GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
I
PHÁP HỘI
TAM TỤ LUẬT NGHI
THỨ NHẤT
(Hán bộ từ quyển thứ nhất đến hết quyển thứ ba)
Hán dịch: Nhà Đường, Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
NGHI THỨC TRÌ TỤNG
BÀI TÁN
LƯ HƯƠNGLư hương vừa ngún
chiên đàn,
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa,
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Ngửa mong chư Phật thương mà
chứng minh.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI:
Án lam. (7 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH
KHẨU NGHIỆP:
Tu rị tu rị,
ma ha tu rị, tu tu rị
ta bà ha. (3 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH
BA NGHIỆP:
Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ hám. (3 lần)
CHƠN NGÔN PHỔ
CÚNG DƯỜNG:
Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)
BÀI VĂN
PHÁT NGUYỆNNam mô thập phương thường trụ Tam Bảo. (3 lần)
Lạy đấng
Tam Giới Tôn,
Quy mạng mười phương Phật,
Nay con
phát nguyện lớn,
Trì tụng
Đại Bảo Tích,
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới
cứu khổ tam đồ,
Nếu có ai thấy nghe,
Đều
phát Bồ Đề tâm,
Khi mãn
báo thân này,
Sanh qua cõi
Cực Lạc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINHPhật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ
Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Đại Bảo Tích Hội Thượng Phật
Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)
I
PHÁP HỘI
TAM TỤ LUẬT NGHI
THỨ NHẤT
(Hán bộ từ quyển thứ nhất đến quyển thứ ba)
Hán dịch: Nhà Đường, Tam Tạng Pháp Sư Bồ đề Lưu Chi.
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh.
Như vậy, tôi nghe: một thuở nọ
đức Phật ở
núi Kỳ Xà Quật nơi thành
Vương Xá. Núi đó cao đẹp, cỏ cây
hoa quả đều xanh tốt xum xuê. Hàng Thiên, Long,
Dạ Xoa,
Tỳ Xá Xà,
Khẩn Na La v.v... thường ở nơi đó.
Trong núi lại có các loài muông thú:
sư tử, cọp, sói, kỳ lân, voi, ngựa, gấu v.v...
Núi này có đủ các loài chim: chim công, chim két, nhồng, sáo, le le, chim nhạn, chim uyên ương, chim
cộng mạng v.v...
Các loài chim muông trong núi nhờ
oai thần của Phật nên tất cả đều
hiền lành chẳng giết hại
ăn thịt nhau,
thương yêu nhau như tình
mẫu tử.
Những cây
mộc hương, cây
am la, cây chân thúc ca, cây
ni câu đà, cây
chiên đàn,
cây trầm thủy mọc rậm thành rừng.
Khắp núi đầy những hoa đẹp. Trên đất có những hoa: a đề, chiêm bà,
ba tra,
bà sư, tô mạng, do đề.
Dưới nước có những
hoa sen xanh,
hoa sen đỏ,
hoa sen vàng,
hoa sen trắng, hoa
ca la. Màu hoa
hương hoa xen nhau làm cho
núi Kỳ Xà Quật vừa đẹp vừa thơm.
Trên núi này, nửa đêm
thường có mây bao phủ, văng vẳng
tiếng sấm, láy pháy mưa bay, nước bát
công đức chảy thấm khắp núi. Khoảng
thời gian vắt sữa, mây mưa đều tan. Kế đó gió mát
thoang thoảng làm
vui thích thân tâm mọi người.
Trong núi này có loài cỏ dịu mềm đủ cả sắc lẫn hương, xanh mướt bóng láng như lông ức chim công, thơm như hoa
bà sư ca, chạm đến mịn nhuyễn như bông
đâu la. Do đây mặt đất mềm dịu, làm êm chân người đi không bao giờ đau rát.
Trong núi có nhiều ao, hồ, suối chảy. Giữa nước trong mát đủ
các loại hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía mọc lên. Hương sen ngào ngạt khắp núi.
Đảnh núi có
tòa sen báu lớn
tốt đẹp:
kim cương xanh làm cọng,
lưu ly làm tua, vàng
diêm phù đàn làm cánh rộng lớn,
chiên đàn làm gương, ngọc
mã não làm nhụy.
Tòa sen báu này to rộng
mênh mông.
Mười ức
A Tu La Vương thường cầm mười ức lưới báu
ma ni giăng che phía trên
bảo tòa. Mười ức
Long Vương rưới mưa thơm. Mười ức
Kim Xí Điểu Vương miệng ngậm giải lụa màu. Mười ức
Khẩn Na La Vương
chí thành chiêm ngưỡng. Mười ức
Ma Hầu La Dà Vương
cung kính cúi nhìn. Mười ức
Càn Thát Bà Vương ca ngâm khen ngợi. Mười ức
Thiên Đế bủa mây lành, rải các thứ hương, các thứ hoa, cùng
tràng phan bảo cái. Mười ức
Phạm Vương cúi mình kính ngưỡng. Mười ức
trời Tịnh Cư chắp tay đảnh lễ. Mười ức
Chuyển Luân Vương mang theo thất bảo. Mười ức Hải Thần đến
kính lễ bảo tòa.
Tòa sen báu này lại có
vô số bảo châu như ý kết hợp trang nghiêm: Mười ức
bảo châu Quang minh ma ni chiếu sáng, mười ức
bảo châu Tịnh phước
ma ni xinh đẹp, mười ức
bảo châu Biến chiếu ma ni trong sạch, mười ức
bảo châu Diệu quang ma ni chõi rỡ, mười ức
bảo châu Tạp sắc
ma ni chiếu khắp, mười ức
bảo châu Diêm phù tràng
ma ni vững vàng, mười ức
bảo châu Kim cương sư tử ma ni trang nghiêm, mười ức
bảo châu Nhựt tạng
ma ni rộng lớn, mười ức
bảo châu Bất tư nghị ma ni ánh đủ màu, mười ức
bảo châu Như ý trang nghiêm vô tận.
Bảo tòa liên hoa này có ra là từ nơi
thiện căn vô thượng của
đức Như Lai. Là chỗ mà chí ý của
Bồ Tát ái mộ khắp hiện các nơi.
Bảo tòa này cũng là
từ pháp như huyễn mà có, cũng là
từ thiện nghiệp,
từ pháp tánh
vô tránh,
pháp tánh như mộng mà có. Pháp
vô hành dùng để ấn. Thuận với lý
vô trước, nên cùng khắp
mười phương tất cả
pháp giới. Do
công đức thuận với
cảnh giới Phật mà tạo nên.
Giả sử trong
vô lượng a tăng kỳ kiếp cũng không thể
ca ngợi hết
sắc tướng xinh đẹp và
công đức trang nghiêm của
tòa sen báu này được.
Đức
Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ngự
kiết già trên
bảo tòa này.
Bên
bảo tòa có tám ngàn vị
đại Tỳ Kheo câu hội:
Tôn giả Kiều Trần Như,
Tôn giả A Tháp Bà,
Tôn giả Ma Sử Ba, và các
Tôn giả:
Ma Ha Nam,
Ưu Đà Di, Gia Xá,
Phú Na,
Vô Cấu Thiện Tý,
Kiều Phạm Ba Đề,
Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp,
Già Da Ca Diếp,
Na Đề Ca Diếp,
Ma Ha Ca Diếp,
Xá Lợi Phất,
Đại Mục Kiền Liên,
A Na Luật,
Tu Bồ Đề,
Ly Bà Đa,
Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử,
Ưu Ba Ly,
La Hầu La,
Nan Đà v.v... các vị
Thượng thủ Tỳ Kheo này đều đã
giác ngộ đế lý
tự tánh, qua khỏi biển
tam giới. Các Ngài đi trong hạnh
hư không của
Như Lai, đều dứt hẳn
phiền não, đều trụ nơi
vô trụ, dứt hết
nghi hoặc đối với
đức Như Lai. Các Ngài đã vào trong biển
trí huệ của Phật, là bạn bất
thỉnh cầu đem
lợi ích cho
thế gian. Các Ngài luôn vệ hộ tất cả
chúng sanh mà làm bạn đi sát theo họ. Các Ngài đã
thông đạt cảnh giới Phật pháp. Các Ngài
thệ nguyện thủ hộ thọ trì chánh pháp của chư Phật,
hiện tiền đặng sanh
chủng tánh Như Lai có thể hướng đến
nhất thiết chủng trí.
Tám ngàn vị
đại Bồ Tát câu hội.
Thượng thủ là các Ngài
Phổ Hiền Bồ Tát,
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát,
Tối Thượng Trí Trí Bồ Tát,
Tối Thượng Bửu Trí
Bồ Tát, Nhứt Thiết
Ngữ Ngôn Trí
Bồ Tát,
Vô Trước Trí
Bồ Tát, Hoa Thượng Trí
Bồ Tát, Nhựt Thượng Trí
Bồ Tát, Nguyệt Thượng Trí
Bồ Tát,
Vô Cấu Thượng Trí
Bồ Tát,
Kim Cang Trí Bồ Tát,
Viễn Trần Trí
Bồ Tát, Quang Tràng
Bồ Tát,
Diệu Cao Tràng
Bồ Tát, Bửu Tràng
Bồ Tát,
Vô Ngại Tràng
Bồ Tát,
Hoa Tràng Bồ Tát, Tịnh Tràng
Bồ Tát, Nhựt Tràng
Bồ Tát,
Đoan Nghiêm Tràng
Bồ Tát,
Ly Cấu Tràng
Bồ Tát,
Biến Chiếu Tràng
Bồ Tát,
Đà La Ni Oai Đức Bồ Tát, Bửu
Oai Đức Bồ Tát,
Đại Oai Đức Bồ Tát,
Kim Cang Trí Oai Đức Bồ Tát,
Vô Cấu Oai Đức Bồ Tát, Nhựt
Oai Đức Bồ Tát, Nguyệt
Oai Đức Bồ Tát, Phước Sơn
Oai Đức Bồ Tát, Trí Chiếu
Oai Đức Bồ Tát, Phổ Thắng
Oai Đức Bồ Tát,
Địa Tạng Bồ Tát,
Hư Không Tạng Bồ Tát,
Liên Hoa Tạng
Bồ Tát, Bửu Tạng
Bồ Tát, Nhựt Tạng
Bồ Tát,
Thanh Tịnh Công Đức Tạng
Bồ Tát,
Pháp Hải Tạng
Bồ Tát,
Biến Chiếu Tạng
Bồ Tát, Tề Tạng
Bồ Tát, Thắng
Liên Hoa Tạng
Bồ Tát, Nhựt Nhãn
Bồ Tát,
Tịnh Nhãn Bồ Tát,
Vô Cấu Nhãn
Bồ Tát,
Vô Ngại Nhãn
Bồ Tát,
Phổ Minh Nhãn
Bồ Tát, Thiện
Lợi Trí Nhãn
Bồ Tát,
Kim Cang Nhãn
Bồ Tát, Bửu Nhãn
Bồ Tát,
Hư Không Nhãn
Bồ Tát,
Phổ Nhãn Bồ Tát,
Thiên Quan Bồ Tát, Chiếu
Pháp Giới Ma Ni Quan
Bồ Tát, Diệu Bồ ề
Ma Ni Quan
Bồ Tát, Chiếu
Thập Phương Quan
Bồ Tát,
Xuất Hiện Nhứt Thiết Phật Tạng Quan
Bồ Tát, Siêu Nhứt Thiết
Thế Gian Quan
Bồ Tát,
Phổ Chiếu Quan
Bồ Tát, Vô Ánh
Tể Quan Bồ Tát,
Chấp Trì Như Lai Sư Tử Tòa Quan
Bồ Tát,
Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quan
Bồ Tát,
Phạm Vương Kế
Bồ Tát,
Long Vương Kế
Bồ Tát, Phật
Biến Hóa Ảnh Tượng Kế
Bồ Tát, Diệu
Bồ Đề Kế
Bồ Tát,
Nguyện Hải Âm Thanh Ma Ni Vương Kế
Bồ Tát, Phóng
Như Lai Viên Quang Ma Ni Bửu Lôi Thinh Kế
Bồ Tát,
Hư Không Biểu Thị Ma Ni Bửu Võng Phú Kế
Bồ Tát,
Như Lai Pháp Luân Thinh Kế
Bồ Tát,
Tam Thế Danh Luân Thinh Kế
Bồ Tát,
Đại Quang Bồ Tát,
Vô Cấu Quang Bồ Tát,
Bửu Quang Bồ Tát, Ly Trần Quang
Bồ Tát, Chiếu Quang
Bồ Tát, Pháp Quang
Bồ Tát,
Tịch Tịnh Quang
Bồ Tát, Nhựt Quang
Bồ Tát,
Thần Biến Quang
Bồ Tát, Thiên Quang
Bồ Tát, Phước Quang
Bồ Tát,
Trí Quang Bồ Tát, Pháp
Quang Minh Bồ Tát,
Thần Thông Quang Bồ Tát, Quang Chiếu
Bồ Tát,
Hoa Quang Bồ Tát,
Bửu Quang Bồ Tát,
Giác Quang Minh
Bồ Tát, Phạm Quang
Bồ Tát,
Phổ Chiếu Quang
Bồ Tát,
Phạm Âm Bồ Tát, Hải Âm
Bồ Tát, Địa Hống Âm
Bồ Tát,
Thế Gian Vương Âm
Bồ Tát,
Sơn Vương Âm
Bồ Tát,
Sơn Vương Tướng Kích Âm
Bồ Tát, Biến
Pháp Giới Âm
Bồ Tát,
Pháp Hải Lôi Âm
Bồ Tát, Tồi Phục Chư Ma Âm
Bồ Tát,
Đại Bi Lý Thú Vân Lôi Âm
Bồ Tát, Biến Tức Nhứt Thiết
Thế Gian Khổ Não Âm
Bồ Tát,
Pháp Thắng Dũng
Bồ Tát,
Thù Thắng Dũng
Bồ Tát, Trí Thắng Dũng
Bồ Tát, Phước
Tu Di Thắng Dũng
Bồ Tát,
Công Đức Tối Thắng Dũng
Bồ Tát,
Danh Văn Thắng Dũng
Bồ Tát,
Phổ Quang Thắng Dũng
Bồ Tát,
Đại Từ Thắng Dũng
Bồ Tát, Trí Chiếu Thắng Dũng
Bồ Tát,
Như Lai Chủng Tánh Thắng Dũng
Bồ Tát,
Quang Đức Bồ Tát, Thắng Đức
Bồ Tát,
Pháp Dũng Đức
Bồ Tát,
Biến Chiếu Đức
Bồ Tát, Pháp Đức
Bồ Tát, Nguyệt Đức
Bồ Tát,
Hư Không Đức
Bồ Tát, Bửu Đức
Bồ Tát, Thiệt Đức
Bồ Tát,
Quang Đức Bồ Tát,
Trí Đức Bồ Tát,
Bà La Đế Vương
Bồ Tát,
Pháp Đế Vương
Bồ Tát, Tượng Đế Vương
Bồ Tát, Phạm Đế Vương
Bồ Tát, Sơn Đế Vương
Bồ Tát, Chúng Đế Vương
Bồ Tát,
Thiên Đế Vương
Bồ Tát,
Tịch Tịnh Đế Vương
Bồ Tát,
Bất Động Đế Vương
Bồ Tát,
Tối Thắng Đế Vương
Bồ Tát,
Bồ Đề Tịch Tịnh Thinh
Bồ Tát,
Vô Trước Thinh
Bồ Tát, Địa Thinh
Bồ Tát,
Đại Hải Thinh
Bồ Tát, Âm Thinh
Bồ Tát, Chiếu Pháp Thinh
Bồ Tát,
Hư Không Thinh
Bồ Tát, Nhứt Thiết Thinh
Bồ Tát,
Thiện Căn Vân Lôi Thinh
Bồ Tát, Phát Ngộ Bổn Nguyện Thinh
Bồ Tát, Tồi Nhứt Thiết
Ma Quân Thinh
Bồ Tát, Trí
Tu Di Giác
Bồ Tát,
Hư Không Giác
Bồ Tát,
Thanh Tịnh Giác
Bồ Tát,
Vô Ngại Giác
Bồ Tát, Khai Mụ Giác
Bồ Tát, Chiếu
Tam Thế Giác
Bồ Tát, Bửu Giác
Bồ Tát,
Quảng Đại Giác
Bồ Tát,
Phổ Quang Giác
Bồ Tát,
Pháp Giới Lý Thú Chiếu Giác
Bồ Tát, v.v... Các vị
đại Bồ Tát này đều an trụ
nguyện hạnh Phổ Hiền, chỗ làm không
trụ trước, vì khắp tất cả
cõi Phật. Các Ngài biến hiện
vô biên thân, vì gần gũi tất cả chư Phật. Các Ngài duyên cảnh
thanh tịnh vô hạn, vì rõ biết tất cả
thần biến của chư Phật. Các Ngài đến đi
vô lượng, vì không ngớt qua đến chỗ chư
Phật hiện thành
Chánh đẳng giác. Các Ngài
quang minh vô biên, vì trong biển
thiệt tướng được
trí quang vô biên. Các Ngài nói
vô tận công đức trong
vô biên kiếp, vì
biện tài thanh tịnh. Các Ngài đồng
hư không, vì trí
thanh tịnh, Các Ngài không chỗ y ỷ, vì
tùy ý lạc
thế gian mà hiện
sắc thân. Các Ngài lìa được sự che lòa, vì rõ biết không có
chúng sanh giới. Các Ngài
trí huệ như
hư không, vì phóng
lưới quang minh khắp
pháp giới. Các Ngài
rốt ráo tịch tịnh, vì tâm rất
tịch tịnh. Các Ngài trụ
cảnh giới tánh trí tất cả
tổng trì. Các Ngài
dũng mãnh vô úy nơi
chánh định. Các Ngài mắt thấy suốt ngằn mé
pháp giới. Các Ngài trụ
vô sở đắc đối với tất cả pháp, đi nơi biển trí
vô biên, đã qua đến bờ
trí huệ Bát nhã ba la mật, đến
ba la mật của tất cả
thế gian, được
tự tại nơi
Chánh định ba la mật.
Năm trăm vị
Tỳ Kheo Ni đồng câu hội:
Ma Ha Ba Xà Ba Đề Tỳ Kheo Ni,
Cù Đàm Di Tỳ Kheo Ni,
An Ổn Tỳ Kheo Ni,
Ưu Bát La Hoa Tỳ Kheo Ni, Dũ
Cù Đàm Di Tỳ Kheo Ni,
Gia Du Đà La Tỳ Kheo Ni v.v...
Năm trăm vị
Ưu Bà Tắc câu hội, hàng
thượng thủ là các
Ưu Bà Tắc: Thiện
Oai Đức,
Huệ Quang, Thiên
Oai Đức, Danh Xưng
Oai Đức, Siêu Danh Xưng
Oai Đức,
Thiện Huệ, Nguyệt Đức, Nguyệt
Hoan Hỷ, Đại
Hoan Hỷ,
La Hầu Hiền,
Đại Hiền v.v...
Năm trăm vị
Ưu Bà Di câu hội,
dẫn đầu là các vị
Ưu Bà Di:
Đại Quang, Thiện Quang, Thiện Thân, Khả Lạc Thân,
HIền Đức,
Nguyệt Quang,
Quang Minh,
Thắng Quang, Thiện Nhãn v.v...
Và có
vô lượng Thiên, Long,
Bát bộ cung kính hầu quanh
đức Phật.
Đức Phật vì
đại chúng mà nói ba
luật nghi,
luật tạng của tất cả
Như Lai, hiện bày
công hạnh của tất cả
Bồ Tát, chiếu rõ
pháp giới có thể
trang nghiêm tất cả
cõi Phật, dẹp các
tà hạnh,
hàng phục ma oán, làm cho
chúng sanh vui mừng được tỏ ngộ.
Lúc đó
Tôn giả Đại Ca Diếp đứng dậy trịch y vai hữu, quỳ
chắp tay bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu
chúng sanh cầu được
thập trí lực,
vô sở úy của Phật, thời phải
thọ trì và
tu hành pháp gì?
Thọ trì pháp gì để được
thành tựu đạo hạnh của Như Lai?
Thọ trì pháp gì để được
viên mãn công đức chứng
Vô thượng Chánh giác?”
Phật bảo Đại Ca Diếp: “Lành thay!
Lành thay! Này Ca Diếp! Lời ông hỏi sẽ đem lại nhiều sự
an ổn lợi ích cho người, cho trời. Ông lắng nghe kỹ và khéo
suy nghĩ ghi nhớ.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu
chúng sanh cầu được
trí lực vô sở úy của Phật, những
chúng sanh này, thật ra không có chút pháp gì để được, cũng không chỗ nương dựa để gieo căn lành.
Nầy Đại Ca Diếp! Lúc
Bồ Tát cầu
Vô thượng Chánh giác, nếu có chỗ được thời là
chấp trước. Nếu
chấp trước thời là chấp lấy
hữu vi ngoài
Phật pháp, ngoài
hữu vi chấp lấy
vô vi. Như thế là đối với
Phật pháp sanh sự
chấp trước mà cho là
giải thoát. Lúc chấp lấy
giải thoát thời nắm cứng lấy
Phật pháp chẳng bỏ rời. Nên biết người như vậy chẳng gọi là hướng đến đạo
Vô thượng. Vì người này ở trong
Phật pháp chấp có ngã
chuyên cần tu tập, đó là luôn
tương ưng với
ngã chấp mà không
lìa bỏ được, do đây có năng
phân biệt cùng sở
phân biệt, bị
phân biệt này sai sử. Nếu theo
phân biệt để duyên cảnh thời có
lưu chuyển. Đã có
lưu chuyển thời có quán xuyên. Đã có quán xuyên thời có
vọng tưởng. Có
vọng tưởng thời có
phân biệt, do
phân biệt càng thêm
vọng tưởng. Đã thêm
vọng tưởng thời nhiều
chấp trước mà lìa xa
tịch tịnh. Đã lìa
tịch tịnh thời
chạy theo cảnh duyên. Đã
chạy theo cảnh duyên thời mất sự
an ổn. Sự
an ổn đây là
vô phân biệt. Đã mất
an ổn thời thường vào
cảnh duyên. Đã thường vào thời thân cận. Đã thân cận thời có phiền ão. Đã có
phiền não thời có
tương tục, có thêm lớn
tương tục, có cùng khắp
tương tục. Do đây
lời nói tất
cuồng loạn, tất
sai lầm, bèn có ưu não, có
hối hận. Đã có
hối hận thời nương tựa
vô minh màbị ưu não làm
tổn hại. Nhưng
thực ra trong đây không có chút pháp gì có thể nương tựa được.
Dầu vậy, từ trong
vọng tưởng sanh
lưu chú mà bị
vọng tưởng ràng buộc. Do sự
ràng buộc này mà
vọng tưởng tương tục, do đây nên gọi là
vọng tưởng ràng buộc không có
chân thật. Tất cả chỗ tham, sân, si đều
hư vọng, là thêm
phân biệt, là khắp
phân biệt, là thêm
chấp trước, là khắp
chấp trước. Do đây không thể sớm đặng
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Ca Diếp! Như trên đó gọi là
ái kiến.
Dầu vậy, nhưng không có pháp nhứt định gọi đó là ái, chỉ do
chấp trước quá bền chắc mà có ái. Nếu đã là
chấp trước thời ái này vẫn trống rỗng. Nếu đã trống rỗng mà sanh
chấp trước thời là nhơn
ái chấp trước, là
ngã ái chấp trước, là
chúng sanh ái chấp trước, là thiện
bất thiện ái chấp trước.
Nầy Ca Diếp! Người như vậy, đối với tất cả
pháp không, mà
phân biệt là chẳng phải không, đối với chẳng phải vật mà tưởng là vật. Vật nói đây chính là
Bồ đề. Nếu cho
Bồ đề là vật, người đó do
ngã chấp bèn chẳng phải
Bồ Tát. Sự chấp trong đây nếu là
bất khả đắc, thì sự chấp trong kia cũng là
bất khả đắc, đây gọi là
ngã chấp không chơn thật, chỉ có danh từ ngã mà thôi.
Nếu có thể viên mãn hữu tình thì
viên mãn Bồ đề. Thế nào gọi là
viên mãn Bồ đề? Chính là
như huyễn.
Như huyễn đây là nói
đại ngã, đại mạn. Nếu đem tưởng nương nơi tưởng, thời khác nào chẳng phải tưởng nương nơi chẳng phải tưởng. Nếu đem chẳng phải tưởng nương với chẳng phải tưởng thời như cuồng như say. Nếu cuồng say thì là đem khổ
chạy theo khổ. Nếu đem khổ
chạy theo khổ thì chư Phật đều nói là kẻ ở
trong vòng cuồng ngôn rảo chạy, vì kẻ này nhiều
tác ý. Đã nhiều
tác ý thì có
cống cao. Đã có
cống cao thì có
ngôn thuyết. Đã có
ngôn thuyết thì càng thêm
ngôn thuyết. Vì thêm nhiều
ngôn thuyết, nên Phật gọi là kẻ
ngôn thuyết, kẻ
giáo thọ, kẻ
thọ trì. Do đây nên các pháp đều từ
tác ý mà được sanh trưởng.
Nầy Đại Ca Diếp! Như trong
hư không có mây nhóm giăng, mây này chẳng từ
mười phương đến. Biết rõ mây nhóm như vậy chẳng phải từ
mười phương.
Đức Như Lai nói đúng sự thật,
nói đúng nghĩa,
nói đúng lý. Vì
nói đúng lý
chân thật, nên
đức Như Lai gọi là đấng
thật ngữ.
Nầy Đại Ca Diếp! Nói rằng mây nhóm, chính là chẳng phải nhóm mà gọi là mây nhóm. Do đâu gọi là mây nhóm? Vì mây kia kết
thành tướng trạng riêng biệt. Tướng trạng này do sự
mê lầm thấy là rộng lớn, thật ra trong đó không có tướng nhỏ tướng lớn thật. Ông nhìn xem mây nhóm
thành tướng rộng lớn kia, chính là chẳng phải tướng. Đã chẳng phải tướng thì chẳng thiệt có mây nhóm.
Nầy Đại Ca Diếp! Như có kẻ bảo người khác rằng: nên cùng nhau qua chỗ râm mát mà ngồi. Người
trí bảo tôi chẳng qua ngồi. Kẻ kia nói nay tôi chẳng nói như vậy, tôi chỉ nói là bóng râm mát. Người trí lại bảo: Anh nói râm mát chính nơi đó chẳng phải râm mát!
Nầy Đại Ca Diếp! Ông xem người trí kia
thuận theo thế tục mà còn có thể tỏ ngộ như vậy như vậy.
Nầy Đại Ca Diếp!
Đức Như Lai đúng
như thật biết rõ lý tánh
chân thật của các pháp, rồi ở trong
đại chúng tự tại tuyên thuyết.
Nầy Đại Ca Diếp!
Đức Như Lai thích ở trong pháp
tùy thuận mà trụ nơi chẳng
tùy thuận. Nơi
ngã chấp của
chúng sanh, ở
Như Lai là
đệ nhất nghĩa. Vì nay
đức Như Lai đã biết rõ
ngã chấp kia: biết rõ sự chấp của
chúng sanh là chẳng phải chấp. Đây là lời
bí mật tối thắng của Phật.
Hoặc có kẻ ngu sanh lòng
ngang trái tranh cãi với
Như Lai, do đây Phật nói
thế gian tranh cãi với Phật, Phật chẳng bao giờ tranh cãi với
thế gian. Thế nào là thế gian? Chính là
chúng sanh. Tại sao
chúng sanh gọi là thế gian?
Đức Như Lai biết rõ
thế gian như vậy nên gọi
chúng sanh là
thế gian. Như kẻ ngu kia chỗ
hiểu biết sai lầm, bị sự biết sai này làm
tổn hại. Những kẻ này thường tin và ở mãi trong
thế gian, theo mãi nơi
thế tục, đây gọi là
vô minh, vì họ ở trong sự
tối tăm lớn nên gọi là ở
thế gian. Nếu ở
thế gian thì có tham. Nếu đã có tham thì có sân. Nếu đã có sân thì có si. Nếu đã có si thì là
bất tịnh. Đã
bất tịnh thì trái ngược. Trái ngược với ai?
Trái với Như Lai và hàng
Thanh Văn. Đã trái ngược thời chống trả. Đã chống trả thì thêm trái ngược. Thêm trái ngược thì thích
hữu lậu. Đã thích
hữu lậu thì tâm mong cầu. Đã mong cầu
hữu lậu bèn khắp mong cầu. Đã khắp mong cầu thì chẳng biết đủ. Đã chẳng biết đủ thì nhiều gây tạo. Đã nhiều gây tạo thì nhiều
tham dục. Đã nhiều
tham dục thì kẻ đó chìm ngập trong
ba cõi. Đã tự chìm ngập trong
ba cõi thì làm cho người khác cũng chìm ngập. Đã làm người khác chìm ngập thì họ theo dòng và cũng trôi theo dòng. Nếu theo dòng và trôi theo dòng thì thẳng đến chỗ chết. Nếu thẳng đến chỗ chết thì chẳng đến được
Niết Bàn. Đã chẳng đến
Niết Bàn thì đến chỗ lỗi quấy. Đã đến chỗ lỗi quấy thì thẳng đến
địa ngục.
Nầy Ca Diếp! Do
tương ưng với pháp chẳng lành như vậy nên tâm
trở thành giận hờn
độc hại và chẳng biết đậy che. Chẳng đậy che đây là nói chẳng quán
ngã chấp. Vì chẳng
quán sát nên chấp làm một hiệp tướng, do đây không thể
tiêu diệt được
ngã và ngã sở.
Thế nào gọi là ngã? Vì
chấp trước chẳng đúng thật, ở nơi các thú
vọng tưởng tạo những nghiệp
thế gian. Nơi đây họ
chấp ngã tướng cho là ngã.
Thế nào là ngã sở? Chính do
tham dục gọi là
ngã sở. Do các cảnh dục hòa hiệp với thân mà có tâm tham. Đã có tâm tham thì hư hoại giới tụ. Do đây sanh tâm chẳng lành đối với
sở hữu của người khác. Do giận hờn mà khinh khi hủy báng lẫn nhau. Thâu lấy tài vật làm
sở hữu của mình rồi ôm ấp
giữ gìn, chính đây gọi là
ngã sở.
Người có
ngã sở thì có
lưu chuyển. Đã có
lưu chuyển thì có
mê lầm. Đã có mê làm thì có
phỉ báng. Đã có
phỉ báng thì có giận hờn. Đã có giận hờn thì có giết hại. Đã có hại nhau thì bị sự hại này đốt cháy. Đã bị đốt cháy thì có khắp đốt cháy. Những lỗi trên đây đều do lòng
tham dục nơi
sở hữu, nên gọi là
ngã sở.
Do những nghĩa trên đây nên nói
ngã sở thì đã là
mắng nhiếc thân mình. Kẻ
ngu si vì
chấp ngã mà thành
ngu phu, cho nên gọi đó là
ngã sở.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có
chúng sanh chẳng
nghe pháp này mà nói
Bồ đề và
Bồ Tát hạnh, thời là phi hạnh. Nên biết
Bồ Tát hạnh thật không có chỗ thật hành mới chính là
Bồ Tát hạnh.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu
Bồ Tát công hạnh viên mãn không kém, không thiếu,
thanh tịnh, rất
thanh tịnh, khắp
thanh tịnh, thời có thể gọi là
tuyên thuyết đại pháp này, gọi là bực có
thế lực, bực
dũng mãnh tinh tấn. Chỗ
thuyết pháp của
Bồ Tát này đồng với
hư không, chẳng chứa đọng, chẳng
trệ ngại.
Người làm đúng lý, người có
công đức, người khéo
tu hành, trọn chẳng bao giờ làm điều
phi lý, không
công đức, chẳng
tu hành.
Các ông phải
thọ trì pháp này. Ở trong pháp này chớ sanh lòng
chấp trước. Vì pháp của
Như Lai nói rất là
đệ nhứt. Vì là bực
căn tánh tối thượng thưa hỏi, nên ta đem
thắng pháp mà
giải thuyết. Thế nào là thắng pháp? Chính là
không pháp chấp.
Nầy Đại Ca Diếp!
Bồ Tát như vậy
hộ trì đầy đủ
tịnh giới ban đầu, tâm chẳng
cống cao, chẳng tạo nghiệp
vô gián, chẳng phạm
Tỳ Kheo Ni, chẳng gần gũi nhà người tục, không
sát sanh,
trộm cắp,
tà hạnh,
vọng ngôn,
ỷ ngữ,
lưỡng thiệt,
ác khẩu, và
lìa bỏ tham dục,
sân hận,
tà kiến.
Bồ Tát này chẳng tự
não hại cũng chẳng
não hại người khác, chẳng chung cùng với cảnh dục, cũng chẳng thọ dục, chẳng bài bạc cũng chẳng bảo người.
Bồ Tát này trọn chẳng gần gũi kẻ lai căn, chẳng đến nhà
dâm nữ, đàn bà góa, xử nữ, chẳng gẫn gũi vợ người, cũng chẳng gẫn gũi kẻ lưới chim bắt cá, kẻ săn bắn và và
Chiên Đàn La, chẳng đấu tránh và chẳng nắm tay người uống rượu.
Bồ Tát lìa xa những việc trên đây như tránh chó điên cùng kẻ sát nhân. Do có
lòng từ nên đối với tất cả chỗ
xa lìa trên,
Bồ Tát không bao giờ sanh một niệm ác.
Có hai mươi chỗ
Bồ Tát phải
xa lìa.
Bồ Tát xa lìa người nữ, cũng chẳng cùng họ
đùa cợt nói thô nói tục, chẳng cùng họ
luận bàn cãi cọ. Đối với
cha mẹ và
Tam Bảo,
Bồ Tát tránh lỗi chẳng
cung kính. Chẳng
thuyết pháp cho nhóm người nữ dưới số hai mươi, trừ khi có người nam. Trọn chẳng đến hội
thuyết pháp của chúng
Tỳ Kheo Ni, cũng chẳng nên
thăm hỏi các
Tỳ Kheo Ni. Chẳng viết thơ từ cho người nữ. Nếu vì người khác đem thơ cho người nữ thì phải giao cho người chồng chớ trao cho vợ.
Thân tộc thỉnh mời riêng trọn chẳng nhận không luận lúc nào. Chẳng bao giờ có
dục tâm ở trước người nữ dầu trong giây lát. Lại cũng chẳng nên rời chỗ ở của mình đến chỗ khuất chuyện vãn với người nữ. Chẳng cùng
Tỳ Kheo Ni đi chung đường. Chẳng lãnh
y phục của
Tỳ Kheo Ni bố thí, trừ lúc vì
tứ chúng thuyết pháp, lúc được thí y, nên có
quan niệm như mặt đất hứng chịu đồ vật rồi sau sẽ lãnh lấy
y phục, chẳng nên nhìn riêng mặt của người
bố thí. Nếu nghe có
Tỳ Kheo Ni khuyên người thí
y phục thì chẳng nên thọ. Nếu
Tỳ Kheo Ni mời thỉnh
ăn uống; dầu có bịnh cũng chẳng thọ huống là lúc không bịnh. Nếu có đàn bà góa đến mời ăn, Tăng số chẳng đủ thì cũng chẳng thọ. Cũng chẳng nên vào trong chúng
Tỳ Kheo Ni. Chẳng nên kêu
Tỳ Kheo Ni đến. Nếu
Tỳ Kheo Ni đến kêu
Bồ Tát, thì phải vòng tay ngước đầu
xây lưng lại bỏ đi. Lúc
Bồ Tát thuyết pháp nếu có
Tỳ Kheo Ni đến
đảnh lễ dưới chân, thì chớ động chân, mắt nên nhìn ngay hai bàn tay.
Bồ Tát chẳng nên chỉ nơi thân
tu tập tinh tấn, mà tâm cũng phải
siêng cần chánh niệm. Đối với tất cả
cảnh duyên chớ sanh lòng tham sân. Nên phát
thệ nguyện vững chắc để cầu nhứt thiết
chủng trí. Khi được
nghe pháp này rồi phải có
lòng tin và nên siêng
tu học.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có
thiện nam hay
thiện nữ muốn hướng đến
Bồ Tát thừa, vừa
nghe được pháp này
nếu không có
lòng tin thiết thiệt sâu chắc, thì trọn chẳng thể được
Vô thượng Chánh giác. Vì do
tu học mới chứng được quả
Bồ đề, chẳng phải không
tu học mà có thể chứng được.
Nếu không tu tập mà chứng được
Bồ đề, thì những loại mèo, thỏ v.v... lẽ ra cũng được chứng. Phải có
chánh hạnh mới chứng được
Bồ đề.
Nếu không chánh hạnh mà vẫn được
Bồ đề, thì
ngôn thuyết tiếng tăm lẽ ra cũng chứng được
Bồ đề.
Giả sử tất cả
chúng sanh trong
Đại Thiên thế giới đồng vì một
chúng sanh trải qua trăm ngàn kiếp mà bảo rằng: Ngươi nên làm Phật! Ngươi phải làm Phật! Rồi đồng vây quanh liền tiếng xướng rằng: Sẽ được thành Phật! Sẽ được thành Phật! Bảo và xướng luôn như vậy không xen hở vẫn không thể nên được tâm
Bồ đề ban đầu, huống là có thể
chứng quả Phật
vô thượng.
Nầy Đại Ca Diếp!
Chúng sanh nào
tu học được hạnh này thì đáng gọi là
hi hữu.
Đức Như Lai xuất hiện ra đời là việc rất khó. Trong
thời kỳ mạt pháp sau khi ta
diệt độ, các ông cũng đã
nhập Niết Bàn,
chư Thiên lại chẳng tin, chẳng
hộ trợ, lúc đó có nhiều
chúng sanh nghe
công đức của Phật mà
phát tâm Bồ đề. Hoặc có hàng
Tỳ Kheo dầu đã
phát tâm Bồ đề nhưng vẫn phạm hai mươi lỗi trên.
Nầy Đại Ca Diếp! Như hiện nay hàng
đa văn Tỳ Kheo ở chỗ
tịch tịnh, hoặc ở xóm làng, siêng tu
chánh pháp, thì đời
mạt pháp sau này các
Tỳ Kheo ở chỗ
tịch tịnh, hoặc ở xóm làng
trái lại phạm lỗi: họ cùng các
Tỳ Kheo Ni hội họp
luận bàn vấn đáp pháp nghĩa. Các
Tỳ Kheo và
Tỳ Kheo Ni này phần nhiều sanh
nhiễm tâm, ít có người
sanh pháp tâm.
Nầy Đại Ca Diếp! Ông
quan sát hạng người đó được tên
Bồ Tát mà sa vào chỗ rất nguy hiểm thẳng đến
ác thú.
Trong
thời kỳ mạt pháp đó,
ban đầu họ vì
pháp duyên mà gần gũi nhau, do thường thấy nhau nên
lửa dục nhen nhúm trong lòng, động nơi môi miệng để nêu bày niệm dục.
Ban đầu họ gần nhau lấy lễ
đệ tử cung kính A Xà Lê. Từ đó về sau họ sai người hỏi han
thăm viếng rồi lần lần hẹn
gặp nhau ngoài đường ngoài ngõ, kế đến trong chùa đứng xa liếc ngó nhau. Trong lúc ra vào họ
hỏi thăm nhau, kết làm anh em, chị em. Vì họ thường
gặp nhau bèn sanh
nhiễm tâm, đã có
nhiễm tâm bèn cùng nhau làm sự ô uế. Đã làm sự ô uế bèn dùng danh từ chẳng phải
phạm hạnh để kêu gọi nhau. Do đây họ thối thất tâm
Bồ đề, mất quả lành, xa
Niết Bàn, bỏ Phật, trái Pháp, nhàm Tăng. Những người này ở chỗ khuất sanh những tưởng niệm
tham dục,
sân hận,
não hại. Những người này không có
thắng nghiệp của
Bồ Tát và bốn hạnh
thanh tịnh.
Như hiện nay, các
Bồ Tát chuyên cần tu
phạm hạnh,
trái lại, đời
mạt pháp sau này phần nhiều sinh lòng
tham dục,
sân khuể,
não hại, trụ trong chủng loại
ác hạnh, tặc hạnh, kiểu hạnh.
Nầy Đại Ca Diếp! Ông
quan sát đời
vị lai những người
phá hủy cấm giới nghe kinh này liền sanh lòng
phỉ báng. Nếu có người đã trụ nơi giới thật hành
bố thí,
phát Bồ đề tâm, lúc sau nghe kinh này
trở lại sanh lòng hủy báng.
Nầy Đại Ca Diếp! Đời
vị lai sau này, nếu có người trí
tu hành tịnh giới thọ trì chánh pháp, biết
Tỳ Kheo chẳng thật hành đúng
pháp như trong kinh này đã nói, phải liền
lánh xa. Vì hạng
Tỳ Kheo này không có lòng mến ưa và
kính trọng chánh pháp.
Nầy Đại Ca Diếp! Đời
mạt pháp sau này có người dối hiện tu hạnh
Bồ Tát, tự khoe khoang rằng hơn bực
Độc Giác và
A La Hán. Những người này
phi pháp,
phi lý, không thể
sửa trị được, họ sẽ đọa
ác thú.
Nầy Đại Ca Diếp! Đời
mạt pháp sau này có người thật hành
tà nghiệp, vì
thuyết pháp mà đi khắp nơi. Họ chỉ thật hành những hạnh tương tợ với sáu môn
ba la mật. Nếu có người đúng
như thật giảng nói kinh này thì bị họ
ganh ghét bỏ rơi. Đối với kinh này, họ sanh
tà kiến hủy báng. Những người
ngu si này chẳng rõ biết trong kinh đây
quở trách sự
phá giới.
Nầy Đại Ca Diếp! Đời
mạt pháp sau này đều bị tặc hạnh làm ô uế, nên những người
ngu si đây chẳng
suy nghĩ lỗi quấy của mình, có thể
phá hoại Vô thượng Bồ đề. Do ôm ấp
tội lỗi nên họ thẹn mà hủy
báng Phật quả
Vô thượng.
Nầy Đại Ca Diếp! Đời
vị lai sau này nhiều
Tỳ Kheo chẳng
tùy thuận Tăng chúng, chẳng biết
báo ân,
thường dùng lời khôn khéo dối lầm
mọi người để được
cúng dường. Họ chẳng gìn
lời nói,
chê trách giới
biệt giải thoát của
Như Lai. Họ chẳng nhiếp
oai nghi, ở chỗ
bất tịnh, rồi vì những người ở chỗ
bất tịnh mà giảng nói những
pháp môn.
Nầy Đại Ca Diếp! Ta
quan sát vào
thời kỳ đó những
pháp môn sai quấy có đến số năm trăm. Những người chẳng
tu hành sẽ thường
tùy thuận theo. Do đây, năm trăm
phiền não của họ không một mảy
giảm bớt. Những
việc làm của họ không khác nhà người tục. Lần lần hàng
phụ nữ có nhiều người bỏ chồng vào chùa để
nghe pháp. Các
Tỳ Kheo vì họ mà giảng nói tương tợ
Niết Bàn.
Thời kỳ đó có những sự rất
đáng sợ như vậy, mà họ lại ở trong đó mong cầu được
lợi ích.
Vì những cớ trên đây, nên người
cầu đạo Bồ đề chẳng nên gần gũi các
Tỳ Kheo Ni, cũng chẳng nên làm những hạnh như vậy. Phải tránh tất cả sự
giao du. Bỏ các
lợi dưỡng mà đi
khất thực. Bỏ
y phục ưa thích mà mặc y
phấn tảo. Bỏ lầu đài phòng nhà giường nệm chăn gối, mà ở bên khe suối, trong hang hóc, dưới bóng cây. Xa y sĩ thuốc men, mà dùng thuốc cũ thuốc
thối nát.
Rõ biết tất cả
chúng sanh là
thân thuộc đời trước của mình nên thật hành tâm
đại từ bi. Thường phải
cam chịu sự đánh đập
mắng nhiếc, không bao giờ đánh đập
mắng nhiếc người khác.
Tránh xa nhà
quyến thuộc, nhà
thí chủ thân hữu. Phải
tùy thuận trí hạnh xuất gia, chẳng nên đồng với người tục
tại gia.
Thường phải
tùy thuận phụng trì
giáo pháp ba la đề mộc xoa.
Nầy Đại Ca Diếp! Trong
thế gian nếu có người sanh
quan niệm trái với giới
biệt giải thoát, thời chính là móng lòng
trái với trí lực vô sở úy của Phật. Đã sanh lòng
trái với trí lực vô sở úy thời là sanh lòng
trái với tam thế chư Phật. Do đây đời
vị lai họ sẽ mang lấy
quả báo khổ sở
vô lượng. Khổ báo của họ trăm ngàn muôn ức lần nhẫn đến
ưu ba ni sa đà lần hơn sự
đau khổ của
chúng sanh địa ngục.
Nếu muốn khỏi sự
khổ não như vậy, thì phải tránh xa những hạng
ác hạnh Tỳ Kheo ấy.
Giả sử đã cách xa họ ngàn
do tuần cũng còn phải tránh xa thêm, huống là gần họ. Nếu nghe tên của họ còn phải quên bỏ, huống là thấy mặt nghe tiếng mà chẳng tránh xa.
Phải nên quen gần một pháp, chính là tất cả pháp đều không chỗ có. Nếu được trí nhẫn các
pháp không chỗ có, tất chẳng gần gũi, tôn
thờ cúng dường những
Tỳ Kheo ác như vậy.
Lại phải đi sát hai pháp: một là cầu ngộ chứng các pháp vốn không chỗ có, hai là cầu ngộ
chứng pháp tánh nhưng cũng chẳng nên sanh tâm mong cầu. Phải cầu thế nào? Như chỗ mong cầu đều
bất khả đắc. Trong
bất khả đắc chẳng nên sanh
tâm bất khả đắc, như là chẳng sanh
tà kiến. Được như
vậy thì lìa được tất cả tâm trong
tam giới mà thuận
Bồ đề hạnh, thời lìa được tất cả tâm
hữu tướng mà thuận
Bồ tát hạnh.
Chính những điều đã
nói trước kia là
Bồ Tát hạnh. Do đây nên khi được
nghe pháp nầy rồi
cần phải xa lìa tà hạnh. Được như
vậy thì sẽ được gần gũi
phụng thờ đức Phật Di Lặc vị lai. Người nầy tâm chẳng
cống cao, cũng chẳng ty liệt, tự thấy
sung sướng an vui được ra khỏi lưới ma và
ác đạo.
Nầy Đai Ca Diếp!
Đời sau nếu có người nghe
kinh điển nầy mà chẳng
sợ hãi, và thấy thân mình
tùy thuận theo những điều đã dạy trong đó, lại có thể
phát tâm thọ trì, Phật thấy rõ người này
quyết định sẽ
hộ trì chánh pháp.
Nầy Đại Ca Diếp! Như ông
trưởng giả giàu có lớn, con trai ông thấy những đồ vật trong nhà nhẫn đến chậu đựng nước đều nghĩ là của cha mình. Lúc sau
trưởng giả chết,
tài sản hư hao, con trai ông
tình cờ thấy chậu đựng nước, liền nhớ là vật của cha mình, bèn lấy cất hoặc
đem theo.
Nầy Đại Ca Diếp!
Đời sau nầy các
Tỳ Kheo cũng như vậy. Họ được nghe kinh này, liền nghĩ rằng đây là những lời từ
phạm âm nhu nhuyến vi diệu của
đức Như Lai nói ra. Họ sẽ
đính chánh với hàng
Tỳ Kheo hủy báng rằng: Kinh này
chính thật là của
Đức Như Lai nói:
Tỳ Kheo trì pháp nầy, chúng ít
yếu thế, đem
kinh điển nầy cất giữ ngày đêm, bị nhiều người bài bác!
Nầy Đại Ca Diếp! Hạng
Tỳ Kheo trì pháp đời sau này, ta thấy và biết rõ họ, ta đem họ
giao phó cho
Phật Di Lặc, họ sẽ là những người
bảo vệ chánh pháp của
Như Lai trong
thời kỳ cuối cùng, sau đó họ sẽ là bực
đại thí chủ vô ngại.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu người nào được
nghe pháp này,
tùy theo trí huệ của mình mà
tu hành, làm cho
chúng sanh có
chánh kiến và
chánh tín, thời đời
vị lai sẽ được gặp
Phật Di Lặc, trong
pháp hội ban đầu đầy đủ
phạm hạnh và cũng sẽ
bảo vệ chánh pháp trong
thời kỳ cuối cùng.
Nầy Đại Ca Diếp! Ta
quan sát khắp tất cả không có người nào chẳng được gần gũi ta mà có thể chẳng hủy báng, sau khi được nghe
kinh điển này và có thể
thọ trì đọc tụng trong
thời kỳ năm mươi năm ơ
đời sau này. Nếu hiện nay người nào được gặp ta và kính
thờ cúng dường, trong năm mươi năm ở
đời sau này, sẽ
thọ trì đọc được
kinh điển đây. Những người này chẳng đợi ta
tán thán công đức, họ sẽ tự thành nhứt thiết
chủng trí. Lúc đó những người này sẽ nhớ đến ta, lòng họ
vui mừng tự nói rằng rầt kỳ đặc, rất hy hữu!
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khéo
nhiếp thọ hộ niệm chúng tôi.
Nầy Đại Ca Diếp! Vì lẽ trên đây, các ông và
mọi người phải học pháp này. Người học pháp này thời sự chứng được tất cả
công đức theo chỗ nguyện cầu đều không khó đối với họ”.
Đại Ca Diếp bạch rằng: “Thế Tôn!
Việc làm của tôi đã trọn đã xong, không còn cầu mong gì khác. Đối với pháp này tôi thối thất đạo
Vô thượng Bồ đề. Tôi rất biết đủ, trọn không thể thành nhứt thiết
chủng trí.
Bạch
Thế Tôn !
Vô thượng Bồ đề là sự quá
hi hữu, hàng Thinh Văn
chúng tôi khó chứng được”.
Phật bảo Đại Ca Diếp: “Ta chẳng phải vì ông mà nói pháp này nhưng nay do ông hỏi nên ta vì người khác và giảng nói. Đối với pháp này ông chớ sanh lòng nghi. Các ông cũng sẽ sớm chứng được
vô thượng Bồ đề.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có
chúng sanh khao khát pháp này, mong
cầu pháp này, lần lần đều sẽ chứng
Vô thượng Bồ đề. Khi đã chứng được bèn vì dứt tất cả tâm mong cầu nên tuyên nói
chánh pháp cho
chúng sanh.
Nầy Đại Ca Diếp!
Bồ Tát phải trọn nên bốn pháp và
phát tâm tinh tấn.
Những gì là bốn pháp?
Tinh tấn như thế nào? Nghĩa là chẳng cầu sắc thọ, tưởng, hành, thức mà
cầu pháp vô lậu, chính là không địa, thủy, hỏa, phong, chẳng nói địa, thủy, hỏa, phong. Bao nhiêu
ngôn thuyết đều gọi là
phương tiện biểu thị. Những pháp
biểu thị này đều chẳng phải có thiệt.
Bồ Tát chẳng nên cho pháp
biểu thị là chơn thật”.
Đại Ca Diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Đối với
Như Lai chúng tôi thiệt không
nghi ngờ.
Nếu có người hỏi rằng pháp
biểu thị đây nếu chẳng phải
chân thật, thời
âm thanh ngôn thuyết biểu thị của Phật cũng là
hư vọng ư?
Bạch Thế Tôn! Nếu có người hỏi như vậy, thời phải đáp thế nào?”.
Đức Phật dạy: “Này Đại Ca Diếp! Đời
vị lai có hàng
Tỳ Kheo chẳng
tu thân, giới, tâm và huệ, nhiều
sân hận,
lời nói thô xẵng, không thể
thọ trì đọc tụng kinh điển này. Vì họ ở nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà sanh tâm.
Lại có một hạng
Tỳ Kheo trụ nơi pháp
tại gia, không cầu mong
thắng nghĩa.
Như người
sanh manh lấy
tràng hoa bằng vàng đội lên đầu để trang sức, mà họ chẳng tự thấy được.
Đời sau đây, hàng
Tỳ Kheo này cũng như vậy. Họ nghe
kinh điển đây còn chẳng
thọ trì được
văn tự ngôn thuyết, huống là có thể tu và
chứng nhập thắng nghĩa!
Như bọn trẻ thơ bị người lớn quở rầy, lúc sau nghe đến tên người lớn, bọn trẻ thơ này đều
sợ hãi. Hàng
Tỳ Kheo sau này cũng như vậy, nghe trong kinh này
cứ theo sự thật mà nói những điều
lỗi lầm, họ đã chẳng
ăn năn mà
trở lại sợ hãi đối với kinh này.
Như cột con ễnh ương nơi tay khỉ, mà con khỉ này chẳng xây mặt ngó đến. Hàng
Tỳ Kheo đời sau này cũng như vậy. Họ nghe
kinh điển đây bèn chống trái chẳng đoái đến, cũng chẳng chịu đứng ở trước.
Như chồn cáo bị chó rượt bèn chạy đến gò mả, trong hang, xuống hầm sâu. Hàng
Tỳ Kheo đời sau này cũng như vậy, họ nghe
kinh điển đây bèn trốn lánh.
Trên đây nói chồn cáo chạy là nói
phạm giới cấm rồi hủy báng kinh này. Họ đã nghe kinh này bèn
bỏ đạo về nhà
chạy theo cảnh dục, theo
phụ nữ, theo đấu tranh, theo y thuật, theo
xử đoán, rồi ở trong đó phạm nhiều
cấm giới.
Ta nói những người này như chồn chạy vào gò mả. Những người
sau khi chết đọa
ác đạo, như chồn chui xuống hang. Những người này sẽ sa
địa ngục, như chồn rớt xuống hầm sâu. Những người này trọn nên pháp tắc của chồn cáo, không thể
ngộ nhập kinh điển này, chỉ có thể hủy báng và
ca ngợi những
lỗi lầm.
Sau khi chết họ sẽ đọa
đại địa ngục.
Nầy Đại Ca Diếp! Như có người hỏi: Nếu
phương pháp biểu thị không phải
chân thật, thời
ngôn thuyết của
Như Lai cũng chẳng
chân thật. Còn nếu pháp
biểu thị của Phật là
chân thật, thời các pháp
biểu thị cũng phải đều chân thật?
Người trí nên gạn lại hỏi rằng: Nay
Đại Đức chấp lấy sự gì? Là chấp lấy không, hay chấp lấy pháp biểu thị?
Nếu họ nói là họ chấp lấy pháp
biểu thị, thời nên bảo họ rằng:
Đại Đức là Phật. Vì
Đại Đức có
ngôn thuyết biểu thị pháp.
Nếu họ nói là họ chấp lấy không, thời nên bảo họ chỉ rõ chấp lấy những không gì? Vì không thể
lời nói gọi là không.
Nếu họ chấp lấy
biểu thị cho là không, hoặc nơi ngã,
ngã sở,
chúng sanh,
thọ giả, chẳng phải không mà chấp là không, thời hỏi họ có thích tất cả
pháp không chăng? Nếu họ nói là chẳng thích, thì nên bảo họ rằng từ lâu ông đã quên mất bổn phận
Sa Môn Thích tử, vì
đức Phật dạy tất cả
không vô ngã.
Đức Phật chẳng nói có ngã,
chúng sanh,
thọ giả,
hữu tình.
Nếu họ nói rằng
họ thích tất cả
pháp không, thời nên bảo họ rằng lòng ông còn thích tất cả
pháp không, huống là
đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác.
Lại nầy Đại Đức! Nhãn là
Như Lai hay nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Như Lai? Nếu họ nói rằng nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý là
Như Lai, thời nên bảo họ rằng nay
Đại Đức cũng là
Như Lai.
Nếu họ nói nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý chẳng phải
Như Lai, thời nên bảo họ rằng:
Đại Đức nói nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý
biểu thị chẳng phải
Như Lai, thế thì chẳng phải
biểu thị chính là
Như Lai vậy.
Nếu họ nói nhãn, nhĩ v.v... chẳng phải
Như Lai, cũng chẳng phải rời nhãn, nhĩ v.v... có
Như Lai. Thời nên bảo họ rằng:
Đức Như Lai nói
thập nhị xứ : nhãn, nhĩ v.v... sắc, thinh, v.v... đây chính là
chúng sanh, và là
danh tự chúng sanh. Nay
Đại Đức cho nhãn là
Như Lai hay chẳng phải là Như Lai? Nhẫn đến pháp là
Như Lai hay chẳng phải là Như Lai?
Nếu họ nói nhãn là
Như Lai, nhẫn đến pháp là
Như Lai. Thời nên bảo họ rằng cứ như lời
Đại Đức nói thời tất cả
chúng sanh và núi, rừng, cây, đất lẽ ra là
Như Lai cả!
Nếu họ nói nhãn chẳng phải là
Như Lai, nhẫn đến ý chẳng phải là
Như Lai. Thời nên bảo họ rằng cứ như lời
Đại Đức thời
Như Lai chính là pháp và phi pháp?
Nếu họ lại nói sắc chẳng phải là
Như Lai, nhẫn đến pháp chẳng là
Như Lai. Thời nên bảo họ rằng nếu như vậy có lẽ cho
phi pháp là
Như Lai chăng?
Nếu họ nói cho
phi pháp là
Như Lai. Thời nên bảo họ rằng nếu như vậy thời những
chúng sanh chẳng
hiếu thảo với
cha mẹ, chẳng
kính trọng bực
Sa Môn,
Bà La Môn và
Sư Trưởng, những kẻ
sát sanh, trộm cướp đến
tà kiến v.v... lẽ ra là
Như Lai cả.
Nếu họ nói phi
phi pháp là
Như Lai, thời nên bảo họ rằng: Nếu phi
phi pháp là
Như Lai thời không có
biểu thị.
Đại Đức cho không biểu thị là
Như Lai ư?
Nầy Đại Ca Diếp! Nên
vấn đáp như vậy để chiết phục kẻ
ngu si.
Ta không thấy trong
loài người hay
trên trời có ai đối luận được với người
nói đúng pháp như vậy. Chỉ trừ hạng
ngu si,
sân hận không nhận lấy pháp đúng thật. Dầu có vì họ mà khai thị, họ vẫn không có
lòng tin, họ chê bai
pháp không mà bỏ đi.
Các ông phải
thọ trì kinh nầy.
Đời
vị lai sau nầy, có các
Tỳ Kheo thọ trì kinh điển đây sẽ có ba danh từ để
biểu thị chính là nói
đoạn diệt: không vật, không uẩn và không
cung kính.
Kinh điển này sẽ bị họ hủy báng.
Các ông xem vào
thời kỳ đó, họ chẳng kính Phật, chẳng kính Pháp. Họ chỉ theo
danh tự biểu thị. Họ luống mang danh từ là Tăng mà không có thật đức. Dầu họ
xưng niệm danh hiệu của Phật, có người khai thị, họ cũng chẳng hiểu được. Như thế thời làm sao phụng trì
Như Lai được! Dầu họ
thuyết pháp, mà họ cũng chẳng biết được
ý thú của
Như Lai. Như thế thời làm sao được gọi là
thuyết pháp giỏi.
Cả bốn đôi tám chúng
Thanh Văn đệ tử Phật chỉ biết danh từ kia, mà chẳng biết thật nghĩa đối với
công đức kia. Họ vì
tứ sự cúng dường mà hủy báng
chánh pháp.
Chư
Bồ Tát phải
tinh tấn thọ trì đọc tụng kinh điển này,
hết lòng mến ưa
tôn trọng, để làm người
bảo hộ thành trì
chánh pháp sau này.
Nầy Đại Ca Diếp! Ta nhớ thuở
quá khứ cả chín mươi mốt kiếp,
thời kỳ không có
chánh pháp,
kinh điển nầy không có
lưu hành.
Ta lại nhớ thuở
quá khứ có
đức Phật Hưu Tức
Nhiệt Não trụ thế tám muôn bốn ngàn kiếp
giáo hóa Bồ Tát,
lợi ích chúng sanh.
Ta lại nhớ thuở
quá khứ có
Vô Biên Lực
Như Lai trụ thế hai mươi
ức kiếp, thật hành
Bồ Tát đạo hai mươi
ức kiếp, rồi sau mới chứng
Vô thượng Bồ đề!
Nầy Đại Ca Diếp! Ông xem chư Phật
tu tập biết bao nhiêu là
công hạnh khó làm để
lợi ích cho chúng sanh!
Nầy Đại Ca Diếp! Đời trược ác
mạt thế nầy,
chúng ta không nên khinh tiện thân mình. Vì
trong đời trược ác, nhẫn đến có một người nhân nơi ta mà tin hiểu pháp này thời là rất
hi hữu. Tất cả
chúng sanh không làm
tổn hại ta cũng là
hi hữu.
3Vì pháp nầy là pháp lành của bực
trượng phu. Nghĩa là đối với các
hành pháp mà
không chấp lấy lành pháp, đây là khó hiểu khó biết.
Nếu có
ngã kiến,
chúng sanh kiến,
thọ giả kiến,
hữu tình kiến, nếu thấy là có: có giới, có
đa văn, có Phật, có Pháp, có
Niết Bàn, nếu
chấp có Niết Bàn, thời Phật gọi đó là
tà kiến. Vì chính
đức Phật đối với
Niết Bàn vẫn
vô phân biệt và
vô sở đắc. Do đây nên nếu có
phân biệt cùng có sở đắc đối với
Niết Bàn,
đức Phật đều gọi là
tà kiến.
Đã là
tà kiến thời gọi là
vô trí. Đã là
vô trí thời
tổn hại. Đã là
tổn hại thời gọi là
ngu phu. Đã là
ngu phu thời không
ưa thích đại Bồ đề và cũng
xa lìa thắng đạo nhẫn đến
xa lìa quả báo cõi trời.
Nầy Đại Ca Diếp! Đời
vị lai, sẽ có các
Tỳ Kheo vì già yếu mà
trang nghiêm y phục. Dầu họ cạo bỏ râu tóc, mà hủy hoại
oai nghi, không có oai quang,
xu hướng tà pháp. Do ý tội che chướng nên hoặc dối hiện
oai nghi, hoặc dối hiện
tu trì phạm hạnh, hoặc tự xưng không ai bằng ta. Họ dùng ba điều trên để tỏ rằng họ đã có
chứng đắc. Họ sa vào lỗi
tăng thượng mạn. Lúc
lâm chung họ nghĩ gẫm những lỗi mà họ đã phạm, tự biết
giải đãi không siêng
tu hành, lòng họ
ăn năn đau khổ.
Sau khi chết họ phải đọa
địa ngục.
Nầy Đại Ca Diếp! Nay Phật
tuyên bố rõ ràng với các ông: Phật là chơn
thiện tri thức của các ông, luôn
thương mến muốn làm
lợi ích cho các ông, không để các ông sau nầy phải chịu khổ nơi ba
ác đạo.
Nầy Đại Ca Diếp! Phật không bao giờ cho những kẻ chấp lấy
ngã kiến,
chúng sanh kiến,
thọ mạng kiến,
hữu tình kiến được
xuất gia trong
chánh pháp của Phật. Phật đã không cho mà vẫn cố
xuất gia thời đều là kẻ giặc ăn nhờ
tín thí, và cũng không thành được
Tỳ Kheo chơn thật.
Nầy Đại Ca Diếp! Thà
tuyệt thực, chớ không nên đã được
xuất gia trong
chánh pháp ăn nhờ
tín thí mà chấp lấy ngã,
chúng sanh,
thọ mạng,
hữu tình nhẫn đến chấp lấy
Niết Bàn.
Do đây nên chư
Bồ Tát phải
phát tâm tinh tấn, chẳng nên có
kiến chấp ngã,
chúng sanh,
thọ giả,
hữu tình cùng chấp lấy
Niết Bàn. Phải
thuyết pháp để dứt trừ tất cả
kiến chấp.
Nầy Đại Ca Diếp!
Kinh điển nầy, nay Phật
giao phó cho chư
Bồ Tát. Vì
ý chí của chư
Bồ Tát đồng với Phật, là bạn lữ của Phật, có thể lãnh được sự
giao phó của Phật”.
Lúc đó
đức Phật nói kệ rằng:
“Sự
đau khổ quần sanh bị bức
Không có ai
cứu hộ vẹn toàn
Chỉ có nhờ bực
Đại Đạo SưChính là đấng không còn
hí luận.
Những
chúng sanh chìm trôi
khổ nãoTu học theo
tà đạo kém hèn
Lần lần thêm
dục nhiễm tham sân
Do đây phải vào ba
ác đạoKhông ai dắt cũng không người cứu
Ở mãi nơi nguy hiểm xa xuôi
Thẳng đến trong
mê chấp đạo tà
Trọn không chỗ an vui
yên ổn.
Ví như người đi buôn cầm vốn
Muốn lợi nhiều dong ruổi đường xa
Nơi giữa đường gặp giặc xông ra
Cướp tiền hết hóa hàng cũng hết
Mất
của cải tay không
trở lạiTiếc của tiền
đau xót nơi lòng
Mất hết luôn cả vốn mượn vay
Bị đòi nợ càng thêm
sầu khổ.
Những
chúng sanh đời sau cũng vậy
Vì pháp nên
dốc chí xuất giaBao nhiêu pháp đã thọ đã trì
Cùng
thiện nghiệp đều
tiêu tan sạch.
Chỉ cạo được sạch râu cùng tóc
Mà
ngu si vào giữa đạo tà
Chấp lấy ngã,
thọ giả,
chúng sanhCũng chấp lấy
hữu tình là thật.
Với
Tỳ Kheo đúng theo
chánh phápGiảng pháp không chẳng
chấp ngã nhơn
Họ không tin hủy báng chê bai
Do
tà kiến sa vào
địa ngụcLại thêm vì giận hờn
ganh ghétNên kiếm điều
bài bác lẫn nhau
Tự phạm lỗi vì sợ người hay
Nên họ vọng vu người
phạm tộiThân đã ác miệng càng thêm ác
Ý nghiệp nhiều tưởng niệm chẳng lành
Mãi
đảo điên theo
kiến chấp tà
Hạng người này tất vào
ác đạo.
Đã gây tạo rất nhiều
nghiệp ácTất mau qua đến cửa
tam đồBiết bao nhiêu
đau đớn đốt thiêu
Rất khổ sở không ai cứu được.
Đời
vị lai có
Tỳ Kheo chúng
Lòng
vội vàng nhiều giận nhiều hờn
Bức não người chơn chánh
xuất giaĐã
phát tâm Bồ đề Vô thượng.
Đây là hạng đáng kinh
đáng sợĐã bác
bài kinh điển
đại thừaLại không lòng
lãnh thọ kính tin
Giáo pháp của
Thích Ca Văn Phật
Họ giận hờn lẫn nhau
ganh ghétNên lẫn nahu làm khổ làm nàn
Lại
rêu rao bày lỗi lẫn nhau
Tiếng xấu xa truyền lan khắp chỗ.
Đem việc xấu vu khống người khác
Lỗi của mình thời thẹn dấu che,
Người nhu hòa
yếu thế ít người
Kẻ tà ác chúng đông thế mạnh,
Thấy như thế biết
chánh pháp suy
Nên người ác thêm nhiều
thế lực.
Những
đệ tử đáng thương của Phật
Chính chỉ cho các thiện
Tỳ KheoPhải dắt nhau tìm chỗ tìm nơi
Lánh kẻ ác ở nơi
an ổnKhỏi
tai nạn sanh
lòng bi mẫnNgười nhu hòa khó được chung cùng
Phải gẫm suy
giáo nghĩa trong kinh
Cố thật hành theo
lời Phật dạy.
Nếu người bảo đây là xứ ác
Chớ nên ở phải gấp lìa xa
Nên mau qua đến
thánh đạo tràng
Là nơi Phật thành
Vô thượng giác.
Hoặc có người
hảo tâm chỉ bảoChính các Ngài khéo nói lời lành
Kinh hành quanh tháp để cầu chơn
Đúng thật là
Thế Tôn giáo phápThiện
Tỳ Kheo phải cùng nhau đến
Chốn
đạo tràng an ổn tu hànhChớ chẳng nên thường ở nơi đây
Phải mang lấy ác tà bứt ngặt.
Đến
đạo tràng thấy
di tích Phật
Nhớ
xưa kia đức Phật kinh hànhChính chỗ này Phật ngự
tu hànhThành đạo chuyển pháp luân Vô thượngPháp hữu vi vô thường biến hoạiGiờ đâu còn thấy được cảnh xưa
Thiên, Long,
Bát bộ, Nhơn,
phi NhơnBồ Tát,
Thanh Văn đồng
nghe phápThiện
Tỳ Kheo đã đồng
vân tậpPhải
nhiếp tâm đúng lý nghĩ suy
Chính chỗ này
đức Phật đạo thành
Bố ma quân dẹp
trừ tà ngoại
Sau khi quán
Bồ đề giác thọVì năm người A Nhã Trần Như
Chuyển pháp luân tứ đế ba vòng
Nên Phật ngự đến
vườn Lộc UyểnVà kia là
Ta La Song ThọNơi
cuối cùng Phật
nhập Niết BànKim thân thành
Xá lợi Kim cươngĐể
lợi ích quần sanh mãi mãi.
Kính mến thay!
Thế Tôn Đại ThánhĐau lòng thay! Phật
nhập Niết BànNay chỉ còn
nghe được Phật danh
Chẳng gặp Phật thật là đáng tiếc.
Vì trí Phật đã thấy xa biết rộng
Giờ
cuối cùng lại độ
Thiện HiềnĐây là lần
giáo hóa rốt sau
Duyên đã mãn hiện bày
tịch diệt.
Đời còn Phật người tu chơn chánh
Đương tu chết hoặc lúc
phát tâmHoặc tu rồi thân chết mạng vong
Đều được sanh cõi lành tất cả.
Đời
mạt pháp còn đâu
chánh phápĐược
cúng dường không luận phạm trì
Của thí kia
thọ dụng quá nhiều
Sau khi chết tất vào
ác đạoNày Ca Diếp! Ông nên
quan sátHàng
Tỳ Kheo thiện ác phân hai
Người chơn tu dầu ở
đời sauVẫn được hưởng quả lành
phước huệ.
Chư
Bồ Tát những người
đại tríCó
lòng từ lợi ích chúng sanhPhải
chuyên cần tu học kinh nầy
Tâm
an ổn vui mừng hớn hở.
Được như thế sau đây
thành PhậtNgày
gần đây gặp đức
Từ TônNghe pháp lành
cung kính cúng dườngĐược
Di Lặc xoa đầu
thọ ký.
Này Ca Diếp! Nay ta
thành thậtThốt ra
lời an ủi người lành.
Đời sau này dầu chẳng thấy ta.
Nhưng không khác
hiện tiền gặp Phật.
Ta cũng nhắc
đời sau phụ nữNếu
phát tâm Vô thượng Bồ đềTa sẽ cùng
chư Phật mười phươngHộ niệm họ ban
lời an ủi.
Họ sẽ sớm rời
thân phụ nữ
Được thân nam gặp đức
Từ TônHầu
Di Lặc cung kính cúng dườngLòng
sở nguyện thảy đều
như ý.
Ta nhắn nhủ
đời sau đệ tửPhải
học đòi người trí
xuất giaTín tâm sâu
chí nguyện vững bềnThông
chánh pháp kiên trì giới luật.
Để sau này dự hội
Long HoaĐược
Di Lặc xoa đầu
thọ ký.
Hàng
đệ tử đã nghe
lợi íchSanh
tín tâm tu hạnh
thiện hiềnTâm
vững bền chí nguyện cao xa
Tận
vị lai nhiếp
quần sanh loại.
Này Ca Diếp! Nơi đây ai được?
Ông lắng nghe ta sẽ nói đây
Người
tinh cần có huệ siêng tu
Quả
Vô thượng chứng liền không khó.
Siêng
tu tập từ bi rộng lớn
Xa hẳn lòng dua bợ vạy vò
Nên thích ưa vắng vẻ
rảnh rangChính đó là
Bồ đề đạo cả.
Chánh pháp đây
nếu không tin thọ
Luống nói suông không thể thật hành
Được
mọi người lễ kính cúng dườngĐây là kẻ giặc loàn
đáng sợ.
Nếu lại có người vì
ăn mặcCầu mong nhiều
lợi lộc cúng dườngMà
thọ trì chánh pháp kinh đây
Truyền lẫn nhau
luận bàn giảng thuyếtĐây là kẻ ác tà hoạt mạng
Cũng gọi là luống sống qua ngày
Sau khi rời bỏ mất thân người
Tất phải đọa
tam đồ thọ khổ
Hoặc có kẻ vào trong
Phật phápGiả danh làm
Đại Đức Tỳ KheoHọ không tin hủy báng
khế kinhKhéo rành rẽ giảng bày
giới cấmRằng ta đây
hoằng tuyên đầy đủ
Ba la đề
giới pháp mộc xoaHạng này dầu có tướng
Tỳ KheoTrọn sa đọa mất
thân thiện đạo
Nếu có kẻ chê bai
thiện đạoHủy báng luôn
nhứt thiết trí lành
Đây là người báng
chánh pháp luân
Tội nầy lại nặng hơn tội trước
Nếu người nào khéo gìn thân ý
Cũng gìn lời không lỗi không lầm
Ác nghiệp xa thêm lớn
hạnh lànhTất sẽ được
Niết Bàn quả tốt”.
Đức Phật bảo
Đại Ca Diếp: “Sau khi
Như Lai diệt độ, các
Tỳ Kheo ở nơi Phật trồng căn lành sâu cũng đã
nhập Niết Bàn, những
chúng sanh đủ thắng
ý lạc cũng qua đời cả. Lúc
thời kỳ chánh pháp dứt, năm trăm năm sau, sẽ có hàng
Tỳ Kheo lòng đầy
tham dục mê chấp, thích lời
ly gián não hại người khác, nói năng
cộc cằn hung ác, thường ở trong ba điều: nghề nghiệp thuốc men, buôn bán và gần
phụ nữ. Do ở trong ba điều trên nên thối thất bốn điều: mất
giới hạnh, mất
thiện đạo, mất
quả chứng và mất
như thật thấy Phật.
Vì thối thất bốn điều trên nên sanh ra bốn điều hừng thạnh: tật đố hiềm ghét hừng thạnh,
giận dữ ác tâm hừng thạnh, tham đắm giòng họ hừng thạnh, và tham đắm uống ăn chứa cất các
thực phẩm,
ưa thích y phục cất để đầy rương. Vì bốn điều hừng thạnh trên đây nên họ không được
pháp Sa Môn, cũng chẳng phát sanh
quả chứng của
Sa Môn. Họ nghe kinh này sẽ sa vào bốn điều: một là hủy báng
chánh pháp, hai là những điều Phật không
cho phép họ lại đem giảng nói, ba là riêng vì hàng
phụ nữ mà nói
pháp yếu, bốn là hủy báng giới
biệt giải thoát của
Như Lai. Hàng
Tỳ Kheo này nghe
kinh điển đây càng thêm sanh lòng
phá hoại chánh pháp, thêm lớn
nghiệp ác.
Nầy Đại Ca Diếp! Như lấy mật đắng nhỏ vào mũi chó dữ, con chó đó sẽ thế nào, nó có hung dữ thêm chăng?
- Bạch Thế Tôn! Chó dữ nó càng thêm hung dữ.
-
- Nầy Đại Ca Diếp! Những người ác đã nói trên kia cũng như chó dữ cùng quỉ
Tỳ Xá Xà. Họ thấy có
Tỳ Kheo chơn tu
giới hạnh thanh tịnh,
thọ trì kinh pháp nầy,
giảng thuyết kinh pháp nầy,
thiểu dục tri túc và
ca ngợi thiểu dục tri túc, họ liền
ganh ghét hờn giận cho là bị khinh hủy. Do đây nên khi nghe nói
kinh pháp nầy, họ liền hủy báng cho là không phải của Phật nói.
-
Nầy Đại Ca Diếp! Phật dùng nhiều
từ ngữ đề
tán thán người
thiểu dục tri túc, là người dễ nuôi, người dễ đầy, người sạch sẽ, người có
hạnh đầu đà, người rất
đoan nghiêm. Phật cũng
tán thán người ở
a lan nhã, người
phát tâm tinh tấn, người sanh hoạt
thanh tịnh.
Các ông chớ nên chứa để nhiều rương nhiều tủ, mà phải
tu tập hạnh
thiểu dục.
Các ông chớ nên như chụp chã đồng, chỉ luống có tiếng kêu, mà phải
tùy thuận tu tập pháp của
Như Lai dạy đây, cũng chẳng nên thêm lớn lòng
sân hận cùng tham
chấp sự vật, phải trụ nơi vô sự vô vật.
Các ông chớ
trụ trước nơi chỗ ở, mà phải
vô sở trụ.
Các ông chớ tự khoe, chớ nuôi loài bò, lừa v.v...
Các ông chớ sanh lòng
biếng nhác trễ lười, mà phải
phát tâm tinh tấn xa lìa pháp ác,
tu tập pháp lành.
Nầy Đại Ca Diếp! Phật thường khen ngợi sự
tịch tịnh ở
a lan nhã xa lìa ồn ào. Nay Phật nói rõ hạnh dứt trừ rất
thanh tịnh.
Những kẻ
không thật hành hạnh dứt trừ rất
thanh tịnh, kẻ nhiều
tham dục, kẻ tạo
tội ác, tất sẽ hủy báng người có hạnh dứt trừ rất
thanh tịnh.
Nầy Đại Ca Diếp! Như kẻ ngu kia, giữa tháng tư uống chất tô sanh khát bèn đến người xin nước uống. Người bảo: Anh vừa uống chất tô chớ uống nước, vì sẽ có thể nguy đến tánh mạng. Kẻ ngu
giận dữ mắng nhiếc, không
nghe lời khuyên của người, nó uống nước rồi chết.
Nầy Đại Ca Diếp!
Cũng thế, đời
vị lai, các
Tỳ Kheo ưa
chấp có, thích việc ác. Nếu có người
thọ trì chánh pháp bảo họ: Đây là việc nên làm, đây là việc chẳng nên làm. Họ sẽ
giận dữ trách mắng, và hủy báng
kinh điển nầy.
Hiện tại đây còn có nhiều người
cạnh tranh với
Như Lai, huống là đời vị lai! Như
Hiền Hộ Tỳ Kheo chẳng hạn. Phật
chế giới khiến các
Tỳ Kheo thọ pháp một lần ngồi ăn,
Hiền Hộ giận hờn trọn ba tháng hạ không chịu đến chỗ Phật.
Nầy Đại Ca Diếp! Hiện nay ở trước Phật còn có người khinh hủy
phạm hạnh, huống là sau khi
Phật diệt độ, những kẻ tham ăn, tham mặc, thuốc men ngủ nghỉ, thêm nhiều giận hờn! Những kẻ này nghe
kinh pháp đây còn chẳng
kính trọng đức Như Lai Đại Sư, huống là đối với
Tỳ Kheo trì giới!
Nầy Đại Ca Diếp! Những người ấy gọi là
bất thiện, cũng gọi là rất ác.
Pháp bảo này sẽ ẩn mất.
Trong đời ác trược sau này,
thời kỳ mà người lành rất khó có, nếu
thiện nam hay
thiện nữ nào muốn được sự
lợi ích lớn, tin
giáo pháp của Phật, nghe
kinh pháp rất sâu nầy rồi, nên vì người đúng lý, người có
lòng tin mà giảng nói, chớ chẳng nói với người không đúng lý, không tin. Hiện nay, Phật cũng chỉ giảng nói với những người đúng lý, với những người có
lòng tin mà thôi.
Nầy Đại Ca Diếp! Như ngựa ác dở chẳng chịu mặc giáp, nếu bắt nó mặc giáp như ngựa hay, thời tất nó sẽ kinh sợ, huống là nghe tiếng loa, tiếng trống mà có thể chịu được.
Nầy Đại Ca Diếp!
Tỳ Kheo phá giới không có lúc nào
ưa thích pháp lành. Nhẫn đến họ nghe nói các
pháp không ngã chấp không
ngã tưởng, họ liền
sợ hãi bài bác, huống là nghe đến pháp lành! Nếu thật
hành pháp lành thời có thể
hàng phục trăm ức quân ma và trọn không có sự đấu tránh.
Các thiện
Tỳ Kheo nên mặc giáp
tinh tấn, chẳng hư
công đức đầu đà, dứt sạch
căn bản tham sân si, không tật đố,
ly dục, thích nhàn tịnh, thường
thức tỉnh, nơi
vật dụng không mong cầu,
phát tâm Bồ đề Vô thượng,
không chấp pháp,
không chấp ngã,
chúng sanh,
thọ giả,
hữu tình,
không kiến chấp nam, nữ, địa, thủy, hỏa, phong,
dục giới,
sắc giới,
vô sắc giới,
trì giới,
phá giới,
tánh không v.v...
Tóm lại, không nên có tất cả chấp tất cả tưởng. Vì tất cả tưởng đều
vô sở đắc.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có tham,
Tỳ Kheo phải biết rõ và liền dứt trừ tâm
tham ái, chẳng phải cứ trụ một chỗ mà được vô trụ! Chỉ trừ kẻ
vọng ngữ.
Do đây nên
Như Lai hiệu là đấng
thật ngữ.
Như Lai nói bao nhiêu
tham ái đều là chẳng phải ngã. Các
pháp như vậy là
Sa Môn pháp. Các
Sa Môn pháp đều
vô sở đắc.
Nếu người nào còn có tưởng chấp lấy pháp, thời là
chấp ngã,
chúng sanh v.v.. như
núi Tu Di, mà thối
thất thánh giáo. Nơi người này
pháp Sa Môn không có được, cũng không thể trụ nơi
Sa Môn pháp.
Pháp
quảng đại tối thắng này chẳng nên giảng nói với những kẻ
ngu si kia, dầu chỉ một ít. Vì nếu họ
chấp trước thời tất sẽ phải chịu khổ ở
địa ngục trọn một kiếp.
Nầy Đại Ca Diếp! Ông xem các
Tỳ Kheo:
Câu Ca Lợi,
Đề Bà Đạt Đa, Khiên Đồ Đạt La, Ca Lô Để Luân, Mẫu
Đạt Đa La, A Thấp Phiền, Bố Na Bà Tô, Tô Khí Đát La, các
Tỳ Kheo trên đây là những người thường ở gần bên Phật, nghe
Phật thuyết pháp, thấy
Phật kinh hành, thấy Phật
đoan tọa, thấy
Phật hiện thần thông đi đứng trên
không gian, thấy Phật
hàng phục hàng ngàn
ngoại đạo, giữa
đại chúng thấy Phật trừ dẹp
tà pháp, mà họ còn chẳng có
lòng tin mến đối với Phật. Vì họ luôn muốn hủy
báng Phật nên càng ngày họ thêm lớn
ác nghiệp.
Nếu có người nghe
danh hiệu Phật có
lòng tin chắc là thật, thời
mọi người nên đem hoa hương như
núi Tu Di, phan lọng trùm cả
Đại Thiên để
cúng dường, vì người nầy tin Phật vậy. Huống là người đã tin Phật rồi bỏ
dục lạc xuất gia,
không kiến chấp, tu các môn tịnh lự!
Nầy Đại Ca Diếp! Người nào tin ưa
kinh pháp nầy thời đáng gọi là
hi hữu. Người nầy có thể khéo
hộ trì giới cấm của Phật chế, có thể rõ biết pháp
cam lồ nầy.
Ví như trong
đại chúng dùng da thúi cùng những vật hôi nhơ cùng nhau chế làm hình người, hoặc làm các thứ mặt nạ, rồi sơn vẽ trau tria rất mực
xinh đẹp. Có người lấy những thứ ấy mang
lên mặt, hoặc gói lại xách đi. Như thế há lại vì
tướng mạo mà gọi là tốt ư! Biết rõ là vật hôi nhơ thời sẽ nhàm bỏ.
Cũng vậy, với các ác
Tỳ Kheo, phải dùng
oai đức dung nghi của
Như Lai để thẩm xét mới biết họ là cực ác. Do họ
chấp ngã nhơn mà sanh lòng
tham ái.
Nếu người rõ biết
ngã chấp không thật, thời khi nghe kinh nầy tất
ưa thích vui mừng.
Nếu kẻ nào
chấp trước thời là
tà kiến. Đã có
tà kiến thời không tin ưa lời dạy chơn chánh nơi kinh này. Vì người
chấp ngã thời có giận hờn.
Nếu hàng
tứ chúng nghe
kinh pháp này mà giận ghét hủy báng thời không phải là
Sa Môn. Dầu họ có
danh hiệu Sa Môn, nhưng không phải
đệ tử Phật. Ta cũng không phải thầy của họ. Vì
đệ tử Phật thời không
vọng ngữ. Phật không phải thầy của kẻ
vọng ngữ.
Nên biết rằng Phật là đấng
thật ngữ, có thể
nói đúng thật tất cả
pháp không.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu kẻ nào tranh cãi
Như Lai thời gọi là
ác ma.
Như Lai không cho ma
chúng xuất gia thọ giới cụ túc.
Ý ông nghĩ thế nào? Như có người nói chim thanh tước đẻ rồng lớn. Lời này có
đáng tin và có
đồng loại chăng?
- Bạch Thế Tôn! Lời đó không
đáng tin, cũng không phải
đồng loại.
- Như có người nói kim xí điểu đẻ loài phi điểu. Ông nghĩ thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Lời đó không
đáng tin, cũng không phải
đồng loại.
- Như có người nói con đom đóm mang
núi Tu Di bay lên
không gian. Ông nghĩ thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Lời đó không
đáng tin, cũng không phải
đồng loại.
- Nầy Đại Ca Diếp! Những kẻ ác trên kia
chấp ngã nhẫn đến chấp
Niết Bàn kêu Phật bằng thầy lại càng chẳng phải
đồng loại.
-
Nầy Đại Ca Diếp! Như có Đế Vương ở nước mình
lãnh đạo nhơn dân
an lạc vô cực. Cạnh vua có các thị thần
tuân hành chánh hóa của vua.
Lúc đó có người không ai
quen biết, người này vì
danh lợi mà học cách làm quan, không lãnh lịnh vua, tự ý ở giữa bá quan dối tuyên lịnh vua, bảo
mọi người rằng các Ngài phải ở nơi đây, làm
như vầy.
Cũng vậy,
đức Như Lai Pháp Vương quản trị cả
Đại Thiên thế giới, nhiếp hóa tất cả
tam thừa chúng sanh, đầy đủ
mười trí lực,
viên mãn tất cả
công đức, thật
hành Phật sự
vô biên an lạc.
Có một hạng người
đại chúng chưa từng
quen biết, vì sanh sống mà nói tướng ngã,
chúng sanh v.v... nhẫn đến
Niết Bàn, chẳng
tuân theo thánh giáo vô ngã của
Như Lai, vọng nói rằng
Phật bảo việc này nên làm, việc này chẳng nên làm.
Trong
đại chúng có những người tin thuận
Phật pháp,
nghe lời nói trên đây nhận là bực
phước điền thanh tịnh, bèn đem
của cải cung kính dâng cúng mãi trong
thời gian chưa rõ họ là sái quấy!
Kẻ ác này đồng với kẻ dối lịnh vua trong ví dụ kia. Sau khi
ăn uống xong, họ ở chỗ đông người thường
luận bàn việc vua, việc giặc, việc
ăn mặc, việc
dâm dật, việc
phụ nữ, việc thuốc men, việc rượu trà, việc nhựt thực nguyệt thực, việc nhà vua đi về, việc
dòng họ, việc ngày tốt xấu v.v... Ngày đêm họ luôn
suy tính luận bàn những việc như vậy, không có
chánh niệm chánh huệ, hư mất
oai nghi, ngủ mê lăn lộn miệng chảy nhớt dãi. Lúc thức tưởng nghĩ gì, lúc ngủ họ mơ thấy việc ấy. Đến lúc
thức dậy, họ tụ nhau
luận bàn chiêm bao tốt xấu. Họ đi đứng hành động không khác người
thế tục. Họ nói không
nhằm lúc,
tâm niệm buông lung, thích đến xóm đông, đến nhà
giàu sang. Họ không giữ được
giới cấm của Phật. Họ riêng nói pháp cho
phụ nữ. Lúc nói pháp họ sanh
nhiễm tâm, được
cúng dường nhiều,
tham trước luyến ái, chẳng biết
hối hận.
Họ được cúng thí tốt thời
ca ngợi,
trái lại thời
chê trách.
Lúc họ
gặp nhau bèn xem đồ được cúng của nhau. Họ hỏi nhau hôm nay
thí chủ cúng món chi? Cho ai? Tiền bạc đồ dùng nhiều hay ít?
Đây gọi là hạng chẳng
tu hành, cũng gồm cả lỗi hủy báng
chánh pháp.
Nầy Đại Ca Diếp! Với hạng người ngu ác trên đây, các ông phải có lòng
xót thương họ. Vì họ sẽ phải bị
quả báo rất khổ não”.
-Tôn giả
Đại Ca Diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Rất lạ thay, những người ấy được nghe
kinh pháp nầy, mà họ không có lòng yểm ly!”
- Nầy Đại Ca Diếp! Nếu là kẻ có bốn điều sau đây, thời dầu được nghe
kinh pháp nầy, nhưng họ vẫn không yểm ly. Đây là bốn điều: nhiều
phóng dật, không
tin chắc nghiệp quả, không
tin chắc đại địa ngục, không
tin chắc mình sẽ chết.
Lại có kẻ vì có bốn điều dưới đây nên không yểm ly: lúc tráng niên khỏe mạnh tự cậy
sức mạnh, mê say
dục lạc,
ham uống rượu, không
suy gẫm quan sát để
hiểu biết.
Nếu
Tỳ Kheo có bốn điều dưới đây thời hủy báng
Vô thượng Bồ đề:
ác nghiệp thành thục chẳng biết
phát lồ chẳng rành
nghiệp quả ác, làm uế dục với
Tỳ Kheo Ni, cậy có
Hòa Thượng A Xà Lê được nhiều người kính mến, theo thầy học tập vì tật đố mà khinh chê thầy là ít học.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có người được một pháp sau đây thời trọn nên bực
Sa Môn,
Bà La Môn: đối với tất cả pháp, tâm
vô sở trụ.
Nầy Đại Ca Diếp!
Ví như có người rơi trên chót núi, bèn cho rằng không có mặt đất cây cối rừng rậm, chỉ tưởng trống không mà dứt
hơi thở.
Những kẻ
chấp pháp cũng như vậy. Nếu
chấp có nhãn, nhĩ v.v... cùng
chấp có tướng nhãn, nhĩ v.v... hoặc chấp sắc, thọ v.v... hoặc
chấp trì giới,
đa văn,
tàm quý,
tu hành, được
Bồ đề v.v... Đây đều là không phải pháp của
Sa Môn,
Bà La Môn. Nếu có tưởng chấp thời bị làm hại. Những gì làm hại? Chính là tham, sân, si vậy.
Nếu
chấp tướng nhãn, nhĩ v.v... thời thấy có sắc, thanh v.v... khả ái hay không khả ái, tất bị nhãn, nhĩ v.v... làm hại. Đã bị hại thời rất bị hại nơi
trong vòng địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh, nhơn và thiên.
Do đâu mà bị hại? Do tưởng chấp.
Sao gọi là tưởng chấp? Chính là
chấp ngã và
ngã sở, chấp nam, nữ, địa, thủy, hỏa, phong, chấp thây chết xanh bầm, tan rã, xương trắng, chấp
thắng giải thoát, chấp kia có phần ít
giải thoát, đây không phần ít
giải thoát, chấp
hiện chứng, ta
tùy niệm khác với
quá khứ, khác với
hiện tại, ta là
quá khứ, ta là
hiện tại, nhẫn đến chấp
Niết Bàn, thấy ta được
Niết Bàn, với các pháp sanh tưởng chấp.
Nầy Đại Ca Diếp!
Tóm lại, kẻ
chấp trước thời với chỗ nào cũng sanh niệm tưởng, nhẫn đến trong
tánh không, họ
vẫn có tất cả tưởng niệm. Đây đều chẳng phải
pháp Sa Môn,
Bà La Môn, đều chẳng phải hạnh
Sa Môn, hạnh
Bà La Môn.
Nầy Đại Ca Diếp!
Như Lai nói
pháp Sa Môn,
Bà La Môn như
hư không cùng với mặt đất. Vì
hư không trọn không nghĩ rằng ta là
hư không. Cũng vậy, bực
Sa Môn,
Bà La Môn trọn không tự nói ta là
Sa môn,
Bà La Môn. Các pháp cũng chẳng tự nói là
pháp Sa Môn,
Bà La Môn. Chẳng tạo tác chẳng trừ bỏ, đây gọi là
Sa Môn, là
Bà La Môn.
Nầy Đại Ca Diếp! Như có kẻ giữa đêm tối múa tay chơn, động đầu mặt, rồi nói rằng ta
đùa cợt thế gian! Ta
đùa cợt thế gian!
Ý ông thế nào, họ
đùa cợt ai?
- Bạch Thế Tôn! Kẻ đó tự
đùa cợt lấy họ, vì giữa đêm tối không có ai để họ
đùa cợt cả.
- Nầy Đại Ca Diếp! Cũng vậy, nếu có
Tỳ Kheo đến
a lan nhã, hoặc đến dưới tàng cây, nhà vắng, đất trống,
quán tưởng rằng nhãn, nhĩ v.v... đều là
vô thường, sắc, thinh v.v... cũng đều
vô thường. Ta thẳng đến
Niết Bàn.
Các
Tỳ Kheo ấy tự luống khổ nhọc không phải thật hạnh của
Sa Môn. Vì họ có rất nhiều
tà chấp.
Họ biết tướng nhãn, nhĩ v.v... rồi vì muốn diệt nhãn, nhĩ v.v... mà
tu tập nhọc nhằn. Nếu ở nơi căn, trần, thức, ba chỗ đó mà biết rành thời sanh niệm
phân biệt đối với ba chỗ ấy. Nếu đã ở nơi chỗ thấy biết mà sanh niệm
phân biệt thời làm thế nào được tâm nhứt tánh cảnh.
Nầy Đại Ca Diếp!
Thậm thâm Bồ đề rất khó đến khó vào, khó có đủ
tư lương.
Thế nào gọi là tâm nhứt tánh cảnh? Suy tìm cùng khắp nhẫn đến một pháp cũng là
bất khả đắc. Nghĩa là nhãn, nhĩ v.v... đều chẳng thể có thật. Tất cả pháp đều chẳng có thật. Vì bổn tánh như vậy.
Tâm tánh vốn
bất sanh, tất cả các pháp đều không có thật nên tâm đó
bất khả đắc.
Vì nếu
quá khứ, hiện, tại,
vị lai là
vô sở đắc thời là
vô sở tác.
Thế nào gọi là
vô sở tác? Hoặc cũ hoặc mới đều chẳng thể tạo tác nên gọi là
vô sở tác.
Trong đây,
quá khứ tâm không giải thoát,
hiện tại tâm không giải thoát,
vị lai tâm không giải thoát, tùy chỗ có tâm đều
vô sở đắc, đây là tâm nhứt tánh cảnh, chính đây gọi là nhập vào số của tâm vậy.
Nầy Đại Ca Diếp! Sẽ có hàng
tứ chúng chấp cho rằng nhãn, nhĩ v.v... là diệt hoại. Đối với các uẩn chấp là vật có thật.
Như Lai nói các uẩn dường như
cảnh chiêm bao. Nhưng họ lại bảo
chiêm bao là thật có, vì
thế gian nói có
chiêm bao;
nếu không chiêm bao, lẽ ra
mọi người không có sự
mộng tưởng để
biểu thị. Do đây
chúng ta trong lúc ngủ mơ sanh
mộng tưởng. Thật vậy, vì các uẩn có sở nhơn nên gọi là như
chiêm bao. Nếu uẩn đã không, thời chẳng nên nói các uẩn dường như cảnh chiêm bao!
Những kẻ
ngu si kia cho
chiêm bao là thật có. Họ nghe
kinh pháp này bèn hủy báng. Trong hạng này lại có
Tỳ Kheo Ni đối với các nhà
thí chủ, vọng xưng rằng ta là bậc
A La Hán. Hoặc vì
y cứ nơi trí thô cạn, họ nói
hiện chứng được. Hoặc có
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di nghe
kệ tụng trong kinh luật rồi nói tôi
hiện chứng.
Nầy Đại Ca Diếp! Lúc đó, hoặc có
Tỳ Kheo đã thường ở
a lan nhã trải qua hai ba mươi năm
tinh tấn tu tập, vì
Phật pháp mà họ đến nơi
Ưu Bà Tắc mới có
lòng tin vừa được một ngày, rồi chỉ dùng lời không mà xướng thuyết lẫn nhau. Họ bảo rằng vì
không không nên ta biết khắp tất cả, ta biết khắp tất cả!
Hoặc có
Tỳ Kheo nghe
kinh pháp này rồi luận nói
với nhau. Có người nghe sanh lòng hãi sợ, lại nói những người
tại gia cùng
xuất gia chẳng nên gần gũi các vị ấy, phải
xa lìa, vì chẳng phải giáo sư.
Hoặc có người giảng nói pháp lý
thậm thâm lại bị hàng
tại gia xuất gia khinh tiện
bỏ rơi.
Hiện nay đây Phật nói
phạm hạnh thắng diệu còn ít người biết, huống là đời
vị lai đến cả người biết chút ít cũng đã qua đời. Lúc đó, một ngàn, hai ngàn vị
Tỳ Kheo thuyết pháp khó có được một người
hiểu biết đúng thật tin
nhập diệu pháp. Trong hàng đó, hoặc có
Tỳ Kheo hoặc đến đỗi không nói được suông câu huống là
hiểu rõ.
Nầy Đại Ca Diếp! Lúc đó, hàng
tại gia,
xuất gia chung nhau khinh hủy
giáo pháp nầy.
Nếu có
Tỳ Kheo tinh tấn vì thêm lành dứt ác, nên bớt ngủ nghỉ, đầu hôm cuối đêm
tinh tấn tu học. Các vị này tất bị kẻ khác
ganh ghét chê bai hoặc giết chết. Những
kinh pháp như đây sẽ diệt mất. Hàng
Tỳ Kheo đúng pháp cũng đều
tiêu diệt. Trong lúc đó, người có trí
thanh tịnh vô nhiễm hiểu rõ diệu pháp, phải
tôn trọng kinh pháp này, tin sâu
cung kính, cùng nhau họp ở nơi
a lan nhã.”
Bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Pháp lành của Phật dạy
Hiệp với
đệ nhất nghĩaRằng uẩn không chắc thật.
Nên xem nó như mộng.
Đời sau, các
Tỳ KheoLòng
ganh đua lăng xăngKhông
phân biệt tôn ti
Chỉ luống có
danh tự.
Lời
Tỳ Kheo nói ra
Tại gia cũng nói vậy
Giáo pháp lúc bây giờ
Đạo tục đồng cùng nói.
Tỳ Kheo bảo kẻ tục
Ông hiểu pháp
hi hữuChính là Phật
Bồ đềĐã phát quả Sơ địa!
Lòng tự cho thấy pháp
Gần gũi người
tại giaĐây dâng cúng
Tỳ KheoĐồ
cúng dường tối thượng.
Các
Tỳ Kheo này nói
Tất cả lời đều thật
Cùng
tại gia thân nhau
Rằng ta đã thấy pháp.
Người ở đời
vị laiVì
lợi dưỡng xuất giaChẳng
tuân theo chánh phápHủy hoại
Bồ đề đạo.
Ta đem đạo dạy cho
Gần ta chớ theo ai
Ít lâu ngươi sẽ được.
Như chỗ ta đã được.
Đây là ngôi
tịch tịnhTa nói rõ cho ngươi
Trong
đại chúng đông người
Làm hư
giáo pháp Phật.
Ví như bọn giặc cướp
Lòng hung dữ
hiểm độcĐánh phá thành xóm làng
Cũng cướp
tụ lạc lớn.
Tỳ Kheo nầy cũng vậy
Vô trí, nhiều
ngu siHuệ ít hay phạm lỗi
Chấp ngã chấp thọ mạng.
Rời xa
giáo pháp Phật
An trụ trong
kiến chấpTự xưng
A La HánĐầy lòng
tăng thượng mạn.
Họ ở giữa
đại hộiĐối trước chúng
Tỳ KheoKhoe mình nhiều
trí huệDanh tiếng ít người có.
Lúc đó có
Tỳ KheoHoặc thật hành đúng pháp
Bị họ ghét chê bai
Bác không phải
Phật tử.
Chư Phật
đại Bồ đềLúc đó bị hủy báng
Chư Thiên lòng buồn lo
Thường hướng nhau
than thở.
Chư Thiên tin
chánh phápThấy mất
chánh pháp luân
Của
Thích Ca Văn Phật
Đau lòng lăn trên đất.
Chư Thiên ca ngợi Phật
Cùng
tán thán pháp mônKhen ngợi
phước điền Tăng
Con yêu của chư Phật.
Chúng ta chẳng còn nghe
Pháp nhiệm mầu của Phật
Thích Ca đã
diệt độKhông hiểu ôm lòng mê.
Tứ Thiên,
Đao Lợi ThiênVang
lên tiếng tăm lớn
Phổ cáo cùng
chư ThiênĐuốc pháp nay sắp tắt.
Các Ngài được nghe Phật
Nếu chẳng gần
Như LaiHàng Thiên, Long sau này
Sẽ ôm lòng
hối hận.
Trải qua vô số kiếp
Vì mình cũng vì người
Chịu đủ điều khốn khổ
Rồi sau mới
thành Phật.
Đây là lời chư Phật
Vì
giáo hóa chúng sanhGiảng nói
thiện pháp môn
Nay đây sẽ ẩn mất.
Kẻ
giả dối ra đời
Gây nhiều tội
đáng sợLà ma sứ,
ác maTha hồ nói lời ác.
Dua dối nhiều
ngu siPhỉnh gạt người khờ dại
Hoặc giận hoặc chẳng hờn
Chê Thầy, chê
chánh pháp.
Nghe tiếng Trời truyền xướng
Các cõi trên đều buồn
Tứ Vương Thiên,
loài ngườiCũng đều cưu
sầu khổ.
Thần
Dạ Xoa nhóm họp
A Tra Phiệt Để thành
Kêu
lên tiếng hãi hùngĐôi mắt đồng
rơi lệ.
Đền đài
châu báu đẹp
Nghiêm lệ của
chư ThiênThảy đều mất
quang huyĐen tối như đống đất.
Cung điện xưa
xinh đẹpRất đáng mến đáng ưa
Nay mất cả oai quang
Nhìn xem không còn thích
Chư Thiên cùng nhau đến
Xưa kia chỗ Phật sanh
Lăn trên đất kêu gào
Càng thêm sầu thêm khổ.
Ta
từ trời xuống đất
Đi qua các quốc thành
Phật pháp đều
trầm luânNhìn khắp chẳng còn thấy.
Khắp cả
Diêm Phù ĐềChánh pháp đã
suy tànBức não người
xuất giaNên
chư Thiên than khóc.
Cung trời bảy ngày trọn
Nơi nơi mất oai quang
Chư Thiên cũng bảy ngày
Thường
buồn rầu than khóc:
Than ôi đấng Đại Hùng!
Xưa tôi từng gặp Ngài
Nào ngờ nay chẳng thấy
Lời Ngài cũng thành không.
Phật thường ở
Xá VệChúng tôi đến
kính lễNay thấy chỗ nhớ Người
Càng thêm buồn than khóc.
Và đây là rừng Lộc
Phật xưa ở nơi đây
Chuyển
Tứ đế pháp luânChúng tôi thân nghe thấy!
Nay
thế gian tăm tối
Chẳng kính mến lẫn nhau
Đã gây tạo tội nhơn
Tất sanh ba
ác đạo.
Trên trời nhiều cung điện
Nay đều trống vắng người
Chúng sanh Diêm Phù ĐềKhông chủ, không ai cứu.
Chỗ
kinh hành của Phật
Nay hủy hoại
hoang vuPháp Vương đã
Niết BànThế gian mất
an lạcGiữa chúng
trời Đao LợiThiên Chúa Thích
Đề HoànLòng
khổ não ưu sầuTo tiếng
than thở khóc.
Như vậy hàng
Thiên chúngThường
tán thán Như LaiTự hận xa
Thế TônTừng là Thầy
thuyết pháp.
Không ăn
cam lồ được
Cũng tuyệt tiếng đờn ca
Hàng
chư Thiên như đây
Lòng sầu cả sáu tháng.
A Tu La nghe nói
Chánh pháp đã trống hư
Bèn kêu gọi lẫn nhau
Đem binh đánh
Đao Lợi.
Diêm Phù các vua chúa
Hủy hoại Phật
luật nghiChính trong
thời kỳ nầy
Trời cùng
Tu La chiến.
Sanh vào trong
ác đạoCó rất đông
Tỳ KheoCũng nhiều
Tỳ Kheo NiChịu đủ mọi sự khổ.
Tại gia phạm các tội
Cư sĩ phá
thi laTranh
bài bác lẫn nhau
Do đây đọa
ác đạo.
Phụ nữ làm việc ác
Đều cũng vào
tam đồLúc hưng thạnh việc này
Thế gian chẳng
an tịnh.
Có lúc qua
tụ lạcHoặc trốn vào
núi rừngVì lo sợ nhọc nhằn
Mọi người thọ ngắn yểu.
Khắp nơi nhiều trộm cướp
Sự
đói khát lan tràn
Lúa má lại
mất mùaThêm sâu keo
phá hại.
Đời nhiều
nghèo đói khổ
Loài người lúc chết rồi
Ngạ quỉ nhiều sanh vào
Chịu biết bao khổ sở.
Những đồ cúng chùa tháp
Vật dâng
tứ phương Tăng
Lúc đó các
Tỳ KheoCùng nhau chia lấy hết.
Sau khi
Phật diệt độ
Khổ như thế dẫy đầy
Phải sớm cố siêng năng
Chớ nhìn lui
trở lại.
Bao nhiêu kẻ
ngu dạiNgười không
huệ không căn
Do nghiệp ngu đã thành
Sớm đọa vào
ác đạo.
Phải thích giảng
đọc tụngTrí huệ do đây sanh
Người
tu huệ tu tâmMau sanh cõi lành tốt.
Thường dùng trí quán sát
Học đúng theo lời Phật
Lìa hẳn những buộc ràng
Sớm được
Niết Bàn đạo.
Chánh pháp chẳng còn lâu
Phải gắng
tinh tấn tu
Phật nói đã
cạn lờiGấp gẫm suy chơn chánh.
Khi kiếp này đã qua
Cả sáu mươi
đại kiếpHiệu Phật chẳng được nghe
Làm sao có
ưa thích.
Đến
thời kỳ cơ cẩn
Sự đói
khổ không cùng
Dầu
cho đến mẹ conCũng giết nhau
ăn thịt.
Lúc đó đến con đẻ
Kinh hãi đi chẳng yên
Dầu ở trong nhà mình
Vẫn lòng lo sợ sệt.
Thấy nghe những việc này
Rõ kia
sanh tử khổ
Ai là người có trí
Mà lại thích lại ưa.
Vô minh là gốc sanh
Phụ nữ là gốc dục
Thân là cội gốc khổ
Do đây phải
xa lìa.
Trong đời chúng sanh ngu
Say đắm nơi nữ dục
Người lìa được
ngu siSẽ được
Niết Bàn đạo.
Lúc giảng nói pháp nầy
Chẳng bị
quả báo ác
Vì bác không nhơn quả
Nên phải sa
ác đạo.
Pháp công đức
vô lậuKhông không vô sở đắcTịch tịnh vốn không bền
Nên phải mau hiểu rõ”.
Phật bảo Đại Ca Diếp: “Nếu có
Tỳ Kheo hoặc người nào có thể trọn nên
pháp đệ nhứt nầy mà
cầu pháp vô lậu, thời nên bảo rằng: đối với tất cả pháp,
tâm không chỗ trụ.
Nầy Đại Ca Diếp!
Bồ Tát phải
kiên cố tu tập.
Thế nào là kiên cố? Thế nào là tu tập?
Kiên cố là tâm
kiên cố và
tinh tấn kiên cố.
Thế nào gọi là tâm kiên cố?
Bồ Tát nghĩ rằng:
cúng dường một
đức Phật nhẫn đến
cúng dường cả
hằng hà sa số chư Phật rồi sau mới phát một niệm cầu
Phật đạo, sau đó lại
trải qua hằng hà sa số kiếp có một
đức Phật hiện ra đời, vì phát
hằng hà sa số tâm nguyện nên
một lần được thọ thân người, nhẫn đến thọ
hằng hà sa số thân người
nghe pháp một câu phát
trí huệ sáng suốt, được
lợi ích lớn nơi đạo
Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát nên
phát tâm kiên cố như vậy.
Bồ Tát lại dùng nhiều
phương tiện để nhiếp lấy
trí huệ của Phật, dùng nhiều
khổ hạnh để trông cầu, nhiều
khổ hạnh để
nhiếp thọ Phật trí.
Bồ Tát phải có tâm
kiên cố như vậy.
Nầy Đại Ca Diếp! Nay Phật vì ông mà nói ví dụ. Những người trí do ví dụ mà được hiểu nghĩa trên đây nói về sự nhờ nhiều
khổ hạnh mà có thể được
Vô thượng Bồ đề,
trải qua hằng hà sa số kiếp không nên thôi nghỉ. Nếu
hằng hà sa số kiếp học tập mãi không thôi nghỉ, thời có
thể hiện chứng
Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát nên
phát tâm kiên cố như vậy để thêm
thế lực sách tấn,
vĩnh viễn không rời
bỏ đạo Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát đã
phát tâm như vậy, đối với phải chỗ không phải chỗ chẳng nên chấp lấy. Vì chấp lấy thời trở ngại đạo
Vô thượng. Nếu
Bồ Tát không chấp lấy phải chỗ không phải chỗ thời sớm được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Đại Ca Diếp!
Ví như có người đem
của báu đầy cả
Đại Thiên thế giới dùng
bố thí. Nếu có người tin và
thọ trì kinh điển thuận
Bồ đề của Phật nói, thời phước của người này hơn người
bố thí kia.
Nầy Đại Ca Diếp!
Bồ Tát lại có tâm
kiên cố, nhẫn đến tâm
kiên cố này cũng
bất khả đắc. Do đây sự
tu hành của
Bồ Tát chẳng nên thôi nghỉ.
Bồ Tát phải
tu tập nhiều đến bao nhiêu? Tùy có bao nhiêu pháp
tu tập. Nếu còn có một niệm không thể thấu rõ thời đều phải
tu tập. Vì những pháp
tu tập đó không
biểu thị được,
dầu vậy nhưng là pháp
tu tập tối thắng, nghĩa là
tâm tánh kiên cố vậy”.
Bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Vô tâm,
khởi tâm tưởng
Sẽ có bố úy lớn,
Ta sẽ thành, chẳng thành?
Việc này sẽ thế nào?
Do thường suy thường nghĩ
Kẹt ở nơi một bên
Hủy báng đạo
chánh phápNên chẳng được
Bồ đề.
Đây là tâm
giải đãiChẳng phải tướng
Bồ đềNgười nầy nghi tất cả
Nghi Phật đến
Thanh Văn.
Chẳng tu mà mong cầu
Thánh Hiền các
Phật pháp,
Chẳng phải do
ngôn thuyếtThành được quả
an lạc.
Cần phải có tin ưa
Mới thành được
đại pháp,
Chẳng phải chỉ tâm lường
Mà được
pháp thắng diệu.
Do một
pháp thành được
Tất cả hạnh đã tu,
Biết
thắng pháp kia rồi
Vì Phật nên siêng tu.
Nầy Đại Ca Diếp! Do có thể
thành tựu pháp này,
Bồ Tát không gần gũi
cúng dường chư Phật, tự biết chắc rằng tôi sẽ thành
Vô thượng Chánh giác.
Nầy Đại Ca Diếp!
Bồ Tát tại gia có ba pháp
tu tập có thể
lợi ích đạo
Bồ đề: vì
nhứt thiết trí nên tin sâu
phát nguyện, chẳng đắm trước nghiệp
tại gia và giữ chắc
năm giới.
Bồ Tát tại gia có đủ ba điều trên thời có thể thành sáu pháp: được báo
hiền thánh, chẳng câm, chẳng ngọng, chẳng điếc,
nghe pháp mau hiểu, đi đứng
đoan nghiêm,
lòng tin sâu chắc, nơi pháp
thậm thâm chẳng kinh sợ, khi
nghe pháp dễ hiểu dễ ngộ và mau được bực
bất thối.
Đối với sáu pháp trên đây, phải khéo biết có năm điều chướng: lời
ly gián,
vọng ngữ, không có
chí nguyện, tật đố và đắm trước
ngũ dục.
Bồ Tát tại gia lại có ba pháp
cần tu hành:
thường có lòng muốn
xuất gia, nên phải
cung kính tôn trọng các bực
Sa Môn,
Bà La Môn, nếu người
thuyết pháp chẳng phải
đồng loại thời nên
lánh xa, vì chẳng nên học tập theo những pháp tà ngoại chẳng phải
Phật đạo.
Nầy Đại Ca Diếp!
Bồ Tát lại phải
tu học ba pháp: thường
tùy thuận chư Phật, vì giảng dạy người khác nên tự mình siêng
tu hành, tập rèn
lòng từ đối với
chúng sanh.
Bồ Tát lại phải gần gũi ba pháp: lìa hẳn sự đánh đập, chẳng
mắng nhiếc người và ban sự
vô úy cho người đương kinh sợ”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Chẳng gần người
hạ liệtThấy người chẳng
chánh trựcLiền phải gấp
lánh xaNhư
lánh xa rắn độc.
Chẳng theo
học đạo khác
Phi lễ phải
xa lìaDường như thấy chó điên
Vì phải đọa
ác đạo.
Nếu
chấp trước theo người
Đồng họ đi đường ác
Nghe pháp “không” thắng diệu
Phải có lòng thích ưa.
Với
Tỳ Kheo không tịchNên
cung kính tôn thờ
Thêm lớn sự
đa vănMà được sanh
trí huệ.
Bực gần gũi
Bồ đềMọi người phải
kính lễGặp qua để
học hỏiSớm sanh những căn lành.
Muốn
trí huệ thêm lên
Như
hoa sen trong nước
Phải nghe nhiều
chánh phápCăn lành lớn càng thêm.
Do
trí huệ thêm nhiều
Có thể dứt
hữu lậuThành
oai đức vô úyĐại trí rất
tinh cầnVì lợi ích mọi ngườiTự mình thành
lợi ích,
Người
tại gia phải bỏ
Đừøng đánh đập
chúng sanh.
Phát tâm cầu
Bồ đềNơi
pháp không thối chuyển,
Thân không bịnh,
xinh đẹpMọi người điều kính ưa.
Nếu
tu tập lòng từThoát khỏi ba
ác đạo,
Cõi trời Đao Lợi kia
Hưởng quả vui
sung sướng.
Thân trời nếu đã chết
Chẳng sa đọa
tam đồSẽ sanh trong
loài ngườiNơi nhà sang
tôn quí,
Thân
đoan nghiêm xinh đẹpChẳng bị người khinh chê,
Thiên, Long theo
hộ trìTu hành đúng
chánh pháp,
Thọ hưởng nơi thắng diệu
Người
kính trọng mến thương,
Giấc ngủ được
an lànhLúc thức lòng
an ổn,
Vì
chư Thiên ủng hộNên chẳng sợ chẳng kinh,
Pháp rộng lớn trên đây
Nhiều
lợi ích như vậy.
Hàng
tại gia xuất giaLại có
lợi ích lớn
Làm nẩy nở
trí huệCăn lành cho
mọi người,
Người sợ làm cho an
Đưa đến
Vô thượng quả.
Chỉ cầu
nhứt thiết tríChẳng
mong mỏi cõi trời,
Người này được
tương ưngChánh đạo cùng chánh huệ,
Vì có căn lành này
Chẳng còn sa
ác đạo.
Được trí được
tam minhKhéo học ba
vô lậuTrọn nên những
công đứcNhư chư Phật đã thành.
Đấng
tôn quí trong đờiMọi người cung kính lễ
Người
lễ kính Như LaiLà bực nhứt trong chúng.
Nếu người còn
tại giaPhát được tâm
Vô thượngVì họ nói
pháp yếuÔng nên lắng nghe đây.
Nầy Đại Ca Diếp!
Bồ Tát tại gia phải có ba điều:
xa lìa những sự
buông lung chơi bời theo
thế gian, cho tặng lẫn nhau cùng
lựa chọn ngày lành giờ tốt, nên
thanh khiết tránh nhận lãnh nhiều và phải nên
tinh tấn siêng học
chánh pháp.
Hàng
tại gia lại phải ba điều: chẳng trở ngại người
thuyết pháp, phải
khuyến thỉnh người
thuyết pháp và thường thắp đèn đuốc.
Và trọn chẳng được làm ba điều này, nếu làm thời sẽ mang
thân phụ nữ: chẳng được ngăn trở mẹ đến nghe
chánh pháp và ra mắt
Tỳ Kheo, chẳng được ngăn trở vợ ra mắt
Tỳ Kheo và đi nghe
chánh pháp; chẳng được phạm chỗ
phi đạo của vợ”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Nên
thường có lòng tin5Thắp sáng đèn với đuốc
Bèn được đôi mắt Phật
Thanh tịnh không cấu nhơ.
Do nơi mắt
thanh tịnhRõ các pháp
sở triVì rõ được
sở triNên biết pháp
quá khứBiết
hiện tại cũng vậy
Chẳng
phân biệt vị laiKhông có ba thứ tướng.
Có ba thứ tướng này
Bỏ
lìa tướng thứ ba.
Tướng gọi là
vô tướngĐều đồng là một nghĩa.
Phật dầu nói
chư cănNhưng
pháp không căn bảnNơi đây sanh
phân biệtThời mất đạo
Bồ đề.
Tịnh
tu Phật nhãõn rồi
Hiện chứng tất cả pháp
Câu đây là
Bồ đềnhư vừa rồi khai thị.
Pháp không khai thị được
Cũng không hủy hoại được
Các
pháp như hư khôngNên nói là khai thị.
Phật tuyên nói nghĩa này
Để dạy
chúng tại giaThường thắp sáng đèn đuốc
Được
Phật nhãn rõ ràng.
Chẳng chướng người
thuyết phápGiáo pháp của
Thích CaTrọn chẳng vào
tam đồChẳng mắc
sanh manh báo.
Thường hay cầu thỉnh người
Tuyên dương pháp
tối thắngDo sức căn lành này
Chuyển pháp luân Vô thượng.
Nếu có người với mẹ
Ngăn trở
nghe pháp lành
Thọ thân nữ
xấu xaĐui gù nhiều
tội lỗi,
Chẳng thấy được màu sắc
Cũng chẳng nghe
tiếng tămỞ nơi
chỗ tối tăm
Không khác loài dơi chuột.
Với vợ sanh đố kî
Ngăn trở việc
tu hànhMãn thọ
sau khi chếtSẽ mang thân gái xấu:
Tóc vàng, tròng mắt xanh
Đen điu mắt
mù lòaChưn què, lòng
độc ácTai điếc, miệng nhiều lời,
Nhiều
tội lỗi như đây
Sớm có thân xấu ác
Do
dục nhiễm nhân duyênMà bị chồng
ghen ghét.
Này Đại Ca Diếp!
Tại gia Bồ Tát không nên làm ba điều này: những đồ vật
bố thí của người khác không luận nhiều ít tốt xấu, nếu người chủ chẳng mời thỉnh thời chẳng nên đem
bố thí, người khác muốn
xuất gia chẳng được làm trở ngại, còn người chưa
xuất gia nên khuyên bảo
xuất gia, thấy người
xây dựng chùa tháp nên trợ giúp, chẳng được nhơn việc xây cất mà lạm lấy
tiền của hay đồ vật”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Của cải người
bố thíKhông phải chỗ chẳng cho
Chỗ thí chẳng được ngăn
Lạm dụng thời mắc tội
Nên ở trước
thí chủVòng tay đứng thẳng ngay,
Trong đây nếu thiếu người
Cung cấp cho
tăng chúng,
Phải theo lời
thí chủĐem công giúp cho người,
Đồ uống cùng món ăn
Nhẫn đến thứ rẻ mọn
Đúng theo lòng
thí chủChớ để họ oán hờn.
Nếu ai muốn
xuất giaHoặc con hoặc
quyến thuộcBồ Tát nên
thuận theoChẳng nên làm trở ngại.
Nguyện
chúng sanh an lạcNguyện đặng chứng
Niết BànBổn nguyện tôi được tròn
Nguyện
thuyết pháp vô thượng.
Lúc
biết mình có lỗi
Chớ để
thân tâm nhơ
Chớ
mãi mãi lo rầu
Mà bị
phiền não nhiễm.
Này Đại Ca Diếp!
Bồ Tát tại gia lại chẳng nên làm ba điều này: chẳng nên buôn bán người nam người nữ, chẳng nên đem thuốc độc cho người, chẳng nên gần gũi những người làm các việc trên”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Chớ buôn bán người nam
Chẳng buôn bán người nữ
Thuốc độc chớ cho người
Người làm phải tránh xa.
Vì làm khổ
chúng sanhChư Thiên thừng
quở trách,
Không luận đến xứ nào
Lòng lo sợ bị hại.
Hằng ngày thêm buồn lo
Nạn khổ bức
thân thểChết yểu tự
diệt vongDo đây chẳng nên phạm.
Lỗi nầy và tội khác
Phật biết rõ nguyên nhơn
Lược nói một ít phần
Dạy răn chư
Bồ Tát.
Này Đại Ca Diếp!
Bồ Tát tại gia lại chẳng nên làm ba điều dưới đây: chẳng nên đến nhà
dâm nữ, chẳng nên gần gũi những người mai mối, chẳng ở chỗ hàng thịt sát sanh”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Chẳng đến nhà
dâm nữNơi nhơ uế
buông lungNgười đời sẽ chê bai
Vì gần gũi tệ dục
Đế đó, người trí biết
Ắt quở tách
rầy laChiêu họa hại thân mình
Do đây thườn
chết sớm.
Lại chẳng nên gần gũi
Kẻ mai mối gái trai
Người cưới vợ lấy chồng
Gần họ bị khi dễ.
Nhà
sát sanh hàng thịt
Cũng phải chánh chớ qua
Nơi đó người khôn ngoan
Không bao giờ
ca ngợi.
Những
tội lỗi sâu nặng
Như Lai biết
rõ ràngVì những người
lỗi lầmNay Phật nói
như thật.
Giáo pháp của Phật dạy
Để tử Phật phải rành
Đúng theo pháp
thọ trìChỗ
tu hành kết quả.
Chúng sanh tu
thánh đạoMau đến quả
Niết BànPhật giảng cho hạng này
Chẳng phải vì người ác.
Này Đại Ca Diếp! Có ba điều
Bồ Tát tại gia phải thật hành: ở nhà nên
quan sát thân mạng của mình giả tạm như khách; với
của cải đã
bố thí có
quan niệm như được chứa cất, với
của cải chưa
bố thí xem như xa lìa ta cả trăm
do tuần, chẳng có
quan niệm chứa của để cho vợ con”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Thường
quan sát sự chết
Mạng tôi chẳng còn lâu
Sản nghiệp cùng của tiền
Nên thí gieo
phước đức.
Của chẳng để
vợ conCũng chẳng vì thân mình
Đem
bố thí cho người
Được
phước đức bền chắc.
Ân cần cầu
Phật đạoChẳng sanh lòng
cống caoNếu rời các pháp lành
Thường mang lấy
tổn hại.
Như trẻ thơ đùa giỡn
Ăn chút ít chẳng no
Pháp vị còn mỏng manh
Dầu tin nhưng khó vững.
Nếu tu chẳng dõng mãnh
Cách đạo thiệt xa vời,
Hoằng pháp nếu chẳng thôi
Gọi là pháp
rốt ráo.
Nay Phật vì
đại chúngNói những
pháp môn này
Nếu ai
hiểu rõ ràng
Là bực
nhứt thiết trí.
Dùng trí khéo
quan sátLòng nhàm lìa nơi thân
Thường
chánh niệm tư duyThời như đối trước Phật.
Này Đại Ca Diếp!
Bồ Tát tại gia thành tựu được ba pháp dưới đây thời chẳng
thối chuyển đạo
Vô thượng Bồ đề:
Cha mẹ chẳng tin
Tam Bảo thời làm cho
cha mẹ có lng tin,
cha mẹ hủy
phạm giới pháp thời khuyên
cha mẹ giũ giới,
cha mẹ tham lam bỏn sẻn thời khuyên
cha mẹ bố thí, khen ngợi đạo
Vô thượng Bồ đề mà vì người khác
thuyết pháp, đây là pháp thứ nhứt được chẳng
thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát tại gia biết rõ đáng
cúng dường cùng chẳng đáng
cúng dường,
cúng dường cho người đáng cúùng, chẳng
cúng dường cho người không đáng cúng, dầu chẳng cúng nhưng
vẫn có lòng từ đối với họ, đây là pháp thứ hai được chẳng
thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát tại gia nhọc nhằn làm ra
của cải, chẳng
phung phí, chẳng để thất phát, chẳng đem cho
bừa bãi, phải nên cất giữ kỹ lưỡng.
dầu vậy, nhưng đối với các bực
Sa Môn,
Bà La Môn thanh tịnh cùng các
chúng sanh, vẫn
bình đẳng bố thí cúng dường, và không làm
chướng ngại những người đồng
bố thí. Đây là pháp thứ ba được chẳng
thối chuyển Đạo
vô thượng Bồ đề”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Hàng
tại gia Bồ TátCầu
Vô thượng Bồ đềTrọn nên ba căn lành
Thẳng lên
Vô thượng giác.
Cha mẹ đối
Tam BảoTà kiến không
lòng tinKhuyên cho phát
tín tâmKhiến trụ nơi
thắng phápCha mẹ tham bỏn sẻn
Khuyên
bố thí làm lành
Phạm giới khuyên
giữ gìnCũng khuyên tu
trí huệ.
Bốn phương nên đi khắp
Thỉnh cầu các
pháp sưThuyết pháp để
độ ngườiDo đây thêm
trí huệ.
Phạm giới khiến
giữ giớiChưa tin khiến được tin
Không huệ khiến
chuyên tuDo đây được
bất thối.
Gặp
Tỳ Kheo trí huệGiữ giới học rộng nhiều
Nên
cung kính theo gần
Để
thường thường học hỏi,
Do đây hàng
cư sĩĐược
bất thối Bồ đề.
Gặp người đức sâu dầy
Hiểu đạo nhiều
trí huệ,
Bực này đáng
tôn trọngThân của đem
cúng dường.
Tiêu biểu lònn kính tin
Trước kia Phật từng nói:
Không tin thời không được
Phát
đại Bồ đề tâm,
Trí huệ thấy pháp mầu
Mau nên
lợi ích lớn,
Ở nơi các pháp diệu
Chứng nhập chẳng khó khăn.
Biết mình cũng biết người
Nơi đây được lợi lớn,
Tương ưng pháp
xuất thếNên
trí huệ càng thêm.
Bao nhiêu những của tiền
Xưa nay thường chứa nhóm
Không phải
gìn giữ mãi
Đem
bố thí người tu.
Tiền của được sau này
Cũng mang ra
bố thíBố thí thường tinh tấn
Phật quả ắt mau thành.
Trì giới cùng
chúng sanhTừ tâm đồng
bố thíBố thí lòng
trong sạchTrọn không chút mong cầu,
Bạc tiền đến ngọc vàng
Đều
vui lòng thí cả
Dõng mãnh thí tất cả
Những
công hạnh đã làm
Hồi hướng Vô thượng thừaBồ đề đại giác đạo.
Cúng dường nếu
phi phápDầu
bố thí Nhơn, Thiên
Chẳng bằng thuận pháp lành
Cho một người hèn khó.
Tinh tấn vì
cầu phápNhờ pháp được tỏ thông
Thắng đạo sanh trí mầu
Chứng
Bồ đề vô thượng.
Này Đại Ca Diếp!
Bồ Tát tại gia sau khi
phát Bồ đề tâm nếu có ba điều dưới đây thời sẽ qua
Thanh Văn thừa mà
nhập Niết Bàn: có một hạng người sợ ba
ác đạo, xem đạo
Vô thượng quá nặng quá khó, không
chuyên tu tập những
thiện căn đã từng
tu tập, chẳng thích
cầu pháp lành, nản lòng cho là khổ, đây là điều thứ nhứt. Nếu có điều này thời thối thất
Bồ đề tâm mà qua
Thanh Văn thừa nhập Niết Bàn.
Có một hạng người lúc làm việc
bố thí lòng không
hoan hỉ, đã
bố thí rồi lại
hối hận, cũng chẳng
hồi hướng cầu
trí huệ Phật. Nếu người có điều thứ hai đây thời thối thất tâm
Bồ đề, mau qua
Thanh Văn thừa mà
nhập Niết Bàn.
Lại có hạng người chẳng
chuyên cần tinh tấn thật hành hạnh
Đại thừa, chỉ thích cầu
học rộng, do
thiện căn hạ liệt mau
nhập Niết Bàn. Đây là
hạng thứ ba thối thất
Bồ đề tâm, qua
Thanh Văn mà nhập Niết Bàn”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Đã
phát Bồ đề tâmChẳng
tùy thuận chánh hạnhThối thất nơi
Phật thừaVào nơi
Thanh Văn đạo.
Vẫn tin đai
Bồ đềCũng không lòng
giải đãiDo
vô trí xan thamNên phải bị trở ngại.
Cảm ơn Phật
trì giớiBố thí lòng siêng năng
Ba la mật được thành
Chứng
Bồ đề không khó.
Do tâm tạo những ác
Tâm củng thích
cúng dườngTâm
chúng sanh nếu bền
Sẽ là
thế gian quả.
Nếu lìa được
ba lỗiHồi hướng đại Bồ đềSẽ là bực
Thế TônChứng
Bồ đề vô thượngNày Đại Ca Diếp!
Bồ Tát tại gia nếu có ba điều dưới đây, thời thối thất đạo
Bồ đề, mà
bát Niết Bàn nơi
Độc Giác thừa: có hạng người dầu đã
phát tâm Bồ đề nhưng bỏn sẻn
chánh pháp. Có hạng người ham coi hạn coi sao và đoán việc
cát hung thế gian. Lại co hạng người vì
giải đãi mà không thể
tu học khắp các pháp trợ
Bồ đề. Những hàng
tại gia đã
phát tâm đại Bồ đề, nếu có
ba lỗi trên thời sẽ thoiá
thất Đại thừa mà vào
Độc Giác thừa bát Niết Bàn.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Người bỏn sẻn
chánh phápChẳng chịu
dạy bảo người
Sẽ qua
Độc Giác thừa.
Thối thất đạo
vô thượng.
Đã tu
Đại thừa phápLại xu cát tî hung
Chẳng phải
chánh tín tâm
Tất phải xa
Phật đạo.
Có thể
chuyên tín nhạo
Kiên cố đạo
Bồ đềTrọn không lễ trời thần
Chỉ
phụng thờ đức Phật.
Nếu có lòng
tịnh tínChẳng cầu muốn quả trời
Có thể được
Phật thừaHiệu là đấùng
vô thượngNếu lòng thích
Bồ đềChẳng
thờ cúng trời thần
Không luận sanh chốn nào
Thân đẹp xinh
tráng kiện.
Này Đại Ca Diếp!
Bồ Tát tại gia vì có ba điều mà thọ lấy
thân thể đen xấu: lấy đèn sáng nơi tháp của
Như Lai, đối với người tranh cãi kiện tụng mà tỏ vẻ
giận dữ, với người đen xấu không
can dự đến mình mà lại chê mắng”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Lấy đèn sáng nơi tháp
Hoặc làm tắt đèn thờ
Thọ lấy thân đen điu
Như lông đen chim quạ
Khinh chê người đen xấu
Tôi trắng trẻo anh đen
Do khinh chê nơi người
Thọ lấy thân đen xấu
Phải khéo gìn lỗ miệng
Lỗi họa tự miệng ra
Tùy theo nghiệp đã làm
Sẽ thọ lấy
nghiệp báo.
Này Đại Ca Diếp!
Bồ Tát tại gia vì có ba điều sau đây mà phải sanh vào nhà thợ thuyền: tự đã giữ được
năm giới, hoặc bị tân khách ép mời mà uống rượi, hoặc tự mời người khác uống, thời sẽ thọ sanh vào nhà thợ thuyền, đây là điều thứ nhứt.
Tự đã giữ được
phạm hạnh, lại hòa hiệp người khác khiến họ làm việc uế dục, nên sẽ thọ sanh vào nhà thợ thuyền. Đây là điều thứ hai.
Thấy người siêng năng
đọc tụng kinh pháp mà nhà mình lại hưng công rồi bảo kia rằng: Anh nên nghỉ
đọc tụng để làm tiếp công việc cho tôi, do đây nên sẽ thọ sanh vào nhà thợ thuyền. Đây là điều thứ ba”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Đem rượi mời người uống
Uống rượu với
bà conVì uống rượu say sưa
Bèn sanh vào nhà thợ.
Làm kim dao chẳng biết
Nghề khéo khác chẳng rành
Chỉ được ngồi động tay
Trước lò thụt ống bễ.
Tự mình tu
phạm hạnhBảo người làm việc dâm
Mãn báo đã chết rồi
Sẽ sanh vào nhà thợ.
Làm kim dao chẳng biết
Ống bễ chẳng được làm
Chỉ biết quơ búa to
Đập xuống đe rèn sắt.
Bảo người bỏ
đọc tụngSau khi đã chết rồi
Thọ sanh nhà thợ thuyền
Đâu óc thường nhu tối.
Chẳng biếtt thụt ống bễ
Cũng chẳng biết đập rèn
Do
nghiệp báo khiến nên
Làm hư hại đồ đạc.
Phật có
lời khuyên dạy
Nói năng phải gìn lời
Vĩnh viễn chớ dạy người
Làm tất cả việc ác.
Luân hồi sanh tử khổ,
Do
tham ái mà ra
Pháp lành phải siêng tu
Lánh xa nhử pháp ác.
Này Đại Ca Diếp!
Bồ Tát tại gia nếu có ba điều dưới đây thời sẽ thọ sanh vào nhà vua chúa
sang giàu, thanâ thể
đoan nghiêm xinh đẹp, được
mọi người kính yêu,
thông minh khéo léo siêng năng chẳng biếng trễ: người
tại gia vừa mới gặp bực
Sa Môn,
Bà La Môn lần đầu, liền kính tin
cúng dường những vật thực
y phục thuốc men đồ nằm cùng những vật
cần dùng khác. Đây là điều thứ nhứt.
Người
tại gia giữ vững bổn nguyện
tu hành đúng như
lời nói trọn chẳng
vọng ngữ. Đây là điều thứ hai.
Người
tại gia đối với bực
Sa Môn,
Bà La Môn đầy đủ
giới hạnh, kính tin
cúng dường các bực ấy mà lại có thể thọ học
chánh pháp. Đây là điều thứ ba”.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Những người có
trí huệThấy bực
giới học cao
Phải sanh lòng
vui mừngThường
đi theo học hỏi.
Đã được lời dạy dỗ
Nên đúng
pháp cúng dườngBố thí đồ
cần dùngTrọn không lòng
hối hận.
Đây là pháp bền chắc
Cần phải tùy thuận làm
Phật trí được
tương ưngKhó được mà mau được.
Do
lòng tin sâu chắc
Thẳng đến
đại Bồ đềĐường
trí huệ tu hànhPhật đạo chứng chẳng khó.
Sống trong pháp
Vô thượngMong được pháp diệu mầu
Phải thọ
thất thánh tàiQuả
Niết Bàn được chứng.
Sẽ sanh nhà
tôn quíThân
xinh đẹp đoan nghiêmĂn mặc đều cao sang
Chứng Niếtt bàn
Vô thượng.
Như chỗ Phật khen ngợi
Tu hành tối thượng thừaThanh tịnnh diệu
Niết BànĐây là quả
tối thắng.
Đã tạo nên
công hạnhQuả
đẳng lưu chẳng dừng
Trăm
ức kiếp trải quaNghiệp này cũng chẳng mất.
Này Đại Ca Diếp!
Bồ Tát tại gia trọn nên ba điều
vun trồng các căn lành nhẫn đến chứng được
Vô thượng Bồ đề trọn chẳng thọ vui
ngũ dục thế gian:
Người
tại gia thọ trì năm giới, không
ca ngợi vui
ngũ dục với người khác, siêng năng
tu tập nghiệp hạnh của mình. Lại
phát nguyện rằng: tôi thôi gần gũi tất cả
phụ nữ. Từ nay đến khi chứng
Vô thượng Bồ đề, nguyện tôi chẳng gặp sự vui
ngũ dục thế gian. Đây là điều thứ nhứt.
Người
tại gia nghe
kinh điển này, sanh
lòng tin cầu quả
đại Niết Bàn dầu
thọ trì giáo pháp này nhưng yêm ẩn chẳng thật hành. Được người khác
giảng giải và
phát khởi, liền phải xa bỏ việc yêm ẩn mà
cố gắng thật hành. Do căn lành này đặng
biện tài vô ngại,
vô trước. Người này đời
hiện tại hoặc lúc
lâm chung sẽ được thấy Phật.
Sau khi chết sanh lên
cõi trời, không bao lâu sẽ chứng được
Vô thượng Bồ đề. Đây là điều thứ hai.
Bồ Tát tại gia đem những căn lành mà mình đã có đều
hồi hướng Vô thượng Bồ đề, chẳng
ưa thích cảnh
lục trần,
của cải, chức tước, chẳng
trìu mến quyến thuộc. Do
Tâm vô vi và quả
vô vi nên mau chứng
Vô thượng Bồ đề. Đây là điều thứ ba.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Tại gia tu
năm giớiKhéo giữ khéo
hộ trìChẳng gần gũi nữ nhơn
Trong đây
sanh nhàm chán.
Những
pháp môn Vô thượngSiêng tu chẳng mỏi nhàm
Nếu có lỗi chẳng lành
Mau
ăn năn chừa bỏ.
Những căn lành
tu tậpĐều
hồi hướng Bồ đềDo
công đức lành này
Sớm lìa vui
ngũ dục.
Thường được học biết rộng
Đem
chánh pháp dạy người
Sanh lòng
đại từ biCầu
Bồ đề Vô thượngĐã nghe những
lợi íchPhải sanh niệm
hiền lànhCác
dục nhiễm nên xa
Sớm được
thành Phật đạo”.
Đại Ca Diếp bạch rằng: “Thế Tôn!
Kinh pháp này tên là gì? Nay
chúng tôi phải phụng trì thế nào?”.
Phật bảo Đại Ca Diếp: “Kinh này tên là “Thuyết Tam Luật Nghi”. Cũng tên là “Tuyên Thuyết
Bồ Tát Cấm Giới”. Cũng tên là “Đồng Nhập Nhứt Thiết Pháp”.
Phật nói kinh này rồi,
Tôn giả Đại Ca Diếp, tất cả
đại chúng, Thiên, Long,
Bát bộ v.v...
nghe lời Phật dạy đều rất
vui mừng tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI TAM TỤ LUẬT NGHI –
THỨ NHỨT
HẾT