KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU
Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương
Thứ Hai Mươi Sáu
Bấy giờ
đức Phật nói với
Tịnh Phạn Vương : “ Nầy
Đại Vương ! Các
pháp như đã nói ở trên phải
chuyên tâm tinh tiến quan sát tu hành chớ theo
nơi khác.
Pháp ấy là
Bồ đề của chư Phật
quá khứ vị lai hiện tại, hay
tự tại siêu việt tất cả
thế gian, hay trừ tất cả
khát ái hàng phục ngã mạn,
diệt trừ tội lỗi, được
bình đẳng nơi tất cả pháp. Nó chẳng phải là chỗ của hạng
phàm phu, tất cả
Thanh Văn chẳng đến được, chẳng phải
cảnh giới của tất cả
Bích Chi Phật, là chỗ
tu hành của tất cả
Bồ Tát, là chỗ
chứng đắc của tất cả chư Phật.
Ở trong pháp ấy,
Đại Vương phải
để tâm suy nghĩ rằng : Tôi phải thế nào để được làm mắt sáng ở trong Trời Người, được làm đèn sáng , đuốc lớn, thuyền bè, biết thủy lộ giới là
Đạo Sư, là
thương chủ, là đạo thủ ở trong Trời Người.
Tôi phải thế nào để tự độ mình rồi lại độ được người, tự đã
giải thoát lại
giải thoát người, tự được
an ổn lại
an ổn người,
tự chứng Niết bàn lại khiến người chứng
Niết bàn.
Đại Vương nên biết chẳng nên
quan sát đời
quá khứ và
trải qua sự giàu mạnh
tự tại.
Nầy
Đại Vương ! Các căn
như ảo, không bao giờ
thỏa mãn, cũng không có gì làm nó
thỏa mãn được.
Cảnh giới như mộng, ở nơi
sắc thanh hương vị xúc không biết chán đủ.
Nầy
Đại Vương ! Thuở
quá khứ có
chuyển luân vương tên
Vô Biên Xưng có đủ thất bửu oai lực
tự tại thống lãnh
tứ thiên hạ. Nhà vua ấy ở chỗ
đức Phật trước trồng các cội lành nên được
thành tựu ý lực nghĩ gì được nấy.
Lúc ấy, vua
Vô Biên Xưng tự nghĩ ta
thử sức phước đức của ta, nay ta tự nương
phước đức khiến tất cả cây cối trong bốn
thiên hạ nầy
thường có bông trái dùng hoài không hết.
Nầy
Đại Vương ! Vua
Vô Biên Xưng
ý nghĩ như vậy rồi, khắp bốn
thiên hạ tất cả rừng cây
trổ bông kết trái xum xuê nhơn dân dùng mãi không hết.
Nhà vua ấy lại
nghĩ tưởng làm cho tất cả nhơn dân trong bốn
thiên hạ muốn gì đều được cả không hề trái ý. Nhà vua ấy
nghĩ tưởng như vậy rồi, tất cả nhơn dân đều được đầy đủ theo chỗ mong cầu.
Nhà vua ấy lại
nghĩ tưởng khiến khắp bốn
thiên hạ đều mưa
nước thơm. Liền đó khắp nơi đều mưa
nước thơm.
Nhà vua ấy thử
phước lực của mình nên lại
nghĩ tưởng khắp bốn
thiên hạ đều mưa hoa đẹp. Liền theo
ý tưởng của nhà vua ấy, khắp nơi đều mưa hoa đẹp.
Nhà vua ấy lại
nghĩ tưởng khắp nơi đều mưa
y phục đẹp. Liền đó khắp nơi mưa
y phục kiếp bối
cõi trờiNhà vua ấy lại muốn thử
phước lực của mình nên
nghĩ tưởng khắp bốn
thiên hạ mưa bạc, rồi lại tưởng mưa vàng. Theo đúng
ý tưởng của nhà vua ấy, khắp nơi mua bạc rồi mưa vàng.
Tại sao như vậy ? Vì vua
Vô Biên Xưng ấy từ
quá khứ đã ở nơi tất cả
chúng sanh tu cộng nghiệp thiện.
Nầy
Đại Vương !
Thuở ấy mặt đất
Diêm Phù Đề dọc ngang đều một vạn tám ngàn
do tuần, có sáu mưoi ngàn vạn
đại thành. Trung ương có
hoàng thành tên Bửu
Trang Nghiêm dọc ngang mười hai
do tuần, bốn phía bằng phẳng khéo đẹp, đường sá
trang nghiêm,
ranh giới rành rẽ.
Ngoài thành Bửu
Trang Nghiêm ấy có bảy lớp hàng
cây Đa La bằng bốn thứ báu là
vàng bạc lưu ly và
pha lê rất đẹp đáng ưa. Nếu là
cây Đa La vàng thì thân cành gốc rễ bằng vàng mà lá bông và trái bằng bạc. Nếu là
cây Đa La bạc thì thân cành gốc rễ bằng bạc mà lá bông và trái bằng vàng. Nếu là
cây Đa La bằng
lưu ly thì gốc rễ thân cành bằng
lưu ly mà lá bông và trái bằng
pha lê. Nếu là
cây Đa La
pha lê thì gốc rễ thân cành bằng
pha lê mà lá bông và trái bằng
lưu ly.
Thành Bửu
Trang Nghiêm ấy giáp vòng có bảy lớp treo lưới linh lạc báu, lại có màn lưới báu che trùm phía trên.
Ngoài thành có bảy lớp hào, mỗi hào sâu nửa
do tuần, rộng một
do tuần, đáy và bờ hào đều bằng phẳng, đầy nước
trong sạch đủ tám đức, chim chóc uống nước ấy. Trong nước hào mọc đầy bốn thứ
hoa sen xanh, vàng đỏ và trắng. Đáy hào trải cát vàng. Bờ hào bằng bốn báu
vàng bạc lưu ly và
pha lê : bực vàng thì thang bạc, bực bạc thì thang vàng, còn
lưu ly và
pha lê thì trang sức trên dưới
xen lẫn trang nghiêm. Lan can
xung quanh hào bày
bảy báu trang nghiêm vô tỉ.
Mỗi
con đường đều có bảy lớp cổng báu, hai bên đường có những cây chuối vàng, bốn bên hào đường sá giáp vòng, nơi hai đầu đều có tọa ngồi bằng
bảy báu.
Tất cả sự
trang nghiêm báu quí ấy đều do
phước đức của vua
Vô Biên Xưng
cảm thành.
Xung quanh ngoài thành Bửu
Trang Nghiêm có tám vạn rừng vườn. Làm những rừng vườn ấy, vua
Vô Biên Xưng không có lòng
chấp trước là
sở hữu của mình mà cho tất cả nhơn dân cùng hưởng.
Mỗi khu vườn ấy có tám ao lớn dọc ngang đều nửa
do tuần, đầy
hoa sen bốn màu. Bờ ao có tám thềm đường bằng bốn báu và cổng ngỏ
bảy báu.
Hai bên thềm đường có cây chuối vàng
Diêm Phù Đàn
trang nghiêm. Trong ao đầy nước tám đức, các loài chim uống nước ấy. Bốn bên ao nhà vua ấy lại cho trồng nhiều hoa đẹp để nhơn dân cùng hưởng.
Các lưới báu linh lạc báu khắp thành Bửu
Trang Nghiêm, lúc gió nhẹ thoảng phát ra tiếng
hòa nhã như
ngũ âm do nhạc công giỏi trổi lên. Nhơn dân trong thành cùng
vui chơi theo nhạc điệu ấy.
Thuở ấy thành lớn Bửu
Trang Nghiêm giàu vui
an ổn, nhơn dân
giàu có no đủ,
mọi nơi đều có
hoa sen bốn màu đẹp thơm
vô tỉ.
Một lúc khác, vua
Vô Biên Xưng lại nghĩ rằng :Nay ta sẽ qua châu Tây Cù Đà Ni. Vua cùng bốn binh chủng cùng bay lên
hư không qua Cù Đà Ni. Chư tiểu
Quốc Vương ở châu Tây ấy đều đến phụng nghinh và đem
quốc độ phụng hiến. Vua
Vô Biên Xưng ở lại đó trăm ngàn muôn năm rồi mang bốn binh chủng lên
hư không bay qua châu Đông Phất
Bà Đề, các tiểu
Quốc Vương ở châu Đông đều phụng nghinh và đem
quốc độ phụng hiến. Vua
Vô Biên Xưng ở lại đó trăm ngàn vạn năm rồi đem bốn binh chủng lên
hư không bay đến châu Bắc Uất Đơn Việt, nhơn dân nơi châu Bắc đều
hoan nghênh. Vua
Vô Biên Xưng ở lại châu Bắc nhiều trăm ngàn năm cùng
quyến thuộc vui vầy.
Một hôm vua
Vô Biên Xưng nghĩ rằng ta có nghe
trời Đao Lợi ỏ đảnh
núi Tu Di, nay ta nên lên đó.
Nghĩ như vậy rồi nhà vua ấy ngồi
long tượng đem bốn binh chủng bay lên
hư không thẳng lên
núi Tu Di. Nhà vua ấy hỏi quan hầu cận rằng ngươi thấy
núi Tu Di cùng
đại hải và
tứ thiên hạ thế nào ?
Quan hầu thưa : Tâu
Đại Vương, tôi thấy
núi Tu Di cùng
đại hải và
tứ thiên hạ đều xoay tròn. Như nhà gốm quay tròn vòng khuôn, tôi thấy
núi Tu Di cùng
đại hải và
tứ thiên hạ cũng quay tròn như vậy.
Nhà vua ấy bảo quan hầu cho
long tượng vương
đại hành chưa ngừng thẳng tiến lên trước.
Nhà vua ấy lại hỏi quan hầu : Giờ đây ngươi thấy
núi Tu Di cùng
đại hải và bốn châu
thiên hạ thế nào ?
Quan hầu thưa : Tâu
Đại Vương ! Tôi thấy
núi Tu Di cùng
đại hải và bốn châu
thiên hạ đều
chấn động.
Nhà vua ấy nói nay ta muốn đến đánh
núi Tu Di, cho
long tượng vương nầy
tiểu hành chưa ngừng thẳng tiến lên trước.
Nhà vua ấy hỏi quan hầu : Giờ đây người thấy
núi Tu Di cùng
đại hải và
tứ thiên hạ thế nào ?
Quan hầu thưa : Tâu
Đại Vương, tôi thấy
núi Tu Di cùng
đại hải và bốn
thiên hạ đều chẳng động chẳng chuyển.
Nhà vua ấy bảo : Đã đến đảnh
núi Tu Di rồi.
Vua ấy cùng bốn binh chủng đến đảnh
núi Tu Di.
Đế Thích thấy vua
Vô Biên Xưng thì
vui mừng đón tiếp và chia nửa tòa ngồi cho cho vua ấy cùng ngồi. Vua
Vô Biên Xung
tiếp nhận chỗ ngồi rồi cùng
Đế Thích ngự
trời Đao Lợi cả
vô lượng năm.
Sau đó, vua
Vô Biên Xưng lại nghĩ rằng : Ta nên truất phế
Đế Thích để riêng ta làm
Thiên Vương.
Vừa nghĩ xong như vậy, nhà vua ấy cùng bốn binh chủng từ
trời Đao Lợi rơi xuống vườn
bảy báu ngoài thành Bửu
Trang Nghiêm ở
Nam Diêm Phù Đề.
Bấy giờ có dân trong thành ra thấy như vậy vội cấp bảo vào thành.
Lúc ấy vua đang ngự trị thành Bửu
Trang Nghiêm tên là Tác
Ái, nghe có vị
Thiên Tử bốn binh chủng từ trên không giáng xuống vườn thất bửu ngoài thành, liền truyền nghiêm xa giá cùng bốn bộ binh chủng xuất thành đến vườn thấy vua
Vô Biên Xưng. Vua Tác Ái sai đem các thứ hoa và hương bột hương thoa đến rồi tự trịch y vai hữu quỳ gối hữu
chắp tay hướng về vua
Vô Biên Xưng mà thưa rằng : Ngài là ai ?
Vua
Vô Biên Xưng nói : Người có từng nghe thuở xa xưa có vua
Vô Biên Xưng chăng ?
Vua Tác Ái và các quan dân đều nói :
Chúng tôi có nghe người xưa nói
thuở trước có vua
Vô Biên Xưng ngự trị bốn châu
thiên hạ. Vua ấy cùng bốn binh chủng bay lên
trời Đao Lợi.
Vua
Vô Biên Xưng nói : Như chỗ các ngươi đã nghe, vua
Vô Biên Xưng chính là ta đây.
Từ đó vua
Vô Biên Xưng nghe
mùi vị đồ
ăn uống ở
nhân gian lòng chẳng
ưa thích chẳng chịu được nên
thân tâm trầm trọng hôn mê. Như đem
đề hồ để trên cát nóng liền chìm mất chẳng tạm dùng còn, vua
Vô Biên Xung ở
Diêm Phù Đề ăn uống các thứ lòng không
ưa thích,
thân tâm chìm mất cũng như vậy.
Vua Tác Ái thấy vua
Vô Biên Xưng chẳng chịu được
mùi vị đồ
ăn uống ở nhơn gian nên
thân tâm chóng hư hoại chẳng thể sống còn bèn thưa rằng :
Đại Vương có lời gì
dặn bảo để tôi truyền lại cho người
đời sau.
Vua
Vô Biên Xưng nói với vua Tác Ái : Nhà vua nên biết từ xưa vua
Vô Biên Xưng ngự trị bốn
thiên hạ oai đức tự tại,
tùy ý muốn gì đều được như vậy, muốn rừng cây đầy
hoa quả thì bông trái có luôn hay trừ khổ cho
mọi người. Nhơn dân muốn cần gì thì đều được
thỏa mãn cả. Ta lại có thể mưa
nước thơm, mưa hoa đẹp, mưa
y phục báu, mưa bạc trắng, mưa
vàng ròng. Ngự trị bốn châu giàu mạnh
tự tại. Ta lên
trời Đao Lợi,
Đế Thích chia ngự tọa cùng cai trị
cõi trời. Vì lòng tham không chán đủ nên phải từ cung trời rơi xuống
Diêm Phù Đề mà chết.
Vua
Vô Biên Xưng bảo vua Tác Ái : Các sự việc vừa kể ấy, nhà vua nên truyền nói như vậy và
kết luận rằng : Vua
Vô Biên Xưng giàu mạnh
tự tại, vì tham cầu không chán nên phải chết mất.
Vua
Vô Biên Xưng nói xong thì chết”.
Thuật đến đây,
đức Phật nói với vua
Tịnh Phạn : Vua
Vô Biên Xưng ấy tức là thân Phật đây vậy. Nầy Đại vvương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng.
Nầy
Đại Vương !Vì thế nên phải
nhiếp tâm quan sát như vậy, chớ tin
nơi khác ”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“ Thường vui
pháp tự tạiLuôn luôn sách tấn mình
Trong
tham dục tự tạiLòng phải biết chán lìa
Ly dục tự tại rồi
Trụ trong
pháp tự tạiNếu
hàng phục được tâm
Thì
hàng phục phiền nãoHàng phục được
phiền nãoLiền được lìa
nghiệp đạoĐược lìa
nghiệp đạo rồi
Là tháp chùa
thế gianChẳng bị dục
ô nhiễmhiển bày lỗi
phiền nãoNhớ
lợi ích chúng sanhNên hiệu là tháp chùa
Nghe lời tham dục rồi
Liền lìa được
tham dụcNhứt thiết trí tịnh tâmNên hiệu là tháp chùa
Tối thắng đại trượng phuNhớ dứt lỗi
chúng sanhGiải thoát sân cho họ
Nên hiểu là tháp chùa
Tối thắng đại trượng phuNhớ dứt si cho chúng
Thoát tâm
ngu si ấy
Nên hiệu là tháp chùa
Điều ngự thiên nhơn sưNhớ dứt mạn cho chúng
Làm tâm
chúng sanh sạch
Nên hiệu là tháp chùa.”
Đức Phật phán tiếp phán tiếp với vua
Tịnh Phạn : “ Nầy
Đại Vương ! Thuở xưa
quá khứ có
Quốc Vương tên là
Địa Thiên, làm vua đúng pháp, có đủ
bảy báu và luân báu, tượng báu, mã báu,
minh châu báu,
ngọc nữ báu,
trưởng giả báu và chủ binh báu.
Cha của vua
Địa Thiên tên là Địa Sanh. Sau khi Địa Sanh chết,
Địa Thiên là
trưởng tử nên phụ
tướng đại thần lấy nước bốn biển rưới đảnh của
Địa Thiên tôn làm vua, đó là vua
Sát Đế Lợi Quán Đảnh.
Lúc
lên ngôi vua rồi, đến ngày rằm trăng tròn ngày thọ trai, vua ĐịaThiên tắm rửa gội đầu cắt cạo râu tóc và móng tay móng chưn, mặc
y phục mới sạch, dùng
vòng hoa chuổi ngọc mũ mão vòng xuyến trang sức thân mình, ngồi trên lầu cao, các thể nữ vây quanh. Liền đó từ phương Đông có luân bửu bằng vàng đủ ngàn căm giàn trục đều đủ, ánh sáng chói ngời, ngang dọc đều bảy cánh tay, thuần bằng
vàng ròng.
Thấy
kim luân bửu
xuất hiện, vua
Địa Thiên nghĩ rằng : Ta từng nghe người xưa nói nếu vua Sát Đế Lơi
Quán Đảnh lên ngôi mà
kim luân bửu
ứng hiện thì sẽ là
Chuyển Luân Thánh Vương. Nay ta có phải là
Luân Vương chăng, ta nên thử xem.
Vua
Địa Thiên liền
đứng dậy trịch y vai
hữu đối luân bửu
chắp tay khấn rằng : Luân bửu nên hạ xuống đây. Vua khấn xong, luân bửu liền hạ xuống dừng trước vua.
Vua
Địa Thiên dùng hương thơm thoa tay, mặc y mão đẹp, tay mặt tiếp lấy luân bửu để trong tay trái, tay mặt xoa vuốt luân bửu mà khấn rằng : Nay ngươi nên
hàng phục phương Đông.
Kim luân ấy liền bay lên
hư không xoay vòng hai bên rồi dừng ở phương Đông tại
con đường chuyuển
Luân Vương thuở xưa.
Con đường ấy bằng phẳng rải đầy hoa bằng phẳng rải đầy hoa rất khả ái. Chỗ
kim luân đi qua mặt đất đều bằng phẳng không có cao thấp. Do
phước đức của vua
Địa Thiên nên những ao suối giếng hồ khô cạn đều đầy nước tám đức, tất cả cây cối đều xum xê tươi tốt đầy trĩu hoa trái.
Bấy giờ vua
Địa Thiên mang bốn binh chủng
đi theo luân bửu, nếu luân bửu dừng lại vua và binh chủng cũng dừng theo. Những xứ nhà vua đến,
quốc vương và thần dân xứ ấy đồng mang
lễ vật ra nghênh đón và
phụng hiến cả
quốc độ ấy cho vua ngự trị.
Vua
Địa Thiên Chuyển Luân Vương liền bảo rằng : Ta chẳng cần đến
quốc độ nầy, các ngươi cứ cai trị như xưa, nhưng phải
xa lìa những sự
sát sanh, cũng chớ
trộm cắp, chẳng được
tà dâm, không nên
vọng ngữ lưỡng thiệt ác khẩu ỷ ngữ, chớ có
tham dục giận thù và
tà kiến. Các người phải tự mình tu mười
nghiệp đạo lành và bảo người khác cùng tu. Nay ta
nhận biết các người
quy phục nơi ta, tuân lời ta truyền, ta xem các người như con em ta. Các người phải thảo ngay phụng dưỡng
cha mẹ sư trưởng và các
nhà tu hành. Chớ làm sự
phi pháp và sự ác
bất thiện, cũng khuyên người
làm lành lánh dữ. Nếu được như vậy mới thiệt
quốc độ và nhơn dân xứ nầy qui phục nơi ta.
Lần lượt như vậy, vua
Địa Thiên theo luân bửu
hàng phục xong
châu Phất Bà Đề phương Đông và cả ba châu Nam, Tây, Bắc rồi
trở lại Diêm Phù Đề tại cung thành cũ,
kim luân bửu ấy dừng ở
bất động tại
hư không trên chỗ vua ngự.
Lúc ấy cả bốn châu
thiên hạ, do
phước lực của vua
Địa Thiên nên đều
biến thành bảy báu trang nghiêm, đó là
vàng bạc,
lưu ly,
pha lê,
xa cừ ,
xích châu và
mã não. Ba
ác đạo cũng được
giải trừ sanh vào đường lành. Toàn cõi không còn
tiếng ác, không còn một ai tạo
nghiệp ác.
Tại sao được như vậy ? Đó là do
bổn nguyện lực của vua
Địa Thiên. Vả lại lúc
kim luân bửu xoay lăn đến đâu, cả
tứ thiên hạ chẳng cần gieo trồng mà
mọi nơi đều mọc đầy những cạnh mễ
tự nhiên không có cám trấu.
Mọi nơi lại
tự nhiên sản xuất
y phục báu đẹp từ những cây
thiên thọ. Tất cả
bệnh hoạn khắp nơi đều
tự nhiên lui mất, chỉ trừ ba điều là cầu
dục lạc, ăn nuốt và suy già. Tất cả nhơn dân đều thọ đủ ngàn muôn tuổi, tất cả những
khổ não đều
tự nhiên tiêu trừ. Có
vô lượng sự
hi hữu chẳng thể nghĩ bàn như vậy
xuất hiện nơi
thế gian sau lúc vua
Địa Thiên theo luân bửu ngự trị toàn bốn châu
thiên hạ.
Thời gian lâu về sau, một hôm vua
Địa Thiên nghĩ rằng : Nơi đây ta
thọ hưởng khoái lạc, chẳng biết còn có chốn nào hơn ? Vua lại nhớ đã từng nghe
trời Đao Lợi ở đảnh
núi Tu Di, sự vui đẹp ở đó thế nào ?
Vì lòng còn nặng
ái dục nên vua
Địa Thiên chán ghét sự
thọ dụng ở
nhân gian mà mong muốn sự vui đẹp ở
cõi trời, nên vua cùng bốn binh chủng bay lên cung
trời Đao Lợi.
Thấy vua
Địa Thiên đến,
Đế Thích vui mừng đón tiếp và chia chỗ ngự trị cho.
Cùng
Đế Thích chia trị
cõi trời vô lượng trăm ngàn năm, vua
Địa Thiên bỗng có
ý nghĩ truất bỏ
Đế Thích để mình
trọn quyền. Vừa nghĩ như vậy xong, vua
Địa Thiên và bốn binh chủng từ cung
trời Đao Lợi rơi xuống thành
An Ổn nơi
Diêm Phù Đề.
Bấy giờ vua
Địa Thiên vì lâu ngày ăn dùng vật thực thắng diệu
cõi trời , nay bỗng đến nhơn gian nên chẳng chịu được đồ thô xấu,
thân tâm vua bị
trầm một, như đem
đề hồ đổ trên cát nóng liền chìm mất .
Thân tâm quá mệt suy vua
Địa Thiên nói kệ rằng :
Các vua chúa
tự tạiChẳng trừ được
khát áiNhư cỏ khô gặp lửa
Thế nên phải bỏ dục
Thường làm sự
dâm dụcChưa từng có lúc thỏa
Như khát uống nước mặn
Chẳng bao giờ hết khát
Như các dòng về biển
Chẳng bao giờ đầy được
Ái dục cũng như vậy
Chưa bao giờ thỏa đủ
Như lửa cháy cỏ cây
Không bao giờ thôi đủ
Ái dục cũng như vậy
Không bao giờ thỏa đủ
Như
tiếng vang hang sâu
Theo tiếng không thôi dứt
Nghe tiếng cũng như vậy
Không bao giờ thôi dứt
Như thùng chứa
chất thơmChứa đựng không chọn lọc
Ngửi hương cũng như vậy
Không bao giờ chán đủ
Như vá múc đồ ăn
Không bao giờ thôi đủ
Lưỡi nếm các vị ngon
Cũng không hề biết đủ
Như
gương sáng hiện bóng
không bao giờ thôi đủ
Người hành dục cũng vậy
Với dục không chán đủ
Như
hư không chứa gió
Không bao giờ đầy đủ
Thân thường ưa chạm xúc
Không bao giờ chán đủ
Như trong mộng uống nước
Chẳng bao giờ trừ khát
Y thức duyên các pháp
Cũng chẳng hề chán đủ
Người tham cầu
ái dụcCàng thêm lớn
ái dụcNhìn xem các sự cảnh
Ái luyến chẳng chán đủ
Thấy dục tăng
khổ nãoDường như lửa cháy củi
Dứt trừ các
ái dụcnhư dùng nước tắt lửa
Nầy
Đại Vương, chớ nghĩ là ai khác, vua
Địa Thiên thuở xưa ấy chính lá thân Phật đây vậy.
Thuở xưa ấy vua
Địa Thiên giàu mạnh
tự tại, vì tham cầu không chán đủ nên phải chết mất. Tại sao ? Do vì các căn không chán đủ nên sự cảnh không
thỏa mãn được. Các ăn như gương soi, sự cảnh như bóng tượng. Các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng.
Đại Vương phải
để tâm nơi pháp nầy tự
quan sát thật kỹ sâu, chớ theo
nơi khác. Pháp nầy là
vô thượng Bồ đề của chư Phật
ba đời.
Đại Vương phải xa rời tất cả giàu mạnh, phải
tiêu kiệt tất cả
ái dục, lật đổ núi
kiêu mạn, rời xa tất cả suy họa,
bình đẳng đối với tất cả pháp. Đây chẳng phải là
địa vị với tất cả
phàm phu, chẳng phải đường đi của tất cả hàng
Thanh Văn, cũng chẳng phải
cảnh giới của tất cả
Duyên Giác, mà chính là chỗ đi của tất cả
Bồ Tát, là tất cả
chứng đắc của tất cả chư Phật
Đẳng Chánh Giác.
Đại Vương phải
chú tâm chớ để
tán loạn, phải
suy nghĩ rằng ; Ở trong tất cả
thế gian thuở
vị lai, tôi phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc lớn, làm ánh sáng, làm thuyền bè, làm
đạo sư, làm
thương chủ, làm đạo thủ, làm
thượng thủ, tự độ và
độ người ,tự thoát và
giải thoát người, tự an và an cho người, tự được
Niết bàn khiến người cũng được
Niết bàn.
Đại Vương chớ
xem xét sự giàu mạnh
tự tại đã có
thuở trước. Phải biết các căn
như ảo nó chẳng hề chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được.
Cảnh giới như mộng, chẳng thể làm
thỏa mãn được ”.
Đức Phật lại nói với vua
Tịnh Phạn :“ Thuở
quá khứ có vua tên Đảnh sanh. Vua ấy có
oai đức lớn, có đại
thần thông, có oai thế lớn. Vua ấy từ trên đảnh của phụ vương Ô Bô Sa mà sanh ra. Vua từ lâu chứa nhiều căn lành, đã từng thấy
vô số chư Phật và tu các
thiện căn,
cung kính cúng dường chư Phật, tích chứa cội lành, rất được giàu mạnh
tự tại trong bốn
thiên hạ. Sau khi được
quán đảnh lên ngôi vua bảy ngày thì
bảy báu hiện ra đủ, làm
Chuyển Luân Thánh Vương.
Những gì là
bảy báu của
Chuyển Luân Thánh Vương ?
Một là
kim luân bbửu, thuần bằng
vàng ròng, đủ ngàn căm, giàn trục đủ, ngang dọc đều bảy cánh tay,
tự nhiên hiện đến trước nhà vua.
Hai là
bạch tượng bửu, đủ sáu ngà, bảy chi chống đất, trắng như núi Tuyết,
tự nhiên ứng hiện đến.
Voi và ngựa hai báu ấy, từ sáng sớm đến giờ ăn có thể đi khắp tám phương bốn châu
thiên hạ, hết mé các biển rồi
trở về chỗ cũ
Bốn là
minh châu bửu , lớn bằng bắp vế người, thuần
lưu ly xanh ánh sáng chiếu ra
xung quanh đều một
do tuần..
Năm là
trưởng giả bửu,
giàu có vô lượng,
tùy ý vua muốn đều có thể sẵn đủ cả. Sáu là
ngọc nữ bửu,
đoan trang xinh đẹp tuyệt luân,
toàn thân toát ra mùi
chiên đàn, hơi miệng sạch thơm, như
hoa sen xanh , lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt,
thân sắc mịn màng như lá đồng đỏ. Cả thân mềm dịu
như không có xương,
mùa đông thì ấm,
mùa hạ thì mát.
Lòng dạ từ bi luôn nói lời
nhỏ nhẹ tay chạm đến vua liền hiểu được
ý nghĩa của vua.
Bảy là chủ binh bửu,
tự nhiên xuất hiện, dũng mảnh sách mưu võ lược
đệ nhứt,
biết trước ý nghĩ của vua cả bảy ngày, giỏi điều binh đánh trận.
Vua ấy lại có đủ ngàn con trai đoan chánh
dũng kiện hàng phục được
oán địch.
Thuở ấy vua Đảnh Sanh ngự trị bốn
thiên hạ, đúng
pháp giáo hóa, khiến bốn
thiên hạ giàu vui
an ổn,
nhân dân đông nhiều, thành ấp
tụ lạc gần liền nhau. Toàn cõi không có đá sỏi
gai góc mà nhiều
châu báu đầy đủ
vô lượng, vườn rừng ao suối rất tốt khả ái. Đó là do vua Đảnh Sanh an trụ nơi
pháp lực mà cảm hiện lành tốt như vậy.
Thời kỳ ấy hoặc Người hoặc Trời hưởng thọ
dục lạc tối
đệ nhứt.
Đô thành của vua Đảnh Sanh ngự tên là A Du Xà. Thành ấy Đông Tây đều rộng mười hai
do tuần, Nam Bắc đều rộng bảy
do tuần. Trong thành ngoài thành các thứ
trang nghiêm đều đồng như thành Bửu
Trang Nghiêm của vua
Vô Biên Xung ở trên, cũng như
Đắc Thắng Đường ở
trời Đao Lợi.
Đảnh Sanh Vương tạo ba bửu điện : Một là Nguyệt Xuất điện, vua ở đó trong
mùa Hạ, hai là
Tỳ Lưu Ly điện, vua ở đó trong
mùa Xuân, Ba là Nhựt
Oai Đức Khởi, vua ở đó trong
mùa Đông rét lạnh. Lúc vua cùng
ngọc nữ và thể nữ vào điện Nguyệt Xuất thì
thân thể vua
mát mẻ như ướp thoa hương
ngưu đầu chiên đàn. Lúc vua cùng
quyến thuộc vào điện
Tỳ Lưu Ly thì thân vua thư thới như ướp thoa hương lá đa
ma la. Lúc vua cùng
quyến thuộc vào điện Nhựt
Oai Đức thì thân vua ấm áp như thoa
ướp hương trầm thủy.
Vua Đảnh Sanh ấy theo chỗ thích muốn đều được
tùy ý tự tại, khiến các cung điện theo
thời tiết mà phát sanh sự
cảm xúc vừa ý :
tùy ý phát xuất gió,
tùy ý phát xuất mưa, các thứ
âm nhạc tùy ý vua mà đến, các đồ
cần dùng cũng theo ý vua mà
xuất hiện.
Bấy giờ nơi cung điện mà vua Đảnh Sanh ngự trọn bảy ngày, trời mưa vàng và bạc. Qua bảy ngày vua nghĩ rằng : Rất là
hi hữu chẳng nghĩ bàn được, nghiệp nhơn
thanh tịnh cảm lấy
quả báo như vậy,
tùy ý hiện đến đầy đủ theo ý ta muốn,
phước đức gây nên như vậy không thể
sai lạc. Có ai thấy
quả báo nầy mà ở nơi sự
tu phước đức lại thôi nghỉ.
Vua Đảnh Sanh ngự
Diêm Phù Đề trăm ngàn năm, sau đó vua tự nghĩ rằng nay
Diêm Phù Đề của ta
an ổn giàu vui, nhơn dân đông đúc và đều quí thuộc nơi ta, trong cung điện ta mưa
vàng bạc trọn cả bảy ngày. Giờ đây ta nên qua châu Tây Cù Đà Ni.
Nghĩ xong, vua Đảnh Sanh cùng
quyến thuộc mang bốn binh chủng bay lên
hư không thẳng đến châu Tây Cù Đà Ni. Vua đã đến rồi ngự trị châu Tây trăm ngàn năm, cũng
tác ý mưa
vàng bạc, là cho nhơn dân đều
an ổn giàu vui. Sau đó vua lại mang bốn binh chủng đến ngự trị châu Đông Phất
Bà Đề trăm ngàn năm cũng khiến toàn châu Đông giàu vui
an ổn. Vua Đảnh Sanh lại sang ngự trị châu Bắc Uất Đơn Việt
vô lượng ngàn năm, vua hưởng
thọ y báu hơn Người mà chưa bằng Trời.
Sau đó vua Đảnh Sanh nghĩ rằng, ta có nghe đảnh
núi Tu Di có
trời Đao Lợi, ta nên đến đó quan chiêm coi thế nào.
Vua Đảnh Sanh liền mang bốn binh chủng bay lên
hư không thẳng đến đảnh
núi Tu Di.
Bấy giờ
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn cùng ba mươi ba
Thiên Vương hợp tại
Thiện Pháp Đường luận sự việc Trời Người.
Thấy vua Đảnh Sanh đến,
Đế Thích đón tiếp chia ngự tòa cùng ngồi.
Lúc vua Đảnh Sanh lên ngự tòa cùng ngồi với
Đế Thích xong liền có mười sự việc
thù thắng che chói
chư Thiên. Đó là
thọ mạng hơn
chư Thiên ,
dung nhan hơn
chư Thiên ,
danh tiếng hơn
chư Thiên,
thọ lạc hơn
chư Thiên, ngự trị
tự tại hơn
chư Thiên,
thân hình hơn
chư Thiên,
âm thanh hơn
chư Thiên, hơi thơm hơn
chư Thiên, vị ăn hơn
chư Thiên, chạm xúc mịn dịu hơn
chư Thiên.
Vua Đảnh Sanh cùng
Đế Thích hình dung tướng mạo hành động
oai nghi đồng nhau không sai khác,
ăn uống y phục đồ dùng cũng đồng, chỉ có nhìn nháy là khác nhau thôi.
Nhưng
chư Thiên phân biệt biết rõ
thiên Vương và Nhơn Vương sai khác.
Rất là lạ lùng
hi hữu,
Đế Thích và vua Đảnh Sanh là Trời và Người mà
hình dung tướng mạo lại đồng nhau, đó là sức
phước đức tạo ra như vậy, ai lại ở nơi
phước đức mà chẳng thích ưa.
Vua Đảnh Sanh ở
trời Đao Lợi vô lượng ngàn năm là
tăng thượng tự tại, vua chẳng biết đủ nên sau đó lại nghĩ rằng : nay ta nên
một mình làm
Thiên Vương cần gì
Đế Thích, ta sẽ truất phế ông ấy. Vừa nghĩ xong như vậy, vua Đảnh Sanh cùng
toàn thể quyến thuộc bốn binh chủng liền rơi xuống
Diêm Phù Đề trong vườn ngoài thành A Tu Xà.
Lúc vua Đảnh Sanh rơi xuống oai quang chiếu sáng khắp
mọi nơi làm luốt mất ánh sáng
mặt trời. Như lúc
mặt trời mọc,
mặt trăng bị luốt mất, lúc vua Đảnh Sanh
sa xuống mặt trời bị luốt mất cũng như vậy.
Bấy giờ có người xuất thành thấy như vậy, vội vào phổ cáo cho
mọi người trong thành hay rằng : Nay có
Thiên Tử cùng bốn binh chủng từ
hư không sa xuống vườn ngoài thành.
Được tin ấy,
quốc Vương cùng thần dân
chỉnh đốn nghi lễ mang hoa hương
kỹ nhạc xuất thành đến khu vườn ấy để tiếp nghinh vua Đảnh Sanh.
Lúc vua Đảnh Sanh
sa xuống, toàn cõi đất
chấn động sáu cách.
Vua Đảnh Sanh vì đã quen hưởng thọ
dục lạc cõi trời nên chẳng chịu được hơi hám và đồ dùng ở nhơn gian, vua mê mệt nằm trên đất, như tô lạc
đề hồ đổ vào cát rất nóng liền
tiêu tan.
Quốc Vương và thần dân thấy vua Đảnh Sanh
hôn mê nằm trên
đất liền kêu hỏi : Ngài là ai ?
Vua hỏi lại các người có từng nghe nói vua Đảnh Sanh thuở xưa chăng ?
Quốc vương và thần dân đáp đã có nghe các bực
kỳ cựu thuật rằng có vua Đảnh Sanh chẳng bỏ thân người đem
quyến thuộc và bốn binh chủng bay lên trời.
Vua nói
Đảnh Sanh Vương thuở xưa chính là ta đây . Ta cùng bốn binh chủng từ trời rơi xuống vậy.
Quốc Vương và thần dân nói kệ hỏi vua rằng :
Tôi nghe
kỳ cựu nói
Xưa có vua
oai đứcHiệu là
Đảnh Sanh VươngCó
danh tiếng rất lớn
Vua mang bốn binh chủng
Từ đây bay lên trời
Cũng đem cả
quyến thuộcThánh Vương trị đúng pháp
Trời Người tuân lời vua
Sức
vô thường làm hại
Mất báo trời chịu khổ
Đảnh Sanh Vương là Ngài
Chúng tôi đều
chắp tayCúi đầu lạy chân vua
Có sự
hi hữu gì
Sẽ truyền lại
đời sau.
Vua
Đảnh Sanh Vương từ trời
sa xuống bị khổ nói kệ đáp rằng :
Đảnh Sanh
Thánh Vương xưa
Thống lãnh bốn
thiên hạThọ lạc hơn Trời Người
Tham không nhàm phải chết
Xưa trong cung vua ấy
Mưa trân bửu bảy ngày
Trị
thiên hạ đúng pháp
Tham không nhàm phải chết
Vua trước cùng
Thiên ĐếChia ngự tọa mà ngồi
Vì
phát khởi ác niệmQuá
tham dục phải đọa
Ở trong biển
sanh tửVì
vô trí nên chìm
Vì say đấm
ngũ dụcTham không nhàm phải chết
Như khát mộng uống nước
Chẳng thể hết khát được
Thọ
ngũ dục cũng vậy
Trọn không hề chán đủ
Các
chúng sanh trí huệDứt trừ tối
ngu siNgười trí ấy biết đủ
Chánh
quán sát các loài
Trí quán sát các loài
Huệ thấy già bịnh chết
Dứt trừ các
khát áiBỏ các loài không ham
Quán chạm xúc như lửa
Thì bỏ được
khát áiQuán
thọ lạc cũng vậy
Biết ái là chẳng lành
Như đánh các
âm nhạcCăn cảnh giới cũng vậy
Dùng
thánh giáo điều phụcBỏ được căn
tự tánhTất cả năm loài sanh
Sanh ra từ
danh sắcTrong ấy thức
phân biệtThì phát sanh tưởng nghĩ
Thánh giả chánh
quán sátChẳng tham chấp nghiệp nhơn
Trí giả đủ
sáng suốtChứng diệt như củi tàn
Vua Đảnh Sanh nói kệ đáp
mọi người xong thì chết.
Nầy
Đại Vương ! Vua Đảnh Sanh thuở xưa ấy chính là thân Phật đây.
Ngày xưa Phật từng làm Đảnh Sanh
Chuyển Luân Vương thống lãnh Trời Người oai thế
tự tại, vì
tham dục không nhàm đủ mà phải chết mất.
Vì lẽ ấy nên phải rời bỏ
giàu sang kiêu mạn oai thế mà an trụ chẳng
phóng dật .
Nếu có thể an trụ được nơi hạnh chẳng
phóng dật, thì có thể tu các
thiện căn.
Nầy
Đại Vương ! Nếu chẳng
phóng dật lại có thể vào
pháp giới bình đẳng. Nếu người lìa được
phóng dật thì
thành tựu lợi ích.
Nầy
Đại Vương !Hữu vi
vô vi giới chẳng phải
nam nữ, chẳng phải quá vị
hiện tại.
Đại Vương nên ở nơi pháp nầy mà an trụ
tự tâm, chớ theo
giáo pháp khác. Pháp nầy là
Vô thượng Bồ đề của
tam thế chư Phật.
Đại Vương nên xa rời tất cả hào quí, tiêu cạn tất cả biển dục,
xô ngã núi
kiêu mạn, rời xa tất cả suy đọa,
bình đẳng với tất cả. Đây chẳng phải chỗ của
phàm phu, chẳng phải hàng
Thanh Văn làm được, cũng chẳng phải
cảnh giới của
Duyên Giác. Đây là
công hạnh của tất cả
Bồ Tát, là chỗ chứng của chư Phật
Chánh Đẳng Giác.
Đại Vương phải
nhiếp tâm chớ để
tán loạn, phải
suy nghĩ rằng : Đời
vị lai ở trong tất cả Nhơn Thiên
thế gian, ta phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc, làm ánh sáng, làm thuyền, làm hướng đạo, làm thầy, làm
thương chủ, làm đạo thủ, làm
vô thượng, tự độ
độ người, tự thoát
giải thoát người, tự an
an ổn người, tự được
Niết bàn khiến người được.
Đại Vương chớ
quan sát thuở trước đã từng
giàu sang tự tại, phải biết các căn
như ảo không có chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được,
cảnh giới như mộng chẳng
thỏa mãn được
Nầy
Đại Vương ! Thuở
quá khứ có vua hiệu là Ni Di, rõ thấu các pháp, làm vua đúng pháp, trọn chẳng
phóng dật, khi vua có làm việc thì rời lìa
phóng dật.
Vua Ni Di ấy thường quán
tam thế bình đẳng, lại quán tất cả pháp cũng như
tam thế bình đẳng. Vua ấy quán tất cả pháp
quá khứ xa lìa tự tánh, quán
vị lai tất cả pháp
xa lìa tự tánh, quán
hiện tại tất cả pháp cũng
xa lìa tự tánh. Quán tất cả
pháp bình đẳng rồi, vua ấy ở nơi tất cả pháp chẳng
thủ trước. Vua ấy quán tất cả
thế gian bị bốn thứ
điên đảo nó làm
điên đảo : ở trong pháp
bất tịnh mà tưởng là tịnh, ở trong pháp khổ mà tưởng là vui, ở trong pháp
vô thường mà tưởng là thường, ở trong
pháp vô ngã mà tưởng là ngã. Vua
quán thế gian rồi tự nghĩ rằng :
Thế gian bại hoại đại bại hoại,
chúng sanh ở nơi tất cả
pháp tự tánh,
không tịch mà họ chẳng hay biết. Ta nên dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp các
chúng sanh. Các
chúng sanh ấy
tùy thuận ta rồi tất sẽ
lãnh thọ lời ta dạy.
Vua Ni Di dùng bốn nhiếp pháp nhiếp các
chúng sanh rồi liền đem
pháp bình đẳng dạy các
chúng sanh.
Nầy
đại chúng ! Tất cả các pháp lìa
tự tánh. Nếu tất cả pháp lìa
tự tánh thì nó cũng chẳng phải
quá khứ, chẳng phải
vị lai, chẳng phải
hiện tại. Tại sao ? Vì các pháp ấy
tự tánh chẳng phải thiệt vậy. Các pháp đã lìa
tự tánh thì các pháp ấy chẳng thể gọi nó lá
quá khứ vị lai hiện tại.
Vua Ni Di dạy các
chúng sanh về pháp
tam thế bình đẳng rồi, có tám mươi ngàn vạn
na do tha vô lượng trăm ngàn
chúng sanh được
vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ tại cung
trời Đao Lợi,
chư Thiên Tử tụ
hội nghị luận rằng :
Lành thay lành thay, người nước
Diêm Phù Đề được đại
lợi ích. Vua Ni Di
hiểu rõ các pháp, làm vua đúng pháp có đủ
phương tiện. Ở nơi các
chúng sanh điên đảo, vua ấy dùng
phương tiện khéo dạy họ pháp chẳng
điên đảoBấy giờ
Thích Đề Hoàn Nhơn ở cách xa
Thiện Pháp Đường, do
thiên nhĩ vói
nghe lời các
Thiên tử nghị luận, liền đến
Thiện Pháp Đường lên ngự pháp tọa bảo các
Thiên Tử rằng : Vua Ni Di ấy
thành tựu đầy đủ
phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Tại
trời Đao Lợi nầy, các Ngài có muốn thấy vua Ni Di ấy chăng ?
Chư Thiên Tử đồng thưa muốn được thấy.
Thiên Đế liền truyền ngự thần tên
Ma Đa Lê rằng : Nhà ngươi nên trang bị ngàn xe báu
cõi trời đến
Diêm Phù Đề nước Bệ Đề A thưa với vua Ni Di rằng : Đây là ngàn xe báu
cõi trời sai đến rước vua, xin vua chớ kinh sợ. Tất cả
chư Thiên Đao Lợi đều muốn được thấy vua. Xin vua lên ngự trên xe báu nầy.
Lúc thấy vua Ni Di lên xe rồi, thì ngươi hỏi : “ Thưa
Đại Vương ! Nay tôi đem vua theo đường nào để đi đến
trên trời Đao Lợi ? Theo đường
chúng sanh an trụ
điên đảo mà đi hay theo đường
chúng sanh chẳng an trụ
điên đảo mà đi.
Thiên thần Ma Đa Lê lãnh lịnh
Thiên Đế Thích nghiêm bị ngàn xe báu, tự lên ngồi rồi từ
Đao Lợi Thiên xuống
Diêm Phù Đề đến nước
Bệ Đề A thưa vua Ni Di rằng :
Chư Thiên Đao Lợi đem ngàn xe báu đến rước xin vua chớ nghi sợ.
Chư Thiên trên ấy đồng muốn thấy vua.
Bấy giờ vua Ni Di lòng
không kinh sợ buớc lên xe báu. Vua đã lên rồi,
thiên thần Ma Đa Lê lại thưa rằng : Nay tôi phải đem vua đi đường nào, đi đường
chúng sanh an trụ
điên đảo, hay đi đường
chúng sanh chẳng an trụ
điên đảo ?
Vua Ni Di bảo
Thiên Thần : Ngài có thể đưa tôi đi khoảng giữa hai đường ấy.
Ma Đa Lê liền đem vua đi giữa hai đường ấy.
Vua Ni Di bảo
Thiên Thần : Ngài nên tạm dừng xe lại, tôi muốn
quan sát các
chúng sanh điên đảo.
Thiên Thần tuân lời dừng xe. Trong
thời gian ngắn ấy, vua Ni Di làm cho tám mươi ngàn vạn
chúng sanh an trụ trong thiệt kiến
tam muội. Tại sao được như vậy ? Vì vua từ lâu đã khéo
tu tập bất phóng dật hạnh. Khiến
chúng sanh nhập thiệt kiến
tam muội rồi sau sẽ đều được
vô sanh pháp nhẫn.
Ma Đa Lê trọn chẳng hay biết
việc làm của vua Ni Di,
tiếp tục đưa vua đi đến đảnh
núi Tu Di. Từ xa vua thấy rừng rậm xanh tốt liền bảo
Thiên Thần :Rừng ấy
quyết định là chỗ ở của các
chúng sanh chẳng
điên đảo.
Thiên Thần Ma Đa Lê thưa : Nơi ấy chính là
Thiện Pháp Đường,
chư Thiên Đao Lợi đang chờ được thấy vua, xin vua
bước lên chớ sợ.
Bấy giờ vua Ni Di lòng chẳng sợ
bước lên Thiện Pháp Đường.
Thiên Đế Thích đón tiếp vua và chia nửa bửu tọa cho vua cùng ngồi.
Hai vua ngồi xong.
Thiên Đế Thích ôn nhu nói với vua Ni Di rằng : Đại vua làm được
lợi ích lớn, có thể làm cho
Phật pháp thạnh hưng
tăng trưởng.
Thiên Đế Thích lại bảo
chư Thiên Đao Lợi rằng : Vua Ni Di nầy đầy đủ
thành tựu phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Trong
thời gian ngắn, vua nầy có thể làm cho tám mươi ngàn vạn
chúng sanh an trụ
Phật pháp mà
Ma Đa Lê đều chẳng hay biết.
Lúc ấy vua Ni Di vì
chư Thiên Đao Lợi mà giảng rộng
Phật pháp vi diệu. Làm cho
chư Thiên được
lợi ích xong, vua thưa với Thiên
Đế Thích rằng : Tôi muốn
trở lại Diêm Phù Đề,. Tại sao ? Vì tôi muốn
hộ trì chánh pháp của Phật tại
Diêm Phù Đề vậy.
Thiên Đế Thích liền truyền
Ma Đa Lê nghiêm bị ngàn cổ xe đưa vua Ni Di về.
Về đến
Diêm phù Đề vua Ni Di
thành tựu phương tiện đại từ thiện xảo dìu dắt vô lượng chúng sanh an trụ
Phật pháp.
Nầy
Đại Vương ! Vua Ni Di thuở xưa ấy chính là thân Phật đây vậy.
Đại Vương nên
quan sát năng lực của hạnh
bất phóng dật khó nghĩ bàn được. Vua Ni Di lên ngồi ngự tọa của
Thiên Đế Thích mà còn chẳng
tham trước. Vì thế nên
Đại Vương ở trong
Phật pháp phải siêng năng
tinh tấn tu các hạnh chẳng
phóng dật.
Nầy
Đại Vương ! Thế nào gọi là
Phật pháp ?
Nầy
Đại Vương ! Tất cả pháp đều là
Phật pháp cả ».
Tịnh Phạn Vương nghe lời dạy nầy liền bạch rằng : « Bạch
Thế Tôn ! Nếu tất cả pháp là
Phật pháp, thì tất cả
chúng sanh cũng lẽ ra là Phật » .
Đức Phật phán rằng : « Nếu chẳng
điên đảo thấy
chúng sanh thì chính là Phật vậy ».
Nầy
Đại Vương ! Nói là Phật đó , là như thiệt thấy
chúng sanh vậy, như thiệt thấy
chúng sanh chính là thấy thiệt tế. Thiệt tế chính là
pháp giới.
Nầy
Đại Vương ! Thiệt tế ấy chẳng thể
hiển thị được. Chỉ là danh từ, chỉ là
thế tục, chỉ là trong số
thế tục, chỉ có
ngôn thuyết, chỉ giả đặt để. Phải
nhận xét như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Tất cả pháp
vô sanh đây là môn
đà la ni. Tại sao đây gọi là môn
đà la ni ? Ở đây tất cả
pháp không động không lay, không lấy không bỏ, đây gọi là môn
đà la ni.
Nầy
Đại Vương ! Tất cả pháp
bất diệt là môn
đà la ni. Tại sao
bất diệt là môn
đà la ni ? Trong ấy, tất cả pháp chẳng động chẳng lay, chẳng lấy chẳng bỏ. Môn
đà la ni ấy không có
tướng mạo, không có
tự tánh, không đặt đề được, không tác không tạo, không lai không khứ, không
ngã không nhơn, không
chúng sanh không
thọ mạng, không
dưỡng dục chẳng phải
đối trị, không hình không trạng, không trói không rời, không uế không tịnh, không thương không ghét, không buộc không mở, không xuất không thối, không được không ở,
không định không loạn, không tri chẳng phải
vô tri, chẳng phải kiến chẳng phải
vô kiến, chẳng phải giới chẳng phải phạm, chẳng phải
ăn năn chẳng phải không
ăn năn, chẳng phải mừng chẳng phải không mừng, chẳng phải khổ chẳng phải vui, chẳng phải định chẳng phải
bất định , chẳng phải thiệt chẳng phải đảo, chẳng phải
Niết bàn chẳng phải không
Niết bàn, chẳng phải
ái kiến chẳng phải lìa
ái kiến, chẳng phải
giải thoát chẳng phải
không giải thoát, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải nhìn xem chẳng phải chẳng nhìn xem, chẳng phải nghiệp chẳng phải chẳng nghiệp, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo.
Nầy
Đại Vương ! Phải dùng sáu mươi bảy
pháp môn để vào tất cả pháp.
Nầy
Đại Vương tự thể các pháp chẳng phải từng có sẽ có
hiện có. Như tượng trong gương chẳng phải có không, tự thể của sắc cũng vậy, chẳng phải đã sẽ và
hiện có. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như vang chẳng phải đã sẽ, và
hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy,
thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và
hiện có.
Nầy
Đại Vương ! Như dương diệm chẳng phải đã sẽ và
hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy,
thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và
hiện có.
Nầy
Đại Vương như khối bọt nước chẳng bền chắc, nó chẳng phải đã sẽ và
hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy,
thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và
hiện có.
Nầy
Đại Vương ! Như mộng thấy nữ nhơn đẹp, sự thấy trong mộng chẳng phải đã sẽ và
hiện có.
Thể tánh của sắc
thọ tưởng hành thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và
hiện có.
Nầy
Đại Vương ! Như
Thạch Nữ mộng thấy đẻ con trai, sự được thấy trong mộng ấy chẳng phải đã sẽ và
hiện có.
Thể tánh của thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và
hiện có.
Nầy
Đại Vương !
Sắc không có sanh cũng không có diệt, thọ tưởng hành và thức không có sanh cũng không có diệt, như
Niết bàn giới không có
sanh không có diệt vậy.
Như pháp giới không sanh không diệt, sắc thọ tưởng hành và thức không
sanh không diệt cũng như vậy.
Nầy
Đại Vương Tất cả pháp là
Như Lai cảnh giới,
bất khả tư nghì cũng là
Như Lai cảnh giới,
bất cộng pháp, cũng là
Như Lai cảnh giới, vì chẳng
cùng chung với
cảnh giới của tất cả
phàm phu vậy, cũng chẳng
cùng chung với
cảnh giới của tất cả
Thanh Văn Duyên Giác vậy.
Tất cả pháp ấy chẳng phải chê chẳng phải khen, chẳng phải được chẳng phải mất, chẳng phải giác chẳng phải
bất giác, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải thức chẳng phải bất thức, chẳng phải xả chẳng phải bất xả, chẳng phải tu chẳng phải bất tu, chẳng phải thuyết chẳng phải
bất thuyết, chẳng phải chứng chẳng phải bất chứng, chẳng phải
hiển thị chẳng phải chẳng
hiển thị, chẳng phải khả văn chẳng phải chẳng khả văn.
Tại sao vậy ?
Vì pháp ấy không có pháp phò cử được
xô ngã được như vậy.
Tại sao vậy ?
Vì tất cả pháp rời lìa
tự tánh vậy.
Đại Vương nay phải
an tâm ở trong pháp ấy, sâu
quan sát nó chớ tin
nơi khác ”.
Bấy giờ
Tịnh Phạn Vương nghĩ rằng : Ở trong các
pháp không có pháp gì để được. Không có pháp ấy chứng được pháp ấy mà gọi là Phật ấy. Các
pháp thiệt chẳng có được. Chỉ vì
chúng sanh mà
đức Phật giả
ngôn thuyết thôi.
Lúc Phật nói pháp ấy,
Tịnh Phạn Vương và bảy vạn
Thích chủng được
vô sanh pháp nhẫn.
Đức Phật biết hàng
Thích chủng được
thâm tín rồi liền hiện
mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ hỏi Phật :
“Đấng
Đại Hùng Đạo SưVì đời mà
mỉm cườiMong đuốc sáng
thế gianDiễn nói sự
mỉm cườiThập lực Nhứt thiết tríCớ chi hiện
mỉm cườiXin nói cớ cười ấy
Dứt lưới nghi
thế gianPhật vì hàng
Thích chủngMà
hiện tướng mỉm cườiXin mau trừ lưới nghi
Của chúng Trời và Người
Được nghe
đức Phật nói
Thế gian hết
nghi ngờLòng họ được
hoan hỉAn trụ trong
Phật phápCác con của
Thế TônĐược nghe cớ
mỉm cườiBền chắc ở
thệ nguyệnTrí huệ tất
thông đạtNgưỡng mong đấng
Đạo SưDứt trừ lòng chúng nghi
Chúng được hết nghi rồi
Tất được vui lớn rộng ”.
Đức Thế Tôn nói kệ đáp
Mã Thắng Tỳ Kheo :
“
Phật hiện cười
tịch diệtMã Thắng hãy lắng nghe
Nay Phật sẽ nói rõ
Thích chủng quyết định trí
Các pháp
bất khả đắcThích chủng đều biết được
Vì thế tâm
quyết địnhAn trụ nơi
Phật phápDòng họ Thích danh tiếng
Y cứ vô sở đắcSẽ được
Vô Thượng GiácBiết rõ tất cả pháp
Mạng người nầy mãn rồi
Thích chủng ấy
quyết địnhĐược sanh nước
cực lạcGần kề Phật
Di ĐàHọ ở
cực lạc rồi
Vô úy thành
Bồ đềHay đến
mười phương cõi
Cúng đường
vô số Phật
Ở tại một
Phật độHay cúng
mười phương Phật
Vì
thương xót chúng sanhMà
cầu đạo vô thượngDu lịch các
Phật quốcCúng dường chư Phật ấy
Đều do
thần lực mình
Theo chỗ chư Phật mà đến
Vô lượng vô số kiếp
Cúng dường các
Đạo SưVới các thứ diệu cúng
Sau sẽ
thành Phật đạo
Mỗi mỗi
thành Phật rồi
Hay độ
vô lượng chúng
Khiến được
thành Phật đạo
Lại
giáo hóa chúng sanhChúng sanh ở nước ấy
Đều sẽ
thành Phật đạo
Chư
Phật Thế Tôn ấy
Chẳng độ chúng
Thanh VănMỗi
Phật Thế Tôn ấy
Đều thọ một kiếp tuổi
Chánh pháp chư Phật ấy
Vô lượng vô số kiếp
Chư Phật ấy
diệt độChư
Bồ Tát đại TríGìn
pháp độ thế gianỨc
Vô số ngàn năm
Chư đại Bồ Tát ấy
Giáo hóa vô lượng chúng
Đặt ở đạo
Vô thượngThuyết pháp đều
không tịchKhiến trụ
bất phóng dậtTu tập pháp không tịch
Hay được
Nhứt thiết tríƯa hạnh
bất phóng dậtNghe
Thế Tôn tuyên nói
Thọ ký hàng
thích chủngTrời Người đều
vui mừngChí
cầu đạo vô thượng ”.
Bấy giờ
đức Thế Tôn bảo
Huệ Mạng Xá Lợi Phất : Nầy
Xá Lợi Phất ! Đây là
tam muội thấy chơn thiệt của
Bồ Tát. Ông phải nói lại với hàng
bất thối chuyển của
Bồ Tát. Tại sao vậy ? Nầy
Xá Lợi Phất !
Tam muội nầy chẳng thể nói được.
Như Lai ở trong
tam muội ấy chẳng được một pháp. Nếu là chẳng được thì nó là chẳng thể giác được. Nếu chẳng thể giác đuợc thì nó là chẳng thể nói được. Nếu chẳng thể nói được thì nó là chẳng thể biết được. Chẳng thể biết được ấy tức là pháp của
tam thế chư Phật vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nay ta
phó chúc cho ông, đây là
tam muội thấy chơn thiệt của
Bồ Tát phải nên
thọ trì đọc tụng giảng nói rộng cho người.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có
thiện nam thiện nữ an trụ
đại thừa trải qua mười kiếp
tu hành năm
ba la mật, lìa
Bát Nhã Ba la mật, nếu có người được nghe
tam muội thấy chơn thiệt của
Bồ Tát nầy thì
phước đức lớn hơn. Nếu người tạm nghe
tam muội thấy chơn thiệt của
Bồ Tát nầy, nếu lại có người được nghe đây rồi nói cho
mọi người thì
phước đức càng lớn hơn.
Nếu có người trong mười kiếp nghe đây rồi nói cho
mọi người, nếu lại có người nhẫn đến trong
thời gian một
sát na tu tập tam muội thấy chơn thiệt của
Bồ Tát thì
phước đức càng lớn hơn.
Vì thế nên
Xá Lợi Phất đem kinh
Bồ Tát Kiến Thiệt
Tam Muội nầy vì chư
Bồ Tát mà diễn nói chỉ dạy
tu hành.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu tu theo
tam muội nầy thì sẽ được
vô sanh pháp nhẫn.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Trong
pháp hội đây, chư
Bồ Tát được ta
thọ ký đạo
vô thượng đều được an trụ trong
tam muội thấy chơn thiệt của
Bồ Tát.
Bấy giờ tất cả
Bồ Tát Thanh Văn, Trời, Người,
A Tu La,
Càn Thát Bà, Nhơn
Phi Nhơn tất cả
đại chúng nghe lời Phật dạy đều
vui mừng phụng hành.
Hết Tập 4
Hết Phẩm thứ XVI