KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
07. Phẩm Thi La Ba La Mật
Thứ Bẩy
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất ! « Thế nào là
Thi la Ba la mật đa của
đại Bồ Tát mà
đại Bồ Tát vì
Vô thượng Bồ đề y theo pháp ấy siêng tu
Bồ Tát đạo ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì thật hành
Thi la Ba la mật mà
đại Bồ Tát có ba thứ
diệu hạnh, đó là
thân diệu hạnh,
ngữ diệu hạnh và
ý diệu hạnh.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Những gì gọi là
thân diệu hạnh,
ngữ diệu hạnh và
ý diệu hạnh ?
Đại Bồ Tát rời xa
sát sanh, trộm cướp và
tà hạnh, đây gọi là
thân diệu hạnh.
Đại Bồ Tát rời xa
vọng ngữ,
ly gián,
ác ngữ và
ỷ ngữ, đây gọi là
ngữ diệu hạnh.
Đại Bồ Tát không có thâm trước, giận hờn và
tà kiến, đây gọi là
ý diệu hạnh.
Đại Bồ Tát có đủ ba thứ
diệu hạnh ấy thì gọi là
Thi la Ba la mật đa.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật đa,
đại Bồ Tát suy nghĩ rằng thế nào là
thân diệu hạnh,
ngữ diệu hạnh và
ý diệu hạnh ?
Đại Bồ Tát suy nghĩ rằng nếu thân chẳng làm việc
sát sanh, chẳng làm việc trộm cướp, chẳng làm việc
tà hạnh thì gọi là
thân diệu hạnh. Nếu miệng chẳng nói lời
vọng ngữ,
ly gián, thô ác,
ỷ ngữ thì gọi là
ngữ diệu hạnh. Nếu ý chẳng có
tham trước, giận hờn,
tà kiến thì gọi là
ý diệu hạnh.
Do có đủ những
chánh tư duy như vậy nên gọi là
đại Bồ Tát hành
Thi la Ba la mật đa.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật đa,
đại Bồ Tát suy nghĩ rằng nếu nghiệp chẳng do thân ngữ ý gây tạo thì có thể
kiến lập nghiệp ấy được chăng ?
Đại Bồ Tát đúng như lý
quan niệm rằng nếu nghiệp chẳng do thân ngữ ý gây tạo thì chẳng
kiến lập được hoặc xanh hoặc vàng hoặc đỏ hoặc trắng hoặc hồng hoặc màu
pha lê, nghiệp ấy lại chẳng phải mắt thấy được, chẳng phải tai
nghe được cũng chẳng phải mũi lưỡi thân và ý biết được. Tại sao ? Vì nghiệp ấy chẳng phải năng sanh, chẳng phải sở sanh, chẳng phải đã sanh, chẳng
chấp thọ được, đều không có ai biết rõ được nghiệp ấy.
Đại Bồ Tát suy biết tánh
Thi la ấy chẳng thể làm được. Đã chẳng thể làm được thì chẳng thể
kiến lập được, đã chẳng
kiến lập được thì ở trong ấy
chúng ta chẳng nên
chấp trước.
Do sức
quan sát hiểu biết như vậy,
đại Bồ Tát chẳng thấy
diệu hạnh và
Thi la, cũng chẳng thấy người có đủ
Thi la, chẳng thấy chỗ
hồi hướng của
Thi la.
Thấy hiểu như vậy rồi,
đại Bồ Tát chẳng
phát khởi chấp
lấy có thân. Tại sao? Vì có thấy có thân thì có
quan niệm đây là
trì giới, đây là
phạm giới rồi
giữ gìn giới luật và
oai nghi, hoặc hành động, hoặc
cảnh duyên, đều đủ có thấy biết chơn chánh mà hành động. Vì biết và làm chơn chánh nên gọi là người
trì giới.
Đại Bồ Tát chẳng nắm lấy mình chẳng nắm lấy người mà thật hành các việc. Chẳng bỏ
Thi la cũng chẳng nắm lấy
Thi la mà thật hành các việc. Nếu nắm lấy ngã thì lấy
Thi la. Nếu chẳng lấy ngã thì chẳng lấy
Thi la bất khả đắc thì chẳng hủy phạm tất cả
luật nghi. Nơi
luật nghi nếu chẳng hủy phạm thì chẳng gọi là hủy phạm
Thi la, cũng chẳng gọi là nắm lấy
Thi la.
Nầy
Xá Lợi Phất! Do
nhơn duyên gì mà ở nơi
Thi la chẳng nắm lấy? Đó là biết tất cả pháp là tướng
nhơn duyên. Đã là tướng
nhơn duyên thì không có ngã. Ngã đã không thì nắm lấy chỗ nào?”
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Nếu có thân ngữ
ý thanh tịnh
Lúc làm thường tu hạnh
thanh tịnhThường ở trong
cấm giới thanh tịnhGọi là
Bồ Tát đủ
Thi laChư
Bồ Tát Hiền Thánh trí huệKhéo hay
hộ trì mười nghiệp lànhChẳng do thân ngữ và ý làm
Đây là
Thi la bực trí nói
Nếu chẳng tạo tác chẳng phải sanh
Chẳng
chấp thọ không hình không hiển
Vì không có hình không
hiển sắcNên chưa từng được để
kiến lậpThi la vô vi cũng
vô tácChẳng phải mắt tai thấy
nghe đượcChẳng phải mũi lưỡi chẳng phải thân
Chẳng phải tâm ý hay biết được
Nếu chẳng phải sáu căn hay biết
Thì không có ai thi thiết được
Quan sát Thi la thanh tịnh ấy
Chưa từng nương nắm ở
Thi laChẳng cậy
trì giới sanh
kiêu mạnChẳn thấy có ngã gìn
Thi laKhéo giữ
Thi la không chấp giới
Đầy đủ
Thi la tu quán hạnh
Hư vọng thấy thân đã trừ bỏ
Bị thấy hay thấy đều không có
Không có hay thấy không chỗ thấy
Chẳng thấy
trì giới và
pháp giớiKhéo vào
diệu lý pháp không hộ
Đầy đủ
oai nghi chẳng nghĩ bàn
Hay
thủ hộ diệu thiện chánh tri
Ngoài đây không ai đủ giới được
Người không thấy
ngã không Thi laKhông
ngã sở y hay
y giớiPhật nói
rốt ráo thường
vô úyChẳng chấp thân ngã và
Thi laNgười nói
vô ngã chẳng nắm giới
Người nói
vô ngã chẳng nương giới
Người nói
vô ngã chẳng cầu giới
Người nói
vô ngã giới
vô tâmChẳng phá
Thi la chẳng nắm giới
Cũng chẳng
chấp ngã giữ
Thi laKhông tưởng có ngã và
luật nghiLà hạnh
Bồ đề bực
đại tríThi la như vậy
vô sở úy
Người nầy thường chẳng phạm
Thi laNếu hay chẳng
chấp có các pháp
Thi la như vậy được thánh khen
Các
ngu phu thường thấy có ngã
Thấy ta đủ giới hay
trì giớiHọ hưởng quả
trì giới mãn rồi
Thường bị sa đọa ba
ác đạoNếu người dứt hẳn các
ngã kiếnHọ không có
ngã không ngã sởLà chơn
trì giới vì
không chấpKhông còn lo sợ đọa
ác đạoNếu người biết được
giới hạnh ấy
Không ai thấy được phạm
Thi laCòn chẳng thấy ngã và
ba cõiHuống thấy
trì giới và
pháp giới.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thật hành
Thi la Ba la mật đa như vậy, lúc
đại Bồ Tát thật hành
Bồ Tát hạnh giới thanh tịnh, có đủ mười thứ cực trọng
thâm tâm :
Một là
phát khởi thâm tâm kính phụng các
công hạnh.
Hai là
phát khởi thâm tâm càng thêm
tinh tấn.
Ba là phấn khởi
ưa thích Phật
chánh pháp.
Bốn là rộng đủ và sùng trọng tất cả
nghiệp lành.
Năm là sâu tín và
tôn trọng tất cả
quả báo.
Sáu là đối với
chư Hiền Thánh sanh lòng kính ngưỡng
Bảy là đối với
Hòa Thượng và
A Xà Lê thì
thanh tịnh thị phụng.
Tám là thường
cúng dường các bực
Hiền Thánh.
Chín là
cố gắng cầu thỉnh chánh pháp.
Mười là lúc cầu
Bồ đề chẳng kể
thân mạng.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát an trụ
thâm tâm cực trọng ấy mà
tu tập pháp lành. Những gì là pháp lành ? Đó là ba
diệu hạnh :
Thân diệu hạnh,
ngữ diệu hạnh và
ý diệu hạnh.
Đại Bồ Tát an trụ ba
diệu hạnh ấy là vì muốn
cần cầu pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng. Tại sao ? Vì
chư đại Bồ Tát y pháp môn ấy thì có thể đến
Vô thượng Bồ đề vậy”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Do thân mà
phát khởiNghiệp lành được Phật khen
Vì được nghe
chánh phápCúng dường chư Hiền Thánh
Nơi pháp và Thánh Nhơn
Sốt sắn thường kính thờ
Vì lợi ích chúng sanhTâm từ chẳng
ganh ghétNên nói lời người trí
Chớ nói lời khó ưa
Vui vẻ nói
dịu dàngPhát ngôn không thô độc
Ý tưởng thường là lành
Không hề nghĩ điều ác
Cung kính giữ
tâm từNơi
thánh giáo Như LaiLòng kính vâng
nghe phápMau
giác ngộ Bồ đề.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi Ba la mật đa, vì
đại Bồ Tát an trụ mười pháp
thù thắng thâm tâm cực trọng ấy mà
cần cầu pháp môn đại Bồ Tát tạng nên đối với
chư Hiền Thánh và tất cả
Sư Trưởng càng thêm
cung kính thờ phụng cúng dường, nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Lại nầy Xá Lơị Phất! Lúc thật hành
Thi Ba la mật đa,
đại Bồ Tát phải có đủ mười thứ
phát tâm. Những gì là mười?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát quan sát thân thể nầy là
rắn độc luôn trái hại nhau, nhiều khổ nhiều hoạn,
điên cuồng ghẻ lác, bịnh phong bịnh nhiệt, bịnh hàn bịnh đàm, là chỗ họp các bịnh tật.
Thân thể này lại như mụt nhọt mụt ung, như bị tên đâm, như dòng nước xiết, như kẻ xắt thịt, luôn
dao động chẳng dừng mau sanh chóng diệt.
Thân thể nầy lại
hư ngụy, yều gầy
già nua mau chết, dầu tạm thời còn mà khó ưa được như trong huyệt mả.
Đại Bồ Tát lại
quan niệm: Thân tật bịnh nầy của ta dầu
trải qua nhiều khổ hoạn mà chưa từng gặp
phước điền, nay ta được gặp, ta phải nương theo các
phước điền để nuôi lớn
huệ mạng, bỏ thân chẳng bền, được thân
kiên cố. Vì muốn
cần cầu pháp môn đại Bồ Tát tạng
vi diệu nên đối với
chư Hiền Thánh và
Hòa Thượng,
A Xà Lê thường
phụng thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát tâm thứ nhứt”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Ổ
rắn độc tụ họpXoay vần nương gá nhau
Một thứ tăng động lên
Thì gây nên khổ lớn
Nào là mắt tai mũi
Lưỡi răng các tạng phủ
Bao nhiêu bịnh
đau khổĐều do
thân thể sanh
Ghẻ nhọt cùng khùng điên
Ung thư và cùi hủi
Dịch lệ các bịnh dữ
Đều do thân phát sanh
Thân nầy nhiều bịnh hoạn
Như nhọt như trúng tên
Thân độc hại như vậy
Tạm còn rồi mau rã
Như đến trong gò mả
Đều là cảnh
vô thườngThân hư mục động dao
Nhiều bịnh mau
sanh diệtTa phải
tu thân Phật
Nhơn nơi nghiệp chánh lành
Đem thân hư mục nầy
Già suy mau chết mất
Chuyển
thành thân Như LaiVà
pháp thân Vô thượngĐem thân hư mục nầy
Luôn chảy nước thúi hôi
Đổi lấy thân
trong sạchKhông dơ không hôi thúi
Nếu người sợ lạnh nóng
Che ngăn
phòng ngừa kỹ
Rồi cũng bị bịnh tật
Già chết đồng bức hại
Nếu đem thân lạnh nóng
Chịu đựng tu
nghiệp lànhTrang nghiêm hạnh
trượng phuMau
thành thân Vô thượngĐem thân siêng
cúng dườngCác
Thánh Hiền Tôn SưChuyển thân mỏng manh nầy
Thành thân thiệt bền chắc.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật,
đại Bồ Tát phát tâm thứ nhứt như vậy để
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, đối với
thuyết pháp sư càng thêm kính thờ cùng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật,
đại Bồ Tát nghĩ rằng
thân thể chẳng bền, phải nhờ
che đậy rửa ráy kỳ cọ mà rồi
rốt cuộc vẫn hư rã.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Ví như thợ gốm nắn nung đồ sành hoặc lớn hoặc nhỏ
rốt cuộc rồi vẫn hư bể.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thân chẳng bền chắc rồi sẽ hư rã như những đồ sành ấy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Như những lá bông trái nương trên nhánh cây rồi sẽ rơi rụng.
Cũng vậy, thân nầy chẳng bền rồi cũng sẽ chết mất chẳng lâu.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Như giọt sương đọng đầu cỏ bị
ánh nắng chiếu đến tất cả chẳng còn.
Cũng vậy, thân nầy chẳng bền chẳng lâu như sương đầu cỏ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Như giọt nước trong biển sông mềm yếu mỏng manh mau tan mau rã.
Cũng vậy, thân nầy chẳng chắc tánh chất mỏng manh như bọt nước.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Như bóng nước nổi lên khi mưa lớn, nổi mau tan cũng mau.
Cũng vậy, thân nầy chẳng bền tánh chất mỏng nhẹ mau sanh mau diệt.
Nầy Xá Lơị Phất!
Đại Bồ Tát quan sát kỹ
thân thể mình thấy biết như vậy rồi, lại nghĩ rằng ta từ lâu thọ lấy
thân thể chẳng chắc bền như
vậy mà chưa gặp được
phước điền, nay được gặp ta phải nương theo
phước điền để nuôi lớn
huệ mạng, đem thân chẳng bền đổi lấy thân bền chắc. Vì muốn
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư kính
thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ đựng nước.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát tâm thứ hai”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Như người thợ gốm kia
Nắn đất làm đồ sành
Đều rồi sẽ hư bể
Mạng sống người cũng vậy
Như những lá hoa trái
Nương mọc trên nhánh cây
Rồi sẽ rơi rụng hết
Mạng sống người cũng vậy
Như giọt sương đầu cỏ
Bị
ánh nắng chiếu soi
Giây lát rồi tan biến
Mạng sống người cũng vậy
Như bọt nổi mặt nước
Tánh nọ vốn mỏng manh
Thân nầy chẳng chắc bền
Hư nổi cũng như vậy
Như trời mưa lớn xuống
Mặt nước nổi
bong bóngGiây phút đều tan rã
Thân chẳng bền cũng vậy
Chẳng bền cho là bền
Còn bền cho chẳng bền
Vì
nghĩ tưởng sai lầmChẳng chứng được bền chắc
Nơi bền biết là bền
Chẳng bền biết chẳng bền
Hiểu biết chơn chánh đúng
Chứng được thân bền chắc
Vì tu
trí huệ thiệt
Thí đồ nhỏ đựng nước
Nên đem thân chẳng bền
Đổi lấy thân bền chắc.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật đa,
đại Bồ Tát phát tâm thứ hai như vậy. Vì muốn
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư càng thêm kính
thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật đa,
đại Bồ Tát phát tâm như vầy:
Từ lâu ta rời xa
thiện hữu,
bị nạn ác rủ ren nên lười biếng chẳng siêng tu,
ngu độn hạ liệt nhiều
tà kiến ác kiến, không
bố thí không tạo phước không làm lành thêm lớn các
nghiệp quả báo.
Lại nghĩ rằng ta bị
tham dục làm mê nên
mãi mãi lưu chuyển gây tạo các
nghiệp ác, do
nghiệp ác ấy mà cảm lấy thân quỷ xấu dơ, thiếu đồ
cần dùng không có
phước điền tối thắng. Ta lại từng sanh trong
ngạ quỷ luôn ăn tro than trong
vô lượng năm, lại trong trăm ngàn năm chẳng nghe tên nước huống là được uống được dùng.
Lại nghĩ rằng nay ta gặp được
phước điền tối thắng lại cảm được thân lành nầy có nhiều đồ
cần dùng, ta phải nương
phước điền mà tu
nghiệp lành chẳng kể
thân mạng, kính thờ các bực
Sư Trưởng,
Hòa Thượng,
A Xà Lê. Vì muốn
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư
phụng thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát tâm thứ ba”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Thường thân cận kính thờ
Thiện tri thức như vậy
Thì được thành tánh ấy
Nên phải luôn gần gũi
Vì kề cận bạn xấu
Rời xa bạn
hiền lànhNên lười biếng
buông lungGhét ganh
bỏn xẻn nịnh
Tà kiến không
bố thíBác bỏ tất cả lành
Ta từng sanh loài quỷ
Thọ
thân hình tệ xấu
Ở
sanh tử lâu ngày
Trong
tối tăm đáng sợĐói khát đốt
khổ nãoChịu rất nhiều khổ sở
Trong nhiều trăm ngàn năm
Chưa
nghe được tên nước
Chẳng thấy được
phước điềnChẳng
thoát khỏi nạn ấy
Nay ta được thân lành
Khó được ở
thế gianLại gặp được hiền minh
Đầy đủ khỏi các nạn
Lại rời xa bạn ác
Gặp được bạn
hiền lànhThề chẳng kể
thân mạngĐể được chứng
Bồ đềDùng tâm lành
thanh tịnhCung phụng bực
Tôn SưCũng sẽ
cúng dường PhậtĐể được chứng
Bồ đề.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật đa,
đại Bồ Tát pháp tâm thứ ba rồi, vì
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư càng thêm kính thờ nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật đa,
đại Bồ Tát phát tâm như vầy:
Từ lâu ta rời xa bạn lành gần gũi bạn xấu nên biếng lười
phóng túng siêng làm việc quấy,
ngu si vô trí, lúc thấy có
chúng sanh khổ não kêu khóc, lại dùng tay đánh đập
não hại. Do đó lại sanh nhiều
ác kiến cho rằng không có
nghiệp ác báo ác.
Lại do giận hờn mê lòng nên gây tạo nhiều
nghiệp ác, do
nghiệp ác ấy
cảm thọ thân
súc sanh xấu dơ, thiếu đồ
cần dùng lại không có tất cả
phước điền tối thắng.
Bồ Tát nghĩ rằng lúc ta ở trong loài
súc sanh, hoặc làm lạc đà hoặc làm bò lừa ăn cỏ rác, thêm bị
la mắng đánh đập
đe dọa bắt buộc mang nặng đi xa.
Lại nghĩ rằng
thuở trước dầu bị khổ nhiều mà chẳng gặp được
phước điền, nay ta được gặp, lại được thân lành nầy, ta nên nương
phước điền để tu
nghiệp lành, chẳng kể
thân mạng, kính thờ
Sư Trưởng, đem thân chẳng bền đổi thân bền chắc. Vì muốn
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư kính
thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát tâm thứ tư”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Từ lâu
thuở trước kia
Chưa biết
lên đường thánh
Đọa loài đà bò lừa
Chịu nhiều điều khổ cực
Nay ta được thân người Phải tu nghiệp hiền thiện
Để được chứng
Bồ đềĐó là
tướng trí huệ
Ta phải nên
cung kínhKiến lập các
Phật phápThờ cúng thuyết pháp sư
Để được
đại Bồ đềQuá khứ nan tư kiếp
Vòng quanh trong
sanh tửLại qua mãi
vô íchKhông
phước điền nuôi mạng
Rời xa bạn thầy lành
Thường gần các bạn xấu
Nghe lời họ khuyến dụ
Luôn đọa các
ác đạoĐối với loài
bàng sanhCột nhốt đánh mắng chúng
Do các
nghiệp ác ấy
Chịu lấy quả khổ cực
Làm lạc đà bò lừa
Mang nặng thêm bị đánh
Vì chẳng gần bạn lành
Nay ta được thân người
Và bạn
thiện tri thứcĐã được sanh
thiện đạoLại được khỏi các nạn
Như rùa đui đáy biển
Mừng gặp bộng cây trôi
Khéo
giữ gìn thân khẩu
Tâm
tinh tấn cường thạnh
Thờ
thiện hữu không dua
Nuôi lớn thân
huệ mạngNếu có bực
Tôn SưKhai phát
huệ mạng ta
Hay giảng nói
diệu phápThẳng đến đường
Bồ đềCúng dường chư
Như LaiNhững
hương hoa hương bột
Y phục và
tràng hoaTa phải thường thờ kính
Hiện tại thập phương Phật
Thường khai thị
thắng nghĩaĐấng
kim sắc vô biênPhải kính
thờ cúng dường
Đi khắp các
quốc độCúng dường Điều Ngự SưVì
thanh tịnh giác đạoSẽ thăng tòa
đại giác.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật,
đại Bồ Tát phát tâm thứ tư ấy rồi, vì muốn
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với
pháp sư càng thêm vâng
thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật,
đại Bồ Tát phát tâm như vầy :
Thuở trước vì ta rời xa
thiện hữu gần gũi
ác hữu nên lười biếng
phóng túng vô trí ngu si siêng làm những điều
hạ liệt. Vọng nghĩ rằng đem thịt của tất cả
hữu tình nấu chung một nồi, xắt chung làm gỏi,
việc làm ấy chẳng phải tội, chẳng bị
ác báo, chẳng sanh
ác đạo. Vì
ác kiến nên nghĩ rằng
bố thí cho tất cả
hữu tình được
sung túc,
việc làm ấy chẳng gọi là phước, chẳng được phước báu, chẳng sanh nơi phước. Lại vì
ác kiến nên cho rằng dầu giết hại tất cả
hữu tình cũng chẳng bị
ác báo chẳng sanh
ác đạo.
Bồ Tát nghĩ rằng
thuở trước ta làm những việc ấy mà chẳng biết được là tội chẳng tội, là phước chẳng phước, quen gần bạn ác
ngu si vô trí gây nhiều
nghiệp ác, do đó bị đọa vào
địa ngục cảm lấy thân tệ hạ xấu dơ, hoặc nuốt hòn sắt đỏ, hoặc bị cưa xẻ, chịu
khổ không hở đến nhiều trăm ngàn năm, chẳng hề được nghe sự vui huống là được hưởng.
Bồ Tát laị nghĩ rằng
thuở trước dầu ta
trải qua nhiều
đau khổ như
vậy mà vẫn chẳng gặp được
phước điền. Nay ta được gặp
phước điền lại cảm được thân người, ta phải nương
phước điền nuôi lớn
huệ mạng, đem thân chẳng bền đổi thân bền chắc,
phụng thờ Sư Trưởng chẳng kể
thân mạng. Vì
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát Tạng nên đối với
thuyết pháp sư vâng
thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát tâm thứ năm ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
« Xưa ta gần bạn ác
Bị tâm ác
mê hoặcNương theo các
ác kiếnGây tạo các
nghiệp ácKhắp biển cả
đất liềnBố thí no đủ cả
Cho rằng chẳng được phước
Khắp biển cả
đất liềnCó bao nhiêu
chúng sanhTa đều giết hại cả
Cho rằng chẳng có tội
Luôn gần kề tập quen
Các
ác kiến như vậy
Đọa
địa ngục tột khổ
Ép dẹp cả đầu mình
Xưa ở các
ác đạoLuống thọ trăm ngàn thân
Chưa hề thấy chư Phật
Đấng
Đạo Sư thế gianThiện tri thức trong đờiTiếng ấy còn khó nghe
Ta may được thân người
Phải tu nghiệp hiền thiện
Được thân người rất khó
Sống lâu cũng là khó
Nghe
chánh pháp càng khó
Phật
xuất thế khó hơn
Ta đã được thân người
Cảm mạng sống mỏng manh
Gặp được Phật ra đời
Dự
chánh giáo Như LaiTa chẳng còn nên làm
Nghiệp ác thân khẩu ýChớ để
đời sau nầy
Thọ
quả báo khổ cực
Ta phải dùng
tịnh tâmTu tập nghiệp
thanh tịnhDo thân ngữ và ý
Làm
việc đời khó làm
Ta trọn chẳng
sai tráiChánh giáo của
Tôn SưLại phải siêng
cúng dườngVì cầu
Bồ đề Phật
Do ta chẳng du dối
Không có lòng ảo ngụy
Nên mở đường thẳng dài
Cầu
Phật đạo vô thượngĐại Bồ Tát vô úyĐã
phát tâm như vậy
Cúng dường đồ đựng nước
Phương tiện huệ đầy đủ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật,
đại Bồ Tát phát tâm thứ năm rồi, vì muốn
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư càng thêm kính thờ nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật,
đại Bồ Tát phát tâm như vầy :
Từ lâu tôi rời xa
thiện hữu gần kề
ác hữu nên lười biếng
phóng túng siêng làm việc
hạ liệt,
ngu si vô trí. Do đó mà vọng bỏ những sự
tiếp rước cúi mình
lễ lạy chắp tay thăm hỏi các
nghiệp báo lành. Vì lòng khinh mạn
mê hoặc nên gây tạo
nghiệp ác. Do
nghiệp báo ác nên ở nơi các
phước điền chưa từng nuôi lớn
huệ mạng thanh tịnh. Lại nghĩ rằng ta nhơ thuở xưa
cảm thọ thân
côi cút nghèo cùng hạ tiện làm tôi tớ cho người khác. Ta lại thọ lấy thân người
đam mê sắc dục,
đam mê tất cả tướng
sắc dục, ở trong số
ác nghiệp bất
bình đẳng,
sanh khởi nhiều thứ
tà kiến,
phá hư Thi la,
phá hư chánh kiến. An trụ trong ba thứ căn
bất thiện, an trụ trong bốn thứ chẳng nên hành động, bị
ngũ cái trum đậy, chẳng có lòng
cung kính đối với sáu ngôi
tôn trọng, chưa chuyển theo
bảy giác chi,
quyết định hành động trong tám tánh tà, bị chín thứ
não hại làm tổn não, thường noi đi trên mười đường
ác nghiệp, luôn hướng mặt về phía
nghiệp báo địa ngục mà day lưng về phía
nghiệp báo trời, rời xa tất cả
thiện tri thức, bị
lệ thuộc nơi các
ác hữu,
tự tại đi theo ma oán xa các pháp lành mà làm tất cả pháp
bất thiện, lại còn bị đánh đập mắng la
ép buộc phục dịch cung cấp cho kẻ khác.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng thuở xưa vì ta chưa gặp được
phước điền nên nhận lãnh điều ác. Nay ta được gặp
phước điền lại
cảm thọ thân người lành tốt nầy, ta phải nương theo các
phước điền, đem thân chẳng bền đổi thân bền chắc, nuôi lớn
huệ mạng,
phụng thờ Sư Trưởng chẳng kể
thân mạng. Vì
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư thờ kính
cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát tâm thứ sáu ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
« Gần kề
ác hữu thêm kiêu mạng
Trải qua vô lượng kiếp quá khứTrong người thọ
sanh thân nô tỳ
Lăn trôi mãi trong dòng
sanh tửNay ta đã được thân khó được
Báo người lành tốt mạnh
đệ nhứtLại được sanh trong
quốc độ tốt
Gặp Phật ra đời không nạn khổ
Bạn lành thầy lành rất
thù thắngHay giảng
công hạnh Bồ Tát làm
Nhiều
câu chi kiếp nay mới gặp
Chư đại Bồ Tát công đức lớn
Thân người
vô thường giả mỏng manh
Ví như bóng nước cùng đống bọt
Lại
như ảo huyễn va vai kịch
Như ngủ
chiêm bao mà nói mớ
Mạng như mây chớp chẳng
lâu dàiThế gian niệm niệm sắp
tiêu diệtMạng nầy gần như khoảng
sát naNên đem chẳng bền đổi thân chắc
Ta nhớ nhiều kiếp thuở
quá khứSa giữa núi mạn chỗ hiểm sâu
Quá khứ đã từng bị khi dối
Trải qua trăm ngàn kiếp số lâu
Nay ta bỏ hết thân
tham áiLại không có lòng tiếc mạng sống
Phải mau rời bỏ lòng
kiêu mạnPhải siêng kính thờ các
Sư TrưởngVới các hạng người đời đồng kính
Đó là
cha mẹ anh chị thảy
Phải mau rời bỏ lòng
kiêu căngCung kính vâng dạ tuân lời dạy
Với chư
Bồ Tát gần
Bồ đềCùng ta đồng
tu Bồ Tát hạnhPhải có chặc lòng kính mến nhiều
Thường vui
cúng dường chuyên
thờ phụngThuở xưa
kiêu mạn lớn cao căng
Chẳng nghe biết pháp Phật trừ mạn
Phải dùng trí
kim cương vô ThượngKhiến núi
kiêu mạn ngã nát hẳn
Diệu hạnh Bồ đề viên mãn rồi
Ngồi yên trên tòa thắng
Bồ đềDẹp phục quân ma bầy
tranh đấuSễ độ
quần sanh trong biển khổ
Bao nhiêu kẻ khổ ở
mười phươngNằm trong phẩn dơ bị chê chán
Phát khởi tâm từ thương xót họ
Làm chỗ cứu vớt cho họ về
An trụ đại
thí Ba la mậtLại hay phòng hộ
Phật giới đức
Tu hành đầy đủ hạnh
nhẫn nhụcPhát khởi chánh cần khiến
hiện tiềnĐược đủ
tịnh lự Ba la mậtBấy giờ
điều phục tâm ở yên
Trụ nơi
đại huệ thiện
phương tiệnLàm
phước điền cho tất cả chúng
Thêm lớn
phước lực thạnh như vậy
Bất khả tư nghị thiện trí thức
Gặp được bực trí
tự tại nhứt
Cúng dường nhẫn đến đồ đựng nước.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật,
đại Bồ Tát phát tâm thứ sáu như vậy rồi, vì
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư càng thêm kính thờ nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật,
đại Bồ Tát phát tâm như vầy:
Từ lâu ta vì rời xa
thiện hữu mà gần kề
ác hữu nên lười biếng
phóng túng siêng làm việc hạ tiện
ngu si vô trí. Do
ác kiến ấy mà vọng cho rằng không
nghiệp ác không báo ác, không
nghiệp lành không báo lành, không
nghiệp ác lành không báo ác lành, không nghiệp chẳng ác lành không báo chẳng ác lành. Lại chẳng thỉnh hỏi nơi các
nhà trí thức như
Sa Môn và
Bà La Môn gì là lành gì là chẳng lành, gì là tội gì là chẳng tội, gì nên tu gì chẳng nên tu, gì nên làm gì chẳng nên làm, tu
công hạnh gì mà phải cảm lấy
vô lợi vô nghĩa và các
khổ não nhiều
thời gian, tu
công hạnh gì mà cảm được hữu lợi hữu nghĩa và nhiều an vui lâu dài?
Đại Bồ Tát nghĩ rằng thuở xưa vì lòng mạn và thắng
mê hoặc nên ta gây tạo nhiều
nghiệp ác bất thiện. Do đó
cảm thọ thân người tật nguyền, nơi các
phước điền chưa nuôi
huệ mạng, dầu ở trong
loài người mà chẳng khác chậu úp
ngu độn khờ khạo mù đui lãng điếc, với
nghĩa lý thiện và ác không có
năng lực thông hiểu tuyên nói.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng thuở xưa ta chưa gặp
phước điền thù thắng nầy nên gây
tội ác, nay ta được gặp
phước điền thù thắng nầy lại cảm được thân người lành, ta phải nương
phước điền nầy nuôi lớn
huệ mạng. Ta lại phải chẳng kể
thân mạng để cầu có
năng lực thông hiểu được những nghĩa về thuyết thiện thuyết ác. Ta phải thỉnh hỏi nơi
thuyết pháp sư gì là thiện gì là
bất thiện, gì là có tội gì là không tội, gì nên tu gì chẳng nên tu, gì nên làm gì chẳng nên làm, thật hành
công hạnh gì làm cho pháp
Thanh Văn và
Độc Giác được phát hiện, thật hành
công hạnh gì làm cho pháp Phật và pháp
Bồ Tát được thể hiện?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát vì muốn siêng cầu
Bồ Tát tạng nên
y theo Thi la Ba la mật đa mà
tu Bồ Tát hạnh đem thân chẳng bền đổi lấy thân bền chắc, đối với
thuyết pháp sư kính
thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát tâm thứ bảy”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Từ xưa
quá khứ trăm ngàn kiếp
Rời xa
thiện hữu người
lợi íchChưa từng thưa hỏi tiện
bất thiệnCó tội không tội các
nghiệp quảDo lỗi
kiêu mạn quá
tăng thượngĐọa trong
địa ngục và loài quỷ
Quen gần
ác kiến làm bạn bè
Trải nhiều trăm kiếp sa
ác đạoHoặc sanh
loài người nhiều ngàn kiếp
Luân hồi thọ
thân căn chẳng đủ
Chẳng biết gì thiện gì
bất thiệnCó tội không tội đều chẳng hiểu
Nay được thân người thật
lành mạnhĐầy đủ các căn lại than tịnh
Tất cả các nạn đều rời xa
Như rùa đáy biển gặp bọng nổi
Gặp được
Thế Tôn đèn soi đời
Nghe dạy những
thánh giáo ly dụcGiờ đây ta hỏi
đức Thế TônCác
nghiệp quả thiện và
bất thiệnGì là
xan tham đọa các nẻo
Gì không
xan tham làm
thí chủGì là tham nịnh
ô nhiễm giới
Gì là
luật nghi giữ
toàn vẹnGì là giận thù
não loạn người
Gì là không hờn sức
nhẫn nhụcGì là
giải đãi tâm tán loạnGì là siêng năng ưa
tịnh lựGì là àc kiến câm
ngu siGì là
thiện huệ rành chơn thiệt
Gì là
chuyên tu hành
Bồ đềTìm cầu đầy đủ hạnh
Hiền ThánhGì là
tâm từ khắp
thế gianGì là
cứu tế các
ác đạoGì là ưa pháp lòng chẳng nhàm
Hay cầu
Bồ đề Đại thừa tạng
Gì là qua đến
mười phương cõi
Đứng trước chư
Phật hiện tại thếGì là kính thờ
tu công đứcGì là thưa hỏi hạnh
Phổ HiềnNay đây ta phải siêng thỉnh hỏi
Đấng
tôn trọng trong hàng
Pháp SưGì là với Thầy vui kính dâng
Gì là làm
vui lòng Sư TrưởngPhật tử đã sanh lòng như vậy
Hay họp
phước lực rất lớn rộng
Và sức
trí huệ thắng
tự tạiVui mừng cúng dường tất cả vật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật,
đại Bồ Tát phát tâm thứ bảy rồi, vì muốn
cần cầu pháp môn vi diệ
Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư càng thêm kính
thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Lại nầy Xá Lơị Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật,
đại Bồ Tát phát tâm như vầy:
Từ lâu ta rời xa
thiện hữu gần kề
ác hữu nên lười biếng
phóng túng siêng làm những việc hạ tiện ngu đần
vô trí như câm, rời xa tất cả
văn cú có chánh nghĩa,
văn cú có
chánh pháp,
văn cú có
tịch tĩnh có chỉ có quán, có
chánh giác có
Niết bàn. Rời xa những
văn cú có nghĩa có lợi thắng diệu như vậy rồi
trở lại học tập nghiên tầm
thông đạt tất cả
văn cú phi nghĩa,
phi pháp, phi giác, phi
Niết bàn. Do đó nên sanh
ác kiến vọng cho rằng không có lực không có
tinh tấn, không có quả
trượng phu, không oai thế, không
dũng mãnh, không
công hạnh, không
oai đức. Lại
quan niệm không nhơn không duyên gì có thể khiến
hữu tình nhiễm ô được,
hữu tình tạp nhiễm chẳng do
nhơn duyên. Lại
quan niệm không nhơn không duyên gì có thể làm cho
hữu tình thanh tịnh,
hữu tình thanh tịnh chẳng do
nhơn duyên.
Đại Bồ Tát nghĩ rằng từ lâu vì
y theo quan niệm vô nhơn và bất
bình đẳng nhơn ấy nên ta gây nhiều
nghiệp ác, do
nghiệp ác ấy nên ta ở trong nhơn loại cảm lấy thân tật nguyền, nơi các
phước điền chưa nuôi lớn
huệ mạng. Dầu ở trong
loài người nhưng đồng với chậu úp
ngu độn mù điếc không có
năng lực thọ trì đọc tụng suy gẫm thông đạt những
văn cú có chánh nghĩa nhẫn đến những
văn cú tương ưng với
Niết bàn.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng vì xưa ta chẳng gặp thắng
phước điền nên sanh
vọng kiến. Nay ta được gặp thắng
phước điền nầy, ta phải nương theo nuôi lớn
huệ mạng, nhẫn đến chẳng kể
thân mạng để cầu lực năng
thông đạt những
văn cú tương ưng với chánh nghĩa
chánh pháp tịch tĩnh chỉ quán và
Niết bàn. Những
văn cú chánh nghĩa
chánh pháp ấy đều nhiếp thuộc
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng. Nay ta
thọ trì đọc tụng tư duy rốt ráo quyết sẽ
phát khởi chánh cần tối thượng suốt đời thờ phụng thuyết pháp sư. Nay ta
y theo Thi la Ba la mật thật hành
Bồ Tát hạnh để ở nơi
pháp môn Bồ Tát tạng có thể thọ, có thể trì,có thể đọc, có thể tụng và
tu hành cúng dường vậy.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng ta nên đem thân chẳng bền đổi thân bền chắc, phải khéo
tu tập hai món
tư lương phước và trí. Do sức phước và trí ấy mà được thường gần gũi
pháp môn Bồ Tát tạng.
Suy nghĩ rồi, đối với
thuyết pháp sư,
đại Bồ Tát kính
thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ đựng nước.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát tâm thứ tám”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Văn cú
tương ưng chơn pháp nghĩa
Thuận theo tu tập các
đạo chiVì được
chứng nhập tánh
tịch diệtMà hay
lưu thông đường
Niết bànXưa ta rời xa
pháp như vậy
Trở lại nhiễm quen các
văn cúPhi pháp phi nghĩa phi
tịch tĩnhNhẫn đến
Niết bàn chẳng
tương ưngKhông có
tinh tấn không
năng lựcKhông quả trượng phu không oai thế
Bác bỏ công đức không
dũng mãnhTất cả đều
không vô sở đắc
Không có chư Phật cũng
không phápKhông nhìn
cha mẹ và
quyến thuộcKhông có điều ác không điều lành
Hoặc quả hoặc báo đều
bác bỏTừ thuở vô thỉ đến ngày nay
Luôn
quen làm các
ác kiến ấy
Do đó bị đọa trong
địa ngụcThọ khổ
mãi mãi khó ra khỏi
Rồi sau chuyển đọa loài
bàng sanhLại đọa loài quỷ các
ác đạoCó lúc được sanh trong
loài ngườiNgu mê
vô trí thêm câm ngọng
Đần độn chơi bời và đui điếc
Do đó lại gây các
nghiệp ácRồi đọa
địa ngục và quỉ súc
Chịu nhiều khổ cực ngu tối thêm
Ta từ lâu xa
vô lượng kiếpChưa từng được
thân thanh tịnh nầy
Đã được các căn đều đầy đủ
Bấy giờ phải mau thêm
tinh tấnCác pháp
tương ưng với thiệt nghĩa
Hay làm
trợ bạn cho
tịch tĩnhĐường đến
Bồ đề cùng
Bồ đềTa phải kịp thời
cầu pháp ấy
Tạng
bí áo chư đại Bồ TátTương ưng nghĩa chơn thiệt rất sâu
Trải qua trăm ngàn
câu chi kiếp
Nếu ai được nghe là
hi hữuVà những
Phật pháp khác như vậy
Vô lượng vô số bất tư nghịTa phải
tinh tấn thọ rồi trì
Để được chứng
Bồ đề Vô thượngLại phải
chánh cần khởi
cung kínhKính
thờ cúng dường
thuyết pháp sư
Đó là chư Phật chư
Bồ TátNơi
Pháp Sư nghe pháp Vô thượngChư đại Bồ Tát vô sở úy
Phát khởi tâm
dũng mãnh như vậy
Trí huệ phương tiện khéo thành tựuNhẫn đến
bố thí đồ đựng nước.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật,
đại Bồ Tát phát tâm thứ tám như vậy rồi, vì muốn
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư càng thêm kính
thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật đa,
đại Bồ Tát phát tâm như vầy:
Tất cả
chúng sanh bị
lệ thuộc nơi
việc làm vô nghĩa nên tiếc luyến
thân mạng chấp lấy việc
vô nghĩa, chẳng hay phấn khởi làm việc nghĩa lợi.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là chấp lấy việc vô nghĩa? Đó là với
thân mạng thì luyến tiếc, với pháp phần
Bồ đề không để lòng,
chấp ngã ngã sở làm
tiền đạo, nơi thân mình luôn phòng vệ tắm rửa
săn sóc trang sức trân quý, đây gọi là chấp lấy việc
vô nghĩa.
Lại còn có chấp lấy việc
vô nghĩa. Đó là luyến tiếc
thân mạng, nơi pháp phần
Bồ đề chẳng để lòng,
chấp ngã và
ngã sở làm
tiền đạo, bảo bọc
chăm nom vợ con anh em bạn bè
thân thuộc, nhẫn đến
chấp trước tất cả đồ vật
cần dùng và đồ trân ngoạn. Đây là chấp việc
vô nghĩa.
Lại còn có chấp lấy việc
vô nghĩa. Đó là với
thân mạng thì luyến tiếc, với pháp phần
Bồ đề thì chẳng để lòng, chấp lấy
ngã và ngã sở làm
tiền đạo, đối với tôi trai tớ gái thì phòng vệ
sai khiến đánh mắng giam nhốt, đây gọi là chấp lấy việc
vô nghĩa.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là
chuyên tu nghĩa lợi? Đó là đối với
thân mạng không luyến tiếc, nơi pháp phần
Bồ đề có để lòng, dùng tâm
Bồ đề làm
tiền đạo,
chuyên tu điều lành
thù thắng nơi
thân nghiệp ngữ nghiệp và
ý nghiệp. Đây gọi là tu nghĩa lợi.
Lại còn có
chuyên tu nghĩa lợi. Đó là nơi
thân mạng không luyến tiếc, với pháp phần
Bồ đề có để lòng. Dùng
Bồ đề tâm làm
tiền đạo chuyên tu các
công hạnh dẫn phát
Đàn na Ba la mật đa nhẫn đến
Bát Nhã Ba la mật đa. Đây gọi là
chuyên tu nghĩa lợi.
Lại còn có
chuyên tu nghĩa lợi. Đó là nơi
thân mạng chẳng luyến tiếc, nơi pháp phần
Bồ đề có để lòng, dùng tâm
Bồ đề làm
tiền đạo mà
chuyên tu hành
bố thí ái ngữ lợi hành và
đồng sự để nhiếp hóa
chúng sanh. Đây gọi là
chuyên tu nghĩa lợi.
Lại còn có
chuyên tu nghĩa lợi. Đó là chẳng luyến tiếc
thân mạng, cầu
Bồ đề phần, dùng tâm
Bồ đề làm
tiền đạo mà
chuyên tu niệm xứ chánh cần thần túc căn lực giác chi chánh đạo. Đây gọi là
chuyên tu nghĩa lợi.
Lại còn có
chuyên tu nghĩa lợi. Đó là chẳng luyến tiếc
thân mạng, cầu
Bồ đề phần, dùng tâm
Bồ đề làm
tiền đạo đối với
cha mẹ và các
Sư Trưởng thì
cúng dường kính vâng cúi đầu
chắp tay lễ lạy hỏi thăm tiếp rước cung cấp hầu hạ thảo thuận. Đây gọi là
chuyên tu nghĩa lợi.
Lại còn có
chuyên tu nghĩa lợi. Đó là chẳng luyến tiếc
thân mạng, cầu
Bồ đề phần, dùng tâm
Bồ đề làm
tiền đạo, đối với
Tam Bảo tùy thuận giáo hóa pháp kính thờ
chuyên tu.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nghĩ rằng
chúng sanh chấp lấy
vô nghĩa bị sự việc
vô nghĩa chi phối, luyến tiếc
thân mạng lười biếng
phóng túng. Nay ta
chuyên tu tập nghĩa lợi được
công hạnh nghĩa lợi
thủ hộ. Ta phải thêm siêng
tinh tấn đem thân nầy
cúng dường thuyết pháp sư, đem thân chẳng bền đổi thân bền chắc, phải tu hai món
tư lương phước và trí. Do
tu phước lực và
trí lực hai món
tư lương ấy nên được gần
Bồ đề Vô thượng vi diệu.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát y
Thi la Ba la mật đa thật hành
Bồ Tát hạnh để cầu
Bồ Tát tạng như vậy kính
thờ cúng dường
thuyết pháp sư nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát tâm thứ chín”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Các
phàm phu ngu siThường luyến tiếc
thân mạngChẳng mong cầu
Bồ đềBa Nghiệp sanh
tạp nhiễmThường vì lợi cho mình
Và
vợ con quyến thuộcQuý tiếc đồ trân ngoạn
Đây gọi
si phàm phu
Sai khiê&n tớ trai gái
Nuôi nhiêéu loài bốn chưn
Chấp chặt việc
vô nghĩaĐây gọi kẻ
vô tríChứa cất nhiều tiền gạo
Chẳng cho chẳng ăn dùng
Chấp chặt việc
vô nghĩaGọi người ngu cất chứa
Các
phàm phu ngu siChuyên quý việc
vô nghĩaChư
Bồ Tát trí huệChuyên cầu các nghĩa lợi
Chẳng luyến tiếc
thân mạngVui thích giúp
Bồ TátPhát khởi nhiều
việc thiệnĐây gọi chuyên nghĩa lợi
Phương tiện khéo tu tậpThí
giới nhẫn chánh cầnTịnh lự và
diệu huệĐây gọi chuyên nghĩa lợi
Cúng dường cha và mẹ
Cung cấp các Sưu Trưởng
Kính thờ ngôi
Tam bảoĐây gọi chuyên nghĩa lợi
Nơi diệu
Bồ Tát tạngNhiếp tất cả
diệu phápTrì tụng và
giảng giảiĐây gọi chuyên nghĩa lợi
Chuyên nghĩa lợi như vậy
Được chư Phật
khen tặngTinh tấn hiệp pháp lành
Là con đấng
Vô ÚyPhát tâm như vậy rồi
Dùng
lòng tin thanh tịnhKính thờ
thuyết pháp sư
Cúng tất cả đồ dùng.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát phát tâm thứ chín rồi , vì muốn
cần cầu đại Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư càng thêm kính
thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát phát tâm như vầy :
Chúng sanh thế gian làm trái lời dạy của
Sư Trưởng nên không có được .Không được những gì? Đó là tánh tài .Gì là thánh tài ? Đó là tín, giới, văn, tàm , quí , xả và huệ. Các
chúng sanh ấy vì chẳng được thánh tài nên gọi là cực bần cùng. Nay ta phải
tu pháp lành
vi diệu , nơi lời
dạy bảo của
Sư Trưởng phải
tùy thuận kính lãnh.Tại sao ? Vì
đại Bồ Tát do
diệu huệ tùy thuận kính lãnh lời dạy của
Sư Trưởng nên có chứng được. Chứng được gì? Chứng được thánh tài . Những gì gọi là
Bồ Tát thánh tài ? Đó là các
pháp môn Bồ Tát tạng. Biết rõ
Bồ Tát diệu huệ tức là
thuyết pháp sư
diệu huệ ở nơi
pháp môn Bồ Tát tạng vì
chúng sanh mà rộng giảng dạy
lưu truyền.
Đại Bồ Tát an trụ
Bồ Tát tạng như vậy rồi được thánh tài dứt hẳn bần cùng mau chứng được
Vô thượng Bồ đề.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát tâm thứ mười”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“ Các
chúng sanh hạ liệt trong đờiDua nịnh huyễn hoặc nhiều gian nguy
Điên đảo tà chấp chẳng đúng lý
Chuyên theo
ác kiến trái lời Thầy
Bồ Tát biết rồi thuận lời Thầy
Bèn được
trí huệ rộng
giảng giảiDo đây chứng được bảy thánh tài
Tín , giới, văn, tàm, quý, xả , huệ
Tạng
vô tận bảy thánh tài ấy
Chớ truyền dạy kẻ
phi pháp khí
Trong đời có nhiều
chúng sanh lành
Làm được
pháp khí tốt của Phật
Lời tốt không dua đến thỉnh hỏi
Khéo lành
tự tại mà nhàn nhã
Thường phát
dũng mãnh thường tinh tấn
Cúng kính
chánh pháp thích thường nghe
Chẳng kể
thân mạng mình đương có
Cầu chứng chư Phật diệu
Bồ đềBiết đó đáng là
chánh pháp khí
Hay
thọ trì được
diệu lý sâu
Đạo Sư phát khởi đại từ biGiảng nói
tinh thuần chơn
pháp khíTạng pháp
vi diệu đại Bồ TátNương đó gầy dựng thắng
Bồ đềỞ trong ấy lại rộng khai thị
Thánh tài
kiên cố của chư Phật
Tất cả các pháp là
tướng khôngLà tướng
vô tướng, tướng
vô ngãKhông có
thọ mạng không đổi khác
Không những
hí luận không thọ tàng
Tự tánh của tất cả các pháp
Chẳng từ
duyên sanh cũng
không tướngKhông có
sơ khởi không chung diệt
Từ
vô tướng chơn như hiển phát
Người trí
tự tại tánh nhu hòa
Nơi lời Thầy dạy không
đảo chấpĐức Phật Thế Tôn vì đó dạy
Pháp môn giải thoát Phật đã được
Thánh tài : Tín, giới cùng tàm, quí
Chánh văn,
xả thí và
Bát nhãPhật vì
Bồ Tát rộng
giảng giảiPháp tạng vô tận bảy Thánh tài
Phật tử nhu hoà diệu
tự tạiThuận theo lời hay của
thiện hữuTa phải kính thờ
thuyết pháp sư
Để chứng
Vô thượng Bồ đề đạo
Bồ Tát vừa
phát tâm ấy rồi
Với
thuyết pháp sư thêm yêu kính
Nhẫn đến sắm sửa bình sành sạch
Đựng đầy nước trong đem cúng thí.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát phát tâm thứ mười rồi vì muốn
cần cầu Bồ Tát tạng nên đối với
thuyết pháp sư càng thêm kính
thờ cúng dường nhẫn đến
bố thí đồ dùng đựng nước.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật , do
thành tựu sức
thiện căn như vậy,
đại Bồ Tát được bốn
pháp xứ quảng đại thù thắng:
Một là nơi các pháp lành hay khéo thẳng vào.
Hai là được
thuyết pháp sư
ngợi khen.
Ba là
tu hành thành tựu viên mãn không có hủy phạm.
Bốn là nơi
chánh pháp của Phật
giữ gìn vững chắc chẳng hư .
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Do sức
thiện căn ấy,
đại Bồ Tát ở trong
cõi trời lại được bốn
pháp xứ quảng đại thù thắng :
Một là vì các
chúng sanh mà
tu học mãi, trụ vững nơi các pháp lành.
Hai là
chư Thiên hội họp
chiêm ngưỡng dung nhan Bồ Tát và đồng nghĩ rằng hôm nay
Bồ Tát sẽ
giảng pháp gì? Ta nghe rồi sẽ được tỏ ngộ.
Ba là được
Thiên Đế Thích và
chư Thiên tham kiến thỉnh pháp
giải quyết chỗ nghi, mà
Bồ tát ấy không qua chỗ
chư Thiên.
Bốn là
chư Thiên hiện cung điện lớn cho
Bồ Tát ấy ở.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát ấy hoặc sanh trong người, hoặc
ở trên trời được
vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức
pháp môn vi diệu , đều vì
thành tựu viên mãn Thi la Ba la mật vậy”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Bồ Tát ngồi tòa cao
Được
chư Thiên lễ kínhChiêm ngưỡng tôn nhan Ngài
Sẽ giảng
diệu pháp gì
Chư Thiên đều
cung kínhBực
trí huệ vô thamỞ cung điện vui đẹp
Đế Thích đến thỉnh pháp
Trên trới mạng hết rồi
Sanh vào trong
loài ngườiLà vua
Chuyển Luân Thánh
Oai lực lớn không tham
Lúc mạng người hết rồi
Trở lại sanh
cõi trờiKhông bao giờ bị khổ
Do
thờ cúng Pháp SưLuôn được nhiều bốn thứ
Pháp xứ rộng
thù thắngDo không lòng
hạ liệtCung kính Thầy
thuyết phápNếu lòng kính thờ Thầy
Cúng dâng đồ đựng nước
Thì Trời , Rồng và Người
Đều nên gâén
cúng dường.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát do
thành tựu các
thiện căn ấy nên ở
cõi trời lại được bốn pháp :
Một là biết rõ những nghiệp đã tạo ở đời trước.
Hai là biết rõ nhơn
nghiệp lành ấy được sanh
cõi trời , cũng biết rõ thối thất pháp lành.
Ba là biết rõ từ đây
mạng chung đến sanh chỗ nào.
Bốn là vì
chư Thiên mà giảng
diệu pháp dạy bảo cho họ
vui mừng , đã
lợi ích chư Thiên rồi bèn bỏ thân trời.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mậy ,
đại Bồ Tát do
thành tựu các căn lành nên lại được bốn pháp
viên mãn thù thắng :
Một là khi bỏ thân trời ,
đại Bồ Tát sanh trong
loài người được sanh chung với giới.
Hai là ở trong người được năm pháp sanh
thành tựu thù thắng : Đó là được sanh vào nhà
thù thắng , được
sắc thân thắng diệu , được quyến thuô(c
thù thắng , được
giới thanh tịnh thù thắng và đối với
chúng sanh được
tu đức từ
thù thắng.
Ba là ở trong người lại được năm
pháp thành tựu bất hoại : Đó là được
thiện tri thức không ai
phá hoại được ,
thân mạng không yểu thọ,
của cải đã được không bị mất , được tâm
Bồ đề không hề hư hoại và lúc thiếu pháp lành thì tự được đầy đủ.
Bốn là ở trong người lại được năm pháp
hi hữu viên mãn . Đó là trong nhà để những chậu thùng không, tùy tay
Bồ Tát rờ đến chỗ nào , thì chỗ ấy đều đầy
châu báu , đây là pháp hi hữ thứ nhứt. Lúc
Bồ Tát khát thì
trước mặt tự nhiên có nước đủ tám đức
hiện ra, đây là pháp
hi hữu thứ hai . Do
phước đức giữ gìn thân thể nên chẳng bị
ngoại vật làm
tổn hại , như độc , như dao, hoặc lửa hoặc nước , hoặc á quỷ đều chẳng làm
tổn hại được. Đây là pháp
hi hữu thứ ba. Những
thời kỳ mà địa cầu bị nhựng tai kiếp như là
cơ cẩn tai, tật dịch tai, đao binh tai,
hỏa tai,
thủy tai ,
phong tai, khát kiếp ,
hỏa quang kiếp ,
dạ xoa kiếp ,
đại Bồ Tát ấy chẳng sanh trong người mà ở cung trời
vui sướng , đây là pháp
hi hữu thứ tư . Đại BồTát ấy
vĩnh viễn chẳng sanh vào các chỗ nạn hoặc các
ác đạo, nếu có
tâm niệm sai lầm thì liền
tự giác ngộ mau dứt lìa , đây là pháp
hi hữu viên mãn thứ năm.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát do
thành tựu các căn lành ấy nên thường chẳng rời xa bốn pháp
vi diệu :
Một là khi thấy có
chúng sanh khổ thì
tự nhiên được tâm
đại từ .
Hai là
quyến thuộc của
Bồ Tát đều kính thuận đối với
Bồ Tát.
Ba là
đại Bồ Tát có
thể chế phục sự suy già không để nó xâm tổn.
Bốn là làm ăn sanh lợi thì được lợi gấp trăm gấp ngàn.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát do
thành tựu các căn lành ấy nên chẳng bị ba thứ nó cướp đoạt :
Một là chẳng bị
tham dục cướp đoạt.
Hai là chẳng bị
sân khuể cướp đoạt.
Ba là chẳng bị
ngu si cướp đoạt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát do
thành tựu các
thiện căn nên lại được bốn
pháp không bịnh :
Một là chẳng bị bịnh
dây dưa lâu ngày làm khổ.
Hai là
thân thể nhuần sáng chẳng hề gầy ốm
tiều tụy.
Ba là đồ dùng sanh sống chẳng tổn giảm.
Bốn là chẳng bị quan pháp cướp trộm kẻ ác và
chúng sanh khác
não hại.
Lại nầy Xá Lơị Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát do
thành tựu các
thiện căn nên lại được bốn tướng
tôn quí :
Một là làm
Chuyển Luân Vương oai đức khắp bốn châu cai trị đúng pháp , đủ bảy thứ báu là xe báu , voi báu , ngựa báu,
ngọc nữ báu ,
châu ma ni báu , chủ tạng thần báu và chủ binh thần báu. Có đủ ngàn con trai,
thân hình đoan nghiêm oai
thế hùng mạnh
hàng phục oán địch.
Chuyển Luân Vương nầy được
bốn đại châu khâm phục ,lại được tất cả nhơn dân các quan và chư tiểu
quốc vương đồng
tôn kính tuân lịnh. Đây là tướng
tôn quí thứ nhứt.
Hai là đối với
ngũ dục như mắt thấy sắc, tai nghe tiếng , mũi ngửi mùi , lưỡi nếm vị, thân chạm xúc,
Bồ Tát chẳng hề
tham mê nhiễm đắm , do
lòng tin thanh tịnh xuất gia tu hành mau được
ngũ thông , người và
quỉ thần cung kính . Đây là tướng
tôn quí thứ hai.
Ba là
đại Bồ Tát sanh tại xứ nào
tự nhiên thường được
tối thượng giác,
tối thượng huệ,
tối thượng biện , được các
quốc vương tôn kính thỉnh lên ngự tọa như thuở
quá khứ ông Đại Ô Mạt Đồ được vua
kính trọng, lại được các quan chức và
nhân dân đồng tôn ngưỡng. Đây là tướng tôn quý thứ ba.
Bốn là
đại Bồ Tát ấy tỏ ngộ
Vô thượng Bồ đề rồi thì
oai đức thù thắng viên mãn đệ nhứt được Thiên , Long,
Dạ Xoa,
Càn Thát Bà ,
A Tu La , Câu Lâu La,
Khẩn Na La ,
Ma Hầu La Già , Nhơn ,
Phi Nhơn, tất cả
chúng sanh đồng quy kính.Tại sao ? Vì Bồ Tá nầy
thành tựu phẩm giới, định, huệ ,
giải thoát ,
giải thoát tri kiến vậy. Đây là tướng
tôn quí thứ tư.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật , do
đại Bồ Tát ấy dùng
lòng tin thanh tịnh đem bình đựng nước dâng cho
Hoà Thượng và
A Xà Lê hai
Tôn Sư nên được
vô lượng vô biên công đức diệu pháp như vậy. Vì
cầu pháp mà
Bồ Tát đi đứng luôn
tùy thuận nơi Thầy , chẳng trái lời dạy. Do
Thiện căn ấy nên lại được bốn thứ
của cải tối thắng :
Một là được
của cải vua chúa dùng.
Hai là sanh chỗ nào đều
thọ pháp ly dục được tiên tài
tín tâm xuất gia gọi là thánh tài.
Ba là sanh chỗ nào đều được
trí nhớ đời trước gọi là được niệm tài .Do niệm tài ấy nên
đời đời chẳng quên mất tâm
Bồ đề.
Bốn là
đại Bồ Tát chứng
Vô thượng Bồ đề rồi gọi đó là
Bồ đề tài thường được
tứ chúng và
Thiên Long Bát Bộ cung kính vây quanh.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát nhẫn đến thọ rtì bốn câu kệ nơi
thuyết pháp sư, đến đi đều
tùy thuận lời dạy của Thầy , như là thiện
bất thiện, hữu tội vô tội, nên to chẳng nên tu. Hoặc là Thầy dạy rằng làm việc ấy sẽ
mãi mãi bị các báo
khổ não vô nghĩa vô lợi , làm việc ấy sẽ
mãi mãi được báo an vui có nghĩa có lợi.
Bồ Tát ấy thuâ(n lời Thầy dạy chẳng làm điều
bất thiện mà
tu tập pháp lành. Do
thiện căn ấy lại được bốn pháp cao thắng :
Một là được đầy đủ
Thi la cao thắng.
Hai là cảm được
thân thể viên mãn tất cả
thân phần.
Ba là được
đại huệ, dũng huệ, cao huệ,
quảng huệ, tiệp huệ, lợi huệ , tốc huệ, thâm huệ,
quyết trạch huệ.
Bốn là khi
lâm chung sanh lên
cõi trời.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát do
thành tựu các
thiện căn nên lại được bốn
pháp không thể thấy được.
Một là sanh chỗ nào đều cảm được tướng
ẩn mật âm tàng.
Hai là từ lúc sơ sanh, hoặc
cha mẹ quyến thuộc, hoặc Thiên ,
Long Bát Bộ , Nhơn,
Phi Nhơn và tất cả
chúng sanh không ai thấy được đỉnh đầu của
Bồ Tát.
Ba là từ lúc sơ sanh, hoặc
cha mẹ quyến thuộc , hoặc Thiên , Long đến tất cả
chúng sanh , hoặc
tịnh tâm ,
hoặc nhiễm tâm , không ai có thể sửa soạn nhìn ngắm gương mặt của
Bồ Tát. Nếu có ai
khởi tâm nghĩ rằng tôi sẽ nhìn xem gương mặt của
Bồ Tát , thì bóng mặt Ngài liền
hiện ra nơi hau chưn Ngài .Tại sao ? Do
đại Bồ Tát thành tựu pháp hi kỳ như vậy gọi là thiện
trượng phu, lại
thành tựu từ biện
đệ nhứt tối thắng trượng phu.
Bốn là lúc sơ
sanh không ai đỡ dắt , tự đứng nơi đất nhìn khắp bốn phương , liền được
trí huệ minh lợi. Tại sao ? Do
đại Bồ Tát ấy nơi đời
quá khứ dùng
tâm không dua dối mà cầu
nghe pháp .
Đại Bồ Tát nầy lại được đôi mắt không dua tà nên thành
thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn người, có thể xem thấy tất cả
chúng sanh trong cõi
Đại Thiên.
Đại Bồ Tát nầy lại được trí tốc tật
quảng đại có thể biết rõ hết
tâm niệm quá hiện vị lai của tất cả
chúng sanh .Tại sao ? Vì thuở xưa lúc
cầu pháp ,
đại Bồ Tát chú ý
nhiếp tâm cần cầu cung kính, đối với
chánh pháp tưởng là
lương dược, là
trân bảo , là khó gặp , là diệu thiện , được nghe rồi liến
thọ trì. Do đó
Bồ Tát lại được trí
thiệp tật giản trạch hay cân lường tất cả
chánh giới của các
chúng sanh nhẫn đến chánh văn, ,
chánh định, chánh huệ , chánh
giải thoát , chánh
giải thoát tri kiến.
Lại cân lường đồng tánh
Thi La của tất cả
chúng sanh nhẫn đến đồng tánh chánh văn,
định huệ,
giải thoát giải thoát tri kiến .Lại hay cân lường giới
đẳng lưu của tất cả
chúng sanh nhẫn đến
đẳng lưu chánh văn, định ,huệ,
giải thoát giải thoát tri kiến.Lại hay cân lường tướng
đẳng lưu siêu thắng
Thi la của tất cả
chúng sanh nhẫn đến tướng
đẳng lưu siêu thắng chánh văn, định ,huệ,
giải thoát giải thoát tri kiến .Lại hay cân lường tướng
tiến chỉ oai nghi dũng mãnh tu hành chánh hạnh của tất cả
chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát lần lượt cân lường
suy xét các
công đức của tất cả
chúng sanh rồi nghĩ rằng tất cả
chúng sanh ấy chỗ có
chánh giới , chánh văn ,
chánh định, chánh huệ, chánh
giải thoát, chánh
giải thoát tri kiến, chỗ có giới đồng tánh đến
giải thoát tri kiến đồng tánh , chỗ có giới
đẳng lưu đến
giải thoát tri kiến đảng lưu, chỗ có tướng giới
đẳng lưu siêu thắng đến tướng
giải thoát tri kiến đẳng lưu siêu thắng, chỗ có tướng
tiến chỉ oai nghi tu hành chánh hạnh dũng mãnh. Những tướng như vậy đều là
công đức của
chúng sanh có.Nay ta
quan sát cân lường trong ấy chẳng thấy có
công đức nào bằng
công đức của ta , căn bổn
vững chắc của tất cả
chúng sanh đem
so sánh đều không bằng ta cả.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc sơ sanh
trong khoảng sát na đại Bồ Tát mau
phát khởi diệu trí biết rõ
nghiệp báo. Do trí ấy
trong khoảng thời gian đàn chỉ khéo biết rõ bao nhiêu thứ
tâm tướng của tất cả
chúng sanh rồi đem cân lường
so sánh đều chẳng thấy có bằng với ta. Do đó
đại Bồ Tát biết đúng rằng nay đây ta
một mình ở ngôi
tôn quí tối thượng , như
sư tử chúa ở bực
vô úy , như đại
long vương có
oai đức lớn, chưn
Bồ Tát chẳng chạm đất bốn phương đều đi bảy bước mà tuyên xướng lên rằng ở
thế gian ta là tối tôn đại , ở
thế gian ta là tối
thù thắng ,nay ta sẽ chứng mé sanh
lão tử, ta sẽ độ tất cả
chúng sanh khỏi sanh gìa bịnh chết lo buồn
khổ não , ta sẽ vì
chúng sanh mà tuyên nói
chánh pháp vi diệu quảng đại tối thắng Vô thượng.
Nầy
Xá lợi Phất! Lúc
đại Bồ tát phát ngữ như vậy , âm tha nh liền nối không hở
cáo tri khắp cả cõi
Đại Thiên .
Chúng sanh trong ấy nghe
âm thanh ấy xong đều kinh sợ rởn lông,
thiên cổ nổi vang, toàn
thế giới đều
chấn động. Chỉ có chỗ
Bồ Tát đứng chừng bằng bánh xe là
an tĩnh, nguồn nước ngay dưới chỗ đất ấy cũng
bất động .
Đại Bồ Tát ấy
quan sát thân mình thấy có
vô lượng tia sáng bao trùm .Sau khi chứng
Vô thượng Bồ đề rồi, được
vô lượng chúng sanh đồng
chiêm ngưỡng . Đây gọi là
pháp không ai nhìn thấy được thứ tư.
Nầy
xá Lợi Phất ! Đây gọi là
đại Bồ Tát được bốn
pháp không ai nhìn thấy được. Đó là do thuở
quá khứ đại Bồ Tát đối với
thuyết pháp sư luôn kính thuâ(n
cúng dường .
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát do
thành tựu các căn lành ấy nên lại được bốn
pháp tấn tốc :
Lúc
thành Phật ,
đại Bồ Tát đầy đủ
chánh pháp của
chư Phật Như Lai đã nói không giảm thiếu và pháp được nói không hư thiết. Đây là
pháp tấn tốc thứ nhứt.
Lúc
thành Phật ,
đại Bồ Tát ấy
thành tựu đầy đủ những mạng lịnh của
chư Phật Như Lai.
Như Bảo Tỳ Kheo đến đây !
Chúng sanh được bảo liền tiến đến chỗ Phật , tóc họ tự rụng , thân mặc
ca sa , tay cầm
bát đa la. Đây là
pháp tấn tốc thứ hai.
Lúc
thành Phật ,
đại Bồ Tát ấy đầy đủ trí khéo biết tâm quá vị
hiện tại của tất cả
chúng sanh như
chư Phật Như Lai. Đây là
pháp tấn tốc thứ ba.
Lúc
thành Phật ,
đại Bồ Tát ấy đầy đủ trí biết bịnh cho thuốc đối với tất cả
chúng sanh như
chư Phật Như Lai. Đây là
pháp tấn tốc thứ tư.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát do
thành tựu thiện căn ấy nên khi
thành Phật lại được bốn pháp chẳng bị làm hại : đó là lửa , dao,
độc dược và vật khác không bao giờ làm
tổn hại được .Tại sao ? Vì thân
Như Lai không
sở y, không sở thọ vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát do
thành tựu các
thiện căn ấy nên khi
thành Phật lại được bốn
pháp không ai hơn :
Một là vì Phật không
sở y không sở thọ nên chẳng có
chúng sanh nào có thể ở trước
Như Lai mà nói được rằng ta là
Như Lai nói pháp chưa từng nghe nhẫn đến một câu.
Hai là vì Phật không
sở y không sở thọ nên chẳng có
chúng sanh nào có thể ở trước
Như Lai mà
lập luận được đúng pháp đến một câu.
Ba là vì Phật không
sở y không sở thọ nên chẳng có
chúng sanh nào có thể tìm được ở
Như Lai một chút tâm
bất định .Tại sao ? Vì chư Phâ(t
Như Lai luôn an trụ trong
từ bi hỉ xả các
đại định.
Bốn là vì Phật không
sở y không sở thọ nên chẳng có
chúng sanh nào có thể thấy rõ được các
sắc tướng trên thân của
Như Lai.
Lại nầy
Xá Lợi phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát do
thành tựu các
thiện căn ấy nên khi
thành Phật lại được đầy đủ năm pháp
vô lượng :
Một là
chư Phật Như Lai Thi la vô lượng.
Hai là
chư Phật Như Lai chánh văn
vô lượng.
Ba là
chư Phật Như Lai chánh định vô lượng.
Bốn là
chư Phật Như Lai chánh huệ
vô lượng.
Năm là
chư Phật Như Lai giải thoát tri kiến vô lượng.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Chư Phật Như Lai đầy đủ
Thi la Ba la mật rồi , do
thành tựu các
thiện căn ấy nên được bốn trí vô chướng
vô ngại :
Một là trí biết đời
quá khứ vô chướng
vô ngại.
Hai là trí biết đời
vị lai vô chướng
vô ngại.
Ba là trí biết đời
hiện tại vô chướng
vô ngại .
Bốn là do
tâm bình đẳng nên biết tánh
ba đời bình đẳng.
Lại nầy
Xá lợi Phất !
Chư Phật Như Lai thành tựu chánh trí .Do
chánh trí ấy nên chẳng nương gá gì khác mà đều biết rõ tất cả các pháp.
Chư Phật Như Lai lại
thành tựu trí
bất tư nghị. Do trí ấy mà biết rõ tướng mưa gió.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Như Lai biết rõ
thế gian có gió lớn tên ô lô bác ca ,
cho đến bao nhiêu sự
giác thọ của
chúng sanh đều do gió ấy daođộng. Lượng của ngọn gió ấy cao ba
câu lô xá .
Không gian trên ngọn gió ấy lại có ngọn gió tên
vân phong, lượng cao năm
câu lô xá.
Không gian trên ngọn gió
vân phong lại có ngọn gió cao mười
do tuần tên chiêm bạc cao.
Không gian phía trên lại có ngọn gió lượng cao ba mươi do tuâén tên phệ sách phược ca.
Không gian phiá trên lại có ngọng gió lượng cao bốn mươi
do tuần tên thứ lai.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Cứ như vậy
tuần tự lên trên có sáu muôn tám ngàn tướng
phong luân, do
đại huệ đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều biết rõ cả.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Ngọn gió trên cùng tên
châu biến thượng giới là nơi
y chỉ của
thủy luân.
Thuỷ luân ấy lượng cao sáu trăm tám mươi vạn
do tuần , là chỗ
y chỉ của
đại địa trên ấy.
Đại địa ấy lượng cao sáu vạn tám ngàn
do tuần. Mặt ngoài
đại địa ấy có mô(t
Tam thiên Đại thiên thế giới.Trong ấy có
Phật hiệu Hoằng Uẩn
Như Lai đầy đủ mười hiệu đang
hiện tại giáo hóa. Phật Hoằng Uẩn thọ ba mươi
câu chi tuổi , có ba mươi
câu chi na do tha Thanh Văn đệ tử đều là bực
đại A La Hán và trăm
câu chi đại Bồ Tát.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Sau khi ta
nhập Niết bàn đủ một ngàn năm,
đức Phật Hoằng Uẩn mới
nhập diệt,
chánh pháp trụ thế đầy một ngàn năm,
Xá lợi lưu bố lợi ích thế gian như la vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Trí vô
chướng ngại của
Như Lai lại biết rõ quá trên
thế giới của Phật Hoằng Uẩn
vô lượng vô biên tướng
phong luân và các
Phật độ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Quá trên nữa lại có
thế giới khác hiện không có Phật
xuất thế mà có trăm ngàn vị
Độc Giác ở ,
chúng sanh nơi ấy gieo trồng căn lành từ chư vị
Độc Giác ấy.
Nâéy
Xá Lợi Phất ! Nương trí vô
chướng ngại ấy ,
đức Như Lai lại biết rõ trên
thế giới ấy có
hằng hà sa chư Phật
xuất thế hiện đang độ
chúng sanh .
Mười phương vô lượng vô số bất khả tư nghị bất khả xưng lượng
chư Phật Như Lai xuất thế hiện đang độ
chúng sanh như vậy,
đức Như Lai dùng
diệu trí vô
chướng ngại đều biết rõ cả. Cũng biết rõ tất cả những
thế giới ấy hoặc thành hoặc hoại ».
Đức Thế Tôn nói lời trên đây rồi , Ngài
Xá Lợi Phất bạch rằng
đức Như Lai thành tựu những
thiện căn gì mà được trí vô chướng
vô ngại vô lượng bất tư nghị ấy ?
Đức Phật phán : « Nầy
Xá Lợi Phất ! Do
đức Như Lai an trụ
Thi la Ba la mật ,có
trí huệ đối với
chánh pháp phát khởi ý tưởng cung kính tôn trọng , tưởng là thuốc hay, là trân bửu , là khó gặp , là
thiện căn, lại có thể an trụ nơi
ý tưởng nhiếp
chánh pháp. Do đó mà
Như Lai được trí lớn lẹ sáng như vậy và còn có thể biết rõ
vô lượng vô số quá hơn trên nữa.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Trí vô đoạn của
chư Phật Như Lai vô lượng vô số bất khả tư nghị , bất khả xung lượng,
bất khả thuyết tướng
vãng lai.
Nầy
Xá lợi Phất !
Chư Phật Như Lai đầy đủ
Thi la Ba la mật lại được sức
tự tại ,
trong khoảng thời gian đàn chỉ ,
Như Lai qua đến
hằng sa thế giới chư Phật rồi
trở lại bổn xứ.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Như Lai đối với
chánh pháp Thi la Ba la mật do
tín giải thanh tịnh mà lắng nghe
thọ trì nên được mau chóng
giải thoát. Do
giải thoát ấy mà ta khéo
giải thoát . Ở trong pháp gì mà được khéo
giải thoát ? Đó là nơi tất cả sự khô » mà khéo
được giải thoát .
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có
đại Bồ Tát ở nơi bốn thứ
cung kính ấy ,
nghe pháp ấy rồi được
lòng tin thanh tịnh vì thật hành
Thi La Ba la mật mà
phát tâm như vâéy : Ta an trụ như vậy , ta an trụ nơi ấy .Do ta thường an trụ như vậy nên ta thường chẳng rời
chánh pháp chư Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát thọ trì chương
cú pháp môn của kinh nầy , do sức
thiện căn như vậy nên lại được bốn thứ pháp do huệ mà
thành tựu :
Một là do đủ huệ mà hay
phát khởi đại huệ.
Hai là do đủ huệ nên gặp chư Phật gần giũ kính thờ.
Ba là do đủ huệ nên có
lòng tin thanh tịnh xuất gia vào đạo.
Bốn là do đủ huệ nên mau chứng
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật , do
thành tựu sức
thiện căn ấy nên
đại Bồ Tát lại được bốn thứ pháp làm nên nhiều :
Một là được thọ thân người gọi là pháp làm nên nhiều .
Hai là gặp Phật
xuất thế gọi là pháp làm nên nhiều.
Ba là dùng
lòng tin thanh tịnh xuất gia nhập đạo gọi là pháp làm nên nhiều.
Bốn là mau chứng
Vô thượng Bồ đề gọi là pháp làm nên nhiều.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ tát do
thành tựu sức
thiện căn ấy nên lại được bốn thứ pháp
chi phần :
Một là được chi chuyê »n luân , tức là làm
Chuyển Luân Vương trong
loài người.
Hai là sanh
trời Phạm Thiên làm
Đại Phạm Vương.
Ba là ở trong chúng
chư Thiên mà làm
Thiên Đế.
Bốn là chứng
Vô thượng Bồ đề rồi đủ tất cả
pháp hiệu là Pháo Vương
giáo hóa thế gian.
Đức Như Lai lại được các
năng lực cát tường , trí
thanh tịnh chúng sanh ,
cảnh giới thần thông , làm mắt sáng cho Trời , Người tất cả
thế gian ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa â&y mà nói kê( rằng :
« Đấng mắt sáng cứu đời
Bực
tối thượng tất cả
Giỏi hiểu phương chữa trị
Nên
chứng quả tịch diệtQua lại theo lời Thầy
Cảm báo lành như vậy
Chưa từng bị
khổ nãoVà các
nghiệp bất thiệnMau sanh lên
cõi trờiMau
trở lại loài ngườiMau gặp Phật
xuất thếMau rời xa các nạn
Giàu to
của cải nhiều
Mắt thấy các kho kín
Tay rờ đến chỗ nào
Tự nhiên đầy
của báuHóa hiện ao hồ đẹp
Thường đầy nuớc tám đức
Là quả lành
tự tạiChưa từng bị ưu não
Tay chưn chẳng què vá
Không có tướng
xấu xíThân thể chẳng khô héo
Cũng chẳng có giảm thiếu
Chẳng gù chẳng thiếu mắt
Ngón tay chẳng thiếu thừa
Đầu khác đỉnh đầu voi
Là quả lành
tự tạiDung mạo đều tròn đầy
Chất nặng như khối vàng
Đoan ngiêm người thích ngắm
Da thứa đều sáng bóng
Chư Thiên , Long, Quỉ, Thần
Và
mọi người trong đờiCung kính đồng
cúng dườngLà
diệu đức tự tạiRời xa các
ác đạoĐến
cõi trời cõi ngườiMau ngộ
đại Bồ đềLà quà lành
tự tạiSo sanh đã biết rõ
Tâm tất cả
chúng sanhBốn phương đi bảy bước
Tiếng tốt cáo
thế giớiNgười ấy trí
tối thượngNgười ấy
huệ tối thượng
Giải thoát cũng
tối thượngTối thượng trong
chúng sanhHuệ khiếi huệ
thanh tịnhHuệ nương trí gầy dựng
Huệ trí cùng
giải thoátĐều chứng y chư Phật
Tự tánh sanh do huệ
Thấy biết thì do trí
Nếu có đủ
trí huệCầu chi đều
toại nguyệnNghĩa
thậm thâm như vậy
Phật vì ông nói lượt
Người
thiểu dục vô huệ
Đâu thọ được nghĩa nầy
Họ bị si làm si
Các ác bức ngặt họ
Phát khởi lòng giận hờn
Chẳng
kính trọng chánh phápNếu
chúng sanh thiểu dụcVới
chánh pháp như vậy
Chẳng có lòng
kính trọngLại
phát khởi việc khác
Chúng sanh chẳng kính pháp
Hờn ghét và
mê chấpLòng họ thưởng
ô nhiễmChẳng nên đem dạy họ
Các người đến ngày già
Suy yếu bịnh
trầm trọngĐến giờ họ
lâm chungLuống nói trụ thân sau
Các người đến ngày già
Suy yếu bịnh
trầm trọngVọng hưởng phần
ứng cúngMau đọa vào
địa ngụcCòn khó được đủ giới
Huống quả
A La HánNgười tin xây miễu thờ
Do đó lại bị đọa.
Laại nâéy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la Mật ,
đại Bồ Tát siêng
tu hành giới hạnh như vậy.Vì cầu Bồ Tá§ tạng nên
đại Bồ Tát đem thân thờ các bực thầy
chánh hạnh, do đó được
công đức như trên đã nói , lại còn được
công đức bội hơn trước
vô số lượng
vô biên bất khả tư nghị.Phải biết
đại Bồ Tát an trụ tạng
Bồ Tát như vậy khéo thật hành
tự tại các
Bồ Tát hạnh giới thanh tịnh vi diệu.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
giới thanh tịnh vi diệu ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì thật hành
Thi la Ba la mật nên
đại Bồ Tát được mười thứ
Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :
Một là đối với
chúng sanh không bao giờ làm
tổn hại.
Hai là đối với tài vật của kẻ khác chẳng bao giờ cướp trộm.
Ba là đối với thê thiếp của người chẳng bao giờ
nhiễm ô.
Bốn là đối với tất cả
chúng sanh chẳng bao giờ khi dối.
Năm là với
quyến thuộc thì hòa hiệp chẳng bao giờ trái rời.
Sáu là đối với
chúng sanh chẳng bao giờ nói thô cộc , vì hay nhịn chịu ác ngôn của họ.
Bảy là xa rời
ỷ ngữ , vì
lời nói ra đều đã
suy gẫm kỹ.
Tám là xa rời
tham lam, vì đối với sự
thọ dụng của người không có
ngã sở.
Chín là xa rời giận hờn , vì hay nhịn chịu lời thô việc nhục.
Mười là xa rời
tà kiến , vì chẳng tôn thờ
chư Thiên tiên thần quỉ khác.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát lại được mười thứ
Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :
Một là
Thi la chẳng khuyết , vì chỗ chứng được chẳng do
vô trí.
Hai mlà
Thi la chẳng thủng vì sự bất
bình đẳng đã xa rời.
Ba là
Thi la chẳng lem, vì tất cả
phiền não chẳng xen tạp.
Bốn là
Thi la chẳng
nhiễm ô , vì được pháp lành làm
tăng trưởng.
Năm là
Thi la đáng dâng cúng , vì
tùy ý muốn đều
tự tại hành động.
Sáu là
Thi la đáng
ngợi khen , vì các bực trí chẳng quở rầy.
Bảy là
Thi la chẳng thể chê , vì tất cả lỗi xấu đều chẳng dung chứa.
Tám là
Thi la khéo
bảo hộ, vì khéo
giữ gìn sáu căn.
Chín là
Thi la khéo phòng thủ , vì
chánh trí tự nhiên luôn
hiện tiền.
Mười là
Thi la khéo
xu hướng , vì
Bồ đề nguyện làm
trợ bạn.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát lại được mười thứ
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát lại được mười thứ
Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :
Một là
Thi la thiểu dục , vì đúng
pháp thanh tịnh khéo biết lượng.
Hai là
Thi la tri túc , vì dứt hẳn tất cả sự
tham trước.
Ba là
Thi la chánh hạnh, vì hay làm cho
thân tâm đều xa rời .
Bốn là
Thi la tịc tĩnh, vì những ồn náo đều bỏ xa.
Năm là
Thi la có nhiều
công đức trừ bỏ thị cục , vì do
thiện căn tự tại mà thành.
Sáu là
Thi la thánh chủng tri túc, vì với
dung nhan người chẳng đoái chẳng
hy vọng.
Bảy là
Thi la làm đúng như lời , vì trong tối hay sáng đều phụng nhiếp chẳng khi Trời, Người.
Tám là
Thi la tự xét lỗi mình , vì
thường dùng gương pháp soi rõ tâm mình.
Chín là
Thi la chẳng chê người kém , vì giữ ý cho người.
Mười là
Thi la thành thục chúng sanh, vì chẳng bỏ rời các nhiếp pháp.
Lại nầy
Xá lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát lại được mười thứ
Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :
Một là
Thi la lòng tin thanh tịnh đối với Pháp , vì
thủ hộ chánh pháp.
Ba là
Thi la lòng tin thanh tịnh đối Tăng , vì
tôn kính thánh chúng.
Bốn là
Thi la cúi xuống làm việc , vì chẳng rời suy tư Phật
Bồ đề.
Năm là
Thi la gần
thiện hữu , vì khéo chứa nhóm
giác phần tư lương.
Sáu là
Thi la rời xa
ác hữu , vì
vứt bỏ tất cả
ác pháp.
Bảy là
Thi la Đại từ Ba la mật , vì
thành thục các
chúng sanh.
Tám là
Thi la Đại bi Ba la mật , vì làm cho
chúng sanh khốn ách
được giải thoát.
Chín là
Thi la Đại hỉ Ba la mật , vì với
chánh pháp sanh lòng hỉ lạc.
Mười là
Thi la Đại xả Ba la mật , vì với các tham sân đều xả bỏ cả.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát lại được mười thứ
Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :
Một là
Thi la Đàn na Ba la mật , vì khéo
thành thục các
chúng sanh.
Hai là
Thi la Sằn đề Ba la mật , vì khéo
hộ trì tâm
chúng sanh.
Ba là
Thi la Tỳ lê gia
Ba la mật , vì với các chúng hạnh chẳng
thối chuyển.
Bốn là
Thi la Tĩnh lự Ba la mật , vì khéo đầy đủ
tịnh lự tư lương.
Năm là
Thi la Bát Nhã Ba la mật , vì lắng nghe căn bổn không nhàm không đủ.
Sáu là
Thi la vui cầu
nghe pháp, vì thường tra
thỉnh cầu Bồ Tát tạng.
Tám là
Thi la chẳng bảo trọng mạng sống , vì dùng tâm
như ảo thường
quán sát.
Chín là
Thi la các
ý nguyện đầy đủ , vì khéo
thanh tịnh từ lúc
phát tâm.
Mười là
Thi la hòa hiệp
Phật giới luật , vì
hồi hướng tất cả giới của
Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật , vì
đại Bồ Tát đầy đủ
giới thanh tịnh như vậy nên chẳng có sự khoái lạc
vi diệu nào của Trời của Người mà
đại Bồ Tát chẳng hưởng thọ , chẳng có nghề nghiệp khéo giỏi nào của
thế gian mà
đại Bồ Tát chẳng biết , chẳng có đồ
cần dùng náo của
chúng sanh thế gian mà
đại Bồ Tát chẳng đủ , chẳng có
phàm phu nào chẳng
gây oán hại mà
đại Bồ tát chẳng hề giận họ, chẳng có
thế gian nào chẳng
hư dối gạt gẫm mà
đại Bồ Tát đều chẳng tin nhận , không có
chúng sanh thế gian nào mà
đại Bồ Tát chẳng tưởng là cha ruột đối với họ , không có
chúng sanh thế gian nào mà
đại Bồ Tát chẳng tưởng là mẹ ruột đối với họ , không có
chúng sanh thế gian nào mà
đại Bồ Tát chẳng có
ý tưởng bảo nhiệm gần gũi họ, không có một
pháp hữu vi nào mà
đại Bồ Tát chẳng tưởng là
vô thường sanh diệt.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Biết rõ các hành vô thưởng rồi
đại Bồ Tát chẳng kể
thân mạng tu tập giới thanh tịnh thật
hành chánh hạnh của chư
Bồ Tát làm, đó là ssể thành mãn
Thi la Ba la mật vậy”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Trụ
Thi la thanh tịnhBồ Tát có thể dùng
Diệu sắc diệu âm thanh
Tế độ người ưa pháp
Mặt mắt đều viên tịnh
Chẳng đui điếc què gù
Các
thân phần đoan chánh
Đều do
tịnh giới sanh
Có đủ
thế lực lớn
Chói rực oai quang lớn
Lại do
tinh tấn huệ
Khiến
ác ma kinh sợ
Vua chúa đêéu
cúng dườngTrời rồng đều
tôn kínhKhéo dứt các lưới nghi
Siêng
tu hành đại từAn trụ tại giới tụ
Pháp hành danh xưng lớn
Khổ bức chẳng e sợ
Trọn chẳng đọa
ác thúChúng sanh hôn mê ngủ
Bồ Tát đánh thức họ
Thường không có tạm ngủ
Cầu pháp khắp bốn phương
An trụ tại giới tụ
Vì cầu tại giới tụ
Xả thí thượng trân bửu
Vợ con xương thịt mình
Cầu
giáo pháp Vô thượngPhải
cung kính cúng dườngCác bực đời dựa nương
Nếu bị người
mắng nhiếcNão hại cùng đánh đập
Thêm thương và khen họ
Là do được lòng nhẫn
Tu hành đúng như lời
Lời nói thường chẳng dối
An tọa
đạo tràng rồi
Đại địa đều
chấn độngVới
Phật pháp không nghi
Bỏ rời
đại chúng tà
Được Nhơn
Thiên tôn thờ
Gọi là cúng
Thế TônCác
chúng sanh thế gianDùng dao gậy hại nhau
Hay khiến họ hòa hiệp
Đây là trí
Bồ TátChúng sanh bị khổ nặng
Nhiều trăm
câu chi kiếp
Dầu họ chẳng đê&n câéu
Bôé Tát chẳng bỏ họ
Bạn lành
đàm luận chung
Do đây được nghỉa lợi
Mà
chúng sanh chẳng cầu
Trở lại hại lẫn nhau
Bồ Tát đem trân bửu
Đầy khắp cả
đại địaVà
quốc độ chư Phật
Dùng để cầu
thiện hữuGiả sử lầy dao bén
Cắt dứt lìa thân ta
Với các
chúng sanh ấy
Thường có lòng
bình đẳngBỏ hành động kẻ ngu
Làm
nhơn duyên Phật phápThường giự
giới thanh tịnhAn trụ pháp
vi diệuTu Tập pháp tùy thau65n
Hành
diệu hạnh Bồ đềTam minh huệ
cam lộAn trụ tại giới tụ
Tu học các
Phật phápĐây là người
trí huệTrời người nên
cúng dườngBiết rõ tất cả pháp
Khéo thấu các nghề giỏi
Hiểu sâu ý
chúng sanhHoằng dương pháp
vi diệuGiới tụ đã
thanh tịnhAn tọa cội
Bồ đềHàng phục quân ma dữ
Ngộ
Vô thượng Chánh giácSáng soi khắp
thế giớiNhư
tia sáng nhựt nguyệt
Bồ Tát bực
tôn quíHay
mở mắt huệ thánh
Trao tay dìu
chúng sanhHỏi đạo đều khai thị
Thường vui nhận lời người
Chẳng hề có
ganh ghétBỏ
vô lượng thân mình
Bố thí nhiều
của báuChẳng hề có xa rời
Phật
Bồ đề tối thượngTín giới đã tròn đủ
Khéo trụ lời chắc thiệt
Chẳng hề có ảo ngụy
An trụ tại giới tụ
Người đến chỗ
Bồ TátHợc đặt lời
hư vọngDầu nghe chẳng
phản đốiMà luôn nương lời thiệt
Nếu ai hứa
Bồ TátGiả nói cho y thực
Trọn không đem đến cho
Bồ Tát không hề giận.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật , vì đầy đủ
Thi la thanh tịnh như vậy nên
đại Bồ Tát đấi với các hành thường tưởng là chẳng nên
ưa thích , với các
chúng sanh trưởng là
cha mẹ , với các
hữu tình tưởng khó bảo tòan , với diệu
ngũ dục tưởng chẳng phải diệu , với
cảm giác hay biết tưởng chẳng hay biết .Có
quan niệm như vậy rồi chẳng
sanh khởi tâm bình đẳng chẳng
bình đẳng .Tại sao ? Lúc
Bồ Tát quan niệm như vậy , nếu sẽ
phát khởi tâm bất
bình đẳng thì nên khiến
nhiễm tâm chuyển đổi bất
bình đẳng ,
suy gẫm rằng nhãn và sắc làm duyên mà sanh
nhãn thức ,
nhiễm tâm sanh diệt đều do
chủng tử mà tâm thể ấy phát sanh ,đối
cảnh sở duyên vọng tâm cho là tịnh .Nếu
suy gẫm biết được nó là
phi lý và
thể chất bất tịnh thì
được giải thoát , nếu
giải thoát nó thì là nó hết .Nó hết chỗ nào ? Đó là tham hết , sân hết , si hết .Hết như
vậy thì chẳng phải tham hết sân hết si hết .Tại sao ? Nếu
sát na tham có tận diệt thì lẽ ra có tham khác hết khác .Như
vậy thì lẻ ra tham là thiệt hết là thiệt.Nếu tham là thiệt thì lẽ ra chẳng diệt tận.
Nhưng nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả
hữu tình đều do chẳng
chánh tư duy chẳng
tác ý đúng lý nên sanh
tham dục , xét về
tham dục do
phân biệt mà khởi lên .
Nếu không phân biệt thì tình chấp dứt , nếu tình chấp dứt thì không có thiệt , do vì không thiệt nên trong đó không có tham, vì không tham nên tức là chơn thiệt. Nếu là chơn thiệt thì trong ấy không khổ . Do vì không khổ thì không thiêu não .Vì không thiêu não nên tức là chơn thiệt .Nếu là chơn thiệt thì trong ấy không nhiệt .Vì không nhiệt nên tức là
thanh lương nên tức là
Niết bàn. Ở trong
Niết bàn không có
tham ái.
Tại sao ? Nầy
Xá Lợi Phất ! Xét về
Niết bàn không có
tư lự .Ta phải
trừ diệt tham ái ấy . Vì
tham ái hết nên gọi là được
Niết bàn. Nếu như
vậy thì năng tham khác và sở tham khác ,
Niết bàn lại khác . Đây nếu khác thì ở kia là kia. Nếu ở kia là kia , người trí phải nên suy tầm chỗ thiệt của kia. Suy tầm rồi chẳng được chỗ chắc thiệt .
Nếu không chắc thiệt thì là
hư giả .Nếu là
hư giả thì là
tịch tĩnh.Nếu là
tịch tĩnh thì là không .Không có pháp gì ? Không có
ngã và ngã sở hoặc thường hoặc hằng hoặc trụ hoặc biến dị thì không có
hữu tình không có
thọ giả .Do như vậy nên không có khởi
tham sân si.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Do cớ gì có
ngã và ngã sở , chấp đây là ngã đây là
ngã sở hữu ? Vì
điên đảo chấp ngã nên
chấp ngã sở hửu .Vì
chấp ngã sở hữu nên có
sở tác. Ở trong
sở tác phát khởi bốn hành động, đó là thân
sở tác , ngữ
sở tác , ý
sở tác , do ý
tư duy khởi
thô ác ngữ , từ đó bèn phát sanh vận dụng thân để làm hại.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả
phàm phu ngu si do vì họ
phát khởi ý tưởng mình người dị biệt nên bị
ý tưởng nó nắm , bị
ý tưởng nó trói.
Đại Bồ Tát do thật hành
Thi la Ba la mật nên biết rõ sự ấy là
điên đảo rôéi chẳng quen gần các hành.Tại sao ? Vì do quen gần mà sanh sợ sệt .
Đại Bồ Tát nghĩ rằng nay ta vì cầu không sợ sệt để độ các
chúng sanh thì chẳng nên ỡ nơi kia mà sanh sợ sệt, ta phải cùng kia
thân ái.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là đố với
chúng sanh đại Bồ Tát tưởng là
cha mẹ ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát nghĩ rằng từ đời lâu
xa quá khứ
đến nay không có một
chúng sanh nào mà chẳng phải là cha là mẹ .Tất cả
chúng sanh chắc chắn từng làm cha hoặc mẹ ta , do vì ở nơi họ sanh tâm tham nên bỏ
ý tưởng là mẹ , sanh tâm sân nên bỏ
ý tưởng là cha , mãi
lưu chuyển sanh tử chẳng dứt .
Suy nghĩ như vậy rồi ở nơi
chúng sanh đại Bồ Tát đều tưởng là
quyến thuộc cả.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Như thuở
quá khứ vô số vô lượng bất tư nghị kiếp, bấy giờ có
Phật hiệu Tối Thắng Chúng
xuất thế đủ mười hiệu
Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc ,
Thiện thệ ,
Thế Gian Giải ,
Vô thượng Sĩ ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư ,
Phật Thế Tôn .Phật ấy thọ chín
câu chi năm cùng chín
câu chi na do tha chúng
đại Thanh Văn câu hội.
Lúc ấy có
Bồ Tát tên Đắc Niệm sanh tại vương cung,
thân hình đoan nghiêm khả ái có đủ
sắc tướng tròn sạch
đệ nhứt . Lúc
Bồ Tát sơ sanh , phụ vương đã
ban cho tám vạn bốn ngàn thể nữ trẻ ,
quyến thuộc lại tặng tám vạn bốn nghìn thể nữ trẻ đẹp , bạn hữu của phụ vương cũng tặng tám vạn bốn ngàn thể nữ trẻ đẹp ,muốn lúc
Bồ Tát lớn lên có người theo hầu.
Bấy giờ phụ vương lại vì
Bồ Tát mà xây cung điện ba mùa : Điện mùa nóng , điện mùa mưa và điện mùa lạnh , để
Bồ Tát theo mùa
tùy ý ở .Lại còn
ban cho trăm ngàn
kỹ nhạc làm vui
Bồ Tát.
Lúc nghe
nhạc âm nổi lên ,
Bồ Tát ấy có
ý tưởng sanh diệt vô thường .Lúc tiếng nhạc tạm dứt ,
Bồ Tát ấy suy tìm
âm thanh ấy nương gì mà khởi , chỗ nào mà sanh, từ đâu mà dứt , chỗ nào mà mất . Lúc
quan sát như vậy ,
Bồ Tát ấy chẳng còn
ý tưởng ngày đêm
sai biệt , chỉ luôn
tưởng vô thường , tưởng không có gì đáng vui ưa ở
thế gian cả.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Trong bốn vạn năm ,
Bồ Tát Đắn Niệm chưa hề ham say
âm nhạc, lại trong bốn vạn năm nữa , đối với
ngũ dục chưa hề
tham nhiễm.
Khi ấy
Bồ Tát Đắc Niệm ở trong thâm cung nhập tứ
tĩnh lự phát
ngũ thần thông ,liền
dùng sức thần túc bay lên
hư không thẳng đến chỗ đức
Tối Thắng Chúng
Như Lai thưa thỉnh được chút ít
chánh pháp rồi
trở về bổn cung .
Ngày đức
Tối Thắng Chúng
Như Lai nhập Niết bàn ,
Bồ Tát Đắc Niệm lại đến chỗ ở của Phật hỏi chư
Tỳ Kheo hiện nay
đức Như Lai ở đâu , tôi muốn được hầu cận
cúng dường .Chư
Tỳ Kheo cho biết là
đức Phật Tối Thắng Chúng đã
nhập Niết bàn.
Bồ Tát ấy được tin
đức Phật nhập Niết bàn liền
ngã xuống chết ngất , giây lâu
tỉnh lại nói kệ rằng :
Đấng
huệ nhựt soi đời
Đến bờ kia các pháp
Ta ở chỗ
phóng dậtTại sao tự khi dối
Trăm ngàn
câu chi kiếp
Phật
xuất thế một lầnMà ta chẳng
phụng thờLấy ai để cứu nương
Như ta tự
suy nghĩMẹ ta chẳng biết thương
Sao mẹ chẳng
cho hayĐể ta sớm thấy Phật
Cha cũng chẳng biết thương
Vùi ta trong
ngũ dụcBị đó giam cầm rồi
Chẳng gần thờ
Như LaiChẳng được
nghe lời Phật
Sáu mươi
âm thanh diệu
Đời sống mất lợi lành
Vì chẳng
phụng thờ Phật
Đấng
đại bi cứu đời
Đến bờ kia các pháp
Ta bị kiêu dật nắm
Chẳng gần thờ
Thế TônNgàn ức do tha kiếp
Khó thấy được chư Phật
Ta chẳng lo
cúng dườngNhập diệt rồi mới đến
Nay ta lại
suy nghĩCha mẹ đều chẳng tốt
Lúc ta vừa lớn khôn
Sao chẳng nhắc đến Phật
Cho ta được thấy Phật
Thường gần kề
Như LaiĐể luôn luôn
cúng dườngVà được nghe
chánh phápĐức Như Lai tuyên dươngSáu mươi
âm thanh diệu
Mà ta chưa được nghe
Nhập diệt rồi mới đến
Nay ta
mất lợi lành
Niết bàn rồi mới đến
Không ai nói
diệu phápNhư Phật trước đã nói.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát Đắc Niệm đi đến bên giướng đức
Tối Thắng Chúng
Như Lai nhập Niết bàn khóc than
thảm thiết đi nhiễu bên hữu giường
Như Lai trăm ngàn vòng rồi đứng qua một phiá mà nói kệ rằng :
Phật là đấng
quần sanh tôn quíHiển dương pháp nhiệm mầu
Vô thượngNay ta
phát khởi tâm chí thành
Để được
Bồ đề tối thắng ấy
Nay ta
kính lễ chưn
Như LaiĐấng
trí huệ lớn lời chơn thiệt
Nguyện ta sẽ được
trí huệ ấy
Đồng như
trí huệ Phật đã được
Xưa ta hèn kém không
trí huệĐọa trong
phẩm loại hàng ma ngoại
Ở nhà ở cung nhiều
ép buộcChẳng được gần Phật để
phụng thờTa đã từng
tu phước thắng diệu
Do đó được tạm thấy
Như LaiNhưng chưa được Phật rộng dạy truyền
Nên nay ta phải khổ sầu lớn
Nay ta đối trước
chúng Thiên Long
Phát nguyện chí thành lời chơn thiệt
Nếu ta kỳ vọng mà chơn thiệt
Sẽ đúng như lời đều
toại nguyệnNguyện ta sẽ ở đời
vị laiChư Phật Như Lai hiện ra đời
Thấy nghĩa
thậm thâm dụng rộng lớn
Tuyên nói chơn thiệt pháp
Vô thượngTa chẳng sanh nhằm các
chướng nạnĐối với
ngũ dục chẳng ham gần
Tự tại với sắc chẳng bị chuyển
Xô sập nhà giam của quân ma
Đời đời thường được thấy chư Phật
Hiện tiền được
nghe pháp Vô thượngThầy Phật sanh
lòng tin thanh tịnhSanh
lòng tin rồi tu các hạnh
Nếu nguyện
chí thành của ta phát
Quyết sẽ thiệt được không hư luống
Khiến
đức Như Lai lại ngồi dậy
Như đương ngủ say bỗng
thức giấc.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát Đắc Niệm phát lời
chí thành xong , đức
Tối Thắng Chúng hiện nằm
nhập Niết bàn thoạt ngồi dậy .Bấy giờ trăm ngàn
câu chi chư Thiên đem y thượng diệu rải lên
cúng dường .
Bồ Tát Đắc Niệm
vui mừng bay bọt lên
hư không nói kệ rằng :
Đấng
đại từ bi soi sáng đời
Đấng
đại Đạo Sư đại
thần thôngĐấng
đại giác ngộ
thế gian nương
Đấng tuyên
chánh pháp diệu Vô thượng.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát Đắc Niệm nói kệ
ca ngợi đức Phật rồi lại muốn cho
đại chúng càng thêm
vui mừng nên ở trước
đức Phật nói kệ rằng :
Ta ở
đời sau sẽ là Phật
Xuất thế độ sanh như
Thế TônĐại chúng phải nên bắt chước học
Sắm đủ mọi thứ
cúng dường PhậtĐấng đời dựa nương khó nghĩ bàn
Có ai thấy Phật chẳng kính mến
Phật thương
chúng ta và
chúng sanhĐã
nhập Niết bàn lại ngồi dậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát Đắc Niệm ấy ở trong
chánh pháp của đức ối Thắng Chúng
Như Lai sắp đặt cúng dường to lớn tròng các gốc lành .Do sức
thiện căn ấy , sau khi
mạng chung sanh lên các cọi trời ,
trải qua hai mươi
câu chi đại kiếp chẳng đọa
ác đạo , lại
trải qua hai mươi
câu chi đại kiếp chẳng thọ
dục lạc.
Trong thời gian ấy ,
Bồ Tát Đắc Niệm gần gũi
cúng dường bảy ngàn
đức Phật. Vì cầu
Vô thượng Bồ đề nên thường tu
phạm hạnh. Ở
kiếp sau cùng trong
thời kỳ mạt thế cảm được
thân thắng thượng từ sức
thiện căn phát khởi thành Đẳng Chánh Giác hiệu là
Ta La Vương
Như Lai ,
Ứng Cúng ,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc ,
Thiện Thệ ,
Thế Gian Giải ,
Vô thượng Sĩ ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư , Phật ,
Thế Tôn , thọ hai mươi
câu chi năm , cùng các
đệ tử hai hội
thuyết pháp .Hội thứ nhứt có hai mươi
câu chi đệ tử đại Thanh Văn .Hội thứ hai có bốn mươi ngàn
đệ tử đại Thanh Văn .Tất cả đều là
đại A La Hán hết
phiền não có
thế lực lớn tâm được
tự tại đã đến bờ kia. Sau khi
đức Phật Ta La Vương
nhập Niết bàn ,
Xá lợi lưu bố xây tháp
cúng dường .
Chánh pháp ở đời đủ mười ngàn năm ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
«
Xá Lợi Phất nên biết
Bồ Tát Đắc Niệm ấy
Hai mươi
câu chi kiếp
Chẳng sa đọa
ác đạoLại bằng
thời gian ấy
Chẳng gần các
tham dụcTrong khoảng thời gian ấy
Gặp bảy ngàn
đức PhậtƯa thích các
Phật phápThường tu hạnh
thanh tịnhSau cùng chứng
Bồ đềHiệu
Ta La Vương Phật
Chứng
Vô thượng giác rồi
Lợi ích các
chúng sanhHai mươi
câu chi năm
Tuyên rộng pháp
vi diệuChúng hai mươi
câu chiHội thứ hai bốn vạn
Đều là đại
La HánThánh
đệ tử của Phật
Sau khi Phật
nhập diệtXá lợi rộng
lưu bốXây sàu vạn
câu chiLinh tháp để cúng dưởng
Chánh pháp trụ
tại thếĐủ mưởi ngàn năm trọn
Người nghe Phật
chánh giáoSanh
lòng tin thanh tịnhĐức Phật nói
chánh phápNgười trí chẳng
nghi ngờTrọn chẳng đọa
ác đạoMau chứng
đại Niết bàn.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do thật hành
Thi la Ba la mật nên giới tụ
thanh tịnh , với
chúng sanh tưởng là
cha mẹ .
Đại Bồ Tát nghĩ rằng
xưa kia ta vì tâm tham mà bỏ
ý tưởng là mẹ, vì tâm sân mà bỏ
ý tưởng là cha . Nay ta thật hành
Thi la Ba la mật an trụ nơi
giới thanh tịnh , nơi
ngũ dục kia luôn có
ý tưởng nhàm chán xa rời .Do có
chánh tư duy như vậy nên
đại Bồ Tát có thể biết rõ tướng
ngũ dục , lại hay biết rõ
ngũ dục đáng chán đáng rời.
Những gì là tướng
ngũ dục và nhàm lìa ?
Gọi là dục tức là
tham ái.Với
nhãn thức tham, những sắc bị biết thì gọi là dục.Với
nhĩ thức tham , những
âm thanh bị biết thì gọi là dục.Với
tỷ thức tham, những hương bị biết thì gọi là dục. Với
thiệt thức tham , những vị bị biết thì gọi là dục. Với
thân thức tham ,những xúc bị biết thì gọi là dục .Nếu có
tham ái thì có
chấp trước.Xét về
chấp trước thí gọi là kết .Kết gọi là
phát khởi .
Phát khởi gọi là trói.Lại cũng gọi là
hí luận chẳng thiệt.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả
chúng sanh đều bị
hí luận chẳng thiệt ấy nó trói ,nó quấn , nó trói khắp , nó
tăng thượng trói khắp mà chẳng
giải thoát được.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả
chúng sanh bị những gì trói cột mà gọi là bị trói ? Đó là bị sắc nó trói , bị thanh hương vị và xúc nó trói nên gọi là bị trói.
Lại những gì là sắc nó trói ? Đó là ở nơi tự thân chỗ có những
hình sắc vọng sanh
ý tưởng là ngã , là mạng giả, là
hữu tình , là
thường hằng , là chẳng biến dị , là thiệt , là toàn ,là hiệp nhứt.Những
ý tưởng ấy gọi là sắc nó trói.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Những gì gọi là sắc trói ? Đó là ở nơi tự
thể tướng ngã đã được
phát khởi ấy rất mến , rất quí trọng sanh
ngã ái lớn, với thê thiếp
quyến thuộc luyến ái chẳng thôi . Đây gọi là bị sắc trói.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các
chúng sanh ấy đã được
thọ dụng các
dục lạc rồi tạo nên các
nghiệp bất thiện , chẳng biết được đúng thiệt
lỗi lầm của
ngũ dục.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả
ngũ dục không thứ nào là chẳng phải tọi lỗi .Thếnên đối với các
tội lỗi, người trí chẳng nên
tham dục. Nhưng đọa
ác đạo là lỗ nặng của
tham dục, Phật sẽ khai thị tướng ấy cho ông.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là hay đọa
ác đạo là
lỗi nặng của
ngũ dục ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Người quen gần gũi dục thì chẳng có chút ác nào mà chẳng gây tạo .Lúc nó chín mùi thì chẳng có chút khổ nào mà chẳng gánh chịu .Vì thế nên , nầy
Xá Lợi Phất !
Đức Phật xem thấy tất cả
chúng sanh trong
thế giới , oán hại lớn của họ không gì hơn thê thiếp
nữ sắc các
tham dục.
Nấy
Xá Lợi Phất ! Xét về trí tức là
Như Lai .Nói là người
vô trí tức là
chúng sanh vậy. Nếu là chỗ bị
quở trách của người trí thì gọi là chơn thiệt.Nếu là những sự
nhiếp thọ của người
vô trí thì chẳng chơn thiệt.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Người
vô trí nhận chịu những gì ? Đó là
nhiếp thọ những
pháp hữu vi ,
nhiếp thọ thê thiếp con cái .Những người
vô trí ấy
trở lại bị thê thiếp con cái
nhiếp thọ.Cứ mãi xoay vần
nhiếp thọ nhau như vậy thí chẳng
nhiếp thọ thánh đạo.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì bĩ
trói buộc nơi thê thiếp
vợ con nên người
vô trí ấy sanh nhiều
chướng ngại nơi pháp lành .
Chướng ngại những gì ? Đó là
chướng ngại xuất gia,
chướng ngại Thi la,
chướng ngại tĩnh lự ,
chướng ngại thiên đạo ,
chướng ngại Niết bàn , lại hay
chướng ngại các pháp diệu thiện.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Người
vô trí ấy
nhiếp thọ thê thiếp
nữ sắc con cái như vậy ,nói tóm lược là
nhiếp thọ oán thù , là
nhiếp thọ địa ngục ,
bàng sanh ,
ngạ quỉ các
ác đạo , là
nhiếp thọ các pháp ác
bất thiện, mà
chướng ngại tất cả
pháp Hiền Thánh .Vả lại
nhiếp thọ thê thiếp
nữ sắc như vậy còn
chướng ngại cả sự
ăn ngon huống là những
thắng pháp khác.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tóm lược mà nói về
chướng ngại ấy , đó là
chướng ngại thấy Phật ,
chướng ngại nghe Pháp ,
Chướng ngại phụng Tăng ,
chướng ngại lòng tin đối với Phật , Pháp và Tăng ,
chướng ngại được vô hạn ,
chướng ngại bảy Thánh tài : tín ,giới , văn , xả,huệ, tàm và quý.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
nhiếp thọ những
sắc dục thê thiếp
nam nữ tức là
nhiếp thọ bất tín,
ác giới, tà văn,
xen lẫn và
tà kiến cùng
vô tâm vô quý ,lại cũng
nhiếp thọ bịnh ung, tên độc, khói lửa,
rắn độc.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu thích ở nhà mê say chẳng rời bỏ tức là thích mồ mả. Thế nên Phật nói ở
tại gia như gò mả, như ở đồng
hoang không chỗ dựa nương liền mất tất cả pháp trắng sạch.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
say đắm nơi
sắc dục nam nữ thê thiếp , phải biết đó chíng là
say đắm ngòi nổ của trái pháo , là
say đắm mũi nhọn của dao bén ,là
say đắm hòn sắt nóng đỏ lớn ,là
say đắm nằm giường sắt nóng, là
say đắm ngồi ghế sắt nóng.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
say đắm trang điểm
vòng hoa hương xoa, chính là
say đắm vòng sắt nóng cứt đái xoa thân.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
nhiếp thọ nhà cửa để ở, đó là
nhiếp thọ chum sắt nóng lớn.Nếu
nhiếp thọ tôi trai tớ gái công nhơn , đó là
nhiếp thọ quỉ tốt ác
địa ngục.Nếu
nhiếp thọ gia súc, đó là
nhiếp thọ chó sắt , ngựa đen ở
địa ngục , lại là
nhiếp thọ trăm ngàn lính cấm vệ
địa ngục.Nếu
nhiếp thọ nữ sắc thê thiếp , phải biết đó là
nhiếp thọ tất cả khối sầu lo buồn khổ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thà gá nằm trên giường sắt nóng rộng ngàn
na do tha , chớ chẳng dùng lòng
ái nhiễm xa nhìn các
nữ sắc thê thiếp của
cha mẹ cung cấp, huống là gần kề ôm ấp.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Phải biết phụ nhơn là gốc các sự khổ, là gốc
chướng ngại , là gốc
sát hại, là gốc
trói buộc,là gốc
ưu sầu , là gốc oán đối ,là gốc
sanh manh.
Phải biết phụ nhơn diệt mất
thánh huệ nhãn.Phải biết phụ nhơn như hoa sắt nóng đỏ rải trên đất chưn dẫm lên đó.Phải biết phụ nhơn
lưu bố tăng trưởng các tánh tà ác.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Cớ gì gọi là phụ nhơn ?
Chữ phụ ấy có nghĩa là mang gánh nặnh .Tại sao ? Vì hay khiến
chúng sanh mang
gánh nặng .Vì hay khiến
chúng sanh chịu lấy
gánh nặng . Vì hay khiến
chúng sanh khốn nơi
gánh nặng.Vì hay khiến
chúng sanh khốn nơi
gánh nặng. Vì hay khiến
chúng sanh giữ lấy
gánh nặng mà đi.Vì hay khiến
chúng sanh vác
gánh nặng đi khắp nơi.Vì hay khiến
chúng sanh lòng khổ nhọc đối
gánh nặng ấy.Vì hay khiến
chúng sanh bị
gánh nặng ấy nung bức .Vì hay khiến
chúng sanh bị
gánh nặng thương tổn vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chữ phụ ấy lại có nghịa là chỗ mà
chúng sanh thua thiệt.Chỗ trôi chìm của mọi
tham ái .Chỗ nộp thuế của kẻ
thuận theo vợ .Chỗ
mê hoặc của vợ đẹp .Chỗ quy đầu của vợ hơn. Chỗ roi vọt của kẻ sợ vợ. Chỗ
phóng túng của vợ
tự do. Chỗ khổ mệt của kẻ làm mọi vợ. Do các cớ ấy nên gọi những chỗ như vậy là phụ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Chúng sanh trong đời vì cớ vợ chẳng bỏ nên
gánh nặng chẳng bỏ . Những
gánh nặng gì ? Đó là
ngũ uẩn :
Sắc uẩn ,
thọ uẩn ,
tưởng uẩn ,
hành uẩn và
thức uẩn.
Phụ nhơn
trong đời có thể làm cho
chúng sanh chẳng bỏ
gánh nặng ngũ uẩn như vậy, nên gọi
ngũ uẩn là phụ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lại cớ gì người đời gọi vợ là cố đệ nhị ? Vì nữ nhơn ấy là bạn thứ hai phạm
Thi la, là bạn thứ hai phạm
oai nghi, là bạn thứ hai phạm
chánh kiến, là bạn thứ hai khi uống ăn, là bạn thứ hai đi đến
địa ngục ,
bàng sanh , quỉ đạo, là bạn thứ hai làm chướng
Thánh huệ , làm ngại vui
Niết bàn nhiếp lấy tất cả khổ vậy. Vì thế nên người đời gọi vợ là cố đệ nhị.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lại cớ gì người đời gọi vợ là mẫu chúng ? Vì nữ nhơn sanh nhiều
lỗi lầm vô biên sự ào dối, nên gọi là mẫu chúng.Nếu ai đeo theo mẫu chúng
tự do thì nên biết là sa vào trong tay quân ma
tự do làm ác.
Phải biết tất cả nữ nhơn
trong đời sanh nhiều
lỗi lầm vô biên ảo dối , lòng họ nhiều tháo động ,nhiều lưu đảng ngiêng úp chẳng dừng ,lòng họ
như khỉ như vượn, họ khéo thuật hiện bày ảo dối ,vì thế nên gọi nữ nhơn là mẫu chúng.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nói mẫu chúng tức là thôn mẫu ảo , cũng gọi là thành ảo ,là ấp ảo, là thủ đô của ảovương, là nhà trọ của ảo khách, là quán xá của ảo nhơn ,là ảo quốc , ảo thôn, ảo xứ , ảo phương, là
thế gian ảo,
thế giới ảo,
vô biên ảo ,
quảng đại ảo,
vô lượng ảo ,
bất tư nghị ảo,
quảng đại ảo,
vô lượng ảo ,
bất tư nghị ảo.Do vì là
lỗi nặng dục lạc hay đến
ác đạo nên hiệu nữ nhơn là thôn mẫu ảo.
Thí như nhà
ảo thuật học giỏi
ảo thuật ở giữa công chúnh
hiện ra nhiều sự ảo dối.
Cũng vậy , mẫu ảo thôn học giỏi thuật ảo dối của nữ nhơn, có thể khiến người chồng hoặc thấy hoặc nghe hoặc rờ hoặc chạm đều bị
trói buộc.
Nữ nhơn lại giỏi cách
mê hoặc, do đó họ có
thế lực nhiều .Phàm họ có động tác như
ca vũ cợt cười khóc than, hoặc đi đứng ngồi nằm đều khiến người chồng chẳng
tự chủ mà bị
trói buộc sai sử.
Thí như
trong đời ruộng lúa chín bị mưa đá
phá nát ngập lụt.
Cũng vậy, mẫu ảo thôn như mưa đá tuôn vào ruộng người chồng
phá nát tất cả pháp lành lúa tốt.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Phu nhơn có bao nhiêu là
lỗi nặng thẳng đến
ác đạo mà
phàm phu ngu si bị họ
mê hoặc chẳng hay biết là
lỗi nặng, trởi lại
nhiếp thọ thê thiếp
nữ sắc rồi mê say trong ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì
đại Bồ Tát trí huệ thật hành
Thi la B la mật nên ở nơi các
dục lạc biết rõ là lỗi bèn
y theo chánh pháp phát khởi hai
ý tưởng : đó là với hàng
ngu phu có
ý tưởng là ác nhơn , với chư Phật và
Bồ Tát có
ý tưởng là thiện nhơn. Có
ý tưởng ấy rồi ,
đại Bồ Tát ấy nghĩ rằng nay ta phải đến chỗ thiện nhơn mà không nên đến chỗ ác nhơn . Ta không nên đến chỗ
địa ngục, bành sanh
ngạ quỉ . Ta không nên đến chổ phá
Thi la, chỗ
phạm luật nghi.Ta phải đến
chỗ tối thắng
Vô thượng vô
chướng ngại rời lìa hẳn các pháp ác trược. Ta phải đến chỗ
chư Phật Như Lai đại trí huệ. Ta phải ngược dòng mà đi , không nên thuận dòng.Ta phải như
sư tử rống, chẳng phải như cheo kêu .Ta phải
hiển hiện thế lực như
kim sí điểu vương , chẳng nên
hiển hiện sức mọn của côn trùng nhỏ.Ta phải làm người
hiền lương , chẳng nên làm người
hiểm ác hư hỏng .Ta phải ăn món ăn
hiền lương thắng thượng
trong sạch, chẳng nên ăn món vô lương, hạ tiện nhơ bẩn.Ta phải
tu hành tĩnh lự vi diệu,
tĩnh lự tối thắng ,
tĩnh lự thù đặc,
tĩnh lự đệ nhứt , chẳng nên
tu hành các
tĩnh lự hạ liệt không phải
các loại tĩnh lự trên.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát nghĩ rằng ta phải du hí trong
tĩnh lự chư Phật , chẳng nên di hí trong các
tĩnh lự của
Thanh Văn ,
Độc Giác phàm phu .Ta phải
tu hành tĩnh lự không y dựa ,chẳng nên
tu hành tĩnh lự y dựa nơi sắc, y dựa nơi
thọ tưởng hành thức , chẳng nên
tu hành tĩnh lự y dựa nơi địa
thủy hỏa phong, cũng chẳng
tu hành tĩnh lự y dựa
dục giới sắc giới vô sắc giới , cũng chẳng
tu hành tĩnh lự y dựa nơi đã thấy đã nghe đã nhớ đã biết đã được đã chạm đã chứng. Ta phải
tu hành tĩnh lự không y dựa . Do
tu tập như vậy nên chẳng tổn mình cũng chẳng tổn người cũng chẳng cùng tổn.Ta phải
cần cầu viên thành Phật trí há lại nên cầu các
dục lạc thế gian.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc
tu hành Thi la Ba la mật có chánh quán như vậy rồi ,
đại Bồ Tát lại phải
phát khởi bốn thứ chán lìa :
Một là có thể đối với các
dục lạc mà sanh chán lìa.
Hai là đối với các cõi có thể sanh chán lìa.
Ba là đối với các
chúng sanh chẳng
biết ơn hay sanh chán lìa.
Bốn là đối với tất cả chỗ làm những
khổ não hay sanh chán lìa.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát quan sát các
hữu tình ở nơi
ác đạo thấy
nữ sắc đẹp sanh lòng tham thì phải
phát khởi bốn
ý tưởng chán lìa , đó là những
ý tưởng thối thất ,té ngã , đi cầu tiêu và mủ chảy cứt thúi dơ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các
hữu tình ở
ác đạo mà có
hiểu biết ,thấy
nữ sắc đẹp còn phải có bốn
ý tưởng như trên huống là
loài người .
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các
thiện nam tử ở
Đại thừa, những người chán lìa tất cả
pháp hữu vi khi thấy
nữ sắc đẹp
phát khởi bốn
ý tưởng : Thối thất ,té ngã , đi cầu tiêu ,mủ cứt , nếu còn sanh lòng tham thì lại phải phát sanh ba
ý tưởng thân thuộc, nếu bằng mẹ thì tưởng là mẹ, bằng chị em thì tưởng là chị em, bằng con cháu thì tưởng là con cháu.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát nghe Phật giảng dạy mà khéo hiểu được thì phải
tùy thuận kinh điển Thi la Ba la Mật như vậy .Tại sao ? Vì khó có
chúng sanh nào từ đời lâu xa
đến nay mà chẳng phải đã từng làm
cha mẹ ta .Nếu gần kề thê thiếp nữ nhơn đó là gần kề người mẹ đời
quá khứ vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nghe Phật giảng dạy rồi ,
đại Bồ Tát vì được
thanh tịnh nên phải siêng
tu học như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Ngu phu trong đời trái nghịch chẳng tin
chánh pháp ấy .
Bồ Tát thì
tùy thuận chánh pháp không trái nghịch.
Nếu ai đã
tu hành chánh quán ấy mà tâm tham vẫn còn , thì phải theo đúng lý để
quán sát tâm tham ấy thấy gì mà phát sanh.Nếu
do nơi nhãn căn mà
khởi tâm tham, lại phải theo đúng
lý quán sát : Ta do
nhãn căn mà
phát khởi ái nhiễm , vậy ai thấy được
nhãn căn ? Có phải là
nhãn căn thấy
nhãn căn chăng , thế thì tự nó thấy nó cjhăng ? Tại sao ? Kia cũng là
nhãn căn mà đây cũng là
nhãn căn , đều do
tứ đại tạo thành, lại do
đại chủng sanh ra. Chẳng phải do tự thể kia ở nơi tự thể nầy mà sanh nhiễ ái , lại chẳng phải nơi tự thể ta mà sanh
nhiễm ái . Tại sao ? Vì kia tức là đây vậy .Nếu ở nơi kia sanh
nhiễm ái thì phải ở nơi đây sanh
nhiễm ái .Tại sao ? Vì không sai khác vậy .
Phàm phu trong đời ngu si cùng chung trong
tham ái , ta phải cầu những pháp khác biệt họ. Tại sao ? Vì những
cảm giác ái dục đều
vô sở đắc vậy”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằnh :
“Lẫn nhau đồng
một thểĐều
không tánh sai khác
Do trái lý
tà chấpPhát khởi tâm
tham áiSao do
tứ đại sanh
Lại nhiễm được đại tạo
Các pháp dường
như ảoKhông gì khởi
tham áiNgu phu nhận biết sai
Vọng sanh lòng
tham áiKẻ bất hiếu sanh tham
Người hiền thiện không ái
Khắp cả
mười phương cõi
Không tìm được tham thiệt
Chỉ do
nhận biết sai
Nên sanh lòng tham ấy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát quán sát như vậy rồi mà lòng tham ấy vẫn còn , lại phải
tùy thuận kinh điển như vầy :
Nhãn căn như khối bọt nước chẳng bốc nắm được .Tại sao ? Vì khối bọt nước chẳng bốc nắm được .Tại sao ? Vì khối bọt nước ất cũng như tất cả pháp đều không có ngã cũng không có tình , không có
thọ giả, không
tri giả,
không kiến giả , không nhơn giả , không ý sanh, không
tác giả , không
thọ giả . Ở trong tất cả pháp
vô tác vô thọ như
vậy thì ai
nhiễm ái được và
nhiễm ái chỗ nào ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Nhãn căn như bóng nước chẳng cứng chắc .Tại sao ? Vì bóng nước cũng như tất cả pháp vốn không có ngã , không có tình, không
thọ giả, không
tri giả,
kiến giả,không có nhơn , không
tác giả , không
thọ giả. Ở trong những
pháp không tác không thọ như vậy ai
nhiễm ái được ,
nhiễm ái chỗ nào ?
Nầy
Xá Lợi Phật !
Nhãn căn như dương diệm do
khát ái sanh như cây chuối chất chẳng cứng chắc , như cảnh mộng chẳng thiệt , như vang docác duyên , như bóng y nghiệp mà hiện , như
áng mây bay tan, như chớp xẹt liền mất , như hu không rời
ngã ngã sở , như cỏ cây đất đá vì là
vô tri, như máy chuyển động theo gió ,như đống rác mục mau thúi rã , như giếng trên gò luôn gìa khô ,
nhãn căn chẳng còn lâu rồi sẽ chết hư vốn không ngã ,không tình ,không mạng ,không
tri giả kiến giả , không nhơn ,không
tác giả thọ giả ,ai
nhiễm ái và
nhiễm ái chỗ nào ?
Như
nhãn căn ,
quán sát những căn những trần tất cả các pháp cũng theo đúng lý như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc
đại Bồ Tát quán sát đúng lý như
vậy mà còn bị các
tham ái kéo dắt thì không bao giờ có.
Đại Bồ Tát chánh quán như vậy ,phải biết là rời hẳn
tham ái đối với các pháp . Đây gọi là lúc thật hành
Thi la Ba la mật ,
đại Bồ Tát diệt các
tham ái trọn vẹn thanh tịnh.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thật hành
Thi la Ba la mật như vậy ,
đại Bồ tát chẳng là những nghiệp hại
chúng sanh , dầu cho lúc mạng sống của mình bị
đe dọa cũng chẳng làm
tổn hại tất cả
chúng sanh, chẳng làm những nghiệp trộm cướp ,
tà hạnh,
vọng ngôn ,
ác khẩu ,
ly gián ,
ỷ ngữ ,chẳng sanh lòng tham,lòng sân ,
tà kiến .Dầu cho mạng sống của mình bị
đe dọa cũng chẳng phạm các điều ác ấy . Đây gọi là
Thi la thanh tịnh.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Do thật hành
Thi la Ba la mật nên
đại Bồ Tát đầy đủ
vô lượng vô biên Phật Pháp.
Do thật hành
Thi la Ba la mật nên
đại Bồ Tát đầy đủ
thành tựu Thi la chẳng khuyết ,vì chẳng gần kề kẻ
vô trí vậy . Đầy đủ
thành tựu Thi la chẳng lủng ,vì hay xa rời pháp bất
bình đẳng vậy . Đầy đủ
thành tựu Thi la chẳng lem, vì chẳng gần kẻ ác và các
phiền não vậy. Đầy đủ
thành tựu Thi la chẳng
ô nhiễm ,vì chỉ do pháp lành làm
tăng trưởng vâ(y. Đầy đủ
thành tựu Thi la ứng cúng ,vì làm như
sở nguyện vậy. ĐDầy đủ
thành tựu Thi la khen ngợi ,vì chẳng bị người trí
quở trách vậy. Đầu đủ
thành tựu Thi la khéo
giữ gìn, vì
viên mãn chánh niệm và chánh
tri kiến vậy. Đầy đủ
thành tựu Thi la chẳng chê ,vì các
lỗi lầm chẳng sanh vậy . Đầy đủ
thành tựu Thi la khéo
hộ trì , vì khéo phòng vệ các ăn vậy . Đầy đủ
thành tựu Thi la cao rộng , vì được chư Phật nhớ biết vậy. Đầy đủ
thành tựu Thi la thiểu dục ,vì biết lường vậy . Đầy đủ
thành tựu Thi la tri túc ,vì dứt
vui mừng vậy. Đầy đủ
thành tựu Thi la chánh hạnh ,vì
thân tâm xa rời vậy. Đầy đủ
thành tựu Thi la tịch tĩnh ,vì chán phiền rộn vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la thánh chủng thiện hỷ , vì chẳng mong chẳng đoái
nhan sắc vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la công đức ít sự việc ,vì
tự tại sanh trưởng các
thiện căn vậy.
Thành tựu đầy đủ
Thi la làm đúng như lời , vì chẳng dối trới người
thế gian vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la đại từ , vì chẳng hại mạng sống của tất cả vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la đại bi, vì nhịn chịu tất cả sự khổ vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la đại hỷ, vì chẳng thối giảm nơi
pháp lạc vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la đại xả , vì tất cả tham sân dứt sạch vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la thường Xét lỗi mình, vì
nội tâm thường khéo có
soi xét vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la chẳng chê người kém khuyết vì khéo thuận hộ tâm
chúng sanh vậy.
Thành tựu đầy đủ
Thi la thành thục chúng sanh , vì
rốt ráo hay đến
thí Ba la mật vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la khéo
thủ hộ, vì
rốt ráo hay đến
Giới Ba la mật vậy.
Thành tựu đầy đủ
Thi la không lòng ghét hại , vì
rốt ráo đến
Nhẫn Ba la mật vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la định phần
viên mãn , vì
rốt ráo đến
Tĩnh lự Ba la mật vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la chánh văn chẳng nhàm , vì
rốt ráo đến
Đại huệ Ba la mật vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la thân cận
thiện hữu, vì khéo
tu tập Bồ đề phần tư lương vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la xa rời
ác hữu ,vì
vứt bỏ đạo bất
bình đẳng vậy. Thánh tựu đầy đủ
Thi la chẳng đoái luyến
thân thể mình , vì hằng
quán sát vô thường vậy.
Thành tựu đầy đủ
Thi la chẳng đoái luyến mạng sống mình ,vì chẳng thường
bảo thủ chỗ sở trọng của mình vậy.
Thành tựu đầy đủ
Thi la chẳng sanh lòng
ăn năn , vì lòng khéo
thanh tịnh vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la chẳng dối hiện, vì
phương tiện khéo thanh tịnh vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la chẳng não nhiệt ,vì ý
tăng thượng khéo
thanh tịnh vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la chẳng bồn chồn , vì rời xa các
tham ái vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la chẳng cao mạn, vì hòa nhu
chất trực vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la chẳng ngang ngược , vì tánh hiền thiện vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la khéo
điều phục ,vì không giận hờn vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la tịch tĩnh ,vì tánh an nhiếp vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la thiện ngữ , vì đúng như lời đã nói không trái nghịch vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la thành thục hữu tình, vì thường chẳng bỏ rời các nhiếp pháp vậy .
Thành tựu đầy đủ
Thi la thủ hộ chánh pháp ,vì chẳng tự làm hư
thánh pháp tài vậy .
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát trí huệ thanh tịnh giới tụ như vậy ,
thành tựu đầy đủ
Thi la Ba la mật , vì
Vô thượng Bồ đề nên có thể khéo
tu hành Bồ Tát diệu hạnh . Đây gọi là
đại Bồ Tát Thi la Ba la mật.
Nếu
chư đại Bồ Tát chuyên cần tu hành Bồ Tát hạnh nầy , thì tất cả chúng ma,
ma dân ,
thiên ma chẳng nhiễu loạn được , lại chẳng bị dị đạo hay tha luận đè bẹp ».
Pháp Hội Bồ Tát Tạng
Phẩm Thi La Ba La mật
Hết