còn thấy có
chúng sanh thấy không có
chúng sanh.
Này Tượng Thủ ! Đây gọi là thường an trụ
thiệt tướng các pháp. Trong ấy không có ức tưởng
phân biệt không cấu không
tịnh không lai không khứ không đạo không đạo không
đạo quả không trường không đoản không tròn không vuông không hình
không sắc. Thế nên nói các pháp nhứt ngôn đó là định môn vậy.
Này Tượng Thủ ! Đây gọi là
kiến pháp môn. Nhập vào
kiến pháp môn này thì có thể gọi là thấy Phậy vậy.
Này Tượng Thủ ! Ý ông thế nào, tuỳ theo dùng pháp nào thấy Phật, pháp ấy có phải là tướng diệt đã diệt nay diệt sẽ diệt chăng ?
-Bạch
Thế Tôn, không.
-Này Tượng Thủ ! Ý ông thế nào, tuỳ theo dùng pháp nào thấy Phật, pháp ấy có tướng sanh đã sanh nay sanh sẽ sanh chăng ?
-Bạch
Thế Tôn, không.
-Này Tượng Thủ ! Nếu
vậy thì Phật chẳng gọi là
diệt độ.
-Bạch
Thế Tôn, Đúng như vậy.
Này Tượng Thủ ! Nếu người ấy lại nói rằng tôi chỉ căn cứ nơi
thân tướng mà nói
Phật diệt độ. Phật
nhập Niết bàn rồi không còn
trở lại. Chỉ thấy
thân tướng chẳng cón
trở lại mà tôi nói
Phật diệt độ. Nếu họ nói như
vậy thì nên hỏi họ rằng Ngài nói
thân tướng thành tựu là Phật chăng ? Nếu họ nói phải thì nên bảo họ rằng trong kinh Phật chẳng nói
thân tướng gọi là
Như Lai. Nếu nói
thân tướng là Phật thì tất cả ngói đá núi sông cỏ cây đều là Phật cả. Nếu họ lại nói tất cả thứ ấy không có đủ ba mươi hai
tướng đại nhơn nên chẳng được gọi là
Như Lai, thì nên bảo họ rằng Ngài nói có đủ ba mươi hai tướng nên gọi là Phật, như vậy
Chuyển Luân Thánh Vương là Phật rồi. Tại sao, vì thân
Chuyển Luân Thánh Vương có ba mươi hai tướng.
- Nếu họ lại nói rằng
cứ theo tướng pháp,
Bà La Môn biết tướng pháp nói sẽ
làm Phật, sự ấy là thiệt. Nên bảo họ rằng nếu có đủ ba mươi hai tướng chính là Phật, sao ngài lại tự nói rằng
tướng sư thấy có ba mươi hai tướng thì
ghi nhận sẽ được
làm Phật. Nay Ngài nên nói tướng cuả Phật. Nếu họ nói rằng tôi nói, Phật
thập lực,
Tứ vô uý,
Thập bát bất cộng pháp,
Vô lậu,
Căn lực,
Giác đạo,
Thiền định,
Giải thoát tam muội v.v… là tướng của Phật, thì nên bảo họ rằng Ngài nói
Thập lực v.v… là tướng của Phật nay nên nói Phật
thể tánh thì phải hơn. Nếu họ nói rằng Phật cùng với tướng ấy khác nhau chăng ? Thì nên bảo họ rằng Ngài tự nói là tướng của Phật. Tướng của Phật chẳng phải Phật. Nếu họ lại nói rằng còn có
pháp không hình
không sắc là tướng của Phật
Thập lực v.v… chăng ? Thì nên bảo họ rằng
pháp không hình
không sắc sao lại dùng pháp có hình có sắc làm tướng ? Nếu Ngài lại nói
pháp không hình
không sắc gọi là Phật thì các
pháp không hình
không sắc khác cũng đều có thể là Phật cả. Nếu các pháp ấy cũng là Phật thì
Thập lực,
Tứ vô uý,
Thập bát bất cộng pháp,
Vô lậu,
Căn lực,
Giác đạo,
Thiền định,
Giải thoát tam muội v.v … cũng lẽ ra cùng
tương ưng với nó.
-Nầy Tượng Thủ ! Bổn nguyện của ta được
Vô thượng Bồ đề độ thoát tất cả
chúng sanh. Ta ngồi
đạo tràng được
Vô thượng Bồ đề rồi chẳng được
chúng sanh chẳng được
danh tự chúng sanh. Ta ngồi
đạo tràng chỉ
thông đạt pháp
mười hai nhân duyên : Vì sự này có nên có sự này, vì sự này không nên không sự này, vì sự nào có nên có sự nào, vì sự nào không nên không sự nào. Đó là do
vô minh nhơn duyên nên có các hành, do các hành
nhơn duyên nên có thức, do thức
nhơn duyên nên có
danh sắc, do
danh sắc nhơn duyên nên có
lục nhập, do
lục nhập nhơn duyên nên có xúc, do xúc
nhơn duyên nên có thọ, do thọ
nhơn duyên nên có aí, do aí
nhơn duyên nên có thủ, do thủ
nhơn duyên nên có hữu, do hữu
nhơn duyên nên có sanh, do sang
nhơn duyên nên có
lão tử ưu bi khổ não, xoay vần như vậy chỉ là khối
đại khổ tập hợp.
-Vì
vô minh diệt nên các hành diệt, vì các hành diệt nên thức diệt, vì thức diệt nên
danh sắc diệt, vì
danh sắc diệt nên
lục nhập diệt, vì
lục nhập diệt nên xúc diệt, vì xúc diệt nên thọ diệt, vì thọ diệt nên ái diệt, vì ái diệt nên thủ diệt, vì thủ diệt nên hữu diệt, vì hữu diệt nên
sanh diệt, vì
sanh diệt nên
lão tử ưu bi khổ não diệt, trong ấy chỉ là khối
đại khổ diệt. Trong ấy ta phát sanh mắt
trí huệ thấy rõ
thông đạt giải thoát không trung không hậu không hoại. Vì Phật
thông đạt giải thoát ấy nên chẳng được pháp nào khác, mà chỉ được pháp các
nhơn duyên sanh.
-Này Tượng Thủ !
Đức Như Lai là bực
thông đạt các pháp, theo đó mà giảng nói cho
chúng sanh.
-Này Tượng Thủ ! Hoặc chư Phật
xuất hiện hay chẳng
xuất hiện,
tánh tướng các pháp luôn
thường trụ bất hoại. Nghĩa là
danh sắc chẳng mất chẳng chống
trái nhau chẳng sanh chẳng khởi. Phật thường
thuyết pháp như vậy, các ông cũng phải
hiểu biết theo ý của Phật. Phật vì các ông mà nói
pháp như vậy, các ông chỉ nên siêng năng
tu hành như vậy.
-Này Tượng Thủ ! Các sự việc mà bực
Đại Sư phải làm cho
đệ tử thì ta đã làm xong. Các ông theo lời dạy mà thật hành, ở trong các pháp sẽ được
trí huệ sáng suốt”.
-Tượng Thủ lại bạch
đức Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu có người nói vì
chánh pháp của
đức Như Lai nói diệt thì ai sẽ chỉ dạy. Vì không ai chỉ dạy nên gọi là
chánh pháp diệt. Vì
chánh pháp diệt nên nói là
Như Lai diệt. Như vậy cũng gọi là chẳng độ tất cả chúng sanh”.
-Đức Phật dạy: “Này Tượng Thủ ! Nếu có người chất vấn như
vậy thì nên đáp thế này:
-Đức Phật là người
Nhứt thiết trí biết hết thấy hết, thường chờ
thời tiết chúng sanh có thể được độ. Dầu
nhập Niết bàn mà vẫn còn
lợi ích. Lại nay
Phật thọ ký Phật đời
vị lai thì
Phật chủng nối nhau chẳng tuyệt, tất cả
Phật pháp là một
Phật pháp, thế nên gọi là
Như Lai pháp.
Như Lai pháp là
Phật pháp. Do đó nên biết
đức Như Lai lúc hành
Bồ Tát đạo việc làm đúng như lời,
lời nói đúng như
việc làm vậy”.
-Tượng Thủ
Tỳ Kheo nói: “Hi
hữu Thế Tôn !
Đức Như Lai khéo có thể
thông đạt suy cầu tất cả các pháp. Vì khéo có thể
thông đạt tất cả các pháp nên thân khẩu và ý được
trí huệ dẫn đầu đều theo tr1i huệ.
Đức Như Lai lúc hành
Bồ Tát đạo việc làm đúng như lời,
lời nói đúng như việc làm”.
-Đức Phật phán : “Đúng như vậy! Đúng như lời ôg nói, lúc hành
Bồ Tát đạo, ta làm đúng như lời,
lời nói đúng như
việc làm.
-Này Tượng Thủ ! Nếu có người thành thiệt nói ai chẳng
sai lầm xuất hiện thế gian lợi ích chúng sanh an lạc Trời Người, tất cả
Đại Sư dạy nói
chánh đạo chánh trí giải thoát không có
hí luận đến
bỉ ngạn, độ kẻ chưa độ Đấng
Như Lai Thế Tôn thì nên nói chính là ta vậy. Đó là người nói thành thiệt.
-Này Tượng Thủ ! Nếu người thành thiệt nói ai là người chẳng dối phỉnh là người biết
báo ơn ? Thì nên nói chính là ta đây vậy. Đó là
lời nói thành thiệt. Này Tượng Thủ ! Nếu có
chúng sanh nào
phụng sự ta chút ít thì sự ấy chẳng mất.
-Này Tượng Thủ ! Từ lúc ta bắt đầu
phát tâm Vô thượng Bồ đề đến nay, chẳng hề có lúc nào tâm ta
thối chuyển, ta cũng chẳng nhớ có tham ưa
Thanh Văn thừa hay
Bích Chi Phật thừa cùng mong được pháp ấy. Chỉ có
một lần ta muốn dạy
đệ tử cầu
Bích Chi Phật.
-Này Tượng Thủ ! Thuở
quá khứ xa xưa,
lúc ấy ta làm
ngoại đạo tiên
trí huệ sáng lẹ
học rộng biện tài được thông
pháp nhẫn. Bấy giờ có năm trăm
Bà La Môn tuổi trẻ thấy lỗi họa
ngũ dục tại gia và thấy sự
lợi ích xuất gia nên đồng
xuất gia học đạo đến chỗ ta
nghe pháp được
đạo quả Bích Chi Phật đủ lực
thần thông tâm được
tự tại thành tựu như ý túc,
thường dùng thần lực bay vào thành ấp
tụ lạc khất thực cúng dường ta. Bấy giờ ta tự nghĩ rằng chư thánh nhơn
đại trí thanh tịnh ấy ta chẳng nên
thọ sự cúng dường của họ. Ta
giáo hoá họ mà họ được
đạo quả ấy còn ta thì chẳng được.
-Này Tượng Thủ ! Vì muốn
chứng đạo pháp Bích Chi Phật ấy ta nên siêng tu
tinh tiến.
Trời Tịnh Cư liền hiện đến bảo ta rằng chớ tham quả
Bích Chi Phật, Ngài nên được quả
Vô thượng Bồ đề, Ngài phải độ
vô lượng vô biên chúng sanh. Ta
nghe lời trời Tịnh Cư dạy rồi chẳng
tiếp tục hành đạo ấy, trong tâm được sự
hoan hỉ khoái lạc
đệ nhứt,
tịnh tọa suốt nửa tháng khoái lạc khắp
toàn thân.
-Này Tượng Thủ !
Bồ Tát thành tựu bốn pháp
chư Thiên khai ngộ thì được tâm
hoan hỷ tự
biết mình sẽ được
Vô thượng Bồ Đề.
-Những gì là bốn pháp ?
-Một là
Bồ Tát tự thâm
phát tâm Vô thượng Bồ đề và cũng dạy người thâm
phát tâm Vô thượng Bồ đề.
-Hai là thấy người thâm
phát tâm Đại thừa,
Bồ Tát chẳng có lòng
ganh ghét chẳng
quan niệm chỉ riêng mình được
Vô thượng Bồ đề.
-Ba là
Bồ Tát theo sở hành của
chúng sanh mà
tùy thời giảng dạy, có ý tốt cùng chuyện trò giúp gìn căn lành của họ.
-Bốn là siêng cầu những
chánh pháp rộng rãi vì người mà chỉ dạy chẳng bao giờ lẫn tiếc.
-Thành tựu bốn pháp này, được
chư Thiên khai ngộ,
Bồ Tát tự biết sẽ thành Phật”.
-Đức
Thế Tôn muốn
thuyết minh sự ấy mà nói kệ rằng :
Bồ Tát lòng
vững chắcAn trụ
Vô thượng thừaHay
giáo hoá chúng sanhKhiến an trụ thừa ấy
Lúc
hành đạo Bồ TátKhông có lòng tật đố
Siêbg tu phát
tinh tiếnLòng
hoan hỉ càng thêm
Thấy các
chúng sanh ác
Theo thời mà khuyên dạy
Thường dùng lòng từ bi
Không hề có
hờn giậnThường siêng tu
cầu phápLưu bố cho
chúng sanhĐem pháp đầy cho tất cả
Như mưa chảy ướt khắp
Người tu bốn pháp này
Được
chư Thiên khai ngộNgài sẽ được
làm PhậtChớ sanh lòng
nghi hoặcBồ Tát nghe lời này
Dũng mãnh thêm
tinh tiếnViệc ấy quyết phải đúng
Tôi chắc sẽ
làm PhậtChư
Bồ Tát như vậy
Dùng
tinh tiến và nguyện
Chánh niệm tri và huệ
Tự mình càng cao đại
Nếu có chư
Như LaiXuất hiện tại thế gian
Thì chư
Bồ Tát này
Có
công đức như vầyTrời người đều
cung kínhVua chúa và quan dân
Đều sanh lòng
hoan hỉBiết là người có đạo
Kinh sách chương
cú nghĩaVăn kệ môn toán số
Thảy đều giỏi
thông đạtBực
tối thượng trong người
Thông suốt có
trí huệLàm việc chẳng tốn sức
Chỉ dùng những mưu sách
Mà
thành công cả thảy
Dẹp tan các trận chiến
Chẳng
dùng sức chân tay
Chỉ
dùng sức trí huệTự nhiên giặc
hàng phụcVua chúa và quan dân
Đều khen rất
hi hữuVì
thương xót chúng sanhMà sanh ở
thế gianMọi người đều biết rõ
Bảo chuyện trò với Trời
Cớ sao lại
sáng suốtBiết rõ tâm của tôi
Bồ Tất này thường được
Gần gặp gỡ chư Phật
Hầu kề thưa thỉnh pháp
Lợi ích lớn cho người
Thưa học nơi Phật rồi
Dứt hết những nghi lầm
Hay
lợi ích chúng sanhLàm
mọi người vui mừngPhật hiện sức
thần thôngThọ ký sẽ
làm PhậtDo đó
Bồ Tát nầy
Lòng rất là
hoan hỉNhững của vật quí trọng
Trong ngoài đều không tiếc
Do đó rất
hoan hỉTự biết sẽ
thành PhậtTừ bi che
trùm khắpKhông hề có
sân hậnDo đó rất
hoan hỉTự biết sẽ
thành PhậtĐược chư Phật
ngợi khenĐã được trí
thâm diệuDo đó rất
hoan hỉTự biết sẽ
thành PhậtChẳng
y chỉ các pháp
Biết pháp chẳng y được
Được
trí huệ như trên
Thân có thể bay lên
Tâm ấy chẳng ở trong
Cũng chẳng ở tại ngoài
Ra khỏi các tưởng niệm
Nên được nhẫn
vô thượngĐêm trường dùng
từ biNhớ thương khắp
chúng sanhDo nơi phước đức này
Được thấy
vô lượng Phật
Tất cả thân
Bồ TátCùng thân Phật không khác
Được trí nhẫn như vậy
Dùng
pháp tự tăng trưởngNgười
phát tâm Bồ đềAi chẳng theo để học
Ở bền nơi
chánh phápĐược
công đức như vậy
Vì thế người
cầu phápDùng pháp
cầu tự lợi
Thì thêm lớn Bồ đề”.
Hết Phẩm Đáp Nạn
XVII
PHÁP HỘI
PHÚ LÂU NA
Thứ mười bảy
Hán dịch : Dao Tần, Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM PHÚ LÂU NA
THỨ TÁM
Bấy giờ
Tôn giả Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử bạch rằng : “Hi
hữu Thế Tôn ! Thuở
quá khứ lúc
hành đạo Bồ Tát,
đức Thế Tôn khéo an trụ vững các pháp lành”.
Đức Phật phán: “Đúng như vậy, nầy
Phú Lâu Na ! Đêm trường thuở
hành đạo Bồ Tát ta an trụ
vững chắc nơi pháp lành”.
Đức Thế Tôn muốn
sáng tỏ sự ấy mà nói kệ rằng :
“Cầu pháp hay
đắc phápGọi là gốc
Phật đạoThường siêng
tu thiện pháp
Rời xa các
phi phápThường đi trên
chánh đạoRời xa các
tà đạoThường
tu tập đạo phápMà chư
Phật thân cận
Đây thì lìa xa nạn
Được chỗ không nạn chướng
Được chỗ không nạn rồi
Tâm
tinh tiến chẳng luống
Ở hai túc
tôn quíTrên hết trong
hình sắcQuyến thuộc thành tựu đủ
Hơn hết trong tất cả
Tâm thường an trụ vững
Nơi
giới phẩm nhẫn phẩm
Cũng trụ vững
tinh tiếnTăng trưởng thiền và trí
Thường hay làm
thượng thủTrong các loài
chúng sanhTối thắng trong
công đứcRõ nghĩa được vô úy”.
Ngài
Phú Lâu Na bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Pháp
vi diệu như vậy ai sẽ chẳng học. Chỉ nhớ lại
thuở trước chúng tôi giải đãi chẳng mong được
Phật trí, chẳng tự tin mình có thể được
Phật huệ như vậy, nên dùng thừa
Thanh Văn để tự độ.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ nay tôi chỉ dạy chư
Bồ Tát cho họ an trụ
Phật thừa. Tại sao ? Vì chư
Phật Thế Tôn là người làm sự khó làm. Thuở xưa lúc làm hạnh
Bồ Tát,
đức Thế Tôn là người làm sự rất khó khăn lớn lao như vậy. Sự khó khăn lớn lao như vậy. Sự khó và lớn ấy, tất cả
A La Hán và
Bích Chi Phật còn không có huống là các
chúng sanh khác.
Bạch đức Thế Tôn ! Sự lớn lao khó khăn như vậy, chỉ có
chư đại Bồ Tát vì
thương xót các
chúng sanh mà làm
lợi ích. Do đây nên
hành đạo Bồ Tát có
vô lượng vô biên vô số sự lớn khó như vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Chư
Bồ Tát làm sự rất khó khăn lớn lao như vậy được
Vô thượng Bồ đề rồi hay
chuyển pháp luân độ thoát chúng sanh khổ não”.
Đức Phật nói : “Đúng như vậy, nầy
Phú Lâu Na !
Chư đại Bồ Tát thâm
phát tâm Vô thượng Bồ đề vì tất cả
chúng sanh mà
cầu lợi ích
an lạc, với tất cả
chúng sanh có
đại từ bi, nên lúc vì
chúng sanh mà
hành đạo Bồ Tát có
vô lượng vô biên vô số đại nguyện đại sự thậm thâm như vậy”.
Đức Phật nói kinh rồi,
Huệ Mạng Phú Lâu Na và
tứ chúng trong hội Trời, Người, Long, Thần,
Bát Bộ đều rất
vui mừng tin nhận
lời Phật dạy.
PHÁP HỘI PHÚ LÂU NA
THỨ MƯỜI BẢY
HẾT