KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU
Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Phẩm Bổn Sự
Thứ Bốn
Bấy giờ
Huệ Mạng Ma Ha Ca Diếp thấy các
A Tu La Vương cúng , dường
đức Phật rồi , sanh tâm
hi hữu tự nghĩ rằng : Lúc
đức Thế Tôn tu hạnh
Bồ Tát tạo căn lành gì mà nay được
quả báo ấy ? Ngài liền nhập như thiệt
tam muội, do sức
tam muội trang nghiêm nơi tâm nên nhớ biết thuở
quá khứ vô số a tăng kỳ kiếp tất cả
công đức mà
Như Lai đã
tu tập trong các loài ấy, trong các đời ấy
tu tập thiện căn đều để làm đầy đủ
vô thượng Bồ đề. Do các
thiện căn ấy mà được bực
bất thối chuyển, các
thiện căn ấy đều nhớ biết.
Lúc Ngài
Ma Ha Ca Diếp nhớ
thiện căn lớn của
đức Như Lai, Ngài nghĩ rằng như Phật đã
tu tập căn lành rộng lớn,
thiện căn mỗi mỗi lần
phát tâm của
Như Lai ,
ví như hằng sa thế giới quốc độ mười phương tất cả
chúng sanh trong ấy đều được thân người, rồi trong
hằng sa kiếp
cúng dường chư Phật như
A Tu La Vương. Mỗi mỗi
chúng sanh trong
hằng sa kiếp
cúng dường Phật rồi chẳng
báo đáp được
thiện căn một lần phát tâm của
đức Như Lai.
Huệ Mạng Ma ha Ca Diếp từ
tam muội dậy
tán thán rằng :
“ Mỗi mỗi
Như Lai đấng
Mâu NiPhát tâm rộng lớn hướng
Bồ đềSự
cúng dường Phật các
Tu LaCũng chẳng bằng một phần
Ca LaThế Tôn Ứng Cúng Thầy Trời Người
Như khối
chiên đàn bằng núi chúa
Chỗ
cúng dường thù thắng Trời Người
Do nơi công đức đến
bỉ ngạnĐấng Thầy Trời Người đáng thọ cúng
Hơn số
hằng hà sa đã thọ
Ví như biển cả đầy nước trong
Nước thơm hòa hiệp mà
cúng dườngĐầy đủ
công đức nên thọ cúng
Nhiều hơn cả số
hằng hà saChứa đầy khối hoa mà
cúng dườngDường như núi Chướng Ca
Bà LaTự nhiên Đại Sĩ nên thọ cúng
Ngọn đèn sáng như
núi Tu DiBiển cả dùng làm bình đựng dầu
Đem đèn
cúng dường chư
Thế TônĐấn oai thế nên thọ
cúng dườngNhiều hơn số
hằng hà saTạo lập
tháp miếu mà
cúng dườngDo nơi công đức đến
bỉ ngạnNhơn Thiê
Đạo Sư nên thọ cúng
Đem những lọng báo lớn đẹp lạ
Mỗi lọng che khắp cõi
Đại ThiênTrải suốt
số kiếp na do thaĐấng Thế Tôn thương xót thế gianCông đức vô biên nên thọ cúng
Đem những tràng báo để
cúng dườngĐầy khắp
thế giới trong
mười phươngNơi
số kiếp ức
bất tư nghịĐem phan rộng lớn mà
cúng dườngĐầy
hằng hà sa các
thế giớiTrải qua vô lượng ức kiếp số
Cúng dường Như Lai Thiên Nhơn SưPhát khởi phân biệt làm
thí dụĐại chúng con của
Đại Luận SưLắng nghe lắng nghe các Trời Người
Tôi cùng
mọi người tại chúng nầy
Số đông như số
hằng hà saBao nhiêu
đại chúng ở
mười phươngTất cả đều sẽ được
làm PhậtĐầy đủ
thập lực đại Đạo SưSố chư Phật ấy như
hằng saMỗi mỗi đều có
hằng sa đầu
Nơi mỗi mỗi đầu như
hằng saĐều có đủ cả
hằng sa miệng
Nơi mỗi mỗi
vô lượng miệng ấy
Đều có
vô lượng vô số lưỡi
Dùng lưỡi
ca ngợi nơi
Như LaiChư
Như Lai ấy nói chẳng hết
Công đức bờ kia chẳng đến được
Nhứt thiết
chủng trí chẳng lường được
Do
công đức đến
bỉ ngạn vậy ”.
Đức Thế Tôn bảo các
Tỳ kheo: “
Lành thay,
lành thay ! Nầy chư
Tỳ Kheo ! Chư
Thanh Văn của ta lòng đoan trực có trí có
pháp như Phạm Thiên mới được vào trong biển
công đức của
Phật. Tại sao ? Vì
Như Lai đầy đủ
vô lượng công đức, đầy đủ
công đức chẳng nghĩ bàn. Khối
công đức của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy chư
Tỳ Kheo ! Khối
công đức của
Như Lai nếu là
hình sắc, thì
công đức mỗi mỗi lần
phát tâm ấy,
hằng sa thế giới chẳng dung chứa được? Tại sao ?
Nầy chư
Tỳ Kheo !
Công đức mỗi mỗi lần
phát tâm của
Như Lai là chỗ
phan duyên của
Nhứt thiết trí, như
hằng sa chư Phật, như
hằng sa kiếp, chẳng thể suy lòng chẳng thể nói hết. Tại sao ? Vì lúc
Như Lai tu hạnh
Bồ Tát thuở xưa không một
phát tâm nào là chẳng
vì lợi ích tất cả
chúng sanh, nhiếp thuộc
chúng sanh không một
phát tâm nào là chẳng vì tất cả
chúng sanh,
chúng sanh giới không
biên tế,
chúng sanh trong đó cũng không
biên tế,
công đức mỗi mỗi lần
phát tâm của
Như Lai cũng không
biên tế. Tại sao ? Như
chúng sanh giới không
biên tế, như
chúng sanh giới chẳng lường được, khối
công đức mỗi mỗi lần
phát tâm của
Như Lai chẳng thể
cùng tận, đều vì
thương xót lợi ích an lạc tất cả
chúng sanh mà
phát tâm vậy.
Giả sử tất cả
chúng sanh đều
cúng dường chẳng thể
báo đáp được
công đức một lần phát tâm của
Như Lai. Tại sao ? Vì các
chúng sanh ấy
cúng dường Như Lai đều vì hi vọng
quả báo thế gian tạp thực vậy.
Bồ Tát phát tâm rời lìa nơi tâm tạp thực cầu báo
thế gian mà
vì lợi ích an lạc chúng sanh, muốn khiến
chúng sanh trái
sanh tử mà
xu hướng Niết bàn.
Lúc
Như Lai tu hạnh
Bồ Tát thuở xưa
vì lợi ích an lạc chúng sanh, rời lìa tạp thực chẳng cầu báo
thế gian ”.
Đức Phật bảo chư
Tỳ Kheo ; “ Thuở
quá khứ,
vô lượng vô biên lưu chuyển sanh tử vô số bất khả tư nghì trong vô thỉ
thế giới bất khả thuyết kiếp có
Phật hiệu Nhơn Đà Tràng Vương
xuất thế đủ mười
đức hiệu.
Nầy chư
Tỳ Kheo ! Lúc đức Nhơn Đà Tràng Vương
Như Lai thành Phật,
hằng sa thế giới đồng một
quốc độ trang nghiêm thanh tịnh không có các
ác đạo và
tám nạn,
chúng sanh trong đó đều an trụ
chánh định tụ.
Hoàn toàn không có
chúng sanh tà định,
tăng thượng mạn. Tất cả đều không có
thân nghiệp bất tịnh,
khẩu nghiệp bất tịnh,
ý nghiệp bất tịnh, cũng không có
phiền não ác đạo,
nghiệp ác đạo.
Tại sao ? Vì đức Nhơn Đà Tràng Vương
Như Lai giáo hóa chúng sanh ấy cho họ
phát tâm dứt tất cả ác, đem pháp lành dạy cho họ
tu học.
Trong
quốc độ của đức Nhơn Đà Tràng Vương
Như Lai có năm thứ vui : một là được
dục lạc, hai là được vui
xuất gia, ba là được vui
thiền định, bốn là được vui
tam ma đề, năm là được vui
Vô thượng Bồ đề.
Các
chúng sanh ở
quốc độ ấy dầu
thọ lạc mà chẳng
nhiễm trước , như ong mật chi” lấy mật hoa mà chẳng lấy sắc hoa, như chim bay đi trên không mà chẳng dừng dính
hư không, chúng ấy cũng vậy dầu
thọ lạc mà chẳng nhiễm lạc. Các
chúng sanh ấy không có lo khổ chỉ có
vui sướng, cũng không bất khổ
bất lạc thọ vì không
ngu si vậy, chỉ có sự
vui thích vừa lòng. Tại sao ? Vì các
chúng sanh vốn đã tu căn lành. Do vì
đức Phật ấy lúc tu hạnh
Bồ Tát hiện các
tướng hảo khiến các
chúng sanh ấy chẳng làm ác mà đặt để cho họ
tu tập pháp lành, họ
lần lượt rời lìa
ác đạo ở chỗ lành vui, tất cả thứ
nghiệp bất thiện họ đều không hẳn. Lúc họ tạo
nghiệp lành được
quả báo an vui mà họ chẳng
tham luyến và không bao giờ
sanh khổ thọ, vì chẳng tạo
nghiệp ác nên chẳng thọ quả khổ vậy.Vì không
ngu si nên cũng không bất khổ
bất lạc thọ.
Trong
quốc độ ấy tất cả
thời gian thường không có gió dữ mưa bạo, cũng không có độc nhiệt,
chúng sanh cõi ấy không có khổ vì
thời tiết thay đổi.
Lúc đức Nhơn Đà Tràng Vương
Như Lai tu hạnh
Bồ Tát, tất cả
thân nghiệp trí
thượng thủ trí
thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả
khẩu nghiệp trí
thượng thủ trí
thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả
ý nghiệp trí
thượng thủ tri
thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả
chúng sanh trong
quốc độ ấy theo
Bồ Tát nghe pháp rồi tất cả
ba nghiệp thân khẩu ý nghiệp trí thượng thủ trí
thuận chuyển hồi hướng.
Do nơi nghiệp lành nên báo
ngu si chẳng sanh. Do vì không
ngu si nên
chúng sanh ấy không có
khổ thọ và bất khổ
bất lạc thọ. Các
chúng sanh ấy lúc sanh
quốc độ kia, đức Nhơn Đà Tràng Vương
Như Lai giáo hóa rồi, họ
kính trọng nơi pháp, nếu lúc
du hành họ suy lường nơi pháp yêu thích nơi pháp
nhiễm trước nơi pháp. Lúc
du hành do họ yêu thích
nhiễm trước nơi
pháp không có
khổ thọ, đi đứng ngồi
nằm ngủ thức đều không có một chút khổ về
oai nghi. Các
chúng sanh trong
quốc độ ấy không có ác để
thuận theo. Do vì không ác nên không có khổ sanh và
không chấp nơi lành. Do cớ ấy nên các
chúng sanh kia khéo thuận nơi không mà không có
biến dịch khổ. Ở trong các pháp chẳng sanh
tham trước nên chẳng có
hoại khổ.
Quốc độ ấy cũng không có hoán tắng hội khổ. Tại sao ? Vì các
chúng sanh ấy ở trong tất cả
chúng sanh được
tâm an trụ bình đẳng hiện tiền nên không có oán tắng. Cũng không có
ái biệt ly khổ. Tại sao ? Vì các
chúng sanh ấy không
ái trước tất cả pháp. Khổ ái
biệt ly do nơi ái mà sanh.
Chúng sanh ấy không
ái nhiễm nên không có
ái biệt ly khổ. Cũng không có
khổ khổ. Tại sao ? Vì đối với
lạc thọ chẳng
luyến trước vậy.Chỉ có
hành khổ thôi, đó là
vô thường khổ. Tại sao ?
Đức Phật ấy chỉ nói
đệ nhứt nghĩa đế.
Đức Phật thọ
hằng sa kiếp. Trong
Phật độ ấy không có một
chúng sanh nào
tranh luận với Phật mà sanh trong cõi ấy. Tại sao ? Vì lúc làm
Bồ Tát đã
thành thục xong
chúng sanh vậy”.
Đức Phật bảo các
Tỳ Kheo rằng : “ Nầy chư
Tỳ Kheo ! Ý các ông thế nào ? Có thể dùng hạ
thiện căn, ít
thiện căn những
thiện cănChẳng tập giỏi, những
thiện căn chẳng
tương ưng,
thiện căn chẳng phải đại
tinh tấn,
thiện căn chẳng phải
thiện thú, chẳng phải
thiện pháp, chẳng phải thiện
hồi hướng mà có hể làm
lợi ích các
chúng sanh ấy hay ban vui trừ khổ ư ? Có thể
nghiêm tịnh quốc độ quảng đại ấy ư ? Có thể
thành thục nhiều
chúng sanh như vậy ư ? ” .
Chư
Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ” .
Đức Phật lại bảo các
Tỳ Kheo rằng :” Ý các ông thế nào ? Có thể dùng tâm
hạ liệt, tâm khiếp nhược, tâm
tương ưng bất thiện, tâm chẳng phải
tinh tấn, tâm chẳng phải khéo tập
thiện căn, tâm chẳng phải
thiện thú, tâm chẳng phải
thiện pháp, tâm chẳng phải thiện
hồi hướng mà làm
lợi ích an lạc được các
chúng sanh ấy, ban vui
cứu khổ được và
nghiêm tịnh được
Phật độ quảng đại như vậy,
thành thục được nhiều chúng snh như vậy chăng ? ”.
Chư
Tỳ Kheo bach rằng : “ Chẳng thể được ”.
Đức Phật lại bảo các
Tỳ Kheo rằng :” Ý các ông thế nào ? có thể dùng tin
hạ liệt, tin ít, tin kém, tin khiếp nhược, tin
tương ưng bất thiện, tin chẳng phải
tinh tấn, tin chẳng phải khéo tập
thiện căn, tin chẳng phải
thiện thú, tin chẳng phải
thiện pháp, tin chẳng phải thiện
hồi hướng mà lợi được các
chúng sanh ấy, có thể ban vui
cứu khổ được và
nghiêm tịnh được
Phật độ quảng đai như vậy,
thành thục được nhiều
chúng sanh như vậy chăng?”.
Chư
Tỳ Kheo bạch Phật rằng :” Chẳng thể được ”.
Đức Phật lại bảo các
Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng giới
hạ liệt, giới ít, giới kém, giới chẳng phải
tinh tấn, giới chẳng phải khéo tập
thiện căn, giới chẳng phải
thiện thú, giới chẳng phải
thiện pháp, giới chẳng phải thiện
hồi hướng mà
lợi ích được các
chúng sanh ấy, có thể ban vui
cứu khổ dược và
nghiêm tịnh được
Phật độ quảng đại như vậy,
thành thục được nhiều
chúng sanh như vậy chăng ?” .
Chư
Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được”.
Đức Phật lại bảo các
Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng
tinh tấn hạ liệt ,
tinh tấn ít,
tinh tấn kém,
tinh tấn khiếp nhược,
tinh tấn chẳng
tương ưng,
tinh tấn chẳng phải
tinh tấn,
tinh tấn chẳng phải khéo tập
thiện căn,
tinh tấn chẳng phải
thiện thú,
thiện pháp, thiện
hồi hướng mà
lợi ích được
Các
chúng sanh ấy, có thể ban vui
cứu khổ được và
nghiêm tịnh được
Phật độ quảng đại như vậy,
thành thục được nhiều
chúng sanh như vậy chăng ?”.
Chư
Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể dược ”.
Đức Phật lại bảo các
Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng niệm
hạ liệt, niệm ít, niệm kém , niệm khiếp nhược, niệm chẳng
tương ưng thiện căn, niệm chẳng
tinh tấn, niệm chẳng khéo tập
thiện căn , niệm chẳng phải
thiện thú, thiện phát thiện
hồi hướng mà
lợi ích được các
chúng sanh ấy, có thể ban vui
cứu khổ được và
nghiêm tịnh được
Phật độ quảng đại như vậy,
thành thục được nhiều
chúng sanh như vậy chăng ? ”.
Chư
Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.
Đức Phật lại bảo các
Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng định
hạ liệt, định ít, định kém, định khiếp nhuợc, định chẳng
tương ưng thiện căn, định chẳng
tinh tấn, định chẳng khéo tập
thiện căn, định chẳng
thiện thú, thiện phát, thiện
hồi hướng, mà
lợi ích được các
chúng sanh ấy, có thể ban vui
cứu khổ và
nghiêm tịnh được
quốc độ quảng đại ấy,
thành thục được nhiều
chúng sanh như vậy chăng ? ”.
Chư
Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.
Đức Phật lại bảo các
Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng huệ
hạ liệt,huệ ít, huệ kém, huệ khiếp nhược, huệ chẳng
tương ưng thiện căn, huệ chẳng
tinh tấn, huệ chẳng khéo tập
thiện căn, huệ chẳng
thiện thú,
thiện pháp, thiện
hồi hướng mà
lợi ích được các
chúng sanh ấy, có thể ban vui
cứu khổ và
nghiêm tịnh được
Phật độ quảng đại ấy,
thành thục được nhiều
chúng sanh như vậy chăng ?”.
Chư
Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.
Đức Phật bảo các
Tỳ Kheo rằng : “Đúng như vậy. Nầy các
Tỳ Kheo ! Thiệt chẳng phải dùng ít
thiện căn , ít giới, ít tín, ít
tinh tấn, ít niệm, ít định, ít huệ mà có thể lợi ít được các
chúng sanh, và có thể ban vui
cứu khổ,
nghiêm tịnh được
Phật độ quảng đại,
thành thục, được nhiều
chúng sanh như vậy.
Nầy chư
Tỳ kheo ! Ý các ông thế nào ? Các ông có biết
đức Phật Nhơn Đà Tràng Vương thuở
quá khứ xa xưa ấy là ai chăng ? ”.
Đức Phật hỏi rồi mà chư
Tỳ Kheo đều nín lặng chẳng đáp.
Đương
lúc ấy, phương Đông quá
hằng sa thế giới tên
Nguyệt Quang Trang Nghiêm,
hiện tại có
Phật hiệu Cao
Oai Đức Vương
Như Lai.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở tại
chúng hội ấy biết
tâm niệm của Phật
Thích ca Mâu Ni liền bạch đức Cao
Oai Đức Vương
Như Lai rằng : “ Bạch đức Thế Tôn! Nay Phật
Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp tại thế giới
Ta Bà. Tôi qua đó
đảnh lễ cúng dường cung kính nghe pháp ”. Đức Cao
Oai Đức Vương
Như Lai nói với
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng : “Ông đi
tùy ý, nay đã phải lúc ”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đầu diện lễ đức Cao
Oai Đức Vương
Như Lai đi
nhiễu Phật ba vòng rồi như
thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ cõi
Nguyệt Quang Trang Nghiêm hiện ra trước đức
Thích Ca mâu Ni Như Lai lạy
chân Phật rồi ngồi một bên mà bạch rằng : “ Bạch
Thế Tôn ! Đức Nhơn Đà Tràng Vương
Như Lai thuở xưa ấy tức là
Thế Tôn vậy. Tại sao ? Do
đức Thế Tôn đầy đủ bất tư nghì các thiện
phương tiện có thể
thành thục chúng sanh và
nghiêm tịnh Phật độ luôn chẳng mỏi mệt cũng chẳng chán nhàm.
Đức Thế Tôn an trí chúng sanh nơi
Bồ Tát thừa cũng chẳng mỏi nhàm. Nếu có người chơn thiệt ngữ nói lời
chánh đáng rằng :
Thù thắng trong
thù thắng,
vi diệu trong
vi diệu,
thượng thủ trong
thượng thủ,
tối thắng trong
tối thắng, nói
đức Phật là như vậy, thì nên biết rằng
Thích Ca Mâu Ni chơn thiệt không khác ”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói kệ rằng :
“ Hùng mãnh xảo
phương tiệnThương xót các
thế gianHiện đại oai thần lực
Để
thành thục chúng sanhĐã ở thuở
quá khứTừng làm tám ức Phật
Như tự có
thần lựcVô tâm chứng
chánh giácSáu mươi một
Tam ThiênThanh tịnh quốc độ Phật
Trí cạn chẳng biết Phật
Mâu Ni xảo
phương tiệnChẳng bỏ
sơ phát tâmCác nơi chỗ kia hiện
Lại ở đời
vị laiThị hiện vô lượng Phật ”.