KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
05. Phẩm Tứ Vô Lượng
Thứ Năm
Lúc bấy giờ
đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Chư
đại Bồ Tát an trụ nơi
đức tin như vậy rồi,
đức Như Lai biết
chư đại Bồ Tát ấy là
căn khí của
pháp môn Bồ Tát tạng, là
chánh pháp khí của chư Phật,
đức Như Lai liền qua đến tại chỗ để
khai pháp chỉ dạy đạo
Bồ Tát.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nay ông nên biết tướng
sai biệt của
Pháp môn ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Như thuở
quá khứ vô số vô lượng bất khả tư nghị a tăng kỳ kiếp,
thuở ấy có Phật
xuất thế hiệu là Đại Uẩn
Như Lai Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn, vì các
thế gian vô lượng đại chúng mà tuyên nói
diệu pháp, khai thị diễn bày
sơ trung hậu đều thiện, văn nghĩa khéo hay
tinh thuần đầy đủ
tùy thuận phạm hạnh.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Thuở ấy đức Phật Đại uẩn có bảy mươi hai
na do tha Thanh Văn đệ tử câu hội
thuyết pháp. Những
Thanh Văn đệ tử nầy đều là bực
đại A La Hán đã sạch các
phiền não tâm được
tự tại đến nơi
bỉ ngạn.
Nầy Xá Lơị Phất! Bấy giờ có
quốc vương tên
Tối Thắng Thọ Tri dân đúng pháp nên có hiệu là Trì Chánh Vương. Thành lớn của nhà vua ấy cai trị tên là
Tối Thắng Tràng
rộng rãi xinh đẹp an ổn giàu vui rất được
ưa thích, nhơn vật đông đúc rộn rịp
phồn thịnh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Vua Thắng Thọ có con trai tên là
Tinh Tấn Hành tuổi còn trẻ thơ,
thân hình đoan nghiêm xinh đẹp đệ nhứt đượi
mọi người ua nhìn.
Thái tử ấy đã từng
cúng dường phụng thờ câu chi na do tha trăm ngàn chư Phật gần gũi kính vâng trồng các căn lành.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Thuở ấy Thái Tử Tinh Tấn Hành cùng
nội cung xuất du nơi công viên.
Bấy giờ Phật Đại Uẩn biết
Thái Tử là
căn khí Bồ Tát tạng và là
pháp khí của chư Phật Ngài liền qua đến chỗ
Thái Tử đang
du ngoạn rồi thăng lên
hư không khai diễn Bồ Tát đạo và khen nói chư Phật
ba đời.
Thái Tử nên biết thế nào là
Bồ Tát đạo?
Chư đại Bồ Tát đối với các
hữu tình chuyên cần tu tập bốn tâm vô lượng, đó là
Đại từ ba la mật,
Đại bi ba la mật,
Đại hỉ ba la mật và
Đại xả ba la mật.
Đại Bồ Tát lại
tinh tấn tu tập các nhiếp pháp. Nếu có
Bồ Tát nào
tu hành như
vậy thì gọi là khai
Bồ Tát đạo.
Nầy Thái Tử! Thế nào là đối với các
chúng sanh,
đại Bồ Tát tinh tấn tu học Đại từ vô lượng ba la mật?
Đại Bồ Tát thật hành
Bồ Tát đạo vì
Vô thượng Bồ đề nên
tâm từ cùng khắp
chúng sanh giới. Hạn lượng gì làm
chúng sanh giới? Hết
hư không giới là
chúng sanh giới.
Nầy Thái Tử! Như
hư không giới không đâu chẳng khắp,
đại từ vô lượng của
Bồ Tát cũng như vậy, không có
chúng sanh hàm thức chủng loại nào mà chẳng khắp. Như
chúng sanh giới không có hạn lượng,
tâm từ của
đại Bồ Tát cũng không hạn lượng. Vì
hư không vô biên nên
chúng sanh vô biên, vì
chúng sanh vô biên nên
tâm từ cũng
vô biên.
Thái Tử nên biết
chúng sanh giới nhiều, chớ chẳng phải
địa giới thủy giới hỏa giới phong giới nhiều.
Đức Phật sẽ vì
Thái Tử mà nói ví dụ.
Giả sử số lượng
thế giới mười phương như
số cát sông Hằng. Tất cả
thế giới ấy
đồng thời hiệp lại thành biển lớn chứa đầy nước. Lại có
hằng hà sa số chúng sanh cùng hội lại chẻ một sợi lông làm một trăm năm mươi phần rồi cùng lấy một phần lông chấm lấy nước biển. Kế đó có số
chúng sanh đồng như trên cũng hội đến lấy một phần lông chấm lấy nước biển. Cứ
tuần tự kế tiếp chấm nước biển như vậy.
Giả sử dùng cách lấy lông chấm lấy nước biển như vậy còn có thể chấm lấy hết nước trong biển lớn ấy, nhưng
chúng sanh giới tánh
vô biên lượng. Thế nên biết tánh
chúng sanh vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn.
Tâm từ của
đại Bồ Tát khắp đầy trong ấy.
Nầy Thái Tử!
Tu tâm từ vô lượng vô biên như vậy, có ai biết được
biên tế chăng?
Tinh Tấn Hành thưa:
Bạch đức Thế Tôn! Không có thể biết được
biên tế.
Đức Phật Đại Uẩn nói:
Đúng như vậy. Nầy Thái Tử!
Đại Bồ Tát tu thiện căn
đại từ trùm khắp chúng sanh giới không hạn lượng.
Lại nầy Thái Tử! Nay
đức Như Lai lại nói tướng của
đại từ.
Thái Tử nên biết
đại từ nầy
vô lượng hay
bảo hộ tự thân mình.
Đại từ nầy hay
phát khởi lợi ích kẻ khác.
Đại từ nầy là tối
đệ nhứt trong các đức
vô tranh luận.
Đại từ nầy hay dứt trừ cây gốc
sân hận.
Đại từ nầy hay diệt hẳn tất cả
lỗi lầm.
Đại từ nầy hay rời xa
tham ái các cõi.
Đại từ nầy chỉ nhìn đức tốt
thanh tịnh của
chúng sanh mà chẳng thấy những tội xấu.
Đại từ nầy hay vượt khỏi
nhiệt não xâm hại.
Đại từ nầy hay sanh trưởng sự vui cho than ngữ và ý.
Đại từ nầy có
năng lực chẳng bị kẻ khác làm hai.
Đại từ nầy có tánh
an ổn rời những sự
sợ hãi. Sức
thiện căn đại từ nầy
tùy thuận thánh đạo.
Đại từ nầy hay khiến kẻ nhiều sân
bạo ác chẳng tin pháp sanh
lòng tin thanh tịnh.
Đại từ nầy hay cứu vớt nhiều
chúng sanh. Do sức
đại từ nầy nên
tự nhiên không cầm võ khí.
Đại từ nầy hay dắt dìu
chúng sanh đến
giải thoát.
Đại từ nầy hay diệt những
sân hận ác hại.
Đại từ nầy rời xa sư dối hiện
oai nghi nịnh bợ gạt lường bức ép cầu đòi, mà hay
tăng trưởng sự
lợi ích cung kính danh dự. Do sức
đại từ nầy nên được
Đế Thích Phạm Thiên cung kính. Dùng
đại từ trang nghiêm thân tâm nên người hành
đại từ được người
trí huệ đồng
khen tặng.
Đại từ nầy hay phòng hộ tất cả kẻ ngu. Sức
đại từ nầy vượt khỏi cõi dục thuận
trời Phạm Thiên và mở đường
giải thoát.
Đại từ này là tối
tiền đạo của
đại thừa.
Đại từ nầy hay nhiếp phục tất cả các thừa.
Đại từ nầy hay chứa họp nhóm phước
vô nhiễm. Sức
từ thiện nầy hơn tất cả những
phước nghiệp có chỗ
sở y.
Đại từ nầy hay
trang nghiêm ba mươi hai tướng và tùy
hảo tướng.
Đại từ nầy hay rời xa những tướng xấu thô và căn chẳng đủ.
Đại từ nầy là
con đường bằng thẳng đến
thiện đạo và
Niết Bàn.
Đại từ nầy hay rời xa tất cả
ác đạo và
tám nạn. Sức
đại từ nầy hay
ưa thích pháp lạc mà chẳng
ưa thích tất cả sự
thọ dụng vui sướng trong ngôi vua
sang giàu. Do sức
đại từ nầy nên có
tâm bình đẳng
bố thí cho các
chúng sanh.
Đại từ nầy hay rời xa các thứ
vọng tưởng.
Đại từ nầy làm cửa
làm đường làm sở do
học luật nghi và hay
cứu tế kẻ phạm
cấm giới.
Đại từ nầy hiện sức
nhẫn nhục và hay rời xa tất cả
kiêu mạn tự cao tự đại.
Đại từ nầy hay
phát khởi tinh tấn bất động khiến
tu tập chánh hạnh phương tiện mau được
cứu cánh.
Đại từ nầy hay làm cội gốc cho những
tịnh lự giải thoát và chánh chỉ chánh quán.
Đại từ nầy hay khiến tâm rời khỏi
phiền não sanh tử và
phát khởi tất cả
trí huệ. Do
đại từ vô lượng hay nghe học ghi nhớ nên các
đạo phẩm của mình của người đều
quyết định cả.
Đại từ nầy hay khiển
trừ phiền não thuận với ma. Do sức
đại từ nên đồng an trụ nơi
an lạc.
Đại từ nầy hay khiến người lúc đi đứng ngồi nằm đều
giữ kín oai nghi.
Đại từ nầy hay làm tổn giảm các điệu cử tánh dục.
Đại từ nầy như hương thơm xoa thân và ướp
y phục tàm quý.
Đại từ nầy hay khiển trừ các
ác đạo các nạn tai và
phiền não.
Đại từ nầy hay cứu vớt tất cả
chúng sanh.
Đại từ vô lượng nầy hay quên bỏ sự vui của mình mà
ban cho tất cả
chúng sanh sự
an ổn khoái lác.
Đại từ nầy có
vô lượng tướng dạng như vậy, nay
đức Như Lai chỉ nói tóm lược.
Đây gọi là đức
Đại từ vô lượng ba la mật của
đại Bồ Tát. Do
thành tựu đại từ nầy nên
đại Bồ Tát nhìn thấy
chúng sanh luôn có lòng lành thương mà siêng
tu học chánh pháp không biết mỏi mệt.
Thái tử nên biết đức từ của
Thanh Văn chỉ có thể tự cứu. Đức từ của
Bồ Tát rốt ráo hay
độ thoát tất cả
chúng sanh.
Nầy Thái Tử!
Đại từ nầy có ba: Một là
chúng sanh duyên từ, chỗ được của
Bồ Tát sơ phát
đại tâm. Hai là
pháp duyên từ, chỗ được của
Bồ Tát xu hướng thánh hạnh. Ba là
vô duyên, chỗ được của
Bồ Tát chứng
vô sanh pháp nhẫn.
Đây gọi là
Đại từ vô lượng ba la mật của
đại Bồ Tát. Do an trụ
Đại từ nầy nên tâm của
Bồ Tát trùm khắp tất cả
chúng sanh.
Lại nầy
Tinh Tấn Hành Thái Tử! Thế nào là đức
Đại Bi vô lượng ba la mật của đại Bồ Tát?
Vì muốn chứng được
Vô thượng Bồ đề nên
đại Bồ Tát lấy
đại bi làm đạo thủ. Như
hơi thở là đầu hết của mạng người. Cũng vậy,
đại Bồ Tát chứng được
đại thừa cũng dùng
đại bi mà làm đạo thủ.
Như vua
Chuyển Luân có đủ bảy thứ báu, phải lấy
kim luân để làm
tiền đạo. Cũng vậy, bao nhiêu
Phật pháp đã được,
đại Bồ Tát phải dùng
đại bi làm đạo thủ.
Lại nầy
Thái Tử !
Đại Bồ Tát vì
Vô thượng Bồ đề nên độ các
chúng sanh, thật hành đức
đại bi chẳng bỏ tất cả
chúng sanh. Thế nào là
đại Bồ Tát ở chỗ
chúng sanh phát khởi đại bi?
Nầy Thái Tử! Lúc thật hành
đại bi,
đại Bồ Tát thấy các cúng sanh bị
thân kiến hư ngụy trói cột, bị các
ác kiến giấu nhốt. Thấy như vậy rồi đối các
chúng sanh đại Bồ Tát pháp khởi
đại bi: Ta sẽ
thuyết pháp vi diệu cho họ dứt hẳn
thân kiến hư ngụy và các
ác kiến trói cột.
Nầy Thái Tử! Lúc thật hành
đại bi,
đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh an trụ nơi chẳng thiệt
hư ngụy điên đảo: ở trong
vô thường hư vọng cho là thường, ở trong các khổ
hư vọng cho là vui, ở trong ngã
hư vọng cho là có ngã, ở trong
bất tịnh hư vọng cho là có ngã, ở trong
bất tịnh hư vọng cho là tịnh. Thấy như vậy rồi đối với các
chúng sanh đại Bồ Tát pháp khởi
đại bi: Ta sẽ thuyết
vi diệu pháp cho họ dứt hẳn chẳng thiệt
hư vọng điên đảo.
Nầy Thái Tử! Lúc thật hành
đại bi,
đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh ngu si điên đảo say đắm nơi
ái dục, với mẹ hay chị em còn sanh lòng
cưỡng bức huống là với người khác. Thấy như vậy rồi
đại Bồ Tát nghĩ rằng: Khổ thay cho
thế gian sao lại có thể dung chứa những thứ phi thánh, sao mà đầy những
nghiệp ác vô sỉ. Quấy quá thay cho
chúng sanh ấy, họ đã từng ở trong thai mẹ sanh ra
do nơi sản môn, sao lại
vô sỉ cùng mẹ làm sự ấy.
Chúng sanh ấy quá
tội lỗi rất đáng thương rất
đáng trách, họ bị
tham sân si làm hại, lại bị
vô trí làm hại mà bỏ rời
chánh pháp ở nơi
phi pháp tập làm pháp ác, phải đọa trong các nẻo
địa ngục ngạ quỷ súc sanh. Vì bị
nghiệp ác dắt dẫn nên
chúng sanh ấy đi đến đâu đều làm sự
phi đạo. Như loài cheo ở trong gò mả bị bầy chó đuổi bắt nên
chạy trốn sa vào hố sâu giữa đêm kêu gào. Lại như người
sanh manh sợ chó chạy sa vào khe sâu. Lại như bầy heo đứng nằm rên phẩn dơ và ăn cả phẩn chẳng biết gớm nhờm. Các
chúng sanh ấy cũng như vậy. Họ rất đáng thương, bị lòng dâm bứt ngặt với người thân l2m sự phi thân, bị các
phiền não làm hại, làm đồ đảng ma, bị lưới ma quấn trói, bị gói trùm trong lưới
mê hoặc, bị ngập lún trong bùn đục nhiễm.
Thấy như vậy rồi đối với các
chúng sanh đại Bồ Tát pháp khởi
đại bi: Ta sẽ vì họ mà thuyết
diệu pháp cho họ dứt hẳn các
phiền não tham dục.
Lại nầy Thái Tử! Lúc thật hành
đại bi,
đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh bị
ngũ cái che đậy, bị trúng tên
ái dục, tham đắm
sáu trần: mắt thấy sắc thì nắm lấy
tướng mạo chẳng bỏ được, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm mùi, thân chạm xúc đều nắm lấy
hình tướng chẳng bỏ được. Các
chúng sanh ấy nhiều
sân hận oán thù nhau. Nếu được lợi là
bạn thân, nếu
mất lợi thì gia hai. Các
chúng sanh ấy nhiều
hôn trầm ngủ nghỉ hèn kém
ngu độn bị màn
vô trí che đậy. Các
chúng sanh ấy bị điệu hối
bất thiện buộc ràng, thường bị các
phiền não làm
ô nhiễm tâm họ. Các
chúng sanh ấy bị mắc trong lưới nghi, họ chẳng
quyết định được nơi pháp
thâm diệu.
Thấy như vậy rồi đối với các
chúng sanh đại Bồ Tát pháp khởi
đại bi: Ta sẽ vì họ
thuyết pháp cho họ dứt hẳng các ấm cái ấy.
Lại nầy Thái Tử! Lúc thật hành
đại bi,
đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh bị sự làm hại của mạn,
quá mạn,
ngã mạn,
tăng thượng mạn,
tà mạn. Với kẻ kém thua cho ta là hơn. Lại có
chúng sanh cho sắc là ngã, hoặc cho thọ, cho tưởng, cho hành hoặc cho thức là ngã. Với chỗ chưa chứng chưa được cho rằng ta đã chứng đã được, vì thế nên
tự thị mà chẳng chịu
học hỏi nơi đáng được
học hỏi, chẳng
lễ bái nơi đáng
lễ bái, chẳng kính thuận bực tôn trưởng, chẳng
tôn trọng bực thầy đáng
tôn trọng. Với bực
trí huệ chẳng thỉnh hỏi thế nào là thiện là
bất thiện, thế nào là nên tu chẳng nên tu, thế nào là nên làm chẳng nên làm, thế nào vô tội có tội, thế nào là đạo, là
giải thoát, là
chánh định. Nơi các pháp ấy chưa từng
hiểu biết rõ mà tự cho mình là hơn là trên.
Thấy như vậy rồi,
đại Bồ Tát pháp khởi
đại bi đối với các
chúng sanh: Ta sẽ vì họ
thuyết pháp cho họ dứt hẳn giống
kiêu mạn.
Lại nầy Thái Tử! Lúc thật hành
đại bi,
đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh bị dây
tình ái trói chặt, làm tôi mọi cho
tình ái, bị
vợ con buộc ràng, bị các thứ suy họa đeo theo, bị cửa khóa
sanh tử ngăn nhốt chẳng ra thoá, bị
câu thúc nơi
địa ngục ngạ quỷ súc sanh mà chẳng được
tùy ý tự tạiThấy như vậy rồi,
đại Bồ Tát pháp khởi
đại bi đối với các
chúng sanh: Ta sẽ vì họ
thuyết pháp thâm diệu cho họ được
tùy ý tự tại thẳng đến
Niết Bàn.
Lại nầy Thái Tử! Lúc thật hành
đại bi,
đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh xa rời
thiện hữu mà theo bạn ác, vì gần bạn ác nên họ ham làm những
nghiệp ác như là
sát sanh, trộm cướp,
tà dâm,
vọng ngữ, chia rẽ,
cộc cằn văn hoa,
tham lam,
sân hận,
tà kiến, gầy dựng
vô lượng nghiệp ác như vậy.
Thấy như vậy rồi,
đại Bồ Tát pháp khởi
đại bi đối với các
chúng sanh: Ta sẽ vì họ
thuyết pháp thâm diệu cho họ gần gũi
thiện hữu để họ dứt hẳn mười
nghiệp đạo ác mà làm mười
nghiệp đạo lành.
Lại nầy Thái Tử! Lúc thật hành
đại bi,
đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh bị những
ngu si che khuất, bị màn tối
vô minh làm mờ lòa nên
điên đảo chấp trước, đối với tự thân,
hữu tình,
tác giả,
thọ giả,
ngã và ngã sở hữu,
vô lượng vô biên kiến chấp như vậy đều
nắm chặt chẳng bỏ.
Thấy như vậy rồi,
đại Bồ Tát phát khởi đại bi đối với các
chúng sanh: Ta sẽ vì họ
thuyết pháp thâm diệu cho họ được
thánh huệ nhãn
thanh tịnh mà dứt hẳn tất cả
kiến chấp điên đảo.
Lại nầy Thái Tử! Lúc thật hành
đại bi,
đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh mến thích
sanh tử mải miết luân hồi,
chạy theo ngũ ấm, chẳng rời
tam giới, chẳng lo
tháo gỡ gông cùm xiềng xích để ra khỏi ngục tù
tam giới.
Thấy như vậy rồi,
đại Bồ Tát phát khởi đại bi đối với các
chúng sanh: Ta sẽ
thuyết pháp thâm diệu cho họ
phát khởi ngũa ấm
sanh tử trong
tam giới.
Lại nầy Thái Tử! Lúc thật hành
đại bi,
đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh từ
nghiệp ác sanh, như quả bóng như vòng xe xoay lăn
bất định, do nghiệp ấy mà từ
thế gian nầy đến
thế gian kia, từ
thế gian kia đến
thế gian nầy
lưu chuyển nhanh chóng thẳng đến năm loài trái đường
Niết Bàn.
Thấy như vậy rồi,
đại Bồ Tát phát khởi đại bi đối với các
chúng sanh: Ta sẽ vì họ
thuyết pháp thâm diệu mở rộng cửa
Niết Bàn cho họ thẳng vào.
Nầy Thái Tử! Lúc thật hành
đại bi,
đại Bồ Tát quan sát tánh
chúng sanh phát khởi mười thứ
đại bi vô lượng như vậy.
Lại nầy Thái Tử!
Đại Bồ Tát lại có mười
đại bi chuyển tướng. Nghĩa là
đại bi như vậy
do nơi chẳng dua bợ mà được
sanh khởi dường như
hư không, vì
vĩnh viễn xuất ly hẳn vậy.
Đại bi như vậy
do nơi chẳng dối phỉnh mà được
sanh khởi, vì
từ ý tăng thượng mà được
xuất ly vậy.
Đại bi như vậy do chẳng
giả trá mà được pháp khởi, vì từ đạo như thiệt tâm
chất trực mà
xuất ly vậy.
Đại bi như vậy do chẳng vạy vò mà được pháp khởi, vì rất khéo an trụ nơi tâm chẳng vạy vò mà
xuất ly vậy.
Đại bi như vậy do không
kiêu căng tự cao khiếp nhược mà được
sanh khởi, vì nơi tất cả
hữu tình,
kiêu mạn và lui thua, đã khéo
xuất ly vậy.
Đại bi như vậy do
bảo hộ hữu tình mà được
sanh khởi, vì
từ tâm mình
thanh tịnh mà
xuất ly vậy.
Đại bi như vậy do huệ
kiên cố mà được
sanh khởi, vì rời hẳn tâm động
bất động diệu
trụ tâm mính khéo
xuất ly vậy.
Đại bi như vậy do bỏ sự vui của mình mà được
sanh khởi, vì trao sự vui cho người khác khéo
xuất ly vậy.
Đại bi như vậy do muốn
nâng đỡ các
chúng sanh mà được
sanh khởi, vì
tinh tấn bền chắc khéo
xuất ly vậy.
Lại nầy Thái Tử!
Đại bi vô lượng của đai
Bồ Tát lại có mười thứ
chuyển tướng, nghĩa là tất cả
đại thừa xuất ly đều nhơn nơi
đại bi mà được
xuất ly, do như
vậy mà gọi là
đại bi.
Đại bi như vậy
xây dựng tất cả
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
tịnh lự,
trí huệ, do đây nên gọi là
đại bi.
Đại bi như vậy xậy dựng
niệm xứ,
chánh cần,
thần túc,
đại bi như vậy
xây dựng căn, lực,
giác chi,
chánh đạo, các
thứ đệ định, mười
nghiệp đạo lành, nhẫn đến các tướng đều
xây dựng cả, do đây nên gọi là
đại bi.
Đại bi như vậy
xây dựng trí huệ tự nhiên của
Như Lai, do đây nên gọi là
đại bi.
Thái Tử nên biết
đại bi như vậy làm việc của mình làm, làm khéo, làm chẳng
biến đổi khác, vì
chúng sanh mà làm việc nên làm.
Đại bi như vậy tất cả
chúng sanh đều
viên mãn như ý.
Đây gọi là
Đại bi vô lượng ba la mật của
đại Bồ Tát.
Do
thành tựu Đại bi vô lượng ba la mật nầy,
đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh ở nơi chỗ như vậy lại càng
thương mến họ.
Lại nầy Thái Tử! Thế nào gọi là
Đại hỷ vô lượng ba la mật của đại Bồ Tát?
Nầy Thái Tử! Lúc
đại Bồ Tát vì
chúng sanh cầu
Vô thượng Bồ đề mà
tu hành đại hỷ.
Đại hỷ như vậy có
vô lượng tướng.
Đại hỷ của
Bồ Tát có tên là đức hỷ
vi diệu thanh tịnh vui mừng nhớ nghĩ các pháp lành. Tại sao? Vì nơi các pháp lành không có tánh
buồn chán, không có tánh lui thua, không có tánh mỏi mệt.
Đại hỷ nầy lại có tên là tánh rời xa tất cả sự
ưa thích thế gian. Tại sao? Vì là tánh an trụ nơi tất cả sự
ưa thích pháp lạc.
Đại hỷ nầy hay làm cho trong tâm
vui mừng, thân sức
dũng cảm. Tại sao? Vì
trí huệ thơ thới tâm ý hớn hở.
Đại hỷ nầy
ưa thích thân
Như Lai. Tại sao? Vì thích cầu
tướng hảo trang nghiêm.
Đại hỷ nầy
nghe pháp không chán mỏi. Tại sao? Vì
vui thích y
chánh pháp cóù thể thật hành đúng.
Do
đại hỷ nầy mà đối với
chánh pháp thì
vui thích siêng làm, với
chúng sanh thì
không tâm tổn hại, với
Bồ đề thì mến ưa, với pháp rộng lớn thì tin hiểu,
phát khởi tâm rời xa
tiểu thừa quyến giáo.
Đại hỷ nầy tên là
chế phục xan tham. Tại sao? Vì đối với người
cầu xin thì
quyết định bố thí.
Do
đại hỷ nầy với người
phạm giới thì
thương xót nhiếp thọ họ, với người
trì giới thì tâm thường
thanh tịnh. Lại nay làm cho chính mình có
giới hạnh thanh tịnh.
Đại hỷ nầy có tên là đức hỷ
an ổn vượt khỏi tất cả sự hãi sợ
ác đạo. Là đức hỷ nhịn chịu lời chê tiếng mắng của kẻ khác. Là đức hỷ không báo oán, vì lòng cam nhận chịu lúc bị người móc mắt chặt đứt tay chưn. Là đức hỷ
cung kính tôn trọng, vì đủ
oai nghi cung kính tôn trọng lễ bái các bực tôn trưởng. Là đức hỷ luôn
vui vẻ, vì tâm ý hòa vui rời xa
buồn phiền ngỏ lời thăm hỏi trước. Là đức hỷ rời xa tất cả sự dua bợ
dối trá phỉnh gạt bức ngặt cầu đòi. Tại sao? Vì đức hỷ nầy
xu hướng con đường chánh pháp chơn thiệt.
Do đức hỷ nầy nên đối với chư
Bồ Tát mến ưa bực
đại sư, với
chánh pháp rất mến ưa như
thân thể mình, với
Như Lai rất mến ưa như mạng sống của mình, với thầy tổ rất mến ưa như
cha mẹ mình, với các
chúng sanh rất mến ưa như con ruột, với
thọ giáo sự rất mến ưa như tròng mắt mình, với các
chánh hạnh rất mến ưa như đầu mình, với các
ba la mật rất mến ưa như tay chân mình, với
thuyết pháp sư rất mến ưa như những
châu báu, với
chánh pháp được học rất mến ưa như thuốc hay, với người hay cử tội và
ức niệm rất mến ưa như
lương y.
Đây gọi là
Đại hỷ vô lượng ba la mật của
đại Bồ Tát.
Do an trụ
đại hỷ nầy mà thật hành
Bồ Tát hạnh nên
đại Bồ Tát thường có lòng
vui mừng siêng cầu
chánh pháp không nhàm mỏi.
Lại nầy Tinh Thấn Hành Thái Tử! Thế nào gọi là
Đại xả vô lượng ba la mật của đại Bồ Tát?
Bồ Tát vì
chúng sanh mà
phát tâm Vô thượng Bồ đề rồi, phải hành
đại xả. Đức xả nầy có ba thứ: đức xả bỏ
phiền não đức xả
bảo hộ mình và người và đức xả thời
phi thời.
Những gì gọi là đức xả bỏ phiền não?
Nầy Thái Tử!
Đại Bồ Tát đối với chỗ kính thờ mình tâm chẳng cao đại, với chỗ chẳng kính thờ
tâm không ty hạ. Nếu được
lợi dưỡng tâm chẳng
kiêu căng, chẳng được
lợi dưỡng tâm chẳng uất ức. Với chỗ
trì giới và
phạm giới tâm luôn
bình đẳng. Được
danh dự lớn tâm chẳng mừng, bị chê bai tâm chẳng buồn. Với chỗ
ca ngợi thì khéo an trụ
pháp tánh, nếu bị
quở trách thì không
thối chí. Với các sự khổ thì có sức
trí huệ, với các sự vui thì có sức
quán giải vô thường khổ, bỏ
ái dục, dứt giận hờn. Nơi
oán thân tâm luôn
bình đẳng, nơi
thiện ác tác tâm thường không hai. Nơi được yêu chẳng yêu lòng chẳng
rung động, nơi nghe tốt nghe dở chẳng hề
chấp trước. Nơi lời lành lời ác lòng không thương ghét, nơi những món ngon bổ và dở hại thì cân lường
bình đẳng. Với thân mình và kẻ khác
lòng tin yêu
bình đẳng. Nơi mạng sống của mình không có lòng đoái luyến. Với các
chúng sanh hạ trung và thượng đều
quan niệm bình đẳng. Với pháp ẩn
pháp hiển khởi tánh bình đẳng, với đế và phi đế tự thể đều
thanh tịnh.
Nếu
đại Bồ Tát có thể
tự nhiên phát khởi sự
đối trị thù thắng thì gọi là đức xả bỏ
phiền não của
đại Bồ Tát.
Lại nầy Thái Tử! Những gì gọi là đức xả
bảo hộ mình và người? Nếu lúc
đại Bồ Tát bị người chặt đứt tay chưn lột da xẻo thịt thì thường tự
quan sát nội tâm an trụ nơi
đại xả, không chút
hy vọng cũng không hờn oán. Dầu là
lời nói hay hành động
xúc phạm đều có thể
cam chịu. Đây gọi là đức xả
bảo hộ mình và người.
Đại Bồ Tát lại
quan sát hai
tâm niệm không
tổn hại, đó là chẳng do nhãn tướng và
sắc tướng,
cho đến chẳng do ý tướng và
pháp tướng mà sanh lòng
tổn hại, luôn an trụ nơi xả. Tại sao? Vì không tổn không hại mới gọi là đức xả
bảo hộ mình và người.
Lại những gì gọi là đức xả
bảo hộ mình và người.
Bị người hại mà chẳng báo oán, với mình với người đều nhịn chịu được, đây gọi là đức xả
bảo hộ mình và người.
Với người có ơn và không ơn đều
bình đẳng giúp đỡ, đây gọi là đức xả. Đức xả nầy gọi là đức xả tột
vô tranh, là đức xả diệt tâm mình, là đức xả
quan sát tự thể, là đức xả chẳng hại người. Nơi các sự
quyết định,
Bồ Tát có thể xả bỏ.
Dầu vậy, nhưng
đức Phật Thế Tôn chẳng
cho phép chư
Bồ Tát chỉ
tu đức xả thôi, mà chư
Bồ Tát còn phải
tu tập các
tác dụng các
chánh hạnh, ngày đêm thường nhớ
phát khởi tinh tấn cầu các pháp lành. Với thời
phi thời mới nên
tu đức xả.
Lại nầy Thái Tử! Những gì gọi là đức xả thời phi thời?
Đại Bồ Tát có đủ
trí huệ lớn khéo hay
tu tập thời và
phi thời. Nghĩa là với các
chúng sanh phi pháp khí nên
sanh khởi xả, với kẻ chẳng
cung kính nên
sanh khởi xả, với những không
lợi ích chê bai
khổ não nên
sanh khởi xả, với
Thanh Văn thừa nên
sanh khởi xả, ở lúc tu hạnh
bố thí nên xả để tu giới, ở lúc tu giới nên xả để
tu nhẫn, ở lúc
tu nhẫn nên xả để dẫn phát thí giới và
tinh tấn, ở lúc tu
tinh tấn nên xả để tu giới, ở lúc tu
tịnh lự nên xả hạnh thí, ở lúc
tu huệ nên xả những duyên
phát khởi năm độ kia.
Đây gọi là đức xả thời
phi thời của
đại Bồ Tát. Tại sao? Do vì nơi pháp chẳng nên làm không có tánh tạo tác,
Bồ Tát biết rõ là
vô ích nên thật hành đức xả.
Nếu có
đại Bồ Tát an trụ đức
Đại xả ba la mật mà thật hành
Bồ Tát hạnh thời với các pháp ác
bất thiện đều hay
phát khởi đức
đại xả.
Nầy Thái Tử! Các tướng như vậy gọi là những đức
Đại từ,
Đại bi,
Đại hỷ và
Đại xả của
đại Bồ Tát.
Nếu
đại Bồ Tát an trụ bốn
vô lượng ba la mật ấy, phải
biết mình chính là
căn khí của
pháp môn Bồ Tát tạng, lại là
căn khí của
chánh pháp Phật.
Đức Như Lai bảo Ngài
Xá Lợi Phất,
đức Phật Đại Uẩn vì
Tinh Tấn Hành
Thái Tử mà giảng rộng bốn
vô lượng ấy rồi lại khai thị
sáu ba la mật đa và các nhiếp pháp cho
Thái tử ấy
tùy thuận tu học.
“Nầy Xá Lơị Phất!
Thái Tử Tinh Tấn Hành ấy
chuyên cần tu tập những pháp đã được nghe như sau đây sẽ nói rõ”.