KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh
Thứ Tư
Lúc bấy giờ
đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Chư
đại Bồ Tát ấy khéo an trụ nơi
đức tin thanh tịnh như vậy rồi, lại có
thể tín thọ mười thứ pháp
bất tư nghị của
đức Như Lai Chánh Biến Tri, phụng trì kỹ lưỡng
thanh tịnh không lầm không nghỉ, chẳng
phân biệt sai khác, lại càng hớn hở rất
vui mừng phát
lý tưởng cho là
hi hữu lạ lùng
Những gì gọi là mười pháp
bất tư nghị của Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất! Một là
tín thọ thân
Như Lai bất tư nghị. Hai là
tín thọ âm thanh Như Lai bất tư nghị. Ba là
tín thọ trí
Như Lai bất tư nghị. Bốn là
tín thọ quang minh Như Lai bất tư nghị. Năm là
tín thọ thi la và
chánh định Như Lai bất tư nghị. Sáu là
tín thọ thần thông Như Lai bất tư nghị. Bảy là
tín thọ lực
Như Lai bất tư nghị. Tám là
tín thọ vô úy Như Lai bất tư nghị. Chín là
tín thọ đại bi Như Lai bất tư nghị. Mười là
tín thọ Phật pháp bất cộng Như Lai bất tư nghị.
Đó gọi mà mười thứ pháp
bất tư nghị. Nếu có
đại Bồ Tát vì
cầu pháp mà
phát khởi chánh cần chẳng khiếp chẳng thối chẳng bỏ rời mà
phát tâm như vầy: nay tôi chưa được pháp
bất tư nghị thà khiến gió chuyển xoay thân tôi
da thịt gân xương thọ
khổ não lớn, hoặc lại máu thịt khô kiệt, chớ tâm tôi vẫn siêng tu
tinh tiến không tạm bỏ giữa chừng.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư đại Bồ Tát đã được
tín giải nếu nghe mười thứ pháp
bất tư nghị của
Như Lai như
vậy thì tín thọ phụng trì kỹ lưỡng
thanh tịnh không nghi lài càng hớn hở rất
vui mừng phát sanh tưởng nghĩ là
hi hữu là lùng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Thân Phật
bất tư nghịLà
pháp thân hiển hiệnKhông tướng chẳng thấy được
Chỉ
Phật tử tin được
Các
chúng sanh nhiều loại
Âm thanh bất tư nghịTheo tiếng mà
thuyết phápTin
cảnh giới chư Phật
Tất cả loài
quần sanhBa đời căn tánh khác
Phật đều biết rõ cả
Tin là
bất tư nghịChư Phật
vô biên quan
Quang minh chẳng nghĩ bàn
Chiếu khắp
mười phương cõi
Vô biên biển
Phật độPhật giới luật siêu đời
Chẳng
y chỉ thế phápThần túc bất tư nghịBồ Tát tín thọ được
Chúng sanh chẳng biết được
Cảnh giới của
Như LaiNhư Lai thường tại định
Giải thoát bất tư nghịPháp giới chẳng tạp nhau
Chỉ
Phật lực biết được
Các
trí lực của Phật
Dường
như không vô biênVì lợi một
chúng sanhMà trụ
vô biên kiếp
Khiến họ được
điều phụcĐại bi tâm như vậy
Tất cả các
quần sanhNhiều thứ pháp
vấn nạnMột tiếng làm vui hiểu
Vô úy bất tư nghịThành nhứt thiết
chủng tríThấy rõ tất cả pháp
Và
Phật pháp bất cộngPhật trí đều thấy cả
Tất cả pháp chư Phật
Khó nghĩ bàn như vậy
Có ai kính tin được
Là khéo trụ
đức tin.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đại Bồ Tát đối với thân
Như Lai bất tư nghị mà
tín thọ phụng trì kỹ lưỡng
thanh tịnh không
nghi ngờ lại càng hớn hở
vui mừng phát sanh tưởng nghĩ là
hi hữu là lùng?
Nầy
Xá Lợi Phất! Thân
Như Lai dứt hẳn tất cả pháp ác
bất thiện. Tại sao? Vì hay
thành tựu tất cả các pháp lành
vi diệu.
Thân
Như Lai xa rời tất cả mũi dãi đàm nhớt mủ máu đại tiện
tiểu tiện nhơ uế. Tại sao? Vì từ lâu xa
đức Như Lai đã
giải thoát tất cả xương thịt gân mạch.
Thân
Như Lai tự tánh sạch sẽ. Tại sao? Vì từ lâu xa
đức Như Lai đã rời lìa tất cả
phiền não cấu uế.
Thân
Như Lai hơn hẳn
thế gian. Tại sao? Vì chẳng bị
thế pháp ô nhiễm.
Thân
Như Lai là
vô lượng công đức, từ lâu đã chứa họp
tư lương phước trí. Là chỗ
y chỉ huệ mạng của tất cả
chúng sanh.
Thân
Như Lai là chỗ
huân tu vô lượng giới thanh tịnh, là chỗ
huân tu của
vô lượng giới thanh tịnh, là chỗ
huân tu của
vô lượng chánh định,
vô lượng huệ và
giải thoát,
tri kiến giải thoát.
Thân
Như Lai là chỗ
nghiêm sức của các bông hoa
công đức.
Thân
Như Lai như
hình tượng vi diệu trong gương sạch, như bóng trăng tròn sáng trong nước trong, và
chói sáng như
ánh nắng.
Thân
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn đồng với
hư không giới tột cả
pháp giới tánh.
Thân
Như Lai thanh tịnh không
ô nhiễm rời xa tất cả những uế trược
ô nhiễm.
Thân
Như Lai tức là
vô vị rời xa tất cả những tướng
hữu vi.
Thân
Như Lai là thân
hư không, là thân
vô đẳng, là thân
vô đẳng đẳng, là thân mà tất cả
ba cõi đều không
so sánh bằng được, là thân không ví dụ được, là thân không gì tương tợ.
Thân
Như Lai thanh tịnh không cấu nhơ rời lìa
phiền não tự tánh trong suốt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thân
Như Lai chẳng thể lấy
tiền tế để cầu, chẳng thể lấy
hậu tế để cầu, chẳng thể lấy
hiện tại để cầu, chẳng thể lấy
dòng họ chỗ đang sanh để cầu.
Thân
Như Lai chẳng thể lấy sắc để cầu, chẳng thể lấy tướng để cầu, chẳng thể lấy đẹp tốt để cầu.
Thân
Như Lai chẳng thể lấy tâm để cầu, chẳng thể lấy ý để cầu, chẳng thể lấy thức để cầu.
Thân
Như Lai chẳng thể lấy sự thấy để cầu, chẳng thể lấy sự nghe để cầu, chẳng thể lấy sự tưởng nhớ để cầu, chẳng thể lấy sự biết rõ để cầu.
Thân
Như Lai chẳng thể lấy uẩn để cầu, chẳng thể lấy xứ để cầu, chẳng thể lấy giới để cầu.
Thân
Như Lai chẳng thể lấy sanh để cầu, chẳng thể lấy trụ để cầu, chẳng thể lấy
hoại diệt để cầu.
Thân
Như Lai chẳng thể lấy thủ để cầu, chẳng thể lấy xả để cầu, chẳng thể lấy
xuất ly để cầu, chẳng thể lấy hành để cầu.
Thân
Như Lai chẳng thể lấy
hiển sắc để cầu, chẳng thể lấy
tướng mạo để cầu, chẳng thể lấy
hình sắc để cầu, chẳng thể lấy đến để cầu, chẳng thể
lấy đi để cầu.
Thân
Như Lai chẳng thể lấy
tác ý tịnh giới để cầu, chẳng thể lấy
tác ý đẳng quán để cầu, chẳng thể lấy
tác ý chánh huệ để cầu, chẳng thể lấy
tác ý giải thoát để cầu, chẳng thể lấy
tác ý tri kiến giải thoát để cầu.
Thân
Như Lai chẳng thể lấy
hữu tướng để cầu, chẳng thể lấy
vô tướng để cầu, chẳng thể lấy các
pháp tướng để cầu.
Thân
Như Lai chẳng thể lấy lực
tăng ích để cầu, chẳng thể lấy
vô úy tăng ích để cầu, chẳng thể lấy
vô ngại biện
tăng ích để cầu, chẳng thể lấy
thần thông tăng ích để cầu, chẳng thể lấy
đại bi tăng ích để cầu, chẳng thể lấy
bất cộng Phật pháp tăng ích để cầu.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn cầu thân
Như Lai thì phải
như huyễn như hóa như trăng trong nước,
tự tánh như
vậy mà cầu thân
Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thân
Như Lai là thân
không giải thoát,
vô tướng giải thoát và
vô nguyện giải thoát, là thân không biến dị, là thân không động không hoại, là thân không
phân biệt, là thân không
y chỉ, là thân không
tư lự.
Thân
Như Lai là thân an trụ
thiện trụ được chẳng
biến động.
Thân
Như Lai là thân
tự tánh sắc không có sắc, là thân
tự tánh thọ không có thọ, là thân
tự tánh tưởng không có tưởng, là thân
tự tánh hành không có hành, là thân
tự tánh thức không có thức.
Thân
Như Lai là thân không có
tứ đại vô hữu vô sanh, là pháp hân
hi hữu.
Thân
Như Lai chẳng phải cảnh của nhãn, nó chẳng ở trong sắc cũng chẳng ở ngoài; chẳng
y cứ nơi nhĩ, chẳng ở trong thanh cũng chẳng ở ngoài; chẳng phải tỷ biết được, chẳng ở trong hương cũng chẳng ở ngoài; chẳng phải thiệt
hiển hiện được, chẳng ở trong vị cũng chẳng ở ngoài; chẳng hiện với thân, chẳng trong xúc cũng chẳng ở ngoài.
Thân
Như Lai chẳng
y cứ nơi tâm để chuyển, chẳng
y cứ nơi ý để chuyển, chẳng
y cứ nơi thức để chuyển, thường an trụ
bất động, chẳng phải là xoay về cũng chẳng chuyển theo.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thân
Như Lai lượng đồng
hư không, tột
pháp giới tận hư không giới.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đó gọi là thân
Như Lai bất tư nghị đệ nhứt.
Chư đại Bồ Tát ấy nghe thân
Như Lai bất tư nghị như
hư không rồi, tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng rất hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Câu
chi na do kiếp
Hành
vô lượng hạnh lớn
Khéo sạch thân
ba nghiệpĐược thân Phật
vô đẳngTừ tâm khắp
mười phươngKhởi
đại bi bố thíThường rời sự
tà dâmĐược
thân thắng hư khôngNơi
Thế Tôn phước điềnPhật tử rộng
cúng dườngXả thí y phục quý
Như
vô lượng hằng saPhụng
trì giới thanh tịnhNhư trâu ly giữ đuôi
Dầu thân bị đập nát
Đại nhẫn đối oán thù
Tinh tiến ba la mậtTu hành tột khổ nhọc
Phát
thệ nguyện rộng lớn
Cầu thân Phật
thường trụThích quán các định cảnh
Thích
trí huệ phương tiệnThích
quán pháp giới tánh
Nguyện thân đồng
pháp giớiNơi Phật
tu hành rồi
Thành
diệu giác vô đẳngĐược thân
hư không lớn
Trắng trong rời bụi nhơ
Tánh không không ngã nhơn
Vô tướng chẳng nói được
Chứng thân
Như Lai nầy
Quá
cảnh giới của nhãn
Ý tịnh rời
sắc thânBổn
không không khởi tác
Người thấy thân
chơn nhưThì thấy
mười phương Phật
Như các thứ
ảo thuậtHóa voi ngựa người cuồng
Phỉnh gạt kẻ ngu khờ
Như vậy xem
mười phươngVô lượng Phật
ba đờiĐồng ở thân
pháp tánhHư không vô đẳng đẳngPháp giới tột
thanh tịnh.
Như vậy nầy
Xá Lợi Phất! Đó gọi là thân
Như Lai bất tư nghị.
Đại Bồ Tát tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Lúc đó
đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Thế nào là
đại Bồ Tát ở nơi
âm thanh Như Lai bất tư nghị tin nhận
vâng theo thanh tịnh không nghi, lại càng hớn hở
vui mừng phát ý tưởng
hy kỳ.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai xuất thế thương xót các
chúng sanh nên diễn bày
chánh pháp để
giáo hóa.
Âm thanh của
đức Phật phát ra vừa bằng với
chúng hội, vì
do nơi sức
chúng sanh được
điều phục.
Âm thanh của
Như Lai khắp cả
vô lượng thế giới mười phương, vì làm cho lòng
chúng sanh hoan hỷ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nhưng chư
Như Lai phát ra
âm thanh dầu khắp cả
thế giới mà chẳng nghĩ là ta vì chúng
Tỳ Kheo thuyết pháp, vì chúng
Tỳ Kheo Ni thuyết pháp, vì chúng
Ưu Bà Tắc thuyết pháp, vì chúng
Ưu Bà Di thuyết pháp, vì chúng
Bà La Môn, chúng
Sát Đế Lợi, chúng
Trưởng Giả, chúng
chư Thiên, chúng
Phạm Thiên v.v...
thuyết pháp.
Như Lai cũng chẳng nghĩ rằng nay ta diễn nói
khế kinh,
trùng tụng,
thọ ký,
kệ tụng, tự thuyết,
duyên khởi,
bổn sự, bổn sanh,
phương quảng,
vị tằng hữu,
thí dụ,
luận nghị. Với mười hai phần
giáo như vậy,
đức Như Lai chưa bao giờ nghĩ là vì chúng mà diễn bày.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai tùy theo các chúng nhóm họp đến, đó là chúng
Tỳ Kheo nhẫn đến chúng
Phạm Thiên, như các môn
chánh cần mà họ đã được nghe, mà vì họ
thuyết pháp. Vì thích
nghe pháp nên các
chúng sanh ấy đều riêng tự cho được nghe tiếng nói pháp từ miệng
đức Phật phát ra. Nhưng tiếng nói pháp ấy đối với
các loại ngôn từ của họ nói đều không
chướng ngại, họ đều riêng
hiểu biết nơi pháp mà họ được rõ. Đây thì gọi là
âm thanh chẳng thể nghĩ bàn được.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư Phật Như Lai do phước
thuở trước mà
cảm quả báo
âm thanh có
vô lượng tướng. Những là
âm thanh hiền từ,
âm thanh vừa ý,
âm thanh vui lòng,
âm thanh thanh tịnh,
âm thanh ly cấu,
âm thanh mỹ diệu,
âm thanh thích nghe,
âm thanh rành rẽ,
âm thanh chẳng cứng chẳng rít,
âm thanh làm cho
thân tâm vui đẹp thơ thới,
âm thanh làm cho tâm hớn hở,
âm thanh làm cho tâm
vui mừng,
âm thanh phát khởi hỷ lạc,
âm thanh dễ hiểu,
âm thanh dễ biết
âm thanh chánh trực,
âm thanh khả ái,
âm thanh khả hỷ,
âm thanh mừng rỡ,
âm thanh đẹp ý,
âm thanh sư tử hống,
âm thanh sấm nổ lớn,
âm thanh biển vang lớn,
âm thanh Khẩn Na La Thần ca ngậm,
âm thanh ca lăng tần già kêu hót,
âm thanh Phạm Thiên,
âm thanh trống trời,
âm thanh cát tường,
âm thanh nhu nhuyến,
âm thanh hiển sướng,
âm thanh sâu xa như sấm to,
âm thanh tất cả
chúng sanh các căn đều mừng,
âm thanh vừa xứng tất cả
chúng hội,
âm thanh thành tựu tất cả tướng
vi diệu.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Âm thanh của
Như Lai đầy đủ những
công đức thù thắng như vậy, và còn
vô lượng vô biên công đức trang nghiêm.
Đây gọi là
âm thanh bất tư nghị thứ hai của
đức Như Lai.
Chư đại Bồ Tát ấy nghe
âm thanh bất tư nghị của
đức Như Lai đầy đủ
vô lượng công đức thù thắng tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi, càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Đức
Phật phát diệu âmGọi là
phạm âm thanh
Do pháp nầy đầy đủ
Khiến
Phạm Thiên vui mừngĐức Phật diễn
diệu âmTừ
đại bi phát ra
Tương ưng với đức từ
Cũng
tương ưng hỉ xảÂm thanh đầy đủ ấy
Tắt lửa tham
chúng sanhDứt
trừ độc giận thù
Phá vỡ những si tối
Giả sử châu
Diêm PhùCó
vô lượng tiếng người
Dầu được nghe khắp cả
Vẫn chẳng
ngộ giải thoát
Tiếng thiên địa
hư khôngNghe chẳng tỏ cũng vậy
Nếu nghe tiếng của Phật
Chắc chứng được
Niết BànLoài hai chưn, bốn chưn
Nhiều chưn và không chưn
Đều đồng tiếng với họ
Cho họ rõ
thiện ácTrong
Đại Thiên thế giớiÂm thanh thượng trung hạ
Theo
các loại âm thanhGiáo hóa chứng
giải thoátDiễn tiếng
vô phân biệtKhông trói không
nhiếp thọTại định nói chơn thế
Người nghe hết
phiền nãoVô biên chúng sanh nghe
Âm thanh Phật Pháp TăngVà thí
giới văn nhẫn
Âm thanh Phật như vậy
Tiếng Phật không hạn lượng
Thanh Trí đều
vô biênTin chắc âm thanh Phật
Chỉ
trí huệ Bồ Tát”.
Đức Phật lại bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Thế nào là
đại Bồ Tát đối với
đại trí bất tư nghị của
đức Như Lai mà tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý hy kỳ?
Nầy
Xá Lợi Phất! Trí thấy biết
vô ngại của
đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, ở trong tất cả
pháp y cứ nơi đó mà
phát khởi.
Chư đại Bồ Tát thì
tín thọ vâng thờ được, càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai vì phát sanh
tín tâm nên
y cứ nơi
Như Lai trí ba la mật đa mà rộng nói những ví dụ. Những người có trí bèn được
hiểu biết.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Giả sử có người đem tất cả
thảo mộc cây nhánh gốc lá của trong những
thế giới số bằng cát
sông Hằng chất lại thành một đống lớn rồi đốt cháy thành than đen. Đem hết số than đen ấy đổ vào trong biển của
hằng sa thế giới. Sau đó trăm ngàn năm mới lấy đem mài tất cả thành nước mực.
Nầy
Xá Lợi Phất! Trí thấy biết
vô ngại của
đức Như Lai thành tựu, lấy một giọt nước mực trong biển lớn ấy, do sức trí thấy biết nên phân tích biết
rõ ràng đó là do cây hay nhánh lá
hoa quả v.v... trong
thế giới ấy làm thành. Tại sao? Vì
đức Như Lai khéo
thông đạt pháp giới nên biết rõ được giọt mực ấy từ cây lá trong
thế giới ấy làm thành.
Theo
thứ đệ như vậy nhẫn đến nói rộng ra.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đó gọi là
đức Như Lai Chánh Biến Tri có
đủ sức đại
thần thông như vậy, có
đủ sức đại oai đức như vậy, có
đủ sức đại tông thế như vậy. Thế nên có
thiện nam thiện nữ đối với trí thấy biết rộng lớn của
đức Như Lai mà tin nhận
thanh tịnh, lại sanh lòng ái kính đối với
đức Phật, thì căn lành của
thiện nam thiện nữ ấy chẳng có ngằn mé, họ mau hết
khổ tế. Tại sao? Vì
đức Như Lai khéo
thông đạt pháp giới. Do vì
thông đạt nên nếu có
chúng sanh nào đối với
đức Như Lai mà
phát khởi chút căn lành thì
mãi mãi đến lúc hết
khổ tế, căn lành ấy vẫn chẳng hư hoại.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nay ta sẽ vì ông mà nói ví dụ nữa. Khiến cho người trí do đây mà hiểu nghĩa.
Ví như có nam tử sống trăm tuổi. Người nầy tán chia một đầu sợi lông ra làm một trăm năm mươi phần, rồi lấy một phần lông thấm một giọt nước đem đến chỗ ta mà nói rằng: xin gởi giọt nước nầy cho Ngài, sau đây nếu tôi
cần dùng xin Ngài ban lại cho tôi.
Đức Như Lai nhận giọt nước ấy đem để trong
sông Hằng,
nước sông Hằng hòa lẫn cuốn chảy thẳng đến biển lớn. Sau đó trăm năm, người ấy đến xin ta trả lại giọt nước đã gởi.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai thành tựu trí thấy biết chẳng thể nghĩ bàn. Do trí nầy mà
đức Như Lai thấy biết giọt nước ấy ở trong biển lớn, bèn lấy một phần lông đến trong biển lớn thấm giọt nước ấy để trao lại cho người gởi.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ví dụ ấy có nghĩa là gì? Đó là
chúng sanh đã từng đem một giọt nước nhỏ căn lành gởi vào tay
phước điền của
Như Lai thì còn mãi chẳng mất.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu có
thiện nam thiện nữ đối với trí
bất tư nghị của
đức Như Lai mà tin nhận
thanh tịnh sanh lòng ái kính. Vì tưởng niệm
đức Như Lai mà
cúng dường nhiều thứ, lại đem hoa đẹp rải lên dưng cúng. Căn lành của người nầy không ai biết được ngằn mé, mau hết
khổ tế. Tại sao? Vì
đức Như Lai khéo
thông đạt pháp giới, nên có ai
phát khởi một
tâm niệm lành đối với
đức Như Lai thì
cùng tận khổ tế vẫn chẳng hư hoại”.
Bấy giờ
Trưởng Giả Xá Lợi Phất bạch
đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Trí
bất tư nghị của
đức Như Lai có phải rời thức mà chuyển chăng?”.
Đức Phật phán: “Không phải”.
Ngài
Xá Lợi Phất lại bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu như
vậy thì thế nào là trí và thế nào là thức?”.
Đức Phật phán: “Nầy
Xá lợi Phất! Có bốn thứ
thức trụ. Vì thức
y cứ nơi đó mà an trụ nên gọi là
thức trụ.
Một là sắc
thức trụ, thức duyên nơi sắc,
thức trụ trong sắc, do đó mà sanh ra
ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh
vững chắc rộng lớn.
Hai là thọ
thức trụ, thứ duyên nơi thọ,
thức trụ trong thọ, do đó mà sanh ra
ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh
vững chắc rộng lớn.
Ba là tưởng
thức trụ, thức duyên nơi tưởng,
thức trụ trong tưởng, do đó mà sanh ra
ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh
vững chắc rộng lớn.
Bốn là hành
thức trụ, thức duyên nơi hành,
thức trụ trong hành, do đó mà sanh ra
ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh
vững chắc rộng lớn.
Những tướng như vậy gọi đó là thức.
Lại lấy những gì gọi đó là trí? Đó là chẳng trụ trong năm
thọ uẩn mà tỏ thấu uẩn thì gọi là trí.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Gọi là thức, đó là hay rõ biết
địa đại chủng,
thủy đại chủng
hỏa đại chủng và
phong đại chủng thì gọi là thức.
Gọi là trí, đó là chẳng trụ trong
bốn đại chủng khéo
thông đạt được
pháp giới của thức mà chẳng xen tạp nhau thì gọi là trí.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Gọi là thức, đó là ha rõ biết sắc được biết của nhãn, thanh được biết của nhĩ, hương được biết của tỷ, vị được biết của thiệt, xúc được biết của thân và pháp được biết của ý thì gọi là thức.
Gọi là trí, đó là nơi trong
tịch tịnh chẳng đi nơi ngoài
chỉ y nơi trí, chẳng ở nơi một pháp nào mà sanh
phân biệt và các thứ
phân biệt thì gọi là trí.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Theo
cảnh giới mà sanh thì gọi là thức, theo
tác ý mà sanh thì gọi là thức, theo
phân biệt mà sanh thì gọi là thức. Còn không lấy không nắm, không có
sở duyên, không chỗ rõ biết, không có
phân biệt thì gọi là trí.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Gọi là thức, đó là trụ nơi
pháp hữu vi. Tại sao? Vì trong
pháp vô vi, thức không
hiện hành được. Nếu rõ thấu được
pháp vô vi thì gọi là trí.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Trụ nơi
sanh diệt thì gọi là thức. Không
sanh không diệt có chỗ trụ thì gọi là trí.
Nầy
Xá Lợi Phất! Các
hành tướng như vậy, hoặc là thức hoặc là trí, đó gọi là
đại trí bất tư nghị thứ ba của
đức Như Lai.
Nếu
chư đại Bồ Tát nghe
đại trí bất tư nghị không chướng không ngại trong tất cả
pháp y đó mà
sanh khởi như vậy liền tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tuởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Vô lượng
hằng sa cõi
Cây cỏ lá bông trái
Đều đốt thành tro mực
Ức năm mà nơi biển
Thập lực trí sâu diệu
Lấy một giọt bảo lành
Biết rõ cây cõi nào
Mài thành giọt mực nầy
Đem trần thủy
mười phươngTrình bày trước
Như LaiTrí Phật đồng
hư khôngBiết khắp không nghi trệ
Tâm
chúng sanh mười phươngHiện hành tham sân siĐều biết được như thiệt
Giải thoát không tăng giảm
Mười trí lực của Phật
Soi sáng khắp
pháp giớiKhông
phân biệt tư lựBồ Tát hay tin nhận”.
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Thế nào là
đại Bồ Tát đối với
đại quang bất tư nghị của
đức Như Lai mà tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ?
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì
chư Phật Như Lai thông đạt pháp giới nên chẳng thể nghĩ bàn: Do vì
thông đạt nên tất cả
Như Lai phóng quang minh lớn chiếu khắp cõi
Đại Thiên mà không
chướng ngại.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Ví như trong
hư không không có mây mù, mặt nhựt lên cao phóng ánh sáng lớn chiếu khắp
thế gian.
Chư Phật Như Lai phóng
đại quang minh chiếu khắp tất cả cũng như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Trong
thế gian, ánh sáng
ngọn đèn dầu đối với ánh sáng lớn
chói sáng hơn nhiều. Ánh sáng ngọn đuốc sáng hơn đèn dầu. Đống lửa đình liệu lại sáng hơn lửa đuốc.
Dược thảo phát ánh sáng lại hơn đống lửa. Ánh sáng
tinh tú lại hơn
dược thảo. Trăng tròn chiếu sáng hơn
tinh tú nhiều. Trời nắng giữa trưa sáng gấp bội vầng nguyệt. Thân trời Tứ Vương cùng cung điện thềm vách đồ
trang nghiêm phát ánh sáng hơn
mặt trời không gì ví dụ được. Cứ như
vậy mà so sánh đến ánh sáng phát ra từ thân
trời Tha Hóa cùng cung điện thềm vách đồ
trang nghiêm hơn ánh sáng trước. Ánh sáng của các
trời Phạm Chúng, Phạm Phụ,
Phạm Vương,
Thiểu Quang,
Vô Lượng Quang,
Quang Âm, Thiểu Tịnh,
Vô Lượng Tịnh,
Biến Tịnh, Quảng Quả,
Hữu Tưởng,
Vô Tưởng,
Vô Phiền,
Vô Nhiệt,
Thiện Hiện,
Thiện Kiến và
Sắc Cứu Cánh Thiên phát ra là tối
đệ nhứt so với các ánh sáng trước. Đem ánh sáng
trời Sắc Cứu Cánh so với ánh sáng của
đức Như Lai Chánh Biến Tri, thì ánh sáng của
đức Như Lai hơn kia nhiều,
vi diệu chiếu sáng
thanh tịnh rộng lớn
đệ nhứt, chẳng gì ví dụ được.
Tại sao?
Nầy
Xá Lợi Phất! Ánh sáng của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Ánh sáng ấy
từ vô lượng giới tụ phát sanh, từ
đẳng trì tụ phát sanh,
từ huệ tụ,
giải thoát tụ và
giải thoát tri kiến tụ phát sanh.
Từ vô lượng công đức như vậy phát sanh ánh sáng của
đức Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất! Bao nhiêu những ánh sáng trong cõi
Đại Thiên so với ánh sáng của
đức Như Lai chẳng bằng một phần trăm, nhẫn đến chẳng bằng một phần
ưu ba ni sa đà, ví dụ toán số đều chẳng đếm được.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Như đem vàng
diêm phù đàn để trong vàng thường, nó làm cho vàng thường ấy như đống mực không còn
chói sáng. Ánh sáng của cõi
Đại Thiên ở trước ánh sáng của
Như Lai thì tất cả sự
chói sáng cũng như vậy.
Lại tất cả những ánh sáng ở
thế gian ở trước ánh sáng của
đức Như Lai thì không còn gọi được là có sáng có chói nữa.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Ông phải biết rằng nếu
đức Như Lai chẳng vì
thương xót các
chúng sanh nên nhiếp lấy ánh sáng nơi thân còn một tầm, mà chỉ dùng ánh sáng sanh ra từ một phần ít hạnh nghiệp cũng chiếu được khắp cả cõi
Đại Thiên làm cho ánh sáng của mặt nhựt mặt nguyệt không còn phát hiện. Và như
vậy thì chẳng còn
phân biệt có ngày có đêm, chẳng còn
phân biệt có tháng, nửa tháng, ngày, giờ,
thời tiết, năm tháng. Chỉ vì thương các
chúng sanh mà các
đức Như Lai hiện chiếu một tầm.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu
đức Như Lai Chánh Biến Tri phát ý muốn dùng ánh sáng chiếu khắp
vô lượng vô biên vô số thế giới thì có thể chiếu khắp. Tại sao? Vì
đức Như Lai đã được
đệ nhứt Bát nhã ba la mật đa vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nay ta vì ông lại nói ví dụ để
thuyết minh lại nghĩa ấy. Những người có trí càng
hiểu rõ thêm.
Ví như có người đem cõi
Đại Thiên nghiền nát làm
vi trần để trong tay áo rồi đi qua phương Đông quá những
thế giới như số
vi trần ấy mới
bỏ rơi một
vi trần, làn lượt đi và
bỏ rơi đến hết số
vi trần ấy, mà chưa biết hết những
thế giới ở phương Đông. Các phương Nam, Tây, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên, dưới cũng như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có người nào có thể được
biên tế các
thế giới ấy chăng?”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Không có”.
Đức Phật phán: “Nầy
Xá Lợi Phất! Bao nhiêu ánh sáng có trong các
thế giới ấy
vô lượng vô biên chẳng nghĩ bàn được. Mà ánh sáng của
Như Lai là
đệ nhứt hơn cả. Tất cả ánh sáng của tất cả
thế giới ấy so với ánh sáng của
đức Như Lai không bằng một phần trăm nhẫn đến chẳng bằng một phần
ưu ba ni sa đà, toán số ví dụ chẳng thể đếm được.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai phát ý muốn dùng ánh sáng chiếu khắp tất cả
thế giới thì có thể chiếu khắp.
Tại sao? Vì
đức Như Lai đã được
đệ nhứt Bát nhã ba la mật đa vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ánh sáng của
đức Như Lai không có
chướng ngại. Bao nhiêu tường vách, hoặc những cây cối, hoặc những núi Luân Vi, núi Đại Luân Vi, núi
Càn Đà Ma Đạt Na, núi
Mục Chơn Lân Đà, núi
Đại Mục Chơn Lân Đà, núi
Y Sa Đà La,
Tuyết Sơn,
Hắc Sơn và
núi Tu Di đều chẳng che chướng được ánh sáng của
Như Lai. Ánh sáng của
đức Như Lai đều có thể soi suốt chiếu khắp cõi
Đại Thiên.
Nầy
Xá Lợi Phất những
chúng sanh ít
trí huệ chẳng tin hiểu được ánh sáng của
đức Như Lai. Hoặc có
chúng sanh thấy ánh sáng của
đức Như Lai chỉ chiếu có một tầm. Kế có kẻ thấy chiếu hai tầm. Kế có kẻ thấy chiếu một
câu lô xá. Kế có người
đại trí nhẫn đến thấy ánh sáng của
đức Như Lai chiếu khắp cõi
Đại ThiênNầy
Xá Lợi Phất!
Phạm Thiên Vương chúa của trăm ngàn
thế giới có thể thấy ánh sáng của
đức Như Lai chiếu khắp trăm ngàn
thế giới. Lần lược như vậy, đến bực
đại Bồ Tát lên bực
thượng địa có thể thấy ánh sáng của
đức Như Lai chiếu khắp
vô lượng vô biên thế giới.
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì
thương xót các
chúng sanh nên
đức Như Lai lại phóng ánh sáng chiếu khắp các cõi
chúng sanh cùng tận hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đó gọi là ánh sáng
bất tư nghị thứ tư của
đức Như Lai.
Chư đại Bồ Tát nghe
đức Như Lai nói ánh sáng lớn ấy chẳng thể nghĩ bàn như
hư không rồi không lầm không nghi tin nhận
thanh tịnh càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Ánh sáng mặt nhựt nguyệt
Của
Đế Thích Phạm ThiênNhẫn đến Sắc
Cứu CánhKhông bằng ánh sáng Phật
Ánh sáng Sắc
Cứu CánhChiếu khắp cõi
Đại ThiênSo một
tia sáng Phật
Chẳng bằng
một phần nhỏĐức Phật phóng ánh sáng
Chiếu khắp cõi
hư khôngCác
chúng sanh trí lớn
Mới thấy được như vậy
Ánh sáng Phật
vô biênBằng với cõi
hư khôngTùy
chúng sanh được độ
Thấy ánh sáng sai khác
Như có kẻ
sanh manhChẳng thấy sáng
mặt trờiHọ chẳng thấy ánh sáng
Nói mặt nhựt không sáng
Các
chúng sanh hạ liệtChẳng thấy ánh sáng Phật
Họ chẳng thấy sáng chiếu
Nói không ánh sáng Phật
Hoặc thấy sáng một tầm
Hoặc thấy
câu lô xáHoặc đến một
do tuầnHoặc khắp cõi
Đại ThiênHoặc đã trụ
Thượng ĐịaBực
Bồ Tát đại tríHoặc ở bực Bát Cửu
Nhẫn đến bực
Thập ĐịaPhật siêu bực
Thập ĐịaVầng sáng
vô biên lượng
Chiếu
bất tư nghị cõi
Để làm các
Phật sựChư Phật
bất tư nghịPhật quang bất tư nghịNgười tin và được phước
Cũng là khó tư nghị”.
Đức Phật lại bảo Ngài
Xá Lợi Phất! “Thế nào là
đại Bồ Tát đối với chúng
tịnh giới bất tư nghị và
chúng sanh định
bất tư nghị của
đức Như Lai mà tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ?
Nầy
Xá Lợi Phất! Các ông phải biết chánh thuyết
như vầy: nếu các
chúng sanh ở
thế gian phụng
trì giới hạnh
thanh tịnh vô nhiễm. Do vì
thanh tịnh nên biết người ấy
thành tựu thân nghiệp thanh tịnh,
thành tựu ngữ nghiệp thanh tịnh,
thành tựu ý nghiệp thanh tịnh. Người ấy dầu ở
thế gian mà chẳng bị
thế pháp ô nhiễm. Phải biết người ấy là
Bà La Môn, là rời lìa các điều ác, là
Sa Môn, là người
tịch tịnh, là người
tu thiền định
đệ nhứt, là người được
Thiền ba la mật đệ nhứt.
Chúng sanh ấy là
Như Lai. Nói như vậy là chánh thuyết.
Tại sao? Nầy
Xá Lợi Phất! Ta chẳng bao giờ thấy ở
thế gian hoặc
chư Thiên, hoặc
Ma Vương, hoặc
Phạm Vương, hoặc
Sa Môn, hoặc
Bà La Môn và các Trời, các
A Tu La v.v... có
vô lượng vô biên chúng
tịnh giới bất tư nghị, chúng
chánh định bất tư nghị bằng
đức Như Lai.
Tại sao? Nầy
Xá Lợi Phất! Vì
đức Như Lai đã được
Giới Ba la mật Thiền ba la mật đệ nhứt vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nay ông có muốn nghe
đức Phật nói ví dụ về
giới ba la mật của
đức Như Lai chăng?”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “ Bạch đức Thế Tôn! Nay đã phải lúc. nếu các
Tỳ Kheo nghe
đức Phật nói ví dụ về
Giới ba la mật của
đức Như Lai, họ sẽ đồng
thọ trì như chỗ đã được nghe”.
Đức Phật phán dạy: “Lành thay,
lành thay! Nầy
Xá Lợi Phất! Ta sẽ vì ông mà
phân biệt giải nói.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ thế nào?
Chúng sanh và
đại địa, thứ nào nhiều hơn?”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như tôi
hiểu ý nghĩa của lời
đức Phật nói, thì
chúng sanh nhiều chớ chẳng phải đại địa”.
Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy. Nầy
Xá Lợi Phất!
Chúng sanh nhiều chớ chẳng phải
đại địa.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Giả sử trong cõi
Đại Thiên có bao nhiêu
chúng sanh, những loài
noãn sanh,
thai sanh,
thấp sanh,
hóa sanh, hoặc có sắc, hoặc
không sắc, hoặc có tưởng, hoặc
không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng chẳng phải
không tưởng, tất cả
chúng sanh ấy
trong khoảng sát na đồng thời được thân người rồi
trong khoảng sát na đồng thời đều
chứng quả Vô thượng Bồ đề. Mỗi
đức Phật ấy lại hóa làm ngần ấy Phật. Mỗi hóa Phất ấy đều có ngàn đầu, mỗi đầu ấy đều có ngàn miệng, mỗi miệng đều có ngàn lưỡi. Mỗi
hóa Phật ấy đều có đủ
thập lực,
tứ vô úy,
tứ vô ngại và
biện tài vô chướng
vô ngại vô tận. Chư Phật ấy dùng bao nhiêu lưỡi ấy
thi thố biện tài vô ngại vô tận y cứ theo tất cả chúng
Giới ba la mật của
đức Như Lai mà
xưng tán vô lượng, dầu
trải qua câu chi na do tha trăm ngàn
đại kiếp xưng tán luôn cũng không
xưng tán hết khắp được chúng
Giới ba la mật của
đức Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất! Chúng
giới ba la mật của
đức Như Lai vô lượng vô biên vô tận chẳng thể nghĩ bàn.
Trí huệ vô thượng và
biện tài vô chướng
vô ngại vô tận của chư Phật cũng
vô tận chẳng thể nghĩ bàn.
Chúng
Giới ba la mật của
đức Như Lai và
trí huệ vô thượng biện tài vô ngại của chư Phật, cả hai đều là
bất tư nghị,
vô lượng vô số đồng với cõi
hư không bình đẳng bình đẳng.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Giả sử tất cả
chúng sanh trong
hằng sa thế giới ở
mười phương trong khoảng một
sát na đồng thời đều được thân người rồi đều thành bực
Vô thượng Bồ đề, cũng nói
y theo trên để tỉ lệ nhẫn đến cùng với cõi
hư không bình đẳng bình đẳng.
Tại sao? Nầy
Xá Lợi Phất! Do vì
đức Như Lai đã chứng được
Giới ba la mật đệ nhứt vậy”.
Đức Phật lại bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Nay ông có muốn nghe nói ví dụ về
Thiền ba la mật đa của
đức Như Lai chẳng?”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nay đã phải lúc. Nếu chư
Tỳ Kheo nghe
đức Phật nói ví dụ về
Thiền ba la mật đa của
đức Như Lai sẽ đồng phụng trì đúng như chỗ được nghe”.
Đức Phật phán dạy: “Nầy
Xá Lợi Phất!
Giả sử có
thời kỳ thế gian nầy đến
kiếp hỏa thiêu do mặt nhựt thứ bảy. Vì mặt nhựt ấy mọc ra nên cả cõi
Đại Thiên đồng thời bị cháy, cháy mạnh, cháy lớn, cháy khắp lớn mạnh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Phải biết
đức Như Lai ở tại trong những
thế giới đang cháy khắp lớn mạnh như vậy, hoặc
kinh hành, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, những chỗ ấy
thành tựu mười sự
hy kỳ chẳng thể nghĩ bàn.
Những gì là mười?
Chỗ
đức Như Lai đi đứng ấy, chẳng cần đến
công lực, đều bằng phẳng như trong lòng bàn tay. Đây là sự rất
hy kỳ bất tư nghì thứ nhứt.
Chỗ
đức Như Lai đi đứng ấy
tự nhiên nổi cao sạch đẹp không có
lẫn lộn ngói đá. Đây là sự rất
hy kỳ bất tư nghị thứ hai.
Chỗ
đức Như Lai đi đứng ấy
tự nhiên rộng rãi bằng phẳng
trang nghiêm thanh tịnh để cho
đức Như Lai thọ dụng. Đây là sự rất
hy kỳ thứ ba.
Chỗ
đức Như Lai đi đứng ấy
tự nhiên sanh những cỏ thơm xanh mướt mềm mại trơn láng cuốn về phía hữu. Đây là sự rất
hy kỳ bất tư nghị thứ tư.
Chỗ
đức Như Lai đi đứng ấy
tự nhiên xuất hiện nước bát
công đức: nhẹ, mát, mềm, đứng lặng, không nhơ,
trong sạch, thích uống và uống nhiều không sanh bịnh. Đây là sự rất
hy kỳ thứ năm.
Chỗ
đức Như Lai đi đứng ấy
tự nhiên có gió mát hòa huỡn nhẹ nhàng. Đây là do hạnh nghiệp trước của
đức Như Lai cảm với mà có gió mát dịu ấy.
Ví như ngày rất nóng nực, xế trưa có một chàng trai vì quá
nóng bức nên chạy đến tắm trong
sông Hằng. Sau khi tắm rửa sạch sẽ,
mát mẻ thơ thới, chàng trai ấy leo lên
bờ bên kia sông thấy gần đó có khu rừng cây xanh mát, bèn
đi vào rừng ấy. Lại thấy trong ấy có trải sẵn giường nệm
rộng rãi mịn nhuyễn, gối chăn mềm mại. Chàng trai liền lên giường ấy hoặc ngồi hoặc nằm. Bốn phía giường lại có gió mát thổi nhẹ
liên tục.
Cũng vậy, nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai ở trong
thế giới đang cháy khắp lớn mạnh mà đi đứng nằm ngồi,
tự nhiên nơi ấy có gió mát thổi nhẹ
liên tục. Đây là sự rất
hy kỳ bất tư nghị thứ sáu.
Chỗ
đức Phật đi đứng ấy
tự nhiên sông rạch ao hồ
xuất hiện các loại hoa
dưới nước, những là
hoa sen xanh,
hoa sen vàng,
hoa sen đỏ,
hoa sen trắng. Các hoa ấy thơm ngát màu rất
hy kỳ bất tư nghị thứ bảy.
Chỗ
đức Phật đi đứng ấy
tự nhiên nơi đất bằng và gò cao đều mọc các thứ hoa đẹp thơm
thế gian chưa từng có. Đây là sự rất
hy kỳ bất tư nghị thứ tám.
Chỗ
đức Phật đi đứng ấy
tự nhiên thành chất im cương cứng bền. Đây là sự rất
hy kỳ bất tư nghị thứ chín.
Chỗ
đức Phật đi đứng ấy, phải biết đó là Phật
linh miếu,
thế gian chư Thiên, hoặc
Ma Vương, hoặc
Phạm Vương, hoặc
Sa Môn, hoặc
Bà La Môn, Trời, Người,
A Tu La v.v... đều
cung kính cúng dường tôn trọng tán thán. Đây là
thành tựu sự rất
hy kỳ bất tư nghị thứ mười.
Mười sự rất
hy kỳ bất tư nghị ấy đều do hạnh nghiệp đời trước của
đức Như Lai thành tựu. Tại sao? Vì
đức Như Lai khéo
thông đạt pháp giới. Do vì
thông đạt nên
đức Như Lai nhập
chánh định ấy,
y cứ tâm
chánh định ấy mà
thọ lạc bất thối. Dầu trải đến
hằng sa đại kiếp,
đức Như Lai cũng vẫn chưa từng khởi xuất tâm
chánh định. Y nơi tâm
chánh định ấy,
trong khoảng thời gian một
bữa ăn,
đức Như Lai trụ một kiếp ngàn kiếp đến trăm kiếp hoặc trăm kiếp ngàn kiếp đến trăm ngàn
câu chi kiếp, hoặc nhiều hơn
số kiếp trên. Tại sao? Vì
đức Như Lai đã
thành tựu Thiền ba la mật đệ nhứt vậy. Do vì đã
thành tựu nên
đức Như Lai có đủ
đại thần lực như vậy, có đủ
oai đức lực như vậy, có đủ đại tông
thế lực như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Như các
Thiên Tử Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ sanh thức của họ duyên một cảnh đến tám vạn bốn ngàn kiếp,
chừng nào mà thọ mạng chánh định chưa dứt, sanh thức của họ chẳng bị
cảnh giới thức khác
di chuyển.
Nầy
Xá Lợi Phất! Các
Thiên Tử ấy do sức
chánh định thế gian mà còn được an trụ trong
thời gian như vậy, huống là
Thiền ba la mật của
đức Như Lai mà lại không an trụ lâu.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai từ đêm mới chứng
Vô thượng Bồ đề nhẫn đến đêm nhập
vô dư Niết Bàn giới,
trong khoảng thời gian giữa ấy, tâm của
đức Như Lai chưa có lúc nào khởi xuất
chánh định. Vì thế nên gọi
chánh định ấy là
tâm không hồi chuyển, là
tâm không sở hành, là
tâm không quan sát, là
tâm không động lự, là
tâm không lưu đảng, là
tâm không nhiếp tụ, là
tâm không tán loạn, là
tâm không cao cử, là
tâm không trầm hạ, là
tâm không phòng hộ, là
tâm không phù tàng, là
tâm không hân dũng, là
tâm không vi nghịch là
tâm không ủy tụy, là
tâm không động dao, là
tâm không kinh hỷ, là
tâm không hôn trầm, là
tâm không phân biệt, là
tâm không dị
phân biệt, là
tâm không biến
phân biệt.
Lại
chánh định ấy là tâm chẳng theo thức, là tâm chẳng y nhãn là tâm chẳng y nhĩ tỷ
thiệt thân ý, là tâm chẳng y sắc, là tâm chẳng y thanh hương vị xúc pháp, là tâm chẳng đến các pháp, là tâm chẳng rời trí, là tâm chẳng
quan niệm quá khứ, chẳng
quan niệm vị lai, chẳng
quan niệm hiện tại.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai an trụ trong
chánh định, tâm rời lìa như vậy không có một pháp nào là có thể được, mà ở trong tất cả pháp phát sanh sự thấy biết
vô ngại. Tại sao? Vì là
công dụng vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai chẳng khởi xuất
chánh định rời lìa
tâm ý thức mà hay làm các
Phật sự. Tại sao? Vì là
công dụng vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư đại Bồ Tát ấy nghe giới
bất tư nghị và
chánh định của
đức Như Lai rồi tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Vô lượng
vô đẳng trăm ngàn kiếp
Ở trong các loài tu
giác hạnhGiới văn định nhẫn bất phóng dậtĐạo Sư hay tu nhơn
diệu giácNghiệp quả tối thắng rất
thanh tịnhTịnh giới quảng diệu vượt các cõi
Giới đức của Phật như
hư khôngThanh tịnh không nhơ dường
hư khôngTừ đêm Phật mới chứng
Bồ đềĐến đêm Phật nhập
đại Niết BànTâm Phật không
hành không duyên khác
Chưa bao giờ khởi xuất
đại địnhGiới tụ của Phật không thối thuyết
Giải thoát thần lực cũng như vậy
Trụ
chánh định trải
vô lượng kiếpĐức Phật không tư cũng
không tưởngTrí Phật
như không chẳng
nghĩ tưởngVô duyên minh đạt chiếu
ba đờiKhông tâm ý thức không cải biến
Chỉ có
Bồ Tát tin nhận được”.
Đức Phật lại bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Thế nào là
đại Bồ Tát đối với
thần lực bất tư nghị của
đức Như Lai tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hỳ kỳ?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai được
thần thông chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể tuyên nói. Nay sẽ vì ông mà
phương tiện khai triển.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai thường nói trong chúng
Thanh Văn của
đức Phật, người được
thần thông thì
Trưởng Lão Đại Mục Kiền Liên là
đệ nhứt.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu đem
thần thông ấy để
so sánh thì chẳng thấy có
thần thông nào của hàng
Thanh Văn mà bằng được
thần thông của
Bồ Tát. Lại nếu đem
so sánh thì chẳng thấy có
thần thông nào của
Thanh Văn và của
Bồ Tát mà bằng được
thần thông của Phật. Đây gọi là
thần thông bất tư nghị của
đức Như Lai.
Chư đại Bồ Tát vì muốn được
thần thông của Phật càng phải
phát khởi thượng phẩm tinh tiến thì có thể chứng được.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nay các ông có muốn nghe nói ví dụ về
thần thông bất tư nghị của Phật chăng?”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nay đã phải lúc. Chư
Tỳ Kheo nếu được nghe ví dụ về
thần thông mà
đức Phật tuyên dạy rồi sẽ đồng thọ trì”.
Đức Phật phán dạy: “Lắng nghe, ta sẽ vì ông mà tuyên nói.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ thế nào?
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên có được đại
thần thông chăng?”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngày trước tôi từng nghe
đức Như Lai tuyên bố rằng
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên là bực
thần thông đệ nhứt trong hàng Thanh Văn”.
Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy. Nầy
Xá Lợi Phất! Nay lại vì ông mà nói rộng về ví dụ.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Ví như chư
Thanh Văn đông đầy cả cõi
Đại Thiên như rừng rậm mía mè lúa đậu tre lau. Chư
Thanh Văn ấy
dùng sức tinh tiến thế lực chớp nháng
đồng thời hiển hiện thần thông biến hóa. Muốn đem
thần thông ấy so với
thần thông của
đức Như Lai, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, nhẫn đến chẳng bằng một phần
ưu ba ni sa đà. Tại sao? vì
đức Như Lai đả được
thần thông biến hóa ba la mật đệ nhứt vậy.
Nầy
Xà Lợi Phất!
Giả sử đức Như Lai lấy một hột cải ném xuống đất, chúng
Thanh Văn ấy
đồng thời hiển hiện thần thông biến hóa cũng chẳng lay động được hột cải ấy. Tại sao? Vì
đức Như Lai đã được
thần thông biến hóa ba la mật đệ nhứt vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Đừng nói đến cõi
Đại Thiên,
giả sử tất cả
chúng sanh trong
hằng sa thế giới ở
mười phương, những loài
noãn sanh,
thai sanh,
thấp sanh,
hóa sanh, có sắc,
không sắc, có tưởng,
không tưởng,
phi tưởng phi phi tưởng đều là
Thanh Văn thành tựu thần thông đệ nhứt như
Đại Mục Kiền Liên. Tất cả
Thanh Văn ấy
đồng thời đại
hiển hiện thần thông biến hóa cũng chẳng lay động được hột cải mà
đức Như Lai đả ném xuống đất ấy. Tại sao? Vì
đức Như Lai đã được
thần thông ba la mật đệ nhứt vậy.
Đây gọi là
đức Như Lai có đủ đại
thần thông lực, có đủ
đại oai đức lực, có đủ đại tông
thế lực như vậy”.
Lúc bấy giờ đấng
Bạc Già Phạm lại bảo Ngài
Xá Lợi Phất rằng: “Nầy
Xá Lợi Phất! Ông có từng nghe
thời kỳ phong kiếp khởi lên, có ngọn gió lớn tên là
Tăng già đà. Ngọn gió ấy đem cả cõi
Đại Thiên nầy từ
núi Tu Di, các biển lớn v.v... rời khỏi
vị trí cao cả
do tuần rồi làm nát ra bột chăng?”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Ngày trước tôi ở trước
đức Phật thân nghe nói việc ấy”.
Đức Phật nói: “Nầy
Xá Lợi Phất! Đúng như vậy. Lúc
phong tai khởi lên, lại có ngọn gió lớn tên là
Tăng già đa thổi đem cả cõi
Đại Thiên những
núi Tu Di biển lớn v.v... cao cả trăm
do tuần rồi làm nát ra bột. Hoặc thổi lên cao hai trăm
do tuần, hoặc ba bốn năm trăm
do tuần, hoặc ngàn hai ba bốn ngàn
do tuần, hoặc đến
vô lượng trăm ngàn
do tuần rồi làm nát ra bụi nhỏ theo gió bay tản mất cả trọn không gì còn, huống là núi đá mà
tồn tại được. Ngọn gió ấy lại thổi tan cung trời
Dạ Ma, cung trời Đâu Xuất, cung
trời Hóa Lạc, cung
trời Tha Hóa Tự Tại, cung trời
Ma La, cung trời So Thiền,
Nhị Thiền, nhẫn đến cung trời
Tam Thiền,
Biến Tịnh Thiên đều tan thành
vi trần tản mất không gì còn.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Giả sử ngọn gió
Tăng già đa ấy vụt nổi lên thổi y của
đức Như Lai, thì chẳng thổi động được chút y chừng bằng sợi lông nhỏ, huống là thổi động được chéo y hay toàn cả cái y của
đức Như Lai. Tại sao? Vì
đức Như Lai đã
thành tựu thần thông bất tư nghị,
oai nghi bất tư nghị,
diệu hạnh bất tư nghị,
đại bi bất tư nghị vậy.
Lại nữa, nầy
Xá Lợi Phất!
Giả sử hằng sa thế giới mười phương có những luồng gió mạnh như vậy nổi lên sắp thổi tan các
thế giới ấy. Bấy giờ
đức Như Lai dùng một đầu ngón tay mang các
thế giới ấy đến xứ khác, hoặc làm cho gió ấy mất
hết sức lực phải thổi vụt
trở lại. Mà ở nơi
thần thông biến hóa và tất cả oai lực của
đức Như Lai không hề tổn giảm.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Thần thông của
đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn khó nghe khó tin, chỉ có
chư đại Bồ Tát mới tin nhận được và vâng thờ
thanh tịnh không lầm không nghi, càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Giả sử các
chúng sanh ba cõiTất cả
biến thành chúng
Thanh VănĐều được
thần thông biến hóa lớn
Đồng với
Tôn giả Đại
Mục LiênNhư Lai có đại
thần thông lựcLấy một hột cải ném xuống đất
Tất cả
Thanh Văn hiện
thần thôngChẳng lay động được hột cải ấy
Giả sử trong
mười phương thế giớiSố nhiều như
số cát sông HằngNgọn gió
Tăng già đa nổi lên
Có thể thổi tan các
thế giớiNhững ngọn gió
Tăng già đa ấy
Đem thổi
y phục của
Như LaiTận
thế lực gió chẳng động được
Phần nhỏ
y phục như đầu lông
Đấng Đại
Mâu Ni dùng một lông
Ngăn gió lớn ấy chẳng cho thổi
Phật có đủ
thần lực dường ấy
Vô biên vô lượng như
hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là đại
thần thông lực bất tư nghị của
Như Lai mà
chư đại Bồ Tát tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Phật lại bảo Ngài Xá Lơị Phất: “Thế nào là
đại Bồ Tát đối với
trí lực bất tư nghị cuả
đức Như Lai mà tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư Phật Như Lai có đủ
mười lực như vậy. Vì
thành tựu mười lực, nên
đức Như Lai Đẳng Chánh Giác ở giữa
đại chúng chánh
sư tử hống, tự xưng ta ở bực Đại Tôn Thánh
chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả
thế gian hoặc Trời, hoặc
Ma Vương, hoặc
Phạm Vương, hoặc
Sa Môn, hoặc
Bà La Môn đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.
Nầy
Xá Lợi Phất! Những gì gọi là
mười lực của Như Lai? Một là Xứ phi xứ
trí lực, hai là
Nghiệp báo trí lực; ba là
Chủng chủng giải trí lực; bốn là
Chủng chủng giới trí lực; năm là
Chủng chủng căn
trí lực; sáu là Nhứt thiết
biến hành hành
trí lực; bảy là
Tịnh lự giải thoát tam ma địa tam ma bát đề
tạp nhiễm thanh tịnh trí lực; tám là
Tùy niệm tiền thế túc trụ tác chứng trí lực; chín là Tử sanh
tác chứng trí lực; mười là
Lậu tận tác chứng trí lực.
Thế nào là Thị xứ phi xứ
trí lực của đức Như Lai?
Nầy Xá Lơị Phất! Với thị xứ
đức Như Lai biết như thiệt là thị xứ, và với phi xứ biết như thiệt là phi xứ.
Thế nào là
thị phi xứ, thế nào là phi xứ?
Nầy
Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ
nhiếp thọ. Như thân các hành, ngữ
ác hành ý
ác hành cảm được
quả báo khả hỷ khả lạc khả ái
khả ý đó thì không bao giờ có sự ấy.
Thị xứ là có chỗ
nhiếp thọ. Như thân
ác hành, ngữ
ác hành, ý
ác hành mà cảm được
quả báo bất khả hỷ bất khả lạc bất khả ái bất
khả ý thì có sự ấy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ
nhiếp thọ. Như thân
diệu hành, ngữ
diệu hành, ý
diệu hành mà cảm được
quả báo bất khả hỷ bất khả lạc bất khả ái bất
khả ý thì không bao giờ có sự ấy.
Thị xứ là có chỗ
nhiếp thọ. Như thân
diệu hành, ngữ
diệu hành, ý
diệu hành, mà cảm được
quả báo khả hỷ khả lạc khả ái
khả ý thì có sự ấy.
Lại nầy Xá Lơị Phất! Phi xứ là không chỗ
nhiếp thọ. Nghĩa là do
xan tham mà cảm được giàu lớn, do
phạm giới mà sanh nhơn thiên, do giận thù mà cảm thân đoan chánh, do
giải đãi mà được thiền, do
tán loạn mà nhập
chánh định, do ác huệ mà dứt hẳn tất cả
tập khí tương tục. Nói như
vậy thì không bao giờ có.
Thị xứ là có chỗ
nhiếp thọ. Nghĩa là do
xan tham mà cảm được bần cùng, do
phá giới mà cảm
địa ngục súc sanh ngạ quỷ, do giận thù mà cảm báo
xấu xí, do
giải đãi mà chẳng đắc thiền, do tâm loạn mà chẳng nhập
chánh định, do ác huệ mà chẳng dứt hẳn được
tập khí tương tục. Nói như
vậy thì có sự ấy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ
nhiếp thọ. Nghĩa là do
bố thí mà cảm bần cùng, do
trì giới mà đọa
ác đạo, do nhẫn nhịn mà cảm
xấu xí, do
chánh cần mà chẳng được thiền, do
nhứt tâm mà chẳng nhập
chánh định, do
thánh huệ mà chẳng dứt hẳn
tập khí tương tục. Nói như
vậy thì không bao giờ có sự ấy.
Thị xứ là có chỗ
nhiếp thọ. Nghĩa là do
bố thí mà cảm được
đại phú, do
trì giới mà sanh nhơn thiên, do nhẫn nhịn mà cảm thân đoan chánh, do
chánh cần mà đắc
thiền định do thánh huê mà dứt hẳn
tập khí tương tục. Nói như
vậy thì có sự ấy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ
nhiếp thọ. Nghĩa là nhơn
sát sanh mà cảm
trường thọ, do trộm cướp mà cảm được
đại phú, do hành
tà dục mà cảm được vợ trinh lương. Nói như
vậy thì không bao giờ có sự ấy.
Thị xứ là có chỗ
nhiếp thọ. Nghĩa là nhơn
sát sanh mà cảm báo đoản mạng, do trộm cướp mà cảm báo nghèo cùng, do hành
tà hạnh mà cảm báo vợ chẳng trinh lương. Nói như
vậy thì có sự ấy.
Lại phi xứ là không chỗ
nhiếp thọ. Nghĩa là người rời
sát sanh hay cảm báo đoản thọ, người rời
trộm cắp hay cảm báo bần cùng, người rời hạnh
tà dục cảm báo vợ không trinh lương. Nói như
vậy thì không bao giờ có sự ấy.
Thị xứ là có chỗ
nhiếp thọ. Nghĩa là người rời
sát sanh thì cảm báo
trường thọ, người rời
trộm cắp thì cảm báo
đại phú, người rời hạnh
tà dục thì cảm báo vợ trinh lương. Nói như
vậy thì có sự ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Tất cả
nghiệp đạo thiện
bất thiện thị xứ và phi xứ như vậy nay sẽ nói tóm lược để
hiển thị chỗ cốt yếu.
Người
vọng ngữ mà chẳng cảm báo
phỉ báng thì không có sự ấy, nếu hay
chiêu cảm thì có sự ấy. Người rời
vọng ngữ mà cảm báo
phỉ báng thì không có sự ấy, nếu chẳng cảm báo
phỉ báng thì có sự ấy.
Người hành
ly gián ngữ mà hay cảm được
quyến thuộc sum họp thì không có sự ấy, nếu chẳng cảm được thì có sự ấy. Người xa rời
ly gián ngữ mà cảm được
quyến thuộc tan nát thì không có sự ấy, nếu cảm được
quyến thuộc sum họp thì có sự ấy.
Người hành
thô ác ngữ mà cảm được thường nghe
âm thanh khả ý thì không có sự ấy, nếu nghe
âm thanh bất
khả ý thì có sự ấy. Người rời
thô ác ngữ mà cảm nghe
âm thanh bất
khả ý thì không có sự ấy, nếu nghe
âm thanh khả ý thì có sự ấy.
Người hành
ỷ ngữ mà cảm được lời
dạy bảo ai cũng tin nhận thì không có sự ấy, nếu chẳng tin nhận thì có sự ấy. Người rời
ỷ ngữ mà cảm phải lời
dạy bảo người chẳng tin thọ thì không có sự ấy, nếu được tin thọ thì có sự ấy.
Người
tham lam mà cảm báo
tài sản chẳng tan thì không có sự ấy, nếu cảm báo tan mất thì có sự ấy. Người rời
tham lam mà cảm báo
tài sản tan mất thì không có sự ấy, nếu cảm chẳng tan mất thì có sự ấy.
Người cưu giận thù mà chẳng đọa
ác đạo thì không có sự ấy, nếu đọa thì có sự ấy. Người rời giận thù mà chẳng sanh
thiện đạo thì không có sự ấy, nếu được sanh thì có sự ấy.
Người
tà kiến chấp nhận nhơn
tà kiến mà
đắc đạo thì không có sự ấy, nếu chẳng
đắc đạo thì có sự ấy. Người
chánh kiến chấp nhận nhơn
chánh kiến mà chẳng được
thánh đạo thì không có sự ấy, nếu được
thánh đạo thì có sự ấy.
Người tạo tội
vô gián mà tâm được an thì không có sự ấy, nếu
bất an thì có sự ấy. Người
giới hạnh thanh tịnh mà tâm
bất an thì không có sự ấy, nếu tâm an thì có sự ấy.
Nếu
quan niệm hữu sở đắc mà được
thuận nhẫn thì không có sự ấy,
nếu không được
thuận nhẫn thì có sự ấy. Người tin hiểu
pháp không mà chẳng được
thuận nhẫn thì không có sự ấy, nếu được
thuận nhẫn thì có sự ấy.
Nếu
ác tác mà được tâm
an ổn thì không có sự ấy, nếu chẳng được tâm an thì có sự ấy.
Người
nhiếp tâm mà chẳng được tâm an thì không có sự ấy, nếu được thì có sự ấy.
Người nữ mà làm
Chuyển Luân Vương, làm
Thiên Đế Thích, làm
Phạm Thiên Vương thì không có sự ấy. Nếu
trượng phu mà làm thì có sự ấy.
Người nữ
xuất thế làm Phật thì không có sự ấy. Nếu chuyển thân nữ rồi mà
làm Phật thì có sự ấy.
Nếu người ở bực đệ
bát nhẫn chưa chứng
sơ quả mà
xuất định thì không có sự ấy, nếu
chứng quả rồi mà xuất thì có sự ấy.
Nếu đến thánh lưu mà còn thọ thân
sanh tử thứ tám thì không có sự ấy, nếu chính nơi các uẩn thân nầy mà
nhập Niết Bàn thì có sự ấy.
Nếu bực
Nhứt Lai mà còn thọ than
sanh tử thứ ba thì kông có sự ấy. Nếu chính nơi các uẩn thân nầy mà
nhập Niết Bàn thì có sự ấy.
Nếu bực
Bất Hoàn mà còn sanh lại nơi đây thì không có sự ấy, nếu ở nơi kia mà
nhập Niết Bàn thì có sự ấy.
Nếu
A La Hán lại còn nối sanh thì không có sự ấy, nếu chẳng còn nối sanh thì có sự ấy.
Nếu chư Thánh Nhơn mà còn cầu tà sư và nhận lời tà thì không có sự ấy, nếu chẳng cầu tà sư và chẳng nhận lời tà thì có sự ấy.
Bực
Bồ Tát được
vô sanh pháp nhẫn mà có
thối chuyển thì không có sự ấy, nếu
quyết định được
Vô thượng Bồ đề không còn
thối chuyển thì có sự ấy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ
nhiếp thọ và thi xứ là có chỗ
nhiếp thọ.
Nếu chư
Bồ Tát an tọa
đạo tràng chưa chứng
Bồ đề mà
đứng dậy thì không có sự ấy. Nếu chư
Bồ Tát an tọa
đạo tràng chứng
Phật đạo rồi bèn đứng lên thì có sự ấy.
Nếu chư
Như Lai mà còn
tập khí tương tục thì không có sự ấy. Tất cả
Như Lai tập khí đã dứt hẳn thì có sự ấy.
Nếu cho rằng
đức Như Lai trí còn có
chướng ngại thì không có sự ấy. Còn
Phật trí vô ngại thì có sự ấy.
Nếu có ai thấy được đỉnh đầu của
đức Như Lai thì không có sự ấy. Không ai thấy được đảnh Phật thì có sự ấy.
Nếu có người biết được
tâm an trụ của
đức Như Lai thì không có sự ấy. Nếu chẳng biết được thì có sự ấy.
Nếu nói
đức Như Lai có tâm
bất định mà có thể được thì không có sự ấy.
Tâm Phật thường ở tại
chánh định thì có sự ấy.
Nếu
chư Phật Như Lai hành bất thiệt ngữ thì không có sự ấy. Chư Phật là đấng chơn ngữ, thiệt ngữ, đế ngữ, bất dị ngữ thì có sự ấy.
Chư Phật còn có
lỗi lầm thì không có sự ấy. Do vì không
lỗi lầm mà gọi là chư Phật, là
Bạc Già Phạm thì có sự ấy.
Về
tứ vô úy và
thập bát bất cộng pháp cũng nói như trên.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ
nhiếp thọ. Như nói
đức Như Lai nơi đời
hiện tại sự thấy biết có
chướng ngại thì không có sự ấy.
Thị xứ là có chỗ
nhiếp thọ. Đức Như Phật
Bạc Già Phạm nơi đời
hiện tại sự thấy biết vô chướng
vô ngại thì có sự ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là thị xứ phi xứ
trí lực của
đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn
vô lượng vô biên. Như
hư không vô biên tế, thị xứ phi xứ
trí lực của
đức Như Lai không có
biên tế cũng như vậy.
Nếu có ai muốn cầu tìm
biên tế của
trí lực thị xứ phi xứ của
đức Như Lai thì chẳng khác người muốn tìm cầu
biên tế của
hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nghe
trí lực thị xứ phi xứ
bất tư nghị của
đức Như Lai như
hư không rồi tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lai nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Mười phương
hư không vô biên lượng
Trí xứ phi xứ cũng
vô biênBiết đúng trí xứ phi xứ rồi
Ví chúng nói rộng pháp
vi diệuNguời
thành tựu căn khí giải thoátBiết
công hạnh ấy Phật mới dạy
Người chẳng có
căn khí giải thoátBiết trí ấy rồi bèn rời bỏ
Giả sử hư không lay động được
Mười phương đại địa đồng thời rã
Trí lực xứ phi xứ của Phật
Vẫn như thiệt không động hư.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây là
trí lực thị xứ phi xứ thứ nhứt của
đức Như Lai. Do vì
thành tựu trí lực nầy mà
đức Như Lai Chánh Đẳng Giác ở giữa
đại chúng chánh sử tử hống tự xưng ta là bực
Đại Thánh chuyển đại pháp luân mà tất cả
thế gian, các
Sa Môn,
Bà La Môn,
Ma Vương,
Phạm Vương v.v... đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.
Thế nào là
nghiệp báo trí lực của đức Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng
trí lực vô thượng biết được đúng như thiệt những nghiệp và
quả báo thuở
quá khứ,
vị lai và
hiện tại, hoặc nhơn hoặc xứ hoặc các dị báo đều biết rõ.
Thế nào là
đức Như Lai biết rõ đúng như thiệt?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai đúng như thiệt biết rõ
quả báo thuở
quá khứ được thiện nhơn xa rời
bất thiện sẽ làm nhơn cho
thiện căn thuở
vị lai.
Quả báo thuở
quá khứ được nhơn bất thiẹân xa rời
thiện pháp sẽ làm nhơn cho
bất thiện căn thuở
vị lai.
Các tướng nghiệp và báo như vậy,
đức Như Lai ở tại đây đều biết rõ như thiệt.
Hoặc các
nghiệp báo sẽ thuận với liệt phần ở thuở
vị lai, nếu các
nghiệp báo sẽ thuận với thắng phần ở thuở
vị lai, các tướng như vậy
đức Như Lai ở tại đây đều biết rõ đúng thiệt.
Hoặc các
nghiệp báo thuận với liệt phần ở
hiện tại và thuận với thắng phần ở
vị lai, các
nghiệp báo thuận với thắng phần ở
hiện tại và thuận với
hạ liệt phần ở
vị lai, các
nghiệp báo thuận với liệt phần ở
hiện tại và cũng thuận với liệt phần ở
vị lai, những
nghiệp báo thuận với thắng phần ở
hiện tại và cũng thuận với thắng phần ở
vị lai, các tướng như vậy
đức Như Lai ở tại đây đều biết rõ đúng thiệt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Hoặc các
nghiệp báo ở
quá khứ là
phương tiện hẹp kém mà ở
vị lai là
phương tiện rộng lớn, hoặc các
nghiệp báo tạo tác ít mà được
thắng tiến lớn, hoặc các
nghiệp báo tạo tác rộng lớn mà được thắng tiếng ít, các tướng như vậy đều biết rõ đúng thiệt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Hoặc các
nghiệp báo sẽ được nhơn tánh
Thanh Văn, sẽ được nhơn tánh
Độc Giác, sẽ được nhơn tánh Phật, các tướng như vậy
đức Như Lai đều biết rõ đúng thiệt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Hoặc các
nghiệp báo hiện tại thì khổ mà có thể cảm được báo vui khác ở
vị lai, hoặc các
nghiệp báo hiện tại thì vui mà có thể cảm lấy báo khổ khác ở
vị lai, hoặc các
nghiệp báo hiện tại khổ cảm được báo khổ khác
vị lai, hoặc các
nghiệp báo hiện tại vui cảm được báo vui khác
vị lai, các tướng
nghiệp báo như vậy
đức Như Lai đều biết rõ đúng thiệt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai biết rõ được như thiệt tất cả
hữu tình quá khứ vị lai hiện tại, hoặc nghiệp, hoặc nhơn, hoặc các dị báo, hoặc tức, hoặc ly, hoặc có
tùy thuận chẳng khác phần, các tướng như vậy
đức Như Lai đều biết rõ như thiệt rồi vì các
hữu tình mà tuyên nói như thiệt.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Trí lực biết rõ như thiệt nghiệp nhơn
quả báo quá khứ vị lai hiện tại của
đức Như Lai Chánh Đẳng Giác vô lượng vô biên bất tư nghị.
Ví như hư không vô biên vô tế,
trí lực nghiệp báo của
đức Như Lai vô biên tế cũng như vậy.
Nếu có ai muốn tìm cầu
biên tế của
trí lực nghiệp báo ấy thì không khác gì người tìm cầu
biên tế của
hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nghe
trí lực nghiệp báo của chư
Như Lai bất tư nghị như
hư không rồi tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng”
“Như Lai khéo biết nhơn khác quả
Mắt sáng thấy rõ nghiệp như thiệt
Thấu suốt
ba đời đều
vô ngạiBiết như thiệt nghiệp của
hữu tìnhTất cả
hàm linh trong năm loài
Sẽ được thành các nhơn vui khổ
Nếu chuyển được nhơn thì khổ chuyển
Đức Phật soi tỏ biết như thiệt
Dị báo
thiện ác tất cả nghiệp
Theo đúng cho nên nhơn khác báo
Dường như viên ngọc nằm trong tay
Đức Phật nhìn rõ biết như thiệt
Các báo nghiệp nhơn dầu là ít
Được quả
vô lượng ở
vị laiHoặc
vô lượng nhơn
cảm quả ít
Đức Phật thấy khắp biết như thiệt
Hoặc nhơn sẽ
chứng quả Thanh VănHoặc hạnh sẽ
chứng quả Độc GiácHoặc nghiệp sẽ
cảm quả vô thượngĐức Phật biết rõ không sót thừa
Hoặc có nghiệp lúc nhơn thì khổ
Nghiệp ấy sẽ cảm được báo vui
Hoặc nghiệp lúc tạo nhơn thì vui
Sẽ mắc quả khổ Phật đều biết
Hoặc nghiệp nhơn quả đề khổ cả
Hoặc nghiệp đều vui cả quả nhơn
Hoặc nghiệp tự thể nhơ tự thể
Như Lai đều biết rõ như thiệt
Quả khổ xoay vần cả
ba đờiHữu tình trôi lăn trong năm nẻo
Trí lực nghiệp báo của
Như LaiĐều biết như thiệt không sai sót.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là
trí lực nghiệp báo thứ hai của
đức Như Lai. Do
thành tựu trí lực nầy nên
đức Phật ở giữa
đại chúng chánh
sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực
Đại Thánh Chuyển pháp luân rộng lớn
thanh tịnh, mà
thế gian những
Sa Môn,
Bà La Môn,
chư Thiên,
Ma Vương,
Phạm Vương v.v... đều chẳng chuyển được đúng pháp.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là
Chủng chủng giải trí lực của đức Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng
trí lực vô thượng biết được như thiệt các loài
hữu tình kia chẳng phải là một dục giải, là nhiều thứ dục giải.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ta sẽ vì ông mà
phân biệt nói rộng ra.
Các loài
hữu tình kia, hoặc có kẻ ở nơi
tham dục mà phát sanh
quan niệm sân hận, hoặc có kẻ ở nơi
sân hận mà phát sanh
quan niệm tham dục, hoặc ở nơi
ngu si mà phát sanh
quan niệm tham dục hay
sân hận, các tướng như vậy
đức Phật đều biết rõ như thiệt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Hoặc có
chúng sanh ở nơi pháp
bất thiện phát sanh
quan niệm bất thiện, hoặc ở nơi
pháp thiện phát sanh
quan niệm thiện,
đức Phật đều biết rõ như thiệt.
Hoặc có những
hữu tình ở nơi
phương tiện hạ liệt phát sanh
hiểu biết rộng lớn, hoặc ở nơi
phương tiện rộng lớn phát sanh
hiểu biết hạ liệt, hoặc do sự hiểu
phương tiện hạ liệt ấy sẽ ở nơi
thắng tiến, hoặc do sự hiểu
phương tiện thắng tiến ấy sẽ ở nơi
hạ liệt, hoặc do sự hiểu ấy sẽ gieo giống
tà định, hoặc do sự hiểu ấy sẽ gieo giống
chánh định, hoặc do sự
hiểu biết ấy sẽ gieo giống
chánh định giải thoát,
đức Phật đều biết rõ như thiệt.
Hoặc do sự hiểu ấy sẽ đến nơi cõi dục, hoặc sẽ đến cõi sắc, hoặc sẽ đến cõi
vô sắc, hoặc sẽ đến khắp
ba cõi,
đức Phật đều biết rõ như thiệt.
Hoặc do sự hiểu ấy thuận phần
hạ liệt sẽ được
thắng tiến, hoặc được
thắng tiến sẽ ở nơi
hạ liệt,
đức Phật đều biết rõ như thiệt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Hoặc do sự hiểu ấy mà
đời sau sẽ thọ nhiều
đời sống, sẽ thọ nhiều loài, nhiều sự
thọ dụng,
đức Phật đều biết rõ như thiệt.
Hoặc do sự hiểu ấy mà thối đọa, hoặc do sự hiểu ấy mà gieo giống
giải thoát,
đức Phật đều biết rõ như thiệt. Đã biết rõ rồi, theo chỗ đáng nên,
đức Phật rộng vì các
hữu tình mà
diễn thuyết đúng
như pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chủng chủng giải trí lực của
đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn
vô biên vô tế như
hư không.
Chư đại Bồ Tát ấy nghe
Chủng chủng giải trí lực
bất tư nghị như
hư không của
đức Như Lai rồi tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Thế gian nhiều loài nhiều
hiểu biếtQuá khứ hiện tại nhiều
vô lượngTâm
hiểu biết của các
chúng sanhĐấng
Đạo Sư đều hay biết rõ
Hoặc có kẻ phát
quan niệm tham
Lại sẽ an trụ nơi
sân hậnHoặc có kẻ hiện ở
sân hậnMà sanh hiểu si Phật biết rõ
Ở nơi si mà sanh hiểu tham
Tâm
phân biệt chẳng thể nghĩ bàn
Xen lộn lẫn nhau
lưu chuyển khởi
Đấng
Đại Đạo Sư đều biết rõ
Hoặc có các
phương tiện hạ liệtMà có thể sanh hiểu rộng lớn
Hoặc làm thêm lên những
phương tiệnĐấng
Đại Đạo Sư đều biết rõ
Tùy nhập vào nơi các tà tánh
Rồi lại nhập vào chỗ
phi đạoHoặc nhận hiểu
giải thoát ba cõiĐức Như Lai đều có thể biết
Những
đời sống và các
chúng sanhNhững sự
thọ dụng đều
sai biệtHoặc lại có thối thất
đọa lạcĐấng
Lưỡng Túc Tôn đều biết rõ
Biết rõ các thứ nhận hiểu rồi
Đấng
Đạo Sư phương tiện thuyết phápĐấy là
Phật trí lực thứ ba
Bồ Tát mới có thể tin được.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Đây gọi là
Chủng chủng giải trí lực thứ ba của
đức Như Lai. Do
thành tựu trí lực ấy nên
đức Như Lai Chánh Đẳng Giác ở giữa
đại chúng chánh
sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực
Đại Thánh hay
chuyển pháp luân thanh tịnh mà các
thế gian,
Sa Môn,
Bà La Môn,
chư Thiên,
Ma Vương,
Phạm Vương v.v... đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
Chủng chủng giới trí lực của
đức Như Lai ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng
trí lực vô thượng như thiệt biết rõ các thứ
cảnh giới ấy mà các
chúng sanh gây tạo
hành nghiệp phước, gây tạo
hành nghiệp phi phước,
hành nghiệp bất động, hoặc do
cảnh giới ấy mà gieo giống
xuất ly. Các
cảnh giới ấy,
đức Như Lai ở nơi đây biết rõ như thiệt.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đức Như Lai như thiệt biết rõ
nhãn giới,
sắc giới và
nhãn thức giới, nhẫn đến
ý giới,
pháp giới và
ý thức giới. Các giới như vậy biết rõ như thế nào ? Đó là như thiệt biết rõ
nội không,
ngoại không,
nội ngoại không vậy.
Đức Như Lai lại như thiệt biết rõ
địa giới,
thủy giới,
hỏa giới và
phong giới. Biết rõ các giới ấy như thế nào ? Đó là biết rõ
như không giới vậy.
Những
dục giới,
sắc giới và
vô sắc giới đều biết rõ như thiệt, vì khắp
phân biệt chỗ
phát khởi vậy.
Lại như thiệt biết rõ
hữu vi giới, vì là tướng tạo tác vậy ; như thiệt biết rõ
vô vi giới, vì là
tướng không có tạo tác vậy ; biết rõ
tạp nhiễm giới, vì là tướng nó do
phiền não dẫn phát ra ; biết rõ
thanh tịnh giới, vì tướng nó tự thể sáng sạch vậy.
Lại như thiệt biết rõ các hành giới, vì là tướng
vô minh chẳng thuận lý vậy ; biết rõ
Niết Bàn giới, vì là tướng sáng thuận lý vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì thế nên hoặc là giới có thể
an lập thế gian, giới nầy được
thế gian y cứ mà an trụ như vậy ; hoặc là giới hay phát khiên dẫn, hoặc là giới hay hưng
kiến lập, hoặc giới hay khởi
phương tiện, hoặc là giới hay sanh ý dục, hoặc là giới hay khởi
phiền não, hoặc là giới hay làm
y chỉ, các giới như vậy có
vô lượng vô biên cũng đều được
đức Như Lai biết rõ như thiệt. Đã biết rõ rồi theo chỗ đáng nên mà vì
chúng sanh giảng thuyết đúng
như Pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Trí lực chủng chủng giới
bất tư nghị của
đức Như Lai không có
biên tế như
hư không. Nếu có ai muốn tìm cầu
biên tế của
trí lực chủng chủng giới ấy, thì không khác gì người muốn cầu tìm
biên tế của
hư không.
Chư đại Bồ Tát nghe
chủng chủng giới trí lực bất tư nghị như
hư không của
đức Như Lai rồi tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng
hy kỳ ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
«
Thế gian các
chúng sanhY chỉ chủng chủng giới
Tùy chỗ họ
lưu chuyểnNhư Lai đều biết rõ
Phước, phi phước,
bất độngVà thuận với
xuất lyAn trụ giới ấy rồi
Chứng
tịch diệt Niết BànHoặc
nhãn giới sắc giớiVà cùng
nhãn thức giớiNhĩ tỉ
thiệt thân ý
Biết rõ các giới ấy
Lại biết rõ
pháp giớiVà cùng
ý thức giới
Nội ngoại giới đều không
Phật biết rõ như thiệt
Địa giới và
thủy giớiHỏa giới cùng
phong giớiBốn giới đồng
không giớiĐều biết rõ như thiệt
Hoặc
dục giới sắc giớiVà cùng
vô sắc giớiKhắp
phân biệt chỗ khởi
Như
hư không vô biênGiới
vô biên cũng vậy
Phật đều biết rõ cả
Mà chẳng nói ta biết
Các giới vốn
vô sanhCũng vốn không có diệt
Đây gọi
Niết Bàn giớiĐức Như Lai biết rõ
Như
hư không vô biênTrí của Phật cũng vậy
Do trí ấy biết rõ
Biến dị nơi các giới
Đã biết
chủng chủng giới
Điều phục các
chúng sanhPhật trí lực thứ tư
Bồ Tát hay tin được.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là
Chủng chủng giới trí lực của
đức Như Lai. Do
thành tựu trí lực nầy mà
đức Như Lai Đẳng Chánh Giác ở giữa
đại chúng chánh
sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực
Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh, các
thế gian,
Sa Môn Bà La Môn,
chư Thiên,
Ma Vương,
Phạm Vương v.v... đều không thể chuyển đúng pháp được.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
Chủng chủng căn
trí lực của đức Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng
trí lực vô thượng có thể biết rõ như thiệt về tướng các
căn tánh sai biệt của tất cả
chúng sanh.
Các tướng ấy
đức Như Lai biết rõ như thiệt thế nào?
Nầy
Xá Lợi Phất! Đó là
Như Lai biết rõ như thiệt
độn căn,
trung căn,
lợi căn, thắng căn, liệt căn. Do khắp
phân biệt theo các
căn tánh mà
đức Như Lai biết rõ như thiệt
chúng sanh khởi các thứ tham, khởi các thứ sân, khởi các thứ si, hoặc
khởi giả lập tham sân si, hoặc khởi
tham sân si nhỏ mỏng, hoặc khởi
tham sân si điên đảo, hoặc khởi dẹp phục
tham sân si.
Hoặc nhơn
bất thiện sanh ra các căn, hoăc các căn do nhơn
thiện sanh ra,
đức Như Lai đều biết rõ như thiệt. Cũng biết rõ các căn do nhơn
bất động sanh ra, hoặc các căn do nhơn
xuất ly sanh ra.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai biết rõ như thiệt
nhãn căn,
nhĩ căn,
tỷ căn,
thiệt căn,
thân căn,
ý căn,
nam căn,
nữ căn,
mạng căn,
lạc căn,
khổ căn, ưu căn, hỷ căn, xả căn,
tín căn,
chánh cần căn,
niệm căn,
định căn,
huệ căn, vị tri đương
tri căn,
tri căn,
dĩ tri căn. Các tướng căn
sai biệt như vậy
đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.
Nầy
Xá Lợi Phất! Hoặc các
chúng sanh an trụ
bố thí căn mà
tu trì giới
phương tiện, bấy giờ
đức Như Lai dùng trí thắng liệt căn mà vì họ nói
pháp bố thí. Hoặc có
chúng sanh an
trụ trì giới căn mà tu
bố thí phương tiện thì vì họ nói về
trì giới. Hoặc có
chúng sanh an trụ
nhẫn nhục căn mà tu
tinh tiến phương tiện, thì vì họ nói về
pháp nhẫn nhục.
Hoặc có
chúng sanh an trụ
tinh tiến căn mà
tu nhẫn nhục
phương tiện, thì vì họ nói về pháp
tinh tiến.
Hoặc an trụ
thiền định căn mà an trụ
tu huệ phương tiện thì vì họ nói về pháp thiền. Hoặc an trụ
huệ căn mà
tu thiền phương tiện thì vì họ nói về
chánh trí huệ.
Các căn
sai biệt về tất cả phần
Bồ đề như vậy,
đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.
Nầy
Xá Lợi Phất! Hoặc có
chúng sanh an trụ căn
Thanh Văn mà lại tu
độc giác phương tiện, thì
đức Như Lai dùng
Chủng chủng chư căn trí vì họ mà nói
hạ thừa. Người an trụ
độc giác căn mà tu
Thanh Văn phương tiện thì vì họ mà nói
trung thừa. Người an trụ
đại thừa căn mà tu
nhị thừa phương tiện, thì
đức Như Lai dùng
chư căn trí vì họ nói
đại thừa.
Nếu có các
chúng sanh không có căn kham nhậm, không có tướng kham nhậm,
đức Như Lai biết họ là
phi pháp khí không kham nhậm rồi bèn bỏ để đó.
Nếu các
chúng sanh có căn kham nhậm có tướng kham nhậm,
đức Như Lai biết rõ như thiệt là người
pháp khí có kham nhậm liền
ân cần trịnh trọng vì họ
thuyết pháp cho họ được
ngộ nhập.
Như vậy, nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai biết rõ các
hữu tình các căn
thuần thục và chẳng
thuần thục, các căn
xuất ly và chẳng
xuất ly.
Căn tánh của các
hữu tình,
đức Như Lai đúng như thiệt biết rõ tất cả; an
trụ tướng như vậy,
phương tiện như vậy,
tín giải như vậy, bổn nhơn như vậy,
sở duyên như vậy,
đẳng lưu như vậy,
cứu cánh như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chủng chủng căn trí của
đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn
vô biên vô tế chư căn trí lực của
đức Như Lai thì chẳng khác gì người muốn tìm cầu
biên tế của
hư không.
Chư đại Bồ Tát nghe
căn lực như
hư không ấy rồi tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Đấng đến tột mé căn
chúng sanhKhéo thấu tánh hạnh của
hữu tìnhTùy theo căn tánh có thể kham
Đức Như Lai vì họ
thuyết phápCăn
hạ trung thượng kham nhậm được
Trí lực của
Phật phát trong ấy
Xem
tâm giải thoát của họ rồi
Đấng
Lưỡng Túc Tôn liền
thuyết phápNếu người các căn hay
phát khởiPhiền não mỏng nhẹ
tương tục ít
Khéo thấu
căn tánh của người ấy
Đức Phật tùy thuận vì
thuyết phápNếu các
trượng phu có
thiện cănTùy chỗ siêng tin mà khai thị
Lại theo căn
hành tướng sai biệtNói các
thắng nghĩa định huệ thảy
Nếu người
phát khởi siêng
tín nguyệnNhư Lai tùy thuận nói
tịnh đạoBiết họ có đủ
công hạnh rồi
Dạy họ
thắng pháp siêu các khổ
Có căn
quyết định Phật
Bồ đềMê lầm tu theo hạnh
nhị thừaPhật dạy
đại thừa thành chánh giácĐây là
trí lực thư năm vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là
Chủng chủng căn
trí lực của
đức Như Lai. Do
thành tựu trí lực thứ năm này mà
đức Phật Như Lai ở giữa
đại chúng chánh
sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực
Đại Thánh hay
chuyển pháp luân thanh tịnh, mà các
thế gian,
Sa Môn,
Bà La Môn,
chư Thiên,
Ma Vương,
Phạm Vương v.v... đều chẳng chuyển được đúng pháp.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
Biến hành chư hành trí lực của đức Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng
vô lượng trí lực biết rõ như thiệt
biến hành chư hành.
Nầy
Xá Lợi Phất! Các tướng như vậy biết rõ thế nào? Đó là biết rõ tánh
hữu tình là tánh
chánh định, là tánh
bất chánh định, là tánh
tà định.
Thế nào là tánh chánh định?
Đó là do
phương tiện tu tập đời trước khai phát
trí huệ lợi căn mà phát sanh tánh ấy, hoặc chư Phật có vì họ
thuyết pháp hay chẳng
thuyết pháp.
Đức Như Lai biết nhơn quả đời trước của
chúng sanh ấy kham nhậm
pháp khí tùy chỗ đáng nên
thuyết pháp cho họ mau
được giải thoát.
Thế nào là tánh bất định?
Đó là do sức
ngoại duyên mà
thành thục tánh ấy. Nếu được
giáo thọ giáo giới đúng pháp thì
được giải thoát. Nếu
giáo thọ giáo giới chẳng đúng pháp thì chẳng
được giải thoát.
Đức Như Lai vì họ mà nói pháp
tùy thuận. Họ
nghe được chánh pháp rồi đúng theo lý mà
tu hành chứng quả giải thoát. Vì muốn cho các
chúng sanh được những sự
lợi ích giải thoát như
vậy mà đức Phật xuất thế.
Thế nào gọi là tánh tà định?
Đó là tánh
chúng sanh bị
phiền não che úp chẳng
tu tập nghiệp hạnh
thanh tịnh, thức tánh bạc nhược
ngu si sâu dầy an trụ trong lưới
tà kiến chẳng phải
căn khí chánh pháp, dầu chư
Như Lai có vì họ
thuyết pháp hay chẳng
thuyết pháp, họ cũng chẳng kham nhậm
chứng quả giải thoát.
Đức Như Lai biết
hữu tình ấy chẳng phải là
pháp khí rồi liền bỏ để đó. Vì thế nên, nầy
Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tấ vì thương muốn làm
lợi ích cho hạng
chúng sanh ấy, nên mặc giáp
hoằng thệ vào trong đám quân
tà kiến để
giáo hóa xô dẹp.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai biết rõ như thiệt ba thứ tham hành: hoặc do tướng tịnh mỹ mà
phát khởi tham hành, hoặc do nghiệp nhơn đời trước mà
phát khởi tham hành.
Đức Như Lai lại biết rõ như thiệt ba thứ sân hành: hoặc do tướng
tổn hại mà
phát khởi sân hành, hoặc do
quan sát quá nhiều mà phát khỡi sân hành, hoặc do
phiền não đời trước mà
phát khởi sân hành.
Đức Như Lai lại biết rõ như thiệt ba thứ si hành: hoặc có si
hành do vô minh phát sanh, hoặc có si
hành do vọng có
thân kiến mà phát sanh, hoặc có si
hành do nghi mà phát sanh.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai biết rõ như thiệt các hành. Có người khổ lạc hai hành đều mau có thể thông vì các căn họ bén nhạy. Có người khổ lạc hai hành đều chậm thông, vì các căn của họ chậm lục vậy.
Lại biết rõ như thiệt hành chậm, thông cũng chậm vì bỏ
sở duyên vậy. Hoặc hành chậm còn thông thì mau vì đạo chẳng ngừng dứt vậy. Hoặc hành mau còn thông thì chậm vì dũng quyết tiến lên vậy, hoặc hành mau thông mau vì chẳng phải tánh ấy vậy.
Lại biết rõ như thiệt hoặc có các căn hành sức
giản trạch đầy đủ mà chẳng phải sức
tu tập. Hoặc có các căn hành sức
tu tập đầy đủ mà chẳng phải sức
giản trạch. Hoặc có các hành hai sức
giản trạch và
tu tập đều đầy đủ.
Lại biết rõ như thiệt hoặc có các
hành tín nguyện đầy đủ mà chẳng phải
phương tiện đầy đủ. Hoặc có các hành
phương tiện đầy đủ mà chẳng phải
tín nguyện đầy đủ. Hoặc có các
hành tín nguyện và
phương tiện đều đủ. Hoặc có các
hành tín nguyện và
phương tiện đều chẳng đầy đủ.
Lại biết rõ như thiệt hoặc có các hành
thân nghiệp thanh tịnh mà chẳng phải do ngữ và ý. Hoặc có các hành
ngữ nghiệp thanh tịnh mà chẳng phải do thân và ý. Hoặc có các hành
ý nghiệp thanh tịnh mà chẳng do thân và ngữ. Hoặc có các
hành do thân ngữ ý mà được
thanh tịnh.
Như vậy nhẫn đến
chúng hữu tình chỗ có các hành hoặc nhơn
lưu chuyển, hoặc nhơn chẳng
lưu chuyển, hoặc nhơn cả hai
lưu chuyển và bất
lưu chuyển,
đức Như Lai dùng trí
vô ngại đều biết rõ như thiệt.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Trí lực biến hành chư hành của
đức Như Lai chẳng nghĩ bàn được
vô biên tế như
hư không.
Chư đại Bồ Tát nghe
trí lực bất tu nghị như
hư không ấy rồi tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy ky”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Như Lai như thiệt biết các hành
Biết được
hữu tình tánh
chánh địnhLại biết tướng
bất định thành thụcVà các căn nhơn pháp
tương ưngCác hành ba thứ tham
tương ưngVà cùng ba thứ
sân si hiệp
Hành
tương ưng vô biên phiền nãoDuyên, nhơn,
đức Phật đều thiệt biết
Người có khổ hành mà
lợi cănHoặc có hành ấy mà
độn cănNgười có lạc hành
căn lợi độn
Đấng
Đại Đạo Sư biết như thiệt
Người có độn hành và độn tu
Hoặc là hành độn mà lợi tu
Hoặc là hành mau mà tu chậm
Hoặc là đều mau hoặc đều chậm
Hoặc có các hành
giản trạch sanh
Chẳng do
tu tập đạo lực khởi
Hoặc
tu tập sanh chẳng
giản trạchCâu sanh biệt dị cùng
tương ưngHoặc có các hành sanh
tín nguyệnMà chẳng phải là
phương tiện tịnh
Hoặc
phương tiện tịnh chẳng
tín nguyệnChẳng
tín nguyện hạnh hoặc đủ cả
Hoặc có tịnh tu nơi
thân nghiệpChẳng phải ngữ
ý nghiệp thanh tịnhHoặc có ngữ tịnh và thân tịnh
Mà
ý nghiệp kia chẳng
thanh tịnhHoặc có
nội tâm thường
thanh tịnhHai nghiệp thân ngữ chẳng
thanh tịnhHoặc có ngữ tịnh và ý tịnh
Mà
thân nghiệp họ chưa được tịnh
Hoặc thân ngữ ý tịnh chẳng tịnh
Các hành
lưu chuyển và
tịch diệtĐấng
Chánh Biến Tri biết như thiệt
Đây là
Phật trí lực thứ sáu.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là
biến hành chư hành trí lực của
đức Như Lai. Do
trí lực thứ sáu ấy mà
đức Như Lai tự xưng là bực
Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả
thế gian đều chẳng chuyển đúng pháp được.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
Tịnh lự giải thoát tam ma địa tam ma bát đề
phát khởi tạp nhiễm thanh tịnh trí lực của đức Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng
trí lực vô thượng biết rõ như thiệt hoặc tự hoặc tham tất cả những pháp
tịnh lự giải thoát tam ma địa tam ma bát đề
phát khởi tạp nhiễm thanh tịnh.
Các tướng như vậy biết rõ như thiệt thế nào?
Đó là biết rõ như thiệt do nhơn do duyên mà tất cả
hữu tình có thể bị
tạp nhiễm; lại như thiệt biết do nhơn do duyên mà tất cả
hữu tình có thể được
thanh tịnh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nhơn gì duyên gì có thể khiến tạp nhiễm?
Đó là do
tác ý chẳng xứng lý làm nhơn, do
vô minh làm duyên khiến các
hữu tình phát khởi tạp nhiễm.
Vô minh như vậy làm nhơn các hành làm duyên; các hành làm nhơn các thức làm duyên; các thức làm nhơn
danh sắc làm duyên;
danh sắc làm nhơn
sáu nhập làm duyên;
sáu nhập làm nhơn các xúc làm duyên; các xúc làm nhơn
cảm thọ làm duyên; do thọ làm nhơn
ái luyến làm duyên;
tham ái làm nhơn
chấp thủ làm duyên; do thủ làm nhơn các hữu làm duyên; do hữu làm nhơn lấy sanh làm duyên; do sanh làm nhơn
lão tử làm duyên;
phiền não làm nhơn các nghiệp làm duyên;
kiến chấp làm nhơn
tham ái làm duyên;
tùy miên làm nhơn các triền làm duyên;
Do các nhơn và duyên như vậy làm cho tất cả
hữu tình pháp khởi
tạp nhiễm.
Những tướng như vậy
đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nhơn gì và duyên gì làm cho thanh tịnh?
Có hai nhơn và hai duyên có thể làm cho tất cả
hữu tình thanh tịnh. Đó là do tha thuận âm và
tác ý như lý của chính mình làm nhơn, và xa
tha duyên một cảnh cùng tì bát xá na
thiện xảo phương tiện làm duyên.
Lại có hai nhơn và hai duyên làm cho
thanh tịnh. Đó là trí
bất lai và trí bất khứ.
Lại có hai nhơn và hai duyên làm cho
thanh tịnh. Đó là quán
vô sanh và chứng
chánh định.
Lại có hai nhơn và hai duyên làm cho
thanh tịnh. Đó là hành
cụ túc và minh
vô minh giải thoát tác chứng.
Lại có hai nhơn và hai duyên làm cho
thanh tịnh. Đó là tu
giải thoát môn và tánh
giải thoát trí.
Lại có hai nhơn và hai duyên làm cho
thanh tịnh. Đó là tùy
giác đế và tùy đắc đế.
Những nhơn và duyên như vậy có thể làm cho
hữu tình thanh tịnh. Các tướng như vậy
đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai biết rõ như thiệt
cảnh giới tạp nhiễm của các
hữu tình và
cảnh giới thanh tịnh của các
hữu tình. Hoặc có
cảnh giới tạp nhiễm nhập vào
cảnh giới thanh tịnh; hoặc có
cảnh giới thanh tịnh nhập vào
cảnh giới tạp nhiễm; đây đều do như thiệt quán vậy.
Hoặc có
cảnh giới tạp nhiễm nhập vào
cảnh giới tạp nhiễm; hoặc có
cảnh giới thanh tịnh nhập vào
cảnh giới thanh tịnh; đây đều là do
tăng thượng mạn chấp vây.
Tất cả tướng trên đây
đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai dùng trí như thiệt ở nơi trong các
tịnh lự siêu việt gián tạp
sai biệt đều biết rõ.
Đó là
ly dục ác
bất thiện pháp hữu tầm hữu từ
ly sanh hỷ lạc đầy đủ an trụ nơi
tịnh lự tối sơ.
Đức Như Lai an trụ
tịnh lự tối sơ rồi từ
diệt tận định mà xuất. Như vậy nhẫn đến
nhập diệt tận định rồi từ sơ
tịnh lự mà xuất.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai ở nơi
bát giải thoát dùng trí như thiệt hoặc
thuận thứ lớp mà nhập, hoặc lại nghịch thứ mà nhập, hoặc
thuận nghịch nhập, hoặc gián tạp nhập.
Giải thoát như vậy thế nào là tám thứ?
Đó là nội có
sắc tướng quán ngoại sắc là sơ
giải thoát;
nội không sắc tướng quán ngoại sắc
giải thoát là
giải thoát thứ hai; nơi tịnh
giải thoát hoặc nơi tịnh tánh khởi tịnh giải là
giải thoát thứ ba;
hư không vô biên xứ định là
giải thoát thứ tư;
thức vô biên xứ định là
giải thoát thứ năm;
vô sở hữu xứ định là
giải thoát thứ sáu;
phi tưởng phi phi tưởng xứ định là
giải thoát thứ bảy;
diệt thọ tưởng định là
giải thoát thứ tám.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai dùng trí như thiệt hoặc an trụ trong một
tam ma địa mà lại
thị hiện tam ma địa và
tam ma bát đề khác, hoặc lại
thị hiện các thứ
quán giải. Dầu như
vậy mà chư
Như Lai đối với các
đẳng trì chưa từng
hỗn loạn.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Chư Phật Như Lai chẳng do duyên nơi
tam ma địa mà nhập
tam ma địa. Hoặc y nơi một
tam ma địa mà
thành tựu tất cả những
tam ma địa khác. Hoặc chẳng khởi một
tam ma địa mà có
thể nhập khắp tất cả
tam ma địa. Lai chư
Như Lai tâm thường an trụ trong
định không xoay vần duyên. Lại chư
Như Lai không bao giờ có tâm
bất định. Lại chư
Như Lai an trụ
chánh định thâm diệu, không ai có thể thấy biết được
chánh định của
Như Lai được.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Tam ma địa của hàng
Thanh Văn được bị
tam ma địa của
Độc Giác chói lấp.
Tam ma địa của chư
Độc Giác được bị
tam ma địa của
Bồ Tát chói lấp.
Tam ma địa của chư
Bồ Tát bị
tam ma địa của Phật chói lấp.
Tam ma địa của chư Phật không gì chói lấp được. Tại sao? Do vì trí không chói lấp của
Như Lai thường hiện khởi vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai biết như thiệt như vậy;
giáo thọ như vậy, giáo giới như
vậy mà có thể
phát khởi các
tam ma địa của
Thanh Văn Duyên Giác.
Đức Như Lai dùng
giáo thọ giáo giới như vậy có thể
phát khởi diệu
tam ma địa của chư
Bồ Tát.
Chư Phật Như Lai biết rõ như thiệt rồi bèn làm
giáo thọ giáo giới như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Trí lực phát khởi tịnh lự giải thoát tam ma địa ma bát đề
tạp nhiễm thanh tịnh của
đức Như Lai vô biên vô tế chẳng thể nghĩ bàn đồng như
hư không. Nếu có ai muốn tìm
biên tế định lực của
đức Như Lai thì chẳng khác với kẻ tìm
biên tế của
hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư Đại Bồ Tát nghe
trí lực Thiền định giải thoát của
đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn như
hư không rồi tin nhận vâng thờ
thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở
vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Do đây
hữu tình khởi
tạp nhiễmDo đây
hữu tình được
thanh tịnhĐại Hùng biết rõ như vậy rồi
Rộng vì
tuyên dương pháp
vi diệuDo
tác ý trái lý làm nhơn
Vô minh làm
duyên sanh tạp nhiễmVô minh làm nhơn hành làm duyên
Nhẫn đến xoay vần sanh các khổ
Tát ý trái lý và
vô minhLàm căn bổn sanh các chi kia
Chư Phật biết rõ như thiệt rồi
Tùy chỗ đáng nên tuyên
diệu phápTất cả cội gốc của
tạp nhiễmĐó là
nghiệp hành và
vô minhLại từ đây làm duyên cho thức
Triển chuyển như vậy sanh các khổ
Do chỗ nói
tùy thuận âm kia
Và do
nội tâm quán đúng lý
Do hai nhơn hai duyên đây
Tất cả
chúng sanh chứng
thanh tịnhDo chỉ
tác ý đúng lý nhơn
Và do chánh quán làm duyên kia
Mà các
chúng sanh chứng
giải thoátĐại Sư đều biết rõ như thiệt
Hành giả an trụ
giới thanh tịnhQuán sát các pháp đều
không tịchVà khéo
tu tập môn
giải thoátXa rời
sanh tử bức ngặt khổ
Như đây chư Phật thiệt biết rõ
Tất cả
chúng sanh hạnh
thanh tịnhKhông vô tướng nguyện
giải thoát mônThiện thệ theo căn mà
hiển thịĐộc Giác tối thắng và
Thanh VănThuận nghịch nhập xuất các
tịnh lựNhư Lai tuyên bày chỗ chứng kia
Như có gai độc và oán thù
Định
giải thoát của chư Phật chứng
Rốt ráo không oán không gai độc
Phải biết bực thứ bảy của Phật
Không
thiền định nào xô dẹp được.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là Chư
định trí lực của
đức Như Lai. Do được
trí lực thứ bảy nầy mà
đức Như Lai tuyên bố ta là bực
Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả
thế gian đều chẳng chuyển được.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
Túc trụ tùy niệm tác chứng trí lực của đức Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng
trí lực vô thượng tùy theo chỗ ghi nhớ đều biết rõ như thiệt.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai đùng như thiệt biết rõ
vô lượng đời trước của Phật và của tất cả
hữu tình khác. Hoặc ghi nhớ
một đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, đến
câu chi na do tha trăm ngàn đời thảy đều có thể nhớ biết rõ.
Đức Như Lai lại nhớ biết rõ kiếp loài, kiếp thành, kiếp thành hoại, hoặc
vô lượng kiếp hoại,
vô lượng kiếp thành,
vô lượng kiếp thành hoại. Hoặc nhớ biết rõ trăm
câu chi kiếp, đến
vô lượng trăm ngàn
câu chi na do tha kiếp.
Đức Như Lai có thể nhớ biết rõ đời trước của Phật đã từng ở tại xứ ấy, có tên họ ấy, dòng ấy, có sắc ấy tướng ấy, hình dạng ấy, sống bao lâu, khổ vui ra sao, từ chỗ ấy chết rồi sanh chỗ kia, từ chỗ kia chết rồi sanh xứ nầy.
Vô lượng đời trước của mình và của kẻ khác,
đức Như Lai đều nhớ biết rõ từng
chi tiết.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai biết rõ đúng như thiệt nghiệp nhơn đời trước của tất cả
hữu tình. Do nghiệp nhơn ấy mà
hữu tình đến sanh xứ nầy. Biết rõ nghiệp nhơn ấy của họ rồi,
đức Như Lai theo đúng chỗ đáng nên dạy mà
thuyết pháp cho họ.
Đức Như Lai biết rõ như thiệt tất cả
hữu tình đời trước có
tâm niệm nối tiếp không hở, duyên theo cảnh như
vậy mà sanh tâm như vậy, do
cảnh duyên ấy không đủ nên tâm ấy dứt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Hoặc có một
hữu tình tâm niệm xoay đổi
tuần tự mãi mãi nối tiếp như vậy cả
hằng sa kiếp,
lời nói chẳng thể kể xiết,
cho đến tất cả
hữu tình đều có
tâm niệm như vậy,
đức Như Lai nhớ đến, liền có thể biết rõ như thiệt tất cả
tâm niệm ấy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai y theo tâm niệm xoay đổi của tất cả
hữu tình đến tận
hậu tế cả
câu chi kiếp kể nói chẳng hết được, mà
trí lực của Phật cũng không
cùng tận.
Trí lực Túc trụ tùy niệm các chứng của Phật chẳng thể nghĩ bàn, không gì bằng, không gì sánh, là
vô lượng vô số chẳng thể tuyên nói, lại chẳng thể nói là có
biên tế.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai dùng
thần lực Phật làm cho
hữu tình nhớ biết đời trước rồi bảo họ rằng: Nay ngươi nên nhớ đời trước đã trồng căn lành như vậy, hoặc ở chỗ
Độc Giác, hoặc noi
chánh pháp mà trồng căn lành. Các căn lành như vậy ngươi phải nhớ biết hết.
Các
hữu tình ấy nhờ
thần lực Phật nhớ đến đều biết rõ
vô lượng căn lành đời trước của mình.
Đức Như Lai dùng
thần lực làm cho
hữu tình nhớ biết
thiện căn đời trước rồi theo đúng chỗ nên dây mà
thuyết pháp cho họ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Hoặc có
hữu tình được chẳng
thối chuyển nơi
Vô thượng Chánh giác tùy theo sở nguyện mà cầu
giải thoát: Hoặc theo
Thanh Văn thừa, hoặc theo
Độc Giác thừa, hoặc
phát tâm Vô thượng Bồ đề,
đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Trí lực Túc trụ tùy niệm tác chứng của Phật chẳng thể nghĩ bàn, là
vô lượng vô số vô biên vô tế bằng với
hư không.
Nếu có ai muốn suy tìm
biên tế trí lực của Phật, thì chẳng khác gì người muốn suy tìm
biên tế của
hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư đại Bồ Tát nghe
trí lực Túc trụ chẳng thể nghĩ bàn như
hư không như vậy rồi, liền tin nhận vâng thờ chẳng lầm chẳng nghi,
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lai nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Vô lượng
câu chi na do kiếp
Trí lực của Phật đều biết rõ
Phật nhớ đời trước mình và người
Như xem trái cây trên bàn tay
Nhớ biết rõ họ tên
sắc tướngSống chết xứ kia sanh xứ nầy
Hữu tình có đủ nghiệp nhơn ấy
Biết chỗ đáng dạy mà
thuyết phápVô biên vô tế đời
quá khứBao nhiêu
tâm niệm của
hữu tìnhTâm ấy nối tiếp sanh niệm ấy
Trí lực của Phật biết rõ cả
Một
hữu tình cho đến tất cả
Tâm niệm nối tiếp không ngừng hở
Đã qua
số kiếp như
hằng saKhông thể dùng lời kể nói hết
Nhẫn đến
câu chi số kiếp sau
Phật biết rõ cả
tâm niệm họ
Trí lực Như Lai vẫn
vô tậnNên gọi trí Phật như biển cả
Tất cả
hữu tình tín nguyện lành
Đã từng
cúng dường chư Phật Thánh
Phật dùng
thần lực gia hộ họ
Khiến nhớ
tịnh hạnh đã từng tu
Như Lai biết rõ các
hữu tìnhQuá khứ đã tu các phước hạnh
Biết họ đã trụ trí
ba thừaGiải thoát bất thối vô thượng đạoTrí biết
quá khứ vô biên tếChẳng thể nghĩ bàn chẳng
sánh bằngPhật trí lực
túc trụ thứ tám
Chư đại Bồ Tát tin nhận được.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là
trí lực Túc trụ của Phật. Do được
trí lực thứ tám nầy nên
đức Như Lai tuyên bố ta ở ngôi
Thế Tôn chuyển pháp luân lớn than tịnh mà tất cả
thế gian chẳng thể chuyển được.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
trí lực Thiên nhãn thông tác chứng của Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dùng
trí lực thiên nhãn thanh tịnh vô thượng vượt hơn tất cả mà nhìn xem các loài
hữu tình chết nơi đây sanh về kia, hoặc liệt hoặc thắng, hoặc
nhan sắc đẹp hay xấu, hoặc đến cõi lành, hoặc qua loài ác, đúng như nghiệp nhơn mà họ đã gây nên. Tất cả tướng sai khác như vậy,
đức Như Lai đều thầy rõ đúng như thiệt.
Đức Như Lai lại thấy rõ
nghiệp hành của các
hữu tình gây tạo. Các
hữu tình gây tạo nghiệp xấu ác nơi thân như vậy, nơi khẩu như vậy, nơi ý như vậy, sanh
tà kiến chê bai
Hiền Thánh. Do nghiệp nhơn
tà kiến như vậy nên khi chết họ đọa vào các
ác đạo hoặc sanh vào
địa ngục, hoặc sanh vào
súc sanh, hoặc sanh vào lòai quỷ.
Đức Như Lai cũng thấy biết rõ các
hữu tình gây tạo
nghiệp lành tốt nơi thân, nơi khẩu, nơi ý như vậy, chẳng chê bai
Hiền Thánh,
tu tập chánh kiến. Những
hữu tình nầy nương nơi nghiệp nhơn
chánh kiến như vậy,
sau khi chết sanh về cõi lành, hoặc sanh lên trời, hoặc sanh trong
thế giới an lạc.
Đức Như Lai lại dùng
thiên nhãn thanh tịnh xem thấy
thế giới nhiều thứ tướng dạng của chư Phật khắp
mười phương hơn
số cát sông Hằng, hết
hư không tế, tột lượng
pháp giới, chẳng thể tuyên nói được.
Hoặc thầy có
quốc độ bị
hỏa tai, có
quốc độ đương hoai, có
quốc độ đương thành.
Hoặc thấy các
hữu tình lúc chết, lúc sanh.
Hoặc thấy
chư đại Bồ Tát từ cung
Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ, hoặc thấy có
Bồ Tát xuất thai, hoặc thấy mỗi phương đều đi bảy bước, hoặc thấy đương vào ở
nội cung, hoặc thấy đương
xuất gia khổ hạnh, hoặc thấy thành
Vô thượng Bồ đề, hoặc thấy đương
chuyển pháp luân, hoặc thấy có chư Phật
xả thọ mạng nhập
đại Niết Bàn.
Đức Như Lai dùng
thiên nhãn thanh tịnh hoặc thấy trong các
thế giới mười phương chư
Thanh Văn rốt ráo nhập Niết Bàn, hoặc thấy chư
Độc Giác hiện
thần thông báo đáp phước
thí chủ rồi
nhập Niết Bàn.
Lại có những thứ mà các loài
hữu tình chẳng thấy được, nhưng đều bị
thiên nhãn của
Như Lai thấy suốt rõ.
Có những thứ mà
thiên nhãn của
ngũ thông tiên nhơn, của
Thanh Văn, của
Độc Giác và của
Bồ Tát đều chẳng thấy được, nhưng
thiên nhãn của Phật đều thấy
rõ ràng.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai dùng
thiên nhãn thanh tịnh quan sát các loài
hữu tình nơi
vô lượng thế giới: Những
chúng sanh nào là của
đức Như Lai hóa độ, những
chúng sanh nào thấy
Như Lai rồi mới
hóa độ được. Bấy
giới đức Như Lai tùy chỗ đáng được
lợi ích mà
hiện thân ở trước họ làm cho họ được tỏ ngộ. Còn những
chúng sanh khác thì không hay biết.
Nầy
Xá Lợi Phất! Trí lức
Thiên nhãn tùy niệm tác chứng của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, không có
biên tế đồng với
hư không. Những kẻ tìm cầu
biên tế của
thiên nhãn Như Lai thì chẳng khác người tìm
biên tế của
hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư Đại Bồ Tát nghe
trí lực chẳng thể nghĩ bàn như
hư không nầy rồi liền tin nhận vâng thờ
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Thiên nhãn của Phật rất
thanh tịnhDo
vô lượng kiếp tu
tịnh nghiệpPhật dùng
thiên nhãn thấy
mười phươngVô lượng thế giới Phật
thanh tịnhHoặc hoại, hoặc thành, hoặc thành hoại
Nhẫn đến hoặc trụ, hoặc
hỏa taiHoặc có Phật, hoặc không có Phật
Mắt
Phật tự nhiên đều thấy rõ
Hữu tình nhiều loài khó nghĩ bàn
Nhẫn đến loài có
sắc không sắc
Hoặc đọa loài ác sanh cõi lành
Mắt
Phật tự nhiên đều thấy rõ
Hoặc thấy
câu chi Phật hiện tại
Hoặc thấy
Như Lai nhập Niết BànCũng thấy
Thanh Văn hoặc
Duyên GiácChứng quả hiện thông đến phước thí
Có chư
Bồ Tát độ
chúng sanhHoặc đến bực gần
Vô Thượng GiácỞ ngôi
Như Lai không
chướng ngạiMắt
Phật tự nhiên đều thấy rõ
Thiên nhãn của Phật rất
thanh tịnhThấy rõ các loài tột
vi tếTrí lực thứ chín chẳng nghĩ bàn
Chư đại Bồ Tát hay tin nhận
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là
trí lực Thiên nhãn tùy niệm tác chứng. Do
trí lực thứ chín nầy mà
đức Phật tuyên bố ta là bực
Thế Tôn chuyển pháp luân lớn mà tất cả
thế gian chẳng chuyển được.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
trí lực Lậu tận tác chứng của Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dùng
trí lực vô thượng biết rõ như thiệt là hết các lậu là
vô lậu,
tâm giải thoát,
huệ giải thoát,
tự nhiên thông đạt,
tác chứng đầy đủ mà an trụ ngôi vị ấy biết rõ đúng thiệt ta đã dứt hết dòng sanh, đã nên
phạm hạnh,
việc làm đã xong chẳng còn thọ
sanh thân sau.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Trí lực vô lậu của
đức Như Lai rất
thanh tịnh sán suốt dứt hẳn tất cả
tập khí nối tiếp.
Hàng
Thanh Văn cũng như hàng
Độc Giác dầu là
vô lậu mà chỉ dứt trừ được phần ít
tập khí, rời xa
đại bi và các
biện tài vô úy.
Chỉ có
đức Như Lai các lậu dứt hẳn mà đủ cả
Phật pháp vi diệu, dứt trừ tất cả
tập khí nối tiếp, đủ đức
đại bi,
biện tài,
vô úy bao trùm các
hữu tình trong tất cả
thế gian dầu chẳng hở một
sát na tâm niệm mà
trí lực của
Như Lai vẫn luôn
thanh tịnh vô lậu.
Tại sao vậy? Vì
đức Như Lai không có
tập khí nghiệp,
tập khí phiền não,
tập khí quên mất
oai nghi.
Nầy
Xá Lợi Phất! Như
hư không luôn
trong sạch chẳng chung lộn với tất cả bụi khói mây mù.
Cũng vậy
trí lực vô lậu của
đức Như Lai chẳng chung lộn với tất cả
phiền não tập khí.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư Phật Như Lai an trụ nơi
trí lực vô lậu ấy rồi có thể nói pháp
vô lậu vô chấp cho những
chúng sanh hữu lậu hữu chấp.
Các
phiền não các
chấp trước của tất cả
chúng sanh đều từ
hư vọng phân biệt khởi lên.
Đức Như Lai quan sát biết rõ như vậy rồi, vì muốn họ chẳng còn khởi lên các
phiền não các
chấp trước, nên theo đúng chỗ đáng dạy mà dùng các
thí dụ để
thuyết pháp cho họ biết rõ thiệt
phiền não đều
hư vọng. Vì biết là
hư vọng mà họ chẳng chấp lấy. Vì chẳng chấp lấy mà
rốt ráo họ chứng
Niết Bàn.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai biết rõ đúng thiệt tất cả
hữu tình các
phiền não khởi diệt, các
phiền não hiện hành. Biết rõ rồi,
đức Như Lai theo đúng chỗ nên dạy mà
thuyết pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Trí lực vô lậu tác chứng của
đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, không có
biên tế, đồng với
hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu
biên tế trí lực
vô lậu của
Như Lai, thì chẳng khác gì người tìm
biên tế của
hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư Đại Bồ Tát nghe
trí lực vô lậu chẳng thể nghĩ bàn của
Như Lai rồi liền tin nhận vâng thờ
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
“Trí Phật
vô lậu rất
thanh tịnhRộng lớn
vô lượng không
chướng ngạiDo thành
trí lực thứ mười nầy
Mà nói đạo
Bồ đề tịnh diệuTrí
vô lậu của hàng
Thanh VănCòn thừa
tập khí theo
ràng buộcTrí lực vô lậu của
Đạo SưTất cả
tập khí như tro tàn
Có người chứng bực
Duyên Giác thừaRời xa
đại bi với
biện tàiChỉ có chư
Phật trí vô lậuĐầy đủ
đại bi với
biện tàiChư Phật ở nơi trí
vô lậuBiết rõ tướng lậu của
chúng sanhĐều từ
hư vọng phân biệt sanh
Mà họ chưa biết chơn lý ấy
Đại bi của Phật
dạy bảo họ
Là
vô thường,
bất tịnh,
vô ngãHọ thấy các
pháp không thể tánhSẽ
chứng quả Như Lai tịch tịnhCác
pháp không ngã không chúng sanhKhông thọ không nhơn không
tác giảHữu tình phân biệt hư vọng chấp
Phật khởi lòng bi
cứu thoát họ
Từ bi của Phật chẳng mỏi nhàm
Trí lực luôn tròn chẳng quên mất
Thế nên chư Phật thường
phương tiệnVì độ
chúng sanh mà
thuyết phápTrí lực thứ mười dẹp phục cả
Không có
biên tế đồng
hư khôngVì Phật thường ở
trí lực nầy
Mà
vô lượng pháp đời luôn có.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây là
trí lực vô lậu của
đức Như Lai. Do
thành tựu trí lực thứ mười nầy mà
đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác tự
tuyên bố ta ở ngôi
Thế Tôn, ở giữa
đại chúng như
sư tử rống
chuyển pháp luân lớn mà tất cả
thế gian, Trời, Người,
Sa Môn,
Bà La Môn,
Ma Vương,
Phạm Vương đều chẳng chuyển được đúng pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Do nghe
công đức chẳng thể nghĩ bàn của
đức Như Lai mà
chư đại Bồ Tát đối với
mười trí lực ấy tin nhận vâng làm,
tâm niệm thanh tịnh không lầm không nghi càng
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng
hy kỳ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đại Bồ Tát đối với đức
vô úy chẳng thể nghĩ bàn của
Như Lai mà tin nhận vâng thờ
tâm chí thanh tịnh không lầm không nghi càng thêm
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng hy kỳ?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác có bốn đức
vô úy chẳng thể nghĩ bàn.
Do
thành tựu bốn
vô úy nầy mà
đức Như Lai ở giữa
đại chúng tự
tuyên bố ta ở ngôi
Thế Tôn như
sư tử rống
chuyển pháp luân lớn mà tất cả
thế gian, Trời, Người,
Ma Vương,
Phạm Vương,
Sa Môn,
Bà La Môn đều chẳng chuyển được đúng pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Những gì gọi là bốn đức
vô sở úy?
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu trí lực vô thượng nên ở giữa
đại chúng tự
tuyên bố ta là bực
Đẳng Chánh Giác. Trong
đại chúng ấy chẳng thấy có ai hoặc người hoặc trời mà có thể ở trước
đức Như Lai chỉ trích rằng đối với pháp ấy, Ngài chẳng phải là
Đẳng Chánh Giác.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đức Như Lai có hiệu là Đẳng Chánh Giác?
Đối với tất cả các pháp,
đức Như Lai có thể
bình đẳng chánh giác, không có gì là chẳng
bình đẳng.
Hoặc pháp
phàm phu, hoặc pháp thánh nhơn, hoặc pháp chư Phật, hoặc
pháp hữu học, hoặc pháp
vô học, hoặc pháp
Độc Giác, hoặc pháp
Bồ Tát đều
bình đẳng bình đẳng.
Hoặc pháp
thế gian, hoặc pháp
xuất thế gian, hoặc có tội, hoặc vô tội, hoặc
hữu lậu, hoặc
vô lậu, hoặc
hữu vi, hoặc
vô vi, tất cả
pháp như vậy,
đức Như Lai đều có thể
bình đẳng chánh giác, vì thế nên gọi Phật là bực
Đẳng Chánh Giác.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là tánh bình đẳng?
Tự thể của các
kiến thức cùng với
tánh không kia, tánh nó
bình đẳng.
Tự thể của
sắc tướng cùng với
vô tướng kia, tánh nó
bình đẳng.
Tự thể của
ba cõi cùng với
vô nguyện kia, tánh nó
bình đẳng.
Tự thể của pháp sanh cùng với
vô sanh kia, tánh nó
bình đẳng.
Tự thể của pháp khởi cùng với vô khởi kia, tánh nó
bình đẳng.
Tự thể của tánh tham cùng với
vô tham kia, tánh nó
bình đẳng.
Tự thể của
tam thế cùng
chơn như kia, tánh nó
bình đẳng.
Tự thể của
vô minh hữu ái cùng với
minh giải thoát, tánh nó
bình đẳng.
Tự thể của
sanh tử lưu chuyển cùng với
Niết Bàn tịch tịnh, tánh nó
bình đẳng.
Vì đối với tất cả phát
đức Như Lai đều
bình đẳng chánh giác nên gọi
đức Phật là bực
Đẳng Chánh Giác.
Đức
vô úy ấy của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn,
đức Như Lai lại dùng
đại bi để làm
phương tiện.
Chơn như bình đẳng, chơn tánh là như tánh, chẳng phải tánh chẳng như, là tánh chẳng đổi khác, là
tánh không che tội, là
tánh không bố úy, là
tánh không lui sụt, là
tánh không trái cãi. Do cớ ấy mà sáng rỡ cả
đại chúng, hay làm cho họ vui đẹp,
toàn thân thơ thới, sanh
lòng tin thanh tịnh mà
vui mừng hớn hở.
Nầy
Xá Lợi Phất! Tất cả
chúng sanh ở
thế gian không ai có thể đối với đức
vô úy của
Như Lai mà sanh sự trái cãi. Tại sao? Vì đức
vô úy của
Như Lai không trái cãi được. Như tánh
bình đẳng ở
pháp giới tánh lưu bố cùng khắp trong các
thế giới không ai trái hại được.
Như đức
vô úy của
Như Lai nơi tất cả pháp
thậm thâm vi tế khó biết mà có thể
đẳng chánh giác được,
đức Như Lai an trụ
đại bi như vậy dùng các thứ
ngôn ngữ âm thanh, các thứ
pháp môn mà khai thị pháp
vi diệu cho các
hữu tình. Nếu ai có thể
y theo pháp ấy mà
tu tập công hạnh viễn ly thì mau hết khổ.
Nếu có
hữu tình chẳng phải bực
Đại Sư mà tự xưng là
Đại Sư, chẳng phải
Đẳng Chánh Giác mà tự xưng là
Đẳng Chánh Giác, do sức
vô úy chẳng nghĩ bàn của
Như Lai khiến các
hữu tình ấy đều bị che chói mất ngạo mạn phải bỏ
chạy trốn.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đức
vô úy của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn
vô biên vô tế đồng như
hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu
biên tế của đức
vô úy ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm cầu
biên tế của
Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư đại Bồ Tát nghe nói đức
vô úy chẳng thể nghĩ bàn ấy rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng
hy kỳ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là đức
vô úy chánh đẳng giác. Do
thành tựu đức
vô úy thứ nhứt nầy mà
đức Như Lai ở giữa
đại chúng như
sư tử rống
chuyển pháp luân lớn mà tất cả
thế gian chẳng thể chuyển được đúng pháp.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vì đã
thành tựu trí lực vô thượng nơi ở giữa
đại chúng tuyên bố nay đây ta đã hết tất cả
phiền não tập khí. Trong
đại chúng ấy không có ai hoặc người hoặc trời có thể ở trước
đức Như Lai mà
chỉ trích rằng Ngài còn có
phiền não ấy chưa dứt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là tánh
phiền não dứt hết của đức Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai ở nơi
dục giới phiền não, tâm đã khéo
giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả
tập khí tham dục.
Đức Như Lai ở nơi sắc
vô sắc giới phiền não, tâm đã khéo giiải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả
tập khí sân khuể.
Đức Như Lai ở nơi
vô minh phiền não, tâm đã khéo
giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả
tập khí si mê.
Đức Như Lai ở nơi các kiến
phiền não, tâm đã khéo
giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả
tập khí phiền não hiện hành.
Vì cớ như vậy nên gọi
đức Như Lai là
phiền não đã hết.
Nầy Xá Lơị Phất!
Thuyết pháp như trên ấy là
y cứ nơi
thế tục chớ chẳng phải
thắng nghĩa.
Trong
thắng nghĩa không có một pháp nào ở trước
thánh trí có thể biết rõ, có thể dứt hẳn, có thể
tu tập, có thể
chứng nhập.
Tại sao vậy? Nầy
Xá Lợi Phất! Nói là dứt hết đó
chưa bao giờ chẳng dứt hết, tánh vốn
rốt ráo hết chẳng do
đối trị mà nói là hết.
Tánh như thiệt là hết. Vì tánh như thiệt là hết nên không có pháp nào bị hết. Vì
không pháp bị hết thì chính là
vô vi. Vì
vô vi nên không
sanh không diệt cũng không có trụ. Thế nên nói rằng
đức Như Lai xuất thế.
Nếu không xuất thế thường trụ pháp tánh thường trụ pháp giới thì
thánh trí huệ chuyển vận trong ấy. Dầu chuyển vận như vậy ma không có chuyển
không không có hoàn.
Nầy
Xá Lợi Phất! Do
pháp môn thắng nghĩa ấy nên không có các
phiền não, cũng không có
phiền não hết mà có thể
chứng đắc.
Đức Như Lai an trụ nơi
đại bi như vậy rồi vì các
hữu tình mà tuyên nói pháp
phiền não dứt hết.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Đức
vô úy của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn lại dùng
đại bi để làm
phương tiện, là
chơn như bình đẳng, là chơn tánh, là tánh như chẳng phải là tánh chẳng như, là tánh chẳng đổi khác, tánh chẳng che tội,
tánh không bố úy,
tánh không lui sụt,
tánh không trái cãi. Vì cớ ấy nên làm sáng rỡ
đại chúng khiến họ vui đẹp
toàn thân thơ thới sanh
lòng tin thanh tịnh vui mừng hớn hở.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chúng sanh trong đời không có ái đối với đức
vô úy của
Như Lai mà có thể sanh sự trái cãi. Tại sao? Vì
đức Như Lai vô úy ấy chẳng trái cãi được.
Chơn như bình đẳng ở trong
pháp giới tánh lưu bố cùng khắp trong các
thế giới không ai trái hại được.
Đức
vô úy của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn như vậy, là
vô lượng vô số không có
biên tế thành tựu pháp
vi diệu.
Do
đức Như Lai dùng
đại bi huân tập nơi tâm mà vì các
chúng sanh nói pháp
phiền não dứt hết cho họ dứt hẳn các
phiền não.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đức
vô úy của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn
vô biên vô tế như
hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu
biên tế ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm
biên tế của
hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư đại Bồ Tát nghe
đức Như Lai tuyên nói đức
vô úy chẳng thể nghĩ bàn ấy rồi tin nhận vâng thờ không lầm không nghi
vui mừng hớn hở
pháp ý tưởng
hy kỳ.
Đây gọi là đức
vô úy vô lậu. Do
thành tựu đức
vô úy thứ hai ấy,
đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở giữa
đại chúng như
sư tử rống tự
tuyên bố ta là
Thế Tôn chuyển pháp luân lớn, tất cả trời người
thế gian chẳng chuyển được.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu trí lực vô thượng nên ở giữa
đại chúng tuyên bố: Phật nói pháp chướng đạo thì
quyết định là pháp chướng đạo
giải thoát. Trong
thế gian hoặc người hoặc trời không có ai ở trước
đức Như Lai mà có thể
chỉ trích rằng Ngài nói pháp chướng đạo ấy chẳng chướng đạo được.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là pháp
chướng ngại đạo?
Nầy
Xá Lợi Phất! Có một pháp hay làm
chướng ngại, đó là tâm chẳng
thanh tịnh.
Lại có hai pháp hay làm
chướng ngại, đó là
vô tàm và
vô úy.
Lại có ba pháp hay làm
chướng ngại, đó là thân
ác hành, ngữ
ác hành và ý
ác hành.
Lại có bốn pháp hay làm
chướng ngại, đó là do
tham dục mà làm sự chẳng nên làm, do
sân khuể mà làm sự chẳng nên làm, do
si mê mà làm sự chẳng nên làm va do hãi sợ mà làm sự chẳng nên làm.
Lại có năm pháp hay làm
chướng ngại, đó là
sát sanh,
trộm cắp,
tà dâm,
vọng ngữ, uống rượu.
Lại có sáu pháp hay làm
chướng ngại, đó là chẳng kính Phật, chẳng kính Pháp, chẳng kính Tăng, chẳng kính
luật nghi, chẳng kính
chánh định, chẳng kính chánh huệ.
Lại có bảy pháp hay làm
chướng ngại, đó là mạn, thắng mạn, thắng thượng mạn,
tăng thượng mạn,
tà mạn, hạ mạn và
ngã mạn.
Lại có
tám pháp hay làm
chướng ngại, đó là
tà kiến,
tà tư,
tà ngữ,
tà nghiệp,
tà mạng, tà cần, tà niệm,
tà định.
Lại có chín pháp hay làm
chướng ngại, đó là nơi chính thân mình ở trong
ba đời quá khứ vị lai và
hiện tại mà làm sự chẳng
lợi ích rồi sanh sự
não hại; đối với chỗ mà mình mến thích ở trong
ba đời mà làm sự chẳng
lợi ích rồi sanh sự
não hại; đối với chỗ mà mình không mến thích ở trong
ba đời mà làm sự chẳng
lợi ích rồi sanh sự
não hại.
Lại có mười pháp hay làm
chướng ngại, đó là mười
nghiệp đạo bất thiện.
Đây là nói lược mười loại pháp hay làm
chướng ngại. Vì muốn ngăn dứt hẳn
các loại pháp
chướng ngại ấy mà
đức Như Lai vì các
hữu tình tuyên nói
chánh pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nhẫn đến tất cả
tác ý trái với chơn lý
tương ưng với các
kiết sử, hoặc
do nơi các pháp mà có
quan niệm ưa ham
tương ưng với
điên đảo mà trái đạo
giải thoát, có
ái kiến chấp trước đối với pháp có mà ưa ham, nơi thân ngữ
ý nghiệp có sự
sở y, tất cả
sự tướng ấy
đức Như Lai biết rõ là
chướng ngại cả. Đã biết rõ rồi,
đức Như Lai nói là pháp hay
chướng ngại.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đức
vô úy ấy của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn lấy
đại bi làm
phương tiện,
chơn như bình đẳng là chơn tánh như tánh, chẳng phải tánh chẳng như, là
tánh không đổi khác,
tánh không che lỗi,
tánh không hãi sợ,
tánh không lui sụt,
tánh không trái cãi. Vì cớ ấy nên làm cho
đại chúng sáng rỡ khiến họ vui đẹp
toàn thân thơ thới sanh
lòng tin thanh tịnh vui mừng hớn hở.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chúng sanh trong đời không có ai đối với đức
vô úy của
Như Lai mà có thể trái cãi. Tại sao? Vì đức
vô úy của
Như Lai chẳng trái cãi được, như tánh
bình đẳng ở tánh
pháp giới lưu bố cùng khắp trong các
thế giới, không ai trái cãi được.
Vô úy ấy là
vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn, không gì
sánh bằng, chẳng thể tuyên nói,
thành tựu pháp
vi diệu. Nhưng do
đại bi huân tập nơi tâm nên
đức Như Lai vì các
hữu tình mà nói pháp
chướng ngại, vì muốn họ ngăn dứt hẳn pháp
chướng ngại ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đức
vô úy của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn
vô biên vô lượng như
hư không. Nếu kẻ muốn tìm cầu
biên tế của đức
vô úy ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm
biên tế của
hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư đại Bồ Tát nghe
đức Như Lai tuyên nói đức
vô úy chẳng thể nghĩ bàn ấy như
hư không rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng
hy kỳ.
Đây gọi là đức
vô úy tuyên nói pháp
chướng ngại.
Do
đức Như Lai thành tựu đức
vô úy thứ ba ấy, ở giữa
đại chúng như
sư tử rống
chuyển pháp luân lớn mà tất cả
thế gian chẳng thể chuyển được.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu trí lực vô thượng ở giữa
đại chúng tuyên bố rằng Phật nói đạo chơn chánh hết khổ của thánh
xuất thế đã tu, nếu
hữu tình nào
tu tập đạo ấy thì
quyết định giải thoát.
Trong
đại chúng, hoặc người hoặc trời không có ai ở trước
đức Như Lai mà có thể
chỉ trích rằng Ngài nói đạo ấy chẳng
giải thoát được.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là đạo của thánh giải thoát?
Nầy
Xá Lợi Phất! Có một pháp hay làm cho
chúng sanh rốt ráo thanh tịnh giải thoát, đó là
chánh đạo.
Lại có hai pháp hay làm cho
chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là
xa ma tha và
tỳ bát xá na.
Lại có ba pháp hay làm cho
chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là môn
giải thoát không, môn
giải thoát vô tướng và môn
giải thoát vô nguyện.
Lại có bốn pháp hay làm cho
chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là duyên nơi thân để
quán niệm, duyên nơi thọ để
quán niệm, duyên nơi tâm để
quán niệm và duyên nơi pháp để
quán niệm.
Lại có năm pháp hay làm cho
chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là
tín căn,
cần căn,
niệm căn,
định căn và
huệ căn.
Lại có sáu pháp hay làm cho
chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là
niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng,
niệm giới,
niệm xả và
niệm Thiên.
Lại có bảy pháp hay làm cho
chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là
niệm giác chi,
trạch pháp giác chi, cần
giác chi,
hỉ giác chi,
khinh an giác chi,
định giác chi và
xả giác chi.
Lại có
tám pháp hay làm cho
chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là tám chi
thánh đạo:
chánh kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh niệm và
chánh định.
Lại có chính thứ pháp căn bổn
vui thích hay làm cho
chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là duyệt, hỷ,
khinh an,
chỉ tức lạc, định, như thiệt trí, kiến, yểm ố và
ly dục giải thoát.
Lại có mười pháp hay làm cho
chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là mười
nghiệp đạo lành.
Đức Như Lai vì các
hữu tình tuyên nói
pháp hành giải thoát của thánh như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nhẫn đến tất cả những
đạo pháp chánh thiện
Bồ đề, hoặc
tương ưng với giới tụ, hoặc
tương ưng với
định tụ, hoặc
tương ưng với huệ tụ, hoặc
tương ưng với
giải thoát tụ, hoặc
tương ưng với
giải thoát tri kiến tụ, hoặc
tương ưng với
thánh đế đều gọi là
pháp hành hay
giải thoát.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Hay khéo
giải thoát là nói
chánh hạnh. Nói là
chánh hạnh có nghĩa là ở trong pháp ấy không có một pháp nào hoặc tăng hoặc giảm hoặc lai hoặc khứ hoặc thủ hoặc xả. Tại sao? Vì chẳng phải người
hành chánh hạnh mà hành một thứ
giác phần.
Nếu có thể đúng như thiệt mà thấy biết tất cả các pháp đều là tánh
bất nhị, thì gọi đó là hạnh
xuất ly của thánh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đức
vô úy ấy của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn lấy
đại bi làm
phương tiện,
chơn như bình đẳng là chơn tánh như tánh, chẳng phải tánh chẳng như, là tánh chẳng đổi khác, tánh chẳng che lỗi, tánh chẳng lui sụt,
tánh không hãi sợ, tánh chẳng trái cãi. Vì thế nên làm sáng rỡ
đại chúng khiến họ vui đẹp
toàn thân thơ thới sanh
lòng tin thanh tịnh vui mừng hớn hở.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chúng sanh trong đời chẳng có ai đối với đức
vô úy của
Như Lai mà có thể tranh cãi. Tại sao? Vì đức
vô úy của
Như Lai chẳng tranh cãi được, tánh
chơn như bình đẳng ở tánh
pháp giới lưu bố cùng khắp trong các
thế giới không ai trái hại được.
Hạnh
giải thoát của thánh như vậy
vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn chẳng gì
sánh bằng thành tựu pháp
vi diệu chẳng tuyên nói được. Nhưng vì
đại bi huân tập nơi tâm nên
đức Như Lai khai thị diễn nói hạnh
giải thoát của thánh cho
chúng sanh. Nếu có
chúng sanh nào
hiểu rõ như thiệt
tu hành chánh đạo, thì
quyết định giải thoát mau
rốt ráo hết khổ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đức
vô úy của
Như Lai vô biên vô tế như
hư không. Nếu có kẻ nào muốn tìm cầu
biên tế của đức
vô úy ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm cầu
biên tế của
hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư đại Bồ Tát nghe đức
vô úy chẳng thể nghĩ bàn của
đức Như Lai rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng
hy kỳ.
Đây gọi là đức
vô úy nói đạo
giải thoát của thánh.
Do
đức Như Lai thành tựu đức
vô úy thứ tư ấy nên ở giữa
đại chúng như
sư tử rống
chuyển pháp luân lớn mà tất cả
thế gian hoặc Người hoặc Trời,
Ma Vương,
Phạm Vương,
Sa Môn,
Bà La Môn đều không thể chuyển đúng pháp được.
Nầy
Xá Lợi Phất! Bốn đức
vô úy ấy của
Như Lai vô biên vô tế như
hư không, tất cả
chúng sanh không thể thấu được
biên tế ấy.
Chư đại Bồ Tát nghe đức
vô úy chẳng thể nghĩ bàn của
Như Lai như
hư không rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi càng thêm
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng
hy kỳ.”
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Tự nhiên
chánh giác ngộ
Các
pháp tánh bình đẳngNhư Lai thấy rõ pháp
Nên hiệu
Đẳng Chánh GiácHoặc các pháp
phàm phuPháp hữu học vô họcPháp
Độc Giác tối thắngPhật pháp đều
bình đẳngTất cả pháp
thế gianThiện,
bất thiện,
bất độngVà các pháp
xuất thếĐường
Niết Bàn bình đẳngKhông,
vô tướng,
vô nguyệnVô vi và
hữu viVô sanh và vô khởi
Đều thấy tánh
bình đẳngBiết tánh
bình đẳng rồi
Theo chỗ đáng tuyên nói
Độ thoát các
hữu tìnhĐức Như Lai vô úyTự
giải thoát ba cõiRồi khai thị
giải thoátĐức Như Lai Thế TônHiển
vô úy thứ hai
Phật biết rõ pháp chướng
Tập khí chẳng
chứng đạoChẳng
thanh tịnh hạ liệtChẳng có lòng
hổ thẹnChưa có giữ nghiệp thân
Nghiệp khẩu và nghiệp ý
Tham sân si hãi sợ
Sát sanh trộm của người
Tà dâm và
vọng ngữSay rượu chẳng kính nhường
Bảy mạn tám chi tà
Đều chẳng phải
đạo phápChín điều hại nhiều tội
Mười
nghiệp đạo bất thiệnSuy tưởng chẳng hiệp lý
Ngu si không giải thoát
Điên đảo tu các hạnh
Chấp
hư vọng phóng dậtPhật biết nói
chướng ngạiĐây
vô úy thứ ba
Môn
thanh tịnh vô lượngTu tập chứng
Bồ đềPhật tự nhiên
thông đạtNói
pháp môn cam lộNhẫn đến số
vô lượngRất nhiều pháp mầu lành
Giúp
Bồ đề thanh tịnhĐược chư Phật
ngợi khenNếu khéo
tu tập rồi
Mà chẳng chứng
giải thoátKhông bao giờ như vậy
Đấng
Thập Lực nói thiệt
Nếu
suy tưởng hiệp lý
Dứt
phiền não rộng lớn
Quán các
pháp bình đẳngKhéo
tu tập hạnh thánh
Chẳng
chấp trước các tướng
Là pháp là
phi phápThì
giải thoát lo sợ
Đức Phật nói như vậy
Khéo biết tất cả pháp
Rỗng trống như
hư khôngThì
giải thoát các cõi
Nếu
phóng dật tạo nghiệp
Luân hồi tam giới mãi
Nên Phật thương
chúng sanhMuốn họ chứng
giải thoátĐấng Thế Tôn Thập LựcThuyết pháp độ thế gian
Là
vô úy thứ tư
Thanh tịnh như
hư không.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là đức
vô úy bất tư nghị của
Như Lai mà
chư đại Bồ Tát tin nhận vâng thờ không lầm không nghi
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng
hy kỳ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào
đại Bồ Tát đối với đức
đại bi chẳng thể nghĩ bàn của
Như Lai mà tin nhận vâng thờ chẳng lầm chẳng nghi
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng hy kỳ?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư Phật Như Lai đức
đại bi thường chuyển vận luôn. Tại sao?
Chư Phật Như Lai chẳng bỏ tất cả
chúng sanh, vì
thành thục chúng sanh nên tất cả
thời gian đại bi thường chuyển luôn chẳng dứt.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại bi ấy của
Như Lai vô lượng như vậy, chẳng thể nghĩ bàn, không gì
sánh bằng như vậy,
vô biên như vậy, chẳng thể nói như vậy,
mãnh lợi như vậy,
lâu dài như
vậy mà tùy thuận chúng sanh, nhẫn đến tất cả
ngữ nghiệp của
Như Lai, đối với
đại bi ấy cũng khó tuyên nói. Tại sao vậy? Như
Bồ đề của
Như Lai chứng được chẳng thể nghĩ bàn,
đại bi của
Như Lai vì
chúng sanh mà
phát khởi cũng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
Như Lai chứng được Bồ đề?
Nầy Xá Lơị Phất! Do
đức Như Lai nhập
vô văn vô trụ như vậy nên chứng được
Bồ đề.
Những gì là căn? Những gì là trụ?
Có thân là căn,
hư vọng phân biệt là trụ.
Nơi pháp ấy,
đức Như Lai biết rõ
bình đẳng nên nói do
đức Như Lai nhập
vô căn vô trụ nên chứng được
vô thượng Bồ đề.
Chúng sanh chẳng thể biết rõ được hai pháp ấy.
Đức Như Lai đối với họ
phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ pháp
vô căn vô trụ như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Luận về
Bồ đề, tánh của nó
tịch tĩnh. Hai pháp gì gọi là tịch và tĩnh? Nơi trong là tịch, nơi ngoài là tĩnh. Tánh của
nhãn căn là không lìa rời
ngã và ngã sở, tánh của nhĩ tỷ
thiệt thân và
ý căn là không rời lìa
ngã và ngã sở. Nếu biết rõ như
vậy thì gọi là tịch. Thiệt biết rõ tánh của
nhãn căn là không rời chẳng duyên theo
sắc trần, nhẫn đến thiệt biết rõ
ý căn là không rời chẳng duyên theo
pháp trần. Nếu biết rõ như
vậy thì gọi là tĩnh.
Nơi hai
pháp tịch tĩnh ấy,
chúng sanh chẳng biết rõ.
Đức Như Lai đối với họ
phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ hai
pháp tịch và tĩnh.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Phật chứng
Bồ đề tự tánh
thanh tịnh.
Thế nào gọi là
tự tánh thanh tịnh?
Nầy
Xá Lợi Phất! Tánh
Bồ đề, thể nó không
nhiễm ô. Tánh
Bồ đề đồng với
hư không. Tánh
Bồ đề là tánh
hư không.
Bồ đề với
hư không bình đẳng bình đẳng tánh
rốt ráo thanh tịnh.
Phàm phu ngu si chẳng biết được
tự tánh thanh tịnh như vậy nên bị
khách trần phiền não làm
ô nhiễm.
Tất cả
chúng sanh đối với
tự tánh thanh tịnh ấy chẳng biết rõ được.
Đức Như Lai phát khởi đại bi: Phật quyết địn sẽ khai thị cho họ
biết rõ tự tánh thanh tịnh như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Phật chứng
Bồ đề không
nhập không xuất.
Thế nào gọi là hai
pháp nhập và xuất?
Nhập là nói chấp các pháp. Xuất là nói chẳng chấp các pháp.
Đức Như Lai thấy rõ
pháp tánh bình đẳng không
nhập không xuất, cũng như
đức Như Lai thấy rõ không
thử ngạn không
bỉ ngạn.
Tại vì sao? Vì tánh của tất cả pháp rời lìa
thử ngạn và
bỉ ngạn. Chứng được pháp ấy nên gọi là
Như Lai.
Đối với
pháp tánh không
nhập không xuất ấy, tất cả
chúng sanh không biết rõ được,
đức Như Lai phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ
pháp tánh không
nhập không xuất.
Nầy
Xá Lợi Phất! Phật chứng
Bồ đề không tướng không cảnh.
Thế nào gọi là
không tướng không cảnh?
Chẳng được
nhãn thức gọi là
không tướng, chẳng xem nơi sắc gọi là không cảnh. Nhẫn đến chẳng được
ý thức gọi là
không tướng, chẳng xem nơi pháp gọi là không cảnh.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Không tướng không cảnh ấy là chỗ sở hành của chư thánh. Kẻ
phàm phu ngu si trong
ba cõi chẳng đi được nơi chỗ đi của chư thánh nên chẳng biết rõ
không tướng không cảnh.
Đức Như Lai phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ
pháp không tướng không cảnh ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nói
Bồ đề ấy, không có
quá khứ vị lai hiện tại,
ba đời bình đẳng,
ba tướng luân dứt.
Thế nào gọi là
ba tướng luân dứt?
Nơi đời
quá khứ tâm không đoái niệm, nơi đời
vị lai thức không chạy đến, nơi đời
hiện tại ý không
phát khởi.
Tâm ý thức ấy không có an trụ: chẳng
phân biệt quá khứ, chẳng
chấp trước vị lai, chẳng
hí luận hiện tại.
Tất cả
chúng sanh chẳng
giác ngộ được tánh
ba đời bình đẳng, ba luân
thanh tịnh.
Đức Như Lai đối với họ
phát khởi đại bi: Nay Phật sẽ
quyết định khai thị làm cho họ
giác ngộ ba đời ba luân
bình đẳng thanh tịnh như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Phật chứng
Bồ đề vô vi vô tánh.
Sao gọi là
vô vi vô tánh?
Tánh
Bồ đề ấy chẳng phải
nhãn thức biết được, nhẫn đến chẳng phải
ý thức biết được, nhẫn đến chẳng phải
ý thức biết được.
Nói
vô vi là không
sanh không diệt cũng không có trụ. Vì lìa hẳn
ba tướng ấy nên gọi là
vô vi.
Nầy
Xá Lợi Phất! Người biết
vô vi phải biết
hữu vi. Tại sao? Vì
tự tánh của các pháp tức là
vô tánh. Luận về
vô tánh tức là
thể tánh không hai.
Vì tất cả
chúng sanh chẳng
giác ngộ được
vô tánh vô vi ấy nên
đức Như Lai đối với họ mà
phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho họ
giác ngộ vô tánh vô vi ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Phật chứng
Bồ đề dấu tích không
sai biệt.
Sao gọi là
dấu tích không sai biệt?
Chơn như và
pháp tánh, cả hai đều gọi là
dấu tích.
Tánh không khác biệt,
tánh không an trụ goị là không
sai biệt.
Thiệt tế của các pháp gọi là
dấu tích.
Tánh không động dao gọi là không
sai biệt.
Các
pháp tánh không gọi là
dấu tích. Tánh chẳng thể được gọi là
vô sai biệt.
Các pháp
vô tướng gọi là
dấu tích. Tánh chẳng thể tìm gọi là
vô sai biệt.
Các pháp
vô nguyện gọi là
dấu tích.
Tánh không phát khởi gọi là
vô sai biệt.
Không tánh chúng sánh gọi là
dấu tích. Tức
thể tánh là không gọi là
vô sai biệt.
Là tướng
hư không gọi là
dấu tích. Tánh chẳng thể được gọi là
vô sai biệt.
Tánh ấy
vô sanh gọi là
dấu tích. Tánh ấy vô diệt gọi là
vô sai biệt.
Tánh ấy
vô vi gọi là
dấu tích. Tánh ấy không
hành không trụ gọi là
vô sai biệt.
Là tướng
Bồ đề gọi là
dấu tích. Tánh ấy
tịch tĩnh gọi là
vô sai biệt.
Là tướng
Niết Bàn gọi là
dấu tích. Tánh ấy
vô sanh gọi là
vô sai biệt.
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì tất cả
chúng sanh chẳng
giác ngộ được
dấu tích vô sai biệt ấy, nên
đức Như Lai đối với họ
phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho họ
giác ngộ dấu tích vô sai biệt ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nói
Bồ đề ấy, chẳng thể dùng thân để chứng, chẳng thể dùng tâm để chứng.
Tại sao? Vì tánh của thân
vô tri, không có
tác dụng như cỏ cây đất đá tường vách. Tánh của tâm cũng vậy,
như ảo như mơ như trăng đáy nước.
Nếu
giác ngộ được
thân tâm như
vậy thì gọi là
Bồ đề.
Nầy
Xá Lợi Phất! Chỉ do
ngôn ngữ thế tục mà
giả danh Bồ đề. Thiệt tánh của
Bồ đề chẳng nói gọi được, chẳng thể dùng thân để được, chẳng thể dùng tâm để được, chẳng thể dùng pháp để được, chẳng thể dùng
phi pháp để được, chẳng thể dùng phi chơn thiệt để được, chẳng thể dùng
chơn đế để được, chẳng thể dùng
hư vọng để được.
Tại sao? Vì tánh
Bồ đề lìa rời
ngôn ngữ, rời lìa tất cả
pháp tướng. Lại vì
Bồ đề không có
hình tướng để thông
ngôn ngữ. Như
hư không kia không có hình không có chỗ nên chẳng nói được.
Nầy
Xá Lợi Phất! Cứ như thiệt mà tìm cầu thì tất cả pháp đều không thể nói. Tại sao? Vì trong các pháp đều không có
ngôn ngữ. Trong
ngôn ngữ cũng không có các pháp.
Vì tất cả
chúng sanh chẳng
giác ngộ được chơn lý của các
pháp như vậy, nên
đức Như Lai đối với họ
phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị chơn lý của các pháp ấy cho họ
giác ngộ nghĩa lý chơn thiệt như vây.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nói
Bồ đề ấy không lấy không cất.
Những gì gọi là không lấy không cất?
Biết rõ
nhãn căn thì gọi là không lấy, chẳng xem nơi
sắc trần thì gọi là không cất.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai chứng
Bồ đề không lấy không cất ấy nên chẳng xem các
sắc trần chẳng trụ nơi thức. Nhẫn đến chẳng lấy
ý căn chẳng xem
pháp trần chẳng trụ nơi thức. Dầu chẳng trụ nơi thức mà
đức Như Lai biết rõ được chỗ trụ của tất cả
chúng sanh.
Biết rõ thế nào? Đó là
chúng sanh trụ ở bốn pháp.
Những gì là bốn? Tất cả
chúng sanh, tâm của họ trụ nơi thức, tâm của họ trụ nơi thọ, tâm của họ trụ nơi tưởng, tâm của họ trụ nơi hành.
Đức Như Lai biết thiệt rõ trụ và chẳng trụ như vậy.
Vì tất cả
chúng sanh chẳng
giác ngộ được thiệt tế
vô trụ như vậy nên
đức Như Lai đối với họ
phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho họ
giác ngộ thiệt tế
vô trụ ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nói
Bồ đề là tên khác của không. Do
không không nên
Bồ đề cũng không. Do
Bồ đề không nên các pháp cũng không. Thế nên
đức Như Lai đúng với
tánh không ấy mà
giác ngộ các pháp.
Đức Như Lai chẳng do không mà
giác ngộ pháp không tánh.
Đức Như Lai do trí nhứt lý mà
giác ngộ pháp tánh không. Không với
Bồ đề, tánh ấy không hai. Vì không hai nên chẳng thể nói đây là
Bồ đề, đây là
tánh không. Bởi
pháp không hai nên không có hai
tướng không hành,
rốt ráo chẳng hành cũng chẳng
hiện hành.
Nói là không ấy là xa rời nắm lấy. Trong
thắng nghĩa đế không có pháp để được. Vì
tánh không nên nói là không. Như nói
thái hư là
hư không, nhưng tánh
thái hư chẳng nói gì được.
Pháp không ấy nói tên là không, nhưng
tánh không ấy chẳng nói gọi được.
Ngộ nhập các
pháp thiệt không có tên mà
giả lập tên gọi, nhưng tên gọi ấy không phương
không xứ, các pháp cũng không phương
không xứ như tên gọi lấy.
Đức Như Lai biết rõ các pháp tứ bổn lai không
sanh không khởi. Biết như vậy rồi chứng
giải thoát, nhưng thiệt tánh ấy không phược không thoát.
Phàm phu ngu si chẳng
giác ngộ được tánh
Bồ đề ấy, nên
đức Như Lai đối với họ
phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định khai thị cho họ
giác ngộ thiệt tánh
Bồ đề như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Tánh
Bồ đề bình đẳng với
hư không. Nhưng tánh của
hư không chẳng có
bình đẳng không
bình đẳng. Tánh
Bồ đề cũng vậy, không có đẳng chẳng đẳng. Như các
pháp tánh không, chơn thiệt, chẳng thể nói là
bình đẳng hay chẳng
bình đẳng.
Đức Như Lai giác ngộ tất cả
pháp bình đẳng,
không pháp nào chẳng
bình đẳng.
Giác ngộ đúng thiệt không có chút pháp nào khả dĩ là
bình đẳng và chẳng
bình đẳng.
Lượng trí như thiệt của
đức Như Lai cùng tột lượng các pháp. Gì gọi là trí như thiệt? Đó là biết rõ các pháp vốn không có mà sanh, sanh rồi lìa tan, không có chủ mà sanh, không có chủ mà tan. Hoặc sanh hoặc tan đều
tùy theo các duyên, trong ấy không có một pháp nào hoặc sanh hoặc tan, cũng không gì
tùy theo. Vì thế nên gọi
đức Như Lai dứt các nẻo đường mà nói pháp
vi diệu.
Vì tất cả
chúng sanh chẳng
giác ngộ được pháp dứt các nẻo đường ấy, nên
đức Như Lai đối với họ
phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho họ
giác ngộ pháp dứt các nẻo đường ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nói
Bồ đề là như. Những gì gọi là tướng như? Như tướng
Bồ đề, các sắc cũng vậy, đồng
chơn như ấy, không có thối hoàn mà chẳng đến khắp. Thọ tưởng hành và thức cũng vậy, đồng
chơn như ấy không chẳng đến khắp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Như tướng
Bồ đề đồng
chơn như ấy, tánh
tứ đại cũng như vậy, đồng
chơn như ấy không có thối hoàn mà chẳng đến khắp. Nhẫn đến
nhãn giới sắc giới nhãn thức giới,
ý giới pháp giới ý thức giới cũng như vậy.
Như tướng
Bồ đề chỉ là giả thi thiết, tất cả các
pháp uẩn xứ giới cũng giả thi thiết như vậy.
Biết rõ tướng như
vậy thì gọi là như.
Nầy Xá Lơị Phất!
Đức Như Lai thiệt
giác ngộ chẳng
điên đảo, biết rõ rất cả như
tiền tế,
trung tế và hạâu tế cũng như vậy. Tại sao? Vì
tiền tế vô sanh,
hậu tế không đến,
trung tế rời xa. Tất cả như vậy gọi là như.
Một
pháp như vậy, tất cả các pháp cũng vậy. Tất cả các
pháp như vậy, một pháp cũng vậy. Chẳng phải trong tánh như mà có thể được một tánh và nhiều tánh.
Tất cả
chúng sanh chẳng
giác ngộ được
pháp như ấy, nên
đức Như Lai vì họ mà
phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho họ
giác ngộ pháp chơn ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nói
Bồ đề là nhập nơi hành và nhập nơi
vô hành.
Những gì gọi là hành và vô hành?
Nầy Xá Lơị Phất!
Phát khởi pháp lành gọi là hành. Tất cả các pháp là
bất khả đắc gọi là
vô hành.
An trụ nơi tâm
vô trụ gọi là hành. Môn
giải thoát vô tướng tam muội gọi là
vô hành.
Nói hành là cân lường toán số
quán sát nơi tâm. Nói
vô hành là quá cân lường toán số v.v...
Thế nào nói là quá cân lường v.v...? Vì tất cả chỗ không có
tác dụng các thức.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Nói hành là ỡ chỗ ấy
quán sát hữu vi. Nói
vô hành là ở chỗ ấy chứng nơi
vô vi.
Phàm phu ngu si chẳng
giác ngộ được
pháp nhập hành
vô hành ấy nên
đức Như Lai vì họ mà
phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho họ
giác ngộ pháp nhập hành
vô hành như vậy.
Nầy Xá Lơị Phất! Nói
Bồ đề là không lưu không thủ.
Những gì gọi là không lưu không thủ? Vì lìa bốn lưu tánh nên gọi không lưu. Lìa bốn lưu tánh nên gọi không lưu. Lìa bốn lưu tánh là lìa dục tánh, lìa
hữu lưu tánh, lìa
vô minh lưu tánh và lìa kiến lưu tánh.
Vì lìa bốn thủ tánh nên gọi không thủ. Lìa bốn thủ tánh là lìa
dục thủ tánh, lìa
hữu thủ tánh, lìa
kiến thủ tánh và lìa
giới thủ tánh. Bốn thủ ấy đều do
vô minh mà
tối tăm, bờ ao nước ái ứ bít. Do
chấp ngã nên
cảm thọ uẩn xứ giới.
Trong ấy,
đức Như Lai biết thiệt rõ căn bổn của ngã thủ mà
tự chứng thanh tịnh, cũng làm cho
chúng sanh chứng được
thanh tịnh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì đã chứng
thanh tịnh ấy, nên ở trong các pháp,
đức Như Lai không có
phân biệt. Tại sao? Vì
phân biệt thì
phát khởi suy tưởng chẳng đúng chơn lý. Mà chứng
thanh tịnh ấy chỉ là
tương ưng với chơn lý nên chẳng
phát khởi vô minh. Vì chẳng
phát khởi vô minh nên chẳng
phát khởi được mười hai hữu chi. Nếu chẳng
phát khởi mười hai hữu chi. Nếu chẳng
phát khởi mười hai hữu chi thì là
vô sanh. Nếu là
vô sanh thì là
quyết định. Nếu là
quyết định thì là
liễu nghĩa. Nếu là
liễu nghĩa thì là
thắng nghĩa. Nếu là
thắng nghĩa thì là nghĩ không chơn. Nếu là
nghĩa không chơn thì là nghĩa chẳng nói được. Nghĩa chẳng nói được là nghĩa
duyên khởi. Các nghĩa
duyên khởi là nghĩa pháp. Nghĩa các pháp là nghĩa
Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Nếu có thể quán duyên khởi như vậy tức là
quán pháp. Nếu
quán pháp tức là quán
Như Lai. Quán như
vậy thì rời ngoài
chơn như không có sở quán.
Trong ấy thế nào là có sở hữu? Đó là tướng và duyên. Hai pháp ấy,
nếu có thể quán không tướng không duyên tức là chơn thiệt quán.
Đức Như Lai do
giác ngộ các
pháp bình đẳng như vậy nên
bình đẳng.
Phàm phu ngu si chẳng
giác ngộ được
tánh không lưu không thủ ấy.
Đức Như Lai vì họ mà
phát khởi đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho họ
giác ngộ tánh không lưu không thủ ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nói
Bồ đề ấy, tánh nó
thanh tịnh, không có cấu nhơ, không có
chấp trước. Thế nào gọi là
thanh tịnh không có cấu nhơ và không có chấp trước? Vì không nên là
thanh tịnh, vì
vô tướng nên không cấu nhơ, vì
vô nguyện nên
không chấp trước.
Lại vì
vô sanh nên
thanh tịnh, vì
vô tác nên không cấu, vì vô thủ nên
không chấp.
Lại là
tự tánh nên
thanh tịnh, vì khắp sạch nên không cấu, vì sáng sạch nên
không chấp.
Lại vì không
hí luận nên
thanh tịnh, vì lìa
hí luận nên không cấu, vì
hí luận tịch tĩnh nên
không chấp.
Lại vì là
chơn như nên
thanh tịnh, là
pháp giới nên không cấu, là thiệt tế nên
không chấp.
Lại vì hư tĩnh nên
thanh tịnh, vì
vô ngại nên không cấu, vì
không tịch nên
không chấp.
Lại vì biết rõ khắp nơi nên
thanh tịnh, vì chẳng hành nơi ngoài nên không cấu, vì chẳng thể được nên
không chấp.
Lại vì khắp biết rõ uẩn nên
thanh tịnh, vì là
giới tự thể nên không cấu, vì xứ tổn giảm nên
không chấp.
Lại vì
quá khứ tận trí nên
thanh tịnh, vì
vị lai vô sanh trí nên không cấu, vì
hiện tại pháp giới trụ trí nên
không chấp.
Tánh
thanh tịnh không không cấu
không chấp như vậy đồng đến một câu, đó là câu
tịch tĩnh. Những
tịch tĩnh ấy là tột
tịch tĩnh. Tột
tịch tĩnh là khắp
tịch tĩnh. Khắp
tịch tĩnh gọi là Đại
Mâu Ni.
Nầy
Xá Lợi Phất! Dường như
Thái hư,
Bồ Tát đề cũng vậy. Như tánh
Bồ đề, các pháp cũng vậy. Như tánh các pháp, chơn thiệt cũng vậy. Như tánh chơn thiệt,
quốc độ,
Niết Bàn cũng vậy. Vì thế nên nói
Niết Bàn các
pháp bình đẳng. Cũng gọi là
cứu cánh, vì
không tướng biên tế. Không có
đối trị, vì rời tướng
đối trị.
Các
pháp như vậy bổn lai
thanh tịnh không cấu
không chấp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nơi tất cả các pháp
vô sắc v.v... như vậy,
đức Như Lai giác ngộ như thiệt, xem thấy các tánh của
hữu tình thanh tịnh không cấu
không chấp,
đức Phật khởi
đại bi: Nay Phật
quyết định sẽ khai thị cho các
hữu tình giác ngộ pháp thanh tịnh không cấu
không chấp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đức
đại bi chẳng thể nghĩ bàn ấy của
Như Lai chẳng do
công dụng nhậm vận thường chuyển luôn
lưu bố khắp đầy
mười phương thế giới không có
chướng ngại.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đức
đại bi ấy của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn
vô biên vô tế như
hư không. Nếu có ai muốn tìm cầu
biên tế của đức
đại bi ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm cầu
biên tế của
hư không.
Nầy Xá Lơị Phất!
Chư đại Bồ Tát nghe đức
đại bi của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn đồng
hư không rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muôn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Chư Phật chứng
Bồ đềKhông căn không chỗ trụ
Như chỗ Phật đã chứng
Đem dạy cho
chúng sanhChư Phật chứng
Bồ đềTịch tĩnh tột
tịch tĩnhThấy
nhãn căn nội khôngThấy
sắc trần ngoại khôngHữu tình chẳng
giác ngộTịch tĩnh tột
tịch tĩnhPhật biết rõ
chơn nhưVì họ khởi
đại biTánh
Bồ đề sáng sạch
Thanh tịnh đồng
hư khôngVì
chúng sanh chẳng rõ
Nên Phật khởi
đại biChư Phật chúng
Bồ đềKhông đến đi
lấy bỏVì
chúng sanh chẳng rõ
Nên Phật khởi
đại biChư Phật chứng
Bồ đềKhông tướng không
cảnh giớiLà chỗ đi của Thánh
Phàm phu chẳng biết được
Vì họ chẳng biết rõ
Hoặc biết mà chẳng thấu
Đức Phật đối với họ
Phát khởi lòng
đại biTự tánh của
vô viKhông sanh cũng không diệt
Cũng vẫn không có trụ
Ba luân luôn
giải thoátPhàm phu chẳng
giác ngộTự tánh của
hữu viPhật thương khởi
đại biDạy chơn lý như vậy
Bồ đề chẳng phải thân
Cũng chẳng phải
tâm chứngTự tánh thân
vô viTâm
như ảo như mộng
Phàm phu chẳng
giác ngộTánh thể của
thân tâmPhật thương khởi
đại biDạy
diệu lý như vậy
Chư
Phật tự nhiên chứng
Bồ đề thắng
quảng đạiNgồi an dưới thọ vương
Quan sát tánh
chúng sanhTrèo lên xe
sanh tửChạy vòng khắp các loài
Vì thấy họ như vậy
Nên Phật khởi
đại biBị
kiêu mạn phá hoạiKiến chấp luân quấn gói
Với
khổ tưởng là vui
Vô thường tưởng là thường
Chấp là tịnh là ngã
Là
chúng sanh thọ giảNhư Lai quan sát thấy
Vì họ khởi
đại biTánh tất cả
chúng sanhChe trùm trong màn si
Không có ánh sáng huệ
Như mây che mặt nhựt
Như Lai quan sát thấy
Vì họ khởi
đại biDùng trí sáng không nhơ
Soi sáng đường cho họ
Chúng sanh vào
ác đạoThường mê mất đường chánh
Đọa
địa ngục ngạ quỷHoặc đọa loài
súc sanhChư Phật đã biết rõ
Dẫn dắt đi đường chánh
Nay Phật thấy họ rồi
Khởi
đại bi khai thị
Phật biết tất cả pháp
Chơn như và thiệt tánh
Thanh tịnh đồng
hư khôngChứng thành chơn
giải thoátChúng sanh chẳng biết được
Pháp
tịnh diệu như vậy
Như Lai vì thương họ
Mà
phát khởi đại bi.
Nầy Xá Lơị Phất! Đây gọi làđức
đại bi chẳng thể nghĩ bàn của
Như Lai.
Chư đại Bồ Tát nghe đức
đại bi chẳng thể nghĩ bàn ấy rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi càng thêm
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng
hy kỳ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đại Bồ Tát đối với
đức Phật pháp
bất cộng chẳng thể nghĩ bàn của
đức Như Lai mà tin nhận vâng thờ không lầm không nghi
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng hy kỳ?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai thành tựu mười tám
Phật pháp bất cộng. Do
thành tựu mười
tám pháp bất cộng ấy nên
đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở giữa
đại chúng như
sư tử rống
tuyên bố rằng: Ta ở ngôi
Thế Tôn chuyển pháp luân lớn mà tất cả
thế gian hoặc Người hoặc Trời, Va Mương,
Phạm Vương,
Sa Môn,
Bà La Môn đều chẳng thể chuyển được đúng pháp.
Những gì gọi là mười pháp
Phật pháp bất cộng?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai ở đời không có các sự lầm lỗi. Vì không lầm không lỗi nên gọi là
Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Thân nghiệp của
Như Lai không lầm lỗi. Tất cả
thế gian, hoặc kẻ ngu người trí đều không thể đúng
pháp chỉ trích là
Như Lai có
lỗi lầm nơi
thân nghiệp. Tại sao? Vì
thân nghiệp của
đức Phật Thế Tôn rốt ráo không
lỗi lầm.
Nầy Xá Lơị Phất!
Chư Phật Như Lai bước đi
trong đời luôn ngó thẳng đến trước. Tất cả
cử chỉ, hoặc xoay mình ngó lại, hoặc cúi hoặc ngước, đắp, cầm bát, đến lui qua lại, đi đứng ngồi nằm đều không mất đi
oai nghi, luôn
đoan nghiêm tường tự.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu lúc
đức Như Lai đi vào thành ấp, hoặc lúc
trở về, hai bàn chưn đạp trên không mà tướng thiên bức luân hiện rõ trên đất,
mùi thơm đẹp ý và
hoa sen vàng
tự nhiên vọt ra đỡ chưn của
Như Lai.
Nếu có tất cả loài
hữu tình trong loài
súc sanh được chưn Phật chạm phải, thì hưởng thọ vui khoái mãn bảy ngày đêm,
sau khi chết được sanh về cõi lành vui.
Nầy Xá Lơị Phất!
Đức Như lai mặc
y phục,
y phục ấy chẳng dính vào thân. Lực lượng của bốn ngón tay
Như Lai, ngọn gió tỳ lam chẳng lay động được.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ánh sáng nơi thân của
Như Lai chiếu luôn không ngớt, chạm đến
chúng sanh thì làm cho họ
vui thích.
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì không có tất cả
thân tướng lỗi lầm như vậy nên nói là
thân nghiệp của
đức Như Lai không có
lỗi lầm.
Như chính
Phật tự chứng
thân nghiệp không
lỗi lầm, cũng vì
chúng sanh tuyên nói pháp ấy cho họ dứt hẳn
thân nghiệp lỗi lầm.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Ngữ nghiệp của
đức Như Lai không có
lỗi lầm. Tất cả
thế gian, hoặc người trí kẻ ngu đều không thể
chỉ trích là
ngữ nghiệp của
Như Lai có
lỗi lầm. Tại sao? Vì
đức Như Lai là đấng
nói đúng thời, đấng nói thiệt, đấng nói chắc, đấng nói phải thời, đấng làm đúng như
lời nói, đấng khéo
giảng giải từ ngữ, đấng nói lời mà người nghe
vui thích, đấng không nói lập lại, đấng nói văn nghĩa
trang nghiêm, đấng phát một âm nào cũng đều khiến người
nghe tin hiểu vui đẹp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì tất cả
lời nói không có tướng lỗi như vậy nên gọi rằng
ngữ nghiệp của
Như Lai không
lỗi lầm.
Như tự mình chứng
ngữ nghiệp không lỗi, cũng vì
chúng sanh nói pháp ấy cho họ dứt hẳn
lỗi lầm nơi
ngữ nghiệp.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Tâm niệm cuả
Như Lai không
lỗi lầm. Tất cả
Thế Gian, hoặc người trí kẻ ngu không thể rình tầm, đúng
pháp chỉ trích được rằng tâm nghiệp của
Như Lai có lỗi.
Tại sao? Vì
đức Như Lai chẳng xả
pháp định thậm thâm mà có thể
phát khởi làm những
Phật sự, chẳng nhọc ý lo nơi tất cả pháp mà trí
vô ngại nhậm vận thường chuyển nên nói
đức Như Lai tâm nghiệp không
lỗi lầm.
Như tự mình chứng
tâm không lỗi lầm, cũng vì
chúng sanh mà nói pháp ấy cho họ dứt hẳn
lỗi lầm nơi tâm.
Đây gọi là
Phật pháp bất cộng thứ nhứt của
Như Lai: “Ba nghiệp không lầm lỗi.”
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đức Như Lai phát ngôn không có sốt bạo? Vì
đức Như Lai không sốt bạo mà phát ngôn vậy.
Tất cả
thế gian, hoặc
Ma Vương hoặc
quyến thuộc Ma, hoặc
chư Thiên, hoặc các nhà
ngoại đạo đều chẳng thể rình tìm được chỗ sơ suất của
Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ngôn âm của
Như Lai vốn không sốt bạo, không theo nơi sốt bạo. Tại sao? Vì từ lâu
đức Như Lai đã lìa hẳn những
tham ái và giận hờn. Dầu được tất cả
chúng sanh tôn kính mà tâm
Như Lai chẳng cao hứng. Dầu bị khinh khi cũng chẳng có niệm buồn.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Việc làm của
đức Như Lai không có quá thời và chẳng
cứu cánh, cũng chẳng vì việc ấy mà có
ăn năn và theo việc ấy mà phát ngôn sốt bạo.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai không có tranh cãi với
thế gian nên không có lời sốt bạo.
Đức Như Lai luôn dùng ở
chánh định vô tranh,
không chấp ngã,
ngã sở, cũng không có sở thử rời xa những
triền phược nên không có lời sốt bạo.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Như tự mình chứng
vô lượng ngôn âm không sốt bạo,
đức Phật cũng vì
chúng sanh nói pháp ấy, cho họ dứt hẳn những sốt bạo.
Đây gọi là
Phật pháp bất cộng thứ hai của
đức Như Lai: “Lời nói không sốt bạo”.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đức Như Lai không quên mất chánh niệm? Vì
đức Như Lai luôn an trụ trong
tịnh lự giải thoát tam muội, chẳng ba giờ phát sanh mê loạn nơi một pháp nào. Tại sao? Vì trong
chánh định,
chánh trí chẳng
si mê. Vì xem thấy không
chướng ngại những
tâm hành động chuyển của các
hữu tình. Vì theo chỗ đáng dạy mà vì họ tuyên nói
diệu pháp không quên mất. Vì ở trong các pháp nghĩa
giảng giải biện tài vô ngại không quên mất. Vì đối với
quá khứ vị lai và
hiện tại, trí
vô ngại thấy suốt
vô lượng không quên mất.
Như tự mình chứng
chánh niệm không quên mất, cũng vì
chúng sanh nói pháp ấy cho họ chứng được chánh nhiệm ấy.
Đây gọi là
Phật pháp bất cộng thứ ba của
đức Như Lai: “Chánh niệm không quên mất”.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đức Như Lai không có tâm chẳng định?
Nầy
Xá Lợi Phất! Hoặc đi đứng ngồi nằm hoặc
ăn uống, hoặc nói nín,
đức Như Lai luôn ở trong thâm
định không bao giờ xuất xả. Tại sao? Vì
đức Như Lai chứng được
thậm thâm tối thắng thiền định ba la mật đa, đã
thành tựu tĩnh lự thậm thâm không chướng không ngại.
Nầy
Xá Lợi Phất! Không có
hữu tình nào hoặc
nhập định hay
xuất định mà thấy được tâm và
tâm sở của
Như Lai, chỉ trừ lúc
Như Lai dùng
thần lực gia bị cho họ.
Như tự mình đã chứng được tâm thường ở trong
chánh định,
đức Như Lai cũng vì các
hữu tình nói pháp ấy cho họ rời hẳn
tâm tán loạn.
Đây gọi là
Phật pháp bất cộng thứ tư của
Như Lai: “Không có tâm chẳng định”.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đức Như Lai không có các dị tưởng? Nếu có dị tưởng thì có thể có
tâm niệm không
bình đẳng. Tâm
Như Lai thường
bình đẳng nên đối với tất cả pháp,
đức Như Lai không có dị tưởng.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nơi các
Phật độ,
đức Như Lai không có dị tưởng, vì
Phật độ như
hư không. Nơi các
hữu tình,
đức Như Lai không có các dị tưởng, vì tánh
hữu tình vô ngã. Nơi chỗ chư Phật,
đức Như Lai không có các dị tưởng, vì trí
bình đẳng pháp tánh không có
sai biệt. Nơi tất cả pháp,
đức Như Lai không có các dị tưởng, vì pháp
ly dục tánh nó
bình đẳng. Với người
trì giới,
Như Lai không yêu, với người
phá giới,
Như Lai không giận, với kẻ ơn đều đền đáp, với kẻ oán không lòng hại, với người được độ đều
bình đẳng, với kẻ
tà định không có lòng khinh mạn, nơi tất cả các pháp đều
bình đẳng mà an trụ, vì thế nên nói
đức Như Lai không có dị tưởng.
Như mình đã
chứng không có dị tưởng,
đức Như Lai cũng vì
chúng sanh mà tuyên nói pháp ấy cho họ dứt hảnh các thú dị tưởng.
Đây gọi là
Phật pháp bất cộng thứ năm của
Như Lai: “Không có dị tưởng”.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đức Như Lai không chẳng biết rõ mà xả?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai đã
tu tập xong
thánh đạo mà
chứng đức xả ấy, chẳng phải là chưa tu
thánh đạo mà chứng.
Đức Như Lai đã tu nơi tâm, đã tu nơi giới đã tu nơi huệ mà
chứng đức xả ấy, chẳng phải chưa tu mà chứng.
Nầy Xá Lơị Phất! Đức xả của
Như Lai là
tùy theo trí huệ mà
hiện hành, chẳng phải tùy
ngu si. Đức xả của
Như Lai là
xuất thế, chẳng sa nơi
thế gian. Đức xả của
Như Lai là thánh là
xuất ly, chẳng phải chẳng thánh chẳng
xuất ly. Đức xả của
Như Lai thường
chuyển pháp luân thanh tịnh thương mến chúng sanh chẳng
bỏ rơi. Đức xả của
Như Lai nhậm vận thành tựu, vì chẳng theo nơi
đối trị.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đức xả của
Như Lai không cao chẳng cao cũng chẳng
hạ liệt, an trụ được nơi
bất động rời xa hai bên, vượt khỏi tất cả suy lường
xem xét, quán đãi theo thời cũng chẳng quá thời, không động lay không
tư lự, không
phân biệt không
phân biệt khác, không tu không tổn không có
kiêu căng phóng dật, không có
thị hiện, là chơn tánh là như tánh, là tánh chẳng
hư vọng, chẳng phải tánh chẳng nhu, có
vô lượng tánh như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đức
đại xả của
Như Lai thành tựu như vậy, vì muốn
chúng sanh được
viên mãn đức xả ấy mà nói pháp nầy.
Đây gọi là đức xả vô phân biet
Phật pháp bất cộng thứ sáu của
Như Lai.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là chí dục không lui giảm của Như Lai? Những gì là chí dục không lui giảm?
Lại còn có nghĩa gì gọi là chí dục của Như Lai?
Chí dục
đại từ của
Như Lai không giảm. Chí dục đại bị của
Như Lai không giảm. Chí dục
thuyết pháp của
Như Lai không giảm. Chí dục
điều phục chúng sanh của
Như Lai không giảm. Chí
dục thành thục
chúng sanh của
Như Lai không giảm. Chí dục
giải thoát của
Như Lai không giảm. Chí dục
giáo đạo Bồ Tát của
Như Lai không giảm. Chí dục nối giống
Tam Bảo khiến chẳng
đoạn tuyệt của
Như Lai không giảm. Tất cả
Như Lai chẳng theo nơi dục mà hành động. Chí dục của
Như Lai dùng
trí huệ làm
tiền đạo.
Như tự mình đã chứng chí dục không lui giảm, cũng vì
chúng sanh tuyên nói pháp ấy cho họ chứng đước chí dục
nhứt thiết trí trí viên mãn.
Đây gọi là chí dục không giảm
Phật pháp bất cộng thứ bảy của
Như Lai.
Lại nầy Xá Lơị Phất! Thế nào gọi là
chánh cần không lui sụt giảm của Như Lai?
Đó là
chánh cần chẳng bỏ
chúng sanh được
hóa độ.
Chánh cần chẳng có ý
xua đuổi chúng
nghe pháp.
Giáo hóa chẳng lui mất như vậy nên gọi
chánh cần của
Như Lai chẳng giảm.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu có
chúng sanh thích
nghe pháp đáng là
pháp khí có thể
nghe pháp mãi cả kiếp không biết mỏi, gặp
thính chúng như vậy,
đức Như Lai cũng
thuyết pháp suốt kiếp chẳng rời
pháp tòa chẳng
ăn uống mà
thuyết pháp luôn chẳng nghỉ.
Giả sử cách xa hằng ha sa
thế giới có một
chúng sanh thuộc
giới hạn giáo hóa của Phật,
đức Như Lai liền đích thân đến tại chỗ họ để
giáo hóa cho họ được
ngộ nhập.
Chánh cần của
Như Lai không hề mỏi mệt nhọc
nhàm chán.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thân của
Như Lai không hề
mệt mỏi, ngữ và tâm của
Như Lai cũng không hề mỏi mệt. Tại sao? Vì thân ngữ và tâm của
Như Lai thường
khinh an luôn.
Nầy
Xá Lợi Phất! Từ nhiều kiếp
đức Như Lai phát khởi tinh tấn và
ca ngợi đức
tinh tấn, vì
chúng sanh mà nói pháp ấy cho họ siêng
tu tập đức tinh tán để được chứng thánh
giải thoát.
Đây gọi là đức
chánh cần không giảm
Phật pháp bất cộng thứ tám của
Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đức Như Lai đối với tất cả pháp và tất cả chủng mà tất cả niệm không lui giảm? Vì niệm của
đức Như Lai không lui giảm vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai chứng được
Vô thượng Bồ đề,
quán trí không
gián đoạn. Tâm của tất cả
chúng sanh nối tiếp biết các sự
quá khứ vị lai, nơi trong ấy
đức Như Lai đều biết rõ không có quên mất. Và biết thiệt
tâm hành của
chúng sanh rồi,
đức Như Lai không hề
tác ý trong đó mà sự nhớ biết của
Như Lai không lui giảm.
Nầy Xá Lơị Phất!
Đức Như Lai an lập ba
tụ chúng sanh,
căn tánh ngộ nhập hiểu biết và
tu hành của họ, xét biết rõ rồi
đức Như Lai chẳng
để ý nghĩ nhớ
quan sát nữa, mà
đức Như Lai thường vì họ
thuyết pháp đúng chỗ chẳng hề thôi nghỉ. Tại sao? Vì
đức niệm của
Như Lai không lui giảm vậy.
Như tự mình chứng niệm không lui giảm, cũng vì
chúng sanh mà tuyên nói pháp ấy cho họ
vĩnh viễn dứt niệm thối giảm.
Đây gọi là
đức niệm không giảm
Phật pháp bất cộng thứ chính của
Như Lai.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
tam ma địa của Phật không thối giảm?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Tam ma địa của Phật và tất cả pháp, tánh ấy
bình đẳng, không chẳng
bình đẳng. Vì tất cả pháp và tất cả chủng
pháp không có tánh gì chẳng
bình đẳng.
Lại có
nhơn duyên gì mà
tam ma địa của Phật không giảm?
Vì
chơn như bình đẳng thì
tam ma địa bình đẳng, vì
tam ma địa bình đẳng thì
Như Lai bình đẳng. Vì hay
chứng nhập tánh
bình đẳng như vậy, nên
tam ma địa ấy gọi là đẳng định.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Nếu tham tế
bình đẳng thì
ly tham tế
bình đẳng. Nếu sân tế
bình đẳng thì ly sân tế
bình đẳng. Nếu si tế
bình đẳng thì ly si tế
bình đẳng. Nếu
hữu vi tế
bình đẳng thì
vô vi tế
bình đẳng. Nếu
sanh tử tế bình đẳng thì
Niết Bàn tế bình đẳng.
Vì
Như Lai chứng nhập tánh
bình đẳng như vậy nên
tam ma địa của
Như Lai không lui giảm. Tại sao? Vì tánh
bình đẳng không thối giảm vậy.
Nầy Xá Lơị Phất!
Tam ma địa của Phật chẳng phải
tương ưng với nhãn nhĩ tỷ
thiệt thân ý. Tại sao? Do không
tương ưng vậy, nhưng nơi
đức Như Lai sáu căn không thiếu.
Tam ma địa của Phật chẳng y nơi địa
thủy hỏa phong
bốn đại, chẳng y nơi
dục giới sắc giới vô sắc giới, chẳng y nơi
thế gian nầy và
thế gian khác. Tại sao? Do không y vậy. Vì thế mà không lui không giảm.
Đã
tự chứng tam ma địa không giảm,
đức Như Lai cũng vì
chúng sanh tuyên nói pháp ấy cho họ chứng được các
tam ma địa.
Đây gọi là
tam ma địa không giảm
Phật pháp bất cộng thứ mười của
Như Lai.
Lại nầy Xá Lơị Phất! Thế nào là
trí huệ không giảm của Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất! Những gì là
trí huệ của Như Lai?
Đó là trí biết rõ các pháp chẳng nhờ người khác. Trí nói
diệu pháp cho các
hữu tình. Trí
thiện xảo vô tận. Trí
hiểu biết vô ngại.
Trí phân biệt tất cả nghĩa. Trí
ngộ nhập một nghĩa cả trăm ngàn
đại kiếp nói cũng chẳng hết. Trí dứt lưới nghi khi được nghe. Trí nơi tất cả chỗ không
chướng ngại. Trí lập và nói
ba thừa. Trí thấu rõ khắp tám muôn bốn ngàn
tâm hành của
hữu tình. Trí mở dạy tám muôn bốn ngàn
pháp tạng.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Trí huệ của
Như Lai vô biên vô tế không có
cùng tận. Vì
trí huệ ấy chẳng thể
cùng tận vậy.
Do
trí huệ ấy chẳng
cùng tận, nên
từ trí huệ ấy
thuyết pháp cũng không
cùng tận, vì thế mà gọi
trí huệ của
Như Lai không lui giảm.
Như tự chứng trí huệ không giảm,
đức Như Lai cũng vì
chúng sanh nói pháp ấy cho họ chứng được
trí huệ vô tận.
Đây gọi là
trí huệ không giảm
Phật pháp bất cộng thứ mười một của
đức Như Lai.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
giải thoát không giảm của Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất! Những gì là
giải thoát của Như Lai?
Nầy
Xá Lợi Phất! Hàng
Thanh Văn thừa do ngộ
âm thanh mà
được giải thoát. Hàng
Độc Giác thừa do ngộ các duyên mà
được giải thoát.
Chư Phật Như Lai do xa rời tất cả
chấp trước hai bên mà
được giải thoát, nên gọi là
Như Lai giải thoát.
Giải thoát ấy, với
tiền tế thì không
hệ phược, với
hậu tế thì không chuyển hành, với hiện tai thì không
trụ trước.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nhãn với sắc, hai chấp
giải thoát. Nhĩ với thanh, tỷ với hương, thiệt với vị, thân với xúc, hai chấp
giải thoát. Vì
y chỉ giải thoát nên
nhiếp thọ không chấp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Tâm cùng với trí,
tự tánh sáng sạch,
thể không vết không nhơ. Vì thế nên chư Phật do
sát na tâm
tương ưng huệ mà chứng được
Vô thượng Bồ đề.
Theo chỗ chứng
Bồ đề của mình,
đức Như Lai cũng vì
chúng sanh nói pháp ấy cho họ chứng
viên mãn Bồ đề.
Đây gọi là
giải thoát không giảm
Phật pháp bất cộng thứ mười hai của
Như Lai.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là tất cả
thân nghiệp của
Như Lai do trí làm
tiền đạo và theo trí mà chuyển.
Nầy
Xá Lợi Phất! Do vì Phật đã
thành tựu thân nghiệp ấy nên tất cả
hữu tình hoặc thấy
Như Lai liền
điều phục, hoặc nghe
Như Lai thuyết pháp cũng đều
điều phục. Vì thế nên
Như Lai hoặc hiện yên lặng
điều phục chúng sanh, hoặc hiện uống ăn
điều phục chúng sanh, hoặc hiện các
oai nghi điều phục chúng sanh, hoặc hiện những tướng
thù thắng điều phục chúng sanh, hoặc hiện
tùy hình hảo điều phục chúng sanh, hoặc hiện
vô kiến đảnh
điều phục chúng sanh, hoặc
hiện tướng nhìn xem
điều phục chúng sanh, hoặc hiện
thần quang chiếu sáng
điều phục chúng sanh, hoặc hiện bước đi cất chưn hạ chưn
điều phục chúng sanh, hoặc hiện qua lại thành ấp
điều phục chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nói
tóm lại, không có
oai nghi nào của Phật mà chẳng
điều phục chúng sanh, vì thế nên nói tất cả
thân nghiệp của
Như Lai do trí làm
tiền đạo theo trí mà chuyển.
Như tự chứng
thân nghiệp như vậy,
đức Như Lai cũng vì
chúng sanh nói pháp ấy cho họ
chứng nhập thân trí như vậy.
Đây gọi là
thân nghiệp theo trí chuyển
Phật pháp bất cộng thứ mười ba của
Như Lai.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là tất cả
ngữ nghiệp của
Như Lai do trí làm
tiền đạo và theo trí mà chuyển?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Phật Như Lai không bao giờ luống
thuyết pháp. Do trí là
tiền đạo nên lời
Phật thọ ký đều tròn đủ cả. Lời Phật nói ra đều
rõ ràng vi diệu.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Ngôn ngữ của Phật theo
hiện thật mà chuyển chẳng thể nghĩ bàn. Nay sẽ lược kể:
Ngôn ngữ của Phật là
lời nói dễ hiểu rõ, là
lời nói dễ biết rõ,
lời nói chẳng cao đại,
lời nói chẳng ti hạ,
lời nói thù thắng,
lời nói chẳng tà khúc,
lời nói chẳng
vấp váp,
lời nói chẳng phiền loạn,
lời nói chẳng ngập ngừng,
lời nói chẳng thô cứng,
lời nói chẳng ẩn mất, là
lời nói nhu hòa,
lời nói đáng
vui thích,
lời nói chẳng trống thiếu,
lời nói chẳng nhẹ rung,
lời nói chẳng lập cập,
lời nói chẳng phiền trọng,
lời nói chẳng quá mau,
lời nói khéo quyết đoán,
lời nói khéo
giảng giải,
lời nói tột hay tốt,
lời nói thắng diệu,
lời nói khéo
xướng đạo,
lời nói thanh lớn,
lời nói như sấm nổ,
lời nói không sót thừa,
lời nói như uống
cam lộ,
lời nói có
ý nghĩa,
lời nói đáng gần gũi,
lời nói quảng đại,
lời nói đáng yêu,
lời nói không nhiễm trần,
lời nói rời
trần cấu,
lời nói không nhơ,
lời nói không đục,
lời nói không lỗ mãng,
lời nói oai nghiêm,
lời nói không
chướng ngại,
lời nói hay dạy dỗ,
lời nói sáng sạch,
lời nói chánh trực,
lời nói không khiếp sợ,
lời nói không khuyết giảm,
lời nói chẳng nhẹ gấp,
lời nói hay sanh
vui mừng,
lời nói làm cho thân khoan khoái,
lời nói làm cho tâm hớn hở
lời nói làm hết tham,
lời nói làm dứt sân,
lời nói làm mất si,
lời nói trừ ma,
lời nói dẹp ác,
lời nói xô ngã dị luận,
lời nói có
biểu thị,
lời nói như tiếng
trống trời,
lời nói mà người trí
vui thích,
lời nói như tiếng tiên điểu,
lời nói như tiếng
Thiên Đế,
lời nói như tiếng
Phạm Thiên,
lời nói như tiếng hải triều,
lời nói như tiếng vân lôi,
lời nói như
tiếng động đất động núi,
lời nói như tiếng chim hồng chúa, chim hạc chúa, chim
công chúa, chi hoàng li, chim
cộng mạng, chim ngỗng chúa, chim nhạn chúa,
lời nói như tiếng lộc vương, như tiếng nhạc, như tiếng loa, như tiếng tiêu,
lời nói dễ biết
dễ hiểu,
lời nói rành rẽ,
lời nói đẹp dạ,
lời nói đáng lắng nghe,
lời nói sâu xa,
lời nói không ngọng ngịu,
lời nói vui tai,
lời nói sanh căn lành,
lời nói không thiếu
văn cú,
lời nói khéo trình bày
văn cú,
lời nói đúng
văn cú, đúng nghĩa, đúng pháp, đúng thời, đáp đúng, chẳng
lỗi thời,
lời nói biết
căn tánh thắng liệt,
lời nói trang nghiêm bố thí, thanh tịn
trì giới, truyền day
nhẫn nhục, luyện tập
tinh tấn, khiến thích
thiền định,
ngộ nhập chánh huệ,
lời nói đức từ khéo nhóm, đức bi không mỏi, đức hỉ
trong sạch,
chứng nhập đức xả,
lời nói an lập ba thừa,
lời nói nối vững
Tam Bảo,
lời nói thành lập ba tụ,
lời nói thanh tịnh ba
giải thoát,
lời nói tu khắp đế lý, tu khắp
trí huệ,
lời nói người đạt chẳng mê,
lời nói bực thánh khen ngợi,
lời nói lượng như
hư không,
lời nói thành tựu vi diệu nhứt thiết chủng.
Lời nói của
Như Lai vô lượng vô biên thanh tịnh vi diệu như vậy. Vì thế nên nói
ngữ nghiệp của
Như Lai dùng trí làm
tiền đạo theo trí mà chuyển.
Như tự mìn đã chứng
ngữ nghiệp như vậy,
đức Như Lai cũng vì
chúng sanh mà tuyên nói pháp ấy cho họ được
chứng nhập ngữ nghiệp như vậy.
Đây gọi là
ngữ nghiệp theo trí chuyển
Phật pháp bất cộng thứ mười bốn của
Như Lai.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là tất cả
ý nghiệp của
Như Lai dùng trí làm
tiền đạo theo trí mà chuyển?
Luận về
Như Lai thì tâm ý và thức đều chẳng nói được.
Luận về
Như Lai thì phải do trí để cầu, vì trí
tăng thượng nên gọi là
Như Lai . Trí của
Như Lai theo đến tâm của tất cả
chúng sanh, theo vào ý của tất cả
chúng sanh, chẳng rời thức của tất cả
chúng sanh, đốt sạch các pháp, các
tam ma địa, chẳng theo các duyên,
vượt quá tất cả
cảnh giới sở duyên, xa rời
duyên sanh, dứt
ba cõi các loài, vượt khỏi giống
kiêu mạn,
giải thoát nghiệp ma, rời các
dua nịnh dối trá, bỏ
ngã ngã sở, dứt trừ
vô minh si ám, khéo tu các
trợ đạo chi, đồng với
hư không, chẳng có
phân biệt, không khác biệt với
pháp giới.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đức Như Lai chứng nhập ý nghiệp như vậy, trí làm
tiền đạo theo đúng tâm của
chúng sanh mà
thuyết pháp cho họ cũng
chứng nhập ý ấy.
Đây gọi là
ý nghiệp theo trí chuyển
Phật pháp bất cộng thứ mười lăm của
Như Lai.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đức Như Lai đối với đời
quá khứ dùng trí
vô trước vô ngại chuyển hành?
Nầy
Xá Lợi Phất! Tại sao trí ấy gọi là chuyển hành?
Đức Như Lai dùng trí
vô ngại có thể biết được trong
vô lượng vô biên đời
quá khứ có bao nhiêu
quốc độ hoặc thành hoặc hoại, tất cả sự việc xảy ra đó
vô lượng vô số,
đức Như Lai đều xét biết.
Cho đến trong những
quốc độ ấy có bao nhiêu cây cỏ rừng rậm cây thuốc, ở nơi đây
đức Như Lai đều biết rõ. Trong những
quốc độ ấy có bao nhiêu
chúng sanh sự việc của
chúng sanh,
đức Như Lai đều biết rõ. Trong đó có chư Phật
xuất thế, chư
Phật thuyết chánh pháp, ở nơi đây
đức Như Lai đều biết thiệt rõ. Trong đó có bao nhiêu
chúng sanh do
Thanh Văn thừa đắc đạo, hoặc do
Độc Giác thừa hoặc
Đại thừa đắc đạo,
đức Như Lai đều biết rõ.
Cho đến những
quốc độ ấy có
hình tướng sai biệt, chúng
Tỳ Kheo Tăng,
thọ lượng,
chánh pháp trụ thế, uống ăn thở hít,
đức Như Lai đều biết rõ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Tướng dạng đời
quá khứ của tất cả
hữu tình, hoặc chết, hoặc sanh, hoặc cõi, hoặc loài, ở nơi đây
đức Như Lai đều biết thiệt rõ.
Các hữu tìn ấy bao nhiêu
chủng tánh, bao nhiêu
căn tánh, bao nhiêu hành tánh, bao nhiêu
hiểu biết, có
vô lượng thứ
sai biệt đức Như Lai đều biết rõ.
Đức Như Lai lại biết những tâm nối tiếp nhau của tất cả
chúng sanh ấy. Như là những
tâm không hở xen như vậy những tâm
sanh khởi như vậy,
đức Như Lai đều biết rõ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Hoặc dùng hiện trí, hoặc dùng chủng
loại trí,
đức Như Lai chứng biết được tất cả tâm nối tiếp đã
quá vãng trong đới
quá khứ.
Tự mình đã chứng
trọn vẹn trí ấy,
đức Như Lai cũng vì
chúng sanh mà nói pháp ấy cho họ được
chứng nhập trí như vậy.
Đây gọi là trí
vô ngại biết đời
quá khứ Phật pháp bất cộng thứ mười sáu của
Như Lai.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đức Như Lai đối với đời
vị lai dùng trí
vô trước vô ngại chuyển hành?
Cớ sao trí ấy gọi là chuyển?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Trong đời vị lai có bao nhiêu
đức Phật, hoặc sẽ
xuất hiện, hoặc sẽ
diệt độ, hoăc lại sẽ có, hoặc lại sẽ không, ở tạ đây
đức Như Lai đều biết rõ.
Cho đến đương lai hỏa kiếp,
đương lai thủy kiếp,
đương lai phong kiếp
phá hoại, các
quốc độ sẽ
tồn tại lâu hay mau, tất cả những sự khác biệt ấy, ở tại đây
đức Như Lai đều biết rõ.
Lại
đương lai các
quốc độ có bao nhiêu
địa giới, có bao nhiêu
vi trần, có bao nhiêu cỏ cây lùm rừng cây thuốc,
cho đến bao nhiêu
tinh tú khác biệt, ở tại đây
đức Như Lai đều biết rõ.
Khắp đến trong mỗi mỗi
quốc độ đương lai chư Phật,
Độc Giác,
Thanh Văn và
Bồ Tát xuất hiện ra đời, hoặc uống ăn, hoặc đi đứng, hoặc thở hít, ở tại đây
đức Như Lai đều biết rõ.
Cho đến mỗi mỗi
đức Phật giáo hóa sai khác,
quan sát tánh của
hữu tình sẽ chứng
giải thoát, hoặc nương
Thanh Văn thừa, hoặc nương
Độc Giác thừa, hoặc nương
Đại thừa mà chứng
giải thoát, ở tại đây
đức Như Lai đều biết rõ.
Cùng tận đời
vị lai trong mỗi mỗi
quốc độ có bao nhiêu
chúng sanh chỗ sanh ra sai khác,
cho đến tâm và
tâm sở của
chúng hữu tình ấy, ở tại đây
đức Như Lai đều biết rõ.
Tự mình đã chứng được trí ấy,
đức Như Lai cũng vì
chúng sanh mà tuyên nói pháp ấy cho họ chứng được trí như vậy.
Đây gọi là trí
vô ngại biết đời
vị lai Phật pháp bất cộng thư mười bảy của
Như Lai.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đức Như Lai đối với đời
hiện tại trí
vô ngại vô trước chuyển hành?
Cớ sao trí ấy gọi là chuyển?
Nầy
Xá Lợi Phất! Đối với trong tất cả
quốc độ hiện tại ở
mười phương có bao nhiêu
Phật hiện tại, những chúng
Thanh Văn, những chúng
Độc Giác, những chúng
Bồ Tát, có bao nhiêu sai khác
đức Như Lai đều biết rõ.
Đức Như Lai biết rõ
hiện tại những
sắc tướng của các
tinh tú, cỏ cây lùm rừng,
địa giới,
vi trần v.v... tất cả sự việc của tất cả
quốc độ hiện tại ở
mười phương,
đức Như Lai đều biết rõ.
Cho đến tất cả
thủy giới,
hỏa giới,
phong giới trong tất cả
quốc độ hiện tại ở
mười phương,
đức Như Lai đều biết rõ, cũng biết rõ cả
hư không giới.
Đức Như Lai biết rõ
hiện tại ba thứ
thế gian giới. Biết rõ
hiện tại địa ngục chúng sanh giới, sanh nhơn và xuất nhơn của họ. Biết rõ
hiện tại súc sanh giới, sanh nhơn và xuất nhơn. Biết rõ
hiện tại ngạ quỷ giới, sanh nhơn và xuất nhơn. Biết rõ
hiện tại nhơn gian
chúng sanh giới, sanh nhơn và tử nhơn. Biết rõ
hiện tại thiên thượng chúng sanh giới, sanh nhơn và tử nhơn. Biết rõ
hiện tại các
tâm tâm sở nối tiếp của tất cả
chúng sanh, có tánh
phiền não hoặc rời tánh
phiền não. Biết rõ
hiện tại những
chúng sanh được
hóa độ có
căn tánh sai biệt,
hiện tại những
chúng sanh phải được
hóa độ có
căn tánh sai biệt.
Vô lượng sự tướng như vậy,
đức Như Lai đều biết thiệt rõ.
Tự mình đã có
chứng trí như vậy,
đức Như Lai cũng vì
chúng sanh mà tuyên nói pháp ấy cho họ chứng được trí ấy.
Đây gọi là trí
vô ngại biết đời
hiện tại Phật pháp bất cộng thứ mười tám của
Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư Phật Như Lai thành tựu mười tám
Phật pháp bất cộng như vậy
viên mãn không thừa
phóng quang minh chiếu sáng tất cả
đại chúng khắp
mười phương,
che khuất tất cả
chúng hội thiên ma.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Phật pháp bất cộng của
Như Lai chẳng thể nghĩ bà
vô biên vô tế như
hư không. Nếu có người muốn tìm cầu
biên tế của
Phật pháp bất cộng ấy thì chẳng khác gì người muốn tìm cầu
biên tế của
hư không.
Chư đại Bồ Tát nghe
Phật pháp bất cộng của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn như
hư không rồi liền tin nhận vâng thờ không làm không nghi càng thêm
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng hy kỳ”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy nên nói kệ rằng:
“Thân, ngữ
ý nghiệp của
Đạo SưKhông có
lỗi lầm cũng không động
Và dùng pháp ấy độ
chúng sanhĐây là pháp
bất cộng của Phật
Tâm Phật chẳng cao cũng chẳng hạ
Rốt ráo rời xa sân và ái
Luôn luôn không tranh dứt hẳn tranh
Là pháp
bất cộng của
Như LaiĐạo Sư nơi pháp và cùng trí
Giải thoát sở
hành không vong niệm
Những trí
vô ngại cũng không mất
Là pháp
bất cộng của
Như LaiHoặc đứng hoặc ăn hoặc
kinh hànhHoặc ngồi hoặc nằm tâm thường định
Không loạn cũng không
chúng sanh tưởngLà Pháp
bất cộng của
Như LaiĐạo Sư nơi
quốc độ chư Phật
Hữu tình và Phật không dị tưởng
Đại trí an trụ tánh
bình đẳngLà pháp
bất cộng của
Như LaiĐạo Sư không có xả
giản trạchVì khéo
tu đạo thắng
quyết địnhKhông có
phân biệt nơi các pháp
Là pháp
bất cộng của
Như LaiĐạo Sư dục lành không lui giảm
Thường chung cùng
từ bi phương tiệnĐiều phục chúng sanh rộng
vô lượngLà pháp
bất cộng của
Như LaiĐạo Sư tinh tấn thường không giảm
Hóa độ vô
chúng sanh lượng
vô biênBa nghiệp điều phục các
chúng sanhLà pháp
bất cộng của
Như LaiĐạo Sư đại niệm thường không giảm
Ngồi tòa
Bồ đề thành chánh giácGiác ngộ các pháp
vô lượng giácLà pháp
bất cộng của
Như LaiKhông
phân biệt không dị
phân biệtTự nhiên an
trụ định bình đẳngTịnh lự chẳng y tất cả pháp
Là pháp
bất cộng của
Như LaiTrí huệ của Phật rất các tường
Liễu đạt tất cả hạnh
chúng sanhDiễn nói pháp mầu
tùy ý rõ
Là pháp
bất cộng của
Như LaiThanh Văn Độc Giác chứng
giải thoátGiải thoát của Phật rất
thù thắngVô ngại ly cấu như
hư khôngĐại xả của Phật khó nghĩ biết
Chư Phật bổn lai
không tâm niệm
Tánh
giải thoát tâm luôn nối tiếp
Như pháp giải thoát vì chúng nói
Là pháp
bất cộng của
Như LaiChúng sanh mắt thấy Phật
oai nghiHoặc đứng hoặc
đi vào thành ấp
Tướng hảo quang minh hiển hiện ra
Họ được
điều phục đồng
tu thiệnĐạo Sư từ oai
phóng quang minh
Vô lượng chúng sanh thọ
an lạcQuang minh chiếu khắp độ
chúng sanhLà pháp
bất cộng của
Như LaiĐạo Sư tự nhiên diễn
pháp âmChúng sanh đều nghe
tùy ý hiểu
Được nghe tiếng
pháp như vang ứng
Là pháp
bất cộng của
Như LaiĐạo Sư vĩnh viễn không
ý nghiệpNhững
hành nghiệp chuyển đều do trí
Trí vào trong tâm của
chúng sanhLà pháp
bất cộng của
Như LaiCác
tam ma địa và
tịnh lựKhéo tu thành mãn lìa
hí luậnTrụ tánh
bình đẳng như
hư khôngLà pháp
bất cộng của
Như LaiNơi tất cả pháp đời
quá khứBao nhiêu
quốc độ bao nhiêu chúng
Trí Phật
vô ngại đều biết rõ
Là pháp
bất cộng của
Như LaiNơi tất cả pháp đời
vị laiThế giới sẽ có hoặc sẽ không
Chúng sanh quốc độ và chư Thánh
Phật đều biết rõ không sót dư
Đạo Sư quan sát đời
vị laiTâm tĩnh không bao giờ
tán loạnChúng sanh và pháp biết như thiệt
Là pháp
bất cộng của
Như LaiNơi tất cả pháp đời
hiện tạiPhật trí vô ngại đều biết rõ
Cảnh giới của Phật đồng
hư khôngLà pháp
bất cộng của
Như LaiĐã nói pháp
bất cộng của Phật
Đủ số mười tám chẳng nghĩ bàn
Chơn như thiệt tánh đồng
hư khôngChư đại Bồ Tát tin nhận được
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là
đức Như Lai thành tựu mười tám
Phật pháp bất cộng.
Do
thành tựu mười
tám pháp ấy nên
đức Như Lai ở giữa
đại chúng như
sư tử rống
tuyên bố rằng
đức Phật ỏ bực
Thế Tôn hay
chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả
thế gian hoặc Người hoặc Trời,
Ma Vương,
Phạm Vương,
Sa Môn,
Bà La Môn đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư đại Bồ Tát đã an trụ nơi
đức tin thanh tịnh, đối với mười
bất tư nghị và mười thứ pháp chẳng thể nghĩ bàn của
Như Lai, đều tin nhận vâng thờ chẳng lầm chẳng nghi, càng thêm
vui mừng hớn hở
phát ý tưởng hy kỳ”.