KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
10. Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật
Thứ Mười
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất rằng : « Thế nào gọi là
đại Bồ Tát tinh cần tu học Tĩnh lự Ba la mật vì
chúng sanh mà thật hành
Bồ Tát hạnh ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì
chúng sanh mà
đại Bồ Tát siêng tu bốn thứ
tĩnh lự. Những gì là bốn ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì
ly dục ly pháp ác
bất thiện nên có tầm có từ
ly sanh hỉ lạc. Đây gọi là
Bồ Tát an trụ
tĩnh lự thứ nhứt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Vì
đại Bồ Tát diệt tầm và từ nên nội
tịnh tâm nhứt không tầm.không
từ định sanh hỉ lạc. Đây gọi là
Bồ Tát an trụ
tĩnh lự thứ hai.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì ly hỉ nên an trụ nơi xả,
chánh niệm chánh tri, thân
chánh thọ lạc được các thánh nói, có xả có niệm, an trụ nơi lạc ly hỉ. Đây gọi là
Bồ Tát an trụ
tĩnh lự thứ ba.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ tát vì dứt lạc nên dứt khổ làm trước và mất ưu hỉ, bất khổ
bất lạc xả niệm
thanh tịnh. Đây gọi là
Bồ Tát an trụ
tĩnh lự thứ tư.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ở
tịnh lự ấy
định tâm thanh bạch không có uế trược rời lìa các
tùy phiền não, chẳng xả
tĩnh lự mà có thể
phát khởi tất cả công việc của
tịnh lự . Đây gọi là
đại Bồ Tát vì y
Tĩnh lự Ba la mật mà siêng tu bốn thứ
tịnh lự.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là công việc
tĩnh lự của
đại Bồ Tát ? Đó là
Bồ Tát thành tựu thần thông trí nghiệp
viên mãn.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
Bồ Tát thần thông ? Lấy những gì mà làm trí nghiệp ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát thành tựu thông trí đủ có năm thứ :
Thiên nhãn tác chứng trí thông,
thiên nhĩ tác chứng trí thông,
tha tâm trí tác chứng trí thông,
túc trụ ức niệm tác chứng trí thông,
như ý túc sai biệt tác chứng trí thông. Đây gọi là năm thứ
thần thông của
đại Bồ tát. Ở trong đó
Bồ Tát thành tựu dầy đủ trí nghiệp
viên mãn.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì
đại Bồ Tát tu hành Tĩnh lự Ba la mật nên được
thiên nhãn trí nghiệp
viên mãn ấy.
Định tâm như vậy,
thanh tịnh minh bạch không trược uế rời
tùy phiền não, vì thế nên ở nơi các loài
hữu tình hoặc tử hoặc sanh
tác chứng trí
thần thông, tâm ấy khéo đến.
Đại Bồ tát thiên nhãn thanh tịnh sáng suốt chiếu rõ hơn hẳn mắt người , xem thấy các
hữu tình hoặc tử hoặc
sanh sắc đẹp sắc xấu loài lành loài ác hoặc liệt hoặc thắng, tùy các
chúng sanh do nghiệp chứa họp đều biết rõ cả. Dùng
tịnh thiên nhãn như vậy thấy các
chúng sanh tạo thân
ác hạnh, tạo ngữ
ác hạnh, tạo ý
ác hạnh, chê bai
hiền thánh phát khởi tà kiến. Họ do nghiệp nhơn
tà kiến nên thân hư
mạng chung đọa vào
ác đạo địa ngục ngạ quỷ súc sanh. Có các
chúng sanh tạo
thân diệu hạnh, tạo
ngữ diệu hạnh, tạo
ý diệu hạnh, chẳng chê
hiền thánh phát khởi chánh kiến. Họ do nghiệp nhơn
chánh kiến nên thân hư
mạng chung sanh vào
cõi trời thiện đạo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Vì
đại Bồ Tát tu hành Tĩnh lự Ba la mật nên được
thiên nhãn sáng suốt tối thắng hơn loài
hữu tình được
thiên nhãn, thấy suốt tất cả
sắc tướng hoặc thô hoặc tế, hoặc thắng hoặc liệt, hoặc xa hoặc gần, các cảnh ấy đối
trước mắt đều thấy rõ cả.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Do
thiên nhãn ấy nên tất cả
sắc tượng có
chướng ngại đến
trước mắt Bồ Tát đều thấy suốt
rõ ràng không có
chướng ngại.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Thiên nhãn của
Bồ Tát ở trong
cõi trời là
tối thắng. Những
thiên nhãn của Trời, Rồng,
Dạ Xoa,
Càn Thát Bà,
A Tu La,
Hữu Học,
Vô Học,
A La Hán,
Độc Giác chẳng sánh được với
thiên nhãn của
Bồ Tát.
Thiên nhãn nầy là do các đạo
xuất ly phát sanh ra nên rất sáng rõ thấy suốt. Trong
vô lượng vô biên thế giới mười phương có bao nhiêu
sắc tượng thô tế thắng liệt, hoặc gần hoặc xa,
thiên nhãn của
Bồ Tát đều thấy rõ như thiệt. Lại ở trong
vô biên vô tế thế giới mười phương có bao nhiêu
hữu tình sanh vào tất cả loài ; trừ
vô sắc giới,
thiên nhãn Bồ Tát đều thấy rõ như thiệt tất cả loài ấy.
Thiên nhãn Bồ Tát lại thấy biết những nghiệp nhơn và
quả báo của các
chúng sanh. Lại thấy biết các căn và các căn nhơn của
chúng sanh.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Vì
đại Bồ Tát tu hành Tĩnh lự Ba la mật nên
thành tựu thiên nhãn. Dùng
thiên nhãn ấy có thể nhìn thấy
vô lượng vô biên quốc độ chư Phật mười phương công đức trang nghiêm đều đối
trước mắt đều thấy
hiển hiện. Đã hiện thấy rồi,
Bồ Tát thanh tịnh tu tập giới tụ đều đem
hồi hướng trang nghiêm Phật độ. Đây gọi là
đại Bồ Tát có đủ
thiên nhãn an trụ
thi la viên mãn hồi hướng.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Thiên nhãn Bồ Tát trong sáng hơn người
như thật thấy rõ chư Phật và chư
Bồ Tát Tăng . Đã hiện thấy rồi, tất cả
Bồ Tát Tăng ấy có bao nhiêu
oai nghi pháp tắc, căn niệm
chánh trí,
giải thoát trí,
đà la ni, thắng
trí xảo diệu,
trí huệ phương tiện, thiện quyền
chứng nhập, tất cả
pháp hạnh thắng diệu ấy đều thấy biết như thiệt rồi
cố gắng siêng tu khiến mau
viên mãn.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Vì
đại Bồ Tát tu hành tịnh lự Ba la mật, nên được
thiên nhãn thanh tịnh hơn người,
vô lượng công đức tạo nên mắt ấy. Tại sao ? Vì mắt ấy không
chướng ngại, tất cả
sắc tượng đều có thể thấy. Mắt ấy không trước chấp vì với tất cả
sắc tượng không chấp trước. Mắt ấy
giải thoát, vì
giải thoát tất cả sự thấy
phiền não. Mắt ấy
thanh tịnh vì tánh
trong suốt. Mắt ấy không y dựa, vì các
cảnh giới không
sở y. Mắt ấy không thọ, vì chẳng
chấp thọ phiền não tùy miên. Mắt ấy không lòa, vì không nghi lầm. Mắt ấy không
trói buộc, vì rời pháp chướng. Mắt ấy
minh liễu, vì chứng được
pháp minh. Mắt ấy y nơi trí, vì
hiện hành chẳng phải là thức. Mắt ấy không
ô nhiễm, vì không giận không si rời xa tất cả
phiền não trược. Mắt ấy
tùy thuận quyết trạch phần thù thắng, vì làm gốc của các
thánh hạnh. Mắt ấy tướng
vô ngại, vì phóng
thần quang nơi tất cả
chúng sanh. Mắt ấy
trong sáng, vì rời tự loạn. Mắt ấy
vô cấu, vì tánh sáng sạch vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Thiên nhãn Bồ Tát hay dẫn
Phật nhãn, tánh như
hư không chẳng thối thất.
Thiên nhãn Bồ Tát không trước không phược, nơi
tham ái và
sân khuể thảy đều rời xa. Thiên nhản
Bồ Tát đi trong
cảnh giới nghĩa lợi, đi khắp
chánh pháp đạo trí thanh tịnh, với tất cả
chúng sanh hay khéo an trụ
đại bi cao rộng.
Thiên nhãn Bồ Tát đối với kẽ đến
cầu xin không giận không ngại.
Thiên nhãn Bồ Tát đối với người
phạm giới chưa hề chê khinh.
Thiên nhãn Bồ Tát đối với
tội lỗi hay tùy
trường hợp mà
giữ gìn. Thiên nhản
Bồ Tát với kẽ lười nhác hay sách tấn, với kẽ tâm loạn hay dạy
chỉ định, với kẽ ác huệ hay ban chánh huệ, với kẽ đi đường tà hay khai thị đường chánh, với
chúng sanh tín nguyện hạ liệt thì
thị hiện Phật pháp quảng đại của
Như Lai.
Thiên nhãn của
Bồ Tát cứu cánh thẳng đến nhứt thiết
chủng trí thần thông cao rộng
diệu giác hiện tiền ngồi nơi
đạo tràng không có
thối chuyển.
Đây gọi là
đại Bồ Tát vì y
Tĩnh lự Ba la mật nên được
thiên nhãn thần thông tác chứng trí nghiệp
viên mãn như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát tu hành Tĩnh lự Ba la mật được
thiên nhĩ tánh
tác chứng trí
thần thông ? lại do những gì mà nghiệp
thần thông trí đầy đủ
viên mãn ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do tu
Tĩnh lự Ba la mật, nên được
thiên nhĩ tánh nghe suốt
thanh tịnh hơn hẳn tai người, với hai thứ
âm thanh của nhơn và
phi nhơn hoặc xa hoặc gần đều nghe
rõ ràng.
Thiên nhĩ tánh ấy có thể nghe tất cả
âm thanh trong
vô lượng vô biên thế giới, như là
âm thanh của Trời, của Rồng, của
Dạ Xoa, của
Càn Thát Bà, của
A Tu La, của
Ca Lâu La, của
Khẩn Na La, của
Ma Hầu La Già, của Nhơn
Phi Nhơn. Và cũng nghe
âm thanh của
Hiền Thánh thuyết pháp, của
Như Lai, của
Bồ Tát, của
Độc Giác, của
Thanh Văn. Lại cũng nghe
âm thanh của các
ác đạo,
âm thanh của
địa ngục, của
ngạ quỉ, của
súc sanh.
Vô lượng vô biên âm thanh như vậy,
đại Bồ Tát dùng
thiên nhĩ tánh nghe suốt
rõ ràng.
Cho đến các trùng nhỏ như muỗi mòng ruồi kiến, những côn trùng
vi tế phát ra
âm thanh,
thiên nhĩ tánh của
Bồ Tát đều nghe rõ cả.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát thiên nhĩ tánh
thanh tịnh, nếu các
chúng sanh do
tâm duyên khởi niệm
thiện ác phát sinh
ngữ nghiệp đều nghe biết rõ cả. Lại biết rõ hoặc có các nghiệp nhiếp về thiện nhơn, hoặc có các nghiệp nhiếp về ác nhơn. Lại có thể biết rõ hoặc ngữ nghiệpdo tham
chủng tử mà
phát khởi sân khuể, hoặc
ngữ nghiệp do sân
tùy miên mà
phát khởi tham dục, hoặc có
ngữ nghiệp do tham sân
tùy miên mà
phát khởi ngu si, hoặc có
ngữ nghiệp do si
tùy miên mà
phát khởi tham sân. Lại biết rõ hoặc có
ngữ nghiệp do tham
chủng tử mà
phát khởi tham dục, hoặc có
ngữ nghiệp do sân
chủng tử mà
phát khởi sân khuể , hoặc có
ngữ nghiệp do si
chủng tử mà
phát khởi ngu si. Tất cả như vậy tùy có
ngôn ngữ phát ra
âm thanh đều nghe biết rõ.
Lại có thể nghe biết rõ, hoặc có
ngữ nghiệp ý giải thanh tịnh mà
phương tiện nhiễm ngại, hoặc có
ngữ nghiệp phương tiện thanh tịnh mà
ý giải nhiễm ngại.
Thiên nhĩ thông trí của
Bồ Tát thông đạt rõ ràng, tất cả chư Thánh, hoặc chẳng phải Thánh ở
mười phương thế giới có bao nhiêu
âm thanh đều nghe rõ cả lại hay
phân biệt biết rõ chẳng hề
sai lầm. Dầu nghe biết như vậy, nhưng với âm thanhThánh chẳng
phát khởi ham ưa, với
âm thanh chẳng phảiThánh chẳng sanh nhàm ghét. Lại vì nghe biết Thánh âm nên đưọc
đại từ, vì nghe biết phi thánh âm nên được
đại bi. Lại
âm thanh mười phương đồng thời vang ra
vô lượng đại Bồ Tát dùng
thiên nhĩ trí lực nghe biết chẳng tạp loạn đều đúng thiệt.
Tịnh thiên nhĩ của
Bồ Tát nghe suốt rộng khắp, tất cả
thế giới quốc độ tận
mười phương mà
chư Phật Như Lai du hóa, thanh âm
thuyết pháp của chư
Phật đều nghe biết rõ , nghe rồi , nghe rồi ghi nhớ chẳng quên chẳng tản, như đựng nước trong bình không tràn.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát, chẳng phải
lãnh thọ pháp âm của một
đức Phật mà
chướng ngại đối với
pháp âm của Phật thứ hai. Vì
đại Bồ Tát nghe pháp không hề chán nên dầu nghe có trước sau mà
pháp âm được tất cả
Như Lai nói, đều có thể
thọ trì không hề
sai lầm.
Lại
thiên nhĩ Bồ Tát nghe rõ
âm thanh thiện ác trong
mười phương thế giới . Thanh âm
thiện ác ấy
vô lượng hoặc thời
phi thời đều nghe biết như thiệt.
Thế nào gọi là thời ngữ và
phi thời ngữ ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chư Phật
Bồ Tát khéo biết thời nghi. Hoặc có lúc vì chúng nói rộng, hoặc có lúc vì chúng giảng lược.
Đại Bồ Tát nghe rồi, dùng một
âm thanh theo đúng thời nghi mà giảng rộng hoặc giảng lược.
Đại Bồ Tát hay biết rõ có
pháp thiệt nên
thọ ký nếu vì người mà nói sẽ làm não họ , do đó mà chẳng
thọ ký . Hoặc có
pháp thiệt chẳng nên
thọ ký đó là những pháp dẫn sanh vô nghiã,
đại Bồ Tát hay khéo
tùy thuận phương tiện lợi tha,
vô lượng thiện xảo tự
thanh tịnh tâm mình mà bèn
thọ ký.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
tu hành Tĩnh lự Ba la mật, nên
thiên nhĩ thanh tịnh có
sức nghe suốt rõ biết tướng dạng của các
âm thanh. Hoặc có những
âm thanh như vậy phải nên
tùy hỉ lắng nghe,
Bồ Tát liền lắng nghe. Hoặc có những
âm thanh như vậy chẳng nên
tùy hỉ lắng nghe ,
Bồ Tát liền chẳng lắng nghe.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc
đại Bồ Tát ở trong
đại chúng thuyết pháp , có
thính chúng nhĩ thức chẳng
thanh tịnh,
Bồ Tát liền dùng
thần lực gia bị cho họ nghe hiểu. Nếu các
chúng sanh đôi với tất cả pháp đều muốn lãnh hiểu,
Bồ Tát làm cho họ được
nghe pháp âm ấy. Nếu các
chúng sanh chẳng muốn thì khiến chẳng nghe.
Lại nầy
Xá Lợi Phật ! Vì
đại Bồ Tát tu hành Tĩnh lự Ba la mật đa, nên được
thiên nhĩ thông trí như vậy,
âm thanh được nghe
vô lượng vô biên.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
thiên nhĩ tánh làm cho các pháp đều sáng sạch.
Thiên nhĩ tánh hay làm cho
trí huệ tánh
trong suốt.
Thiên nhĩ tánh hay làm cho
Bồ Tát tự
thanh tịnh.
Thiên nhĩ tánh hay làm cho
chúng sanh tánh
thanh tịnh.
Thiên nhĩ tánh rât giỏi thẩm sát như
văn tự nói ra ngôn âm đều hay nghe biết rành rẽ lại hay
ngộ nhập. Các loài
hữu tình trong
lục đạo có bao nhiêu
ngôn từ âm thanh sai biệt.
Bồ Tát hay
phát âm đồng với mỗi loài mà
thuyết pháp cho họ.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Thiên nhĩ tánh thông của
đại Bồ Tát chỉ hay thẳng đến
Phật thiên nhĩ , quyết chẳng đi đến các thừa khác.
Đây gọi là
đại Bồ Tát do
tu hành Tĩnh lự Ba la mật nên được
thiên nhĩ tánh
thần thông nghe suốt trí nghiệp
viên mãn.
Lại nầy
Xá lợi Phất ! Thế nào là
Bồ Tát do
tu hành Tĩnh lự Ba la mật nên được tha tâm
tác chứng trí
thần thông, và những gì lại gọi tha
tâm thần thông trí nghiệp viên mãn?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát dùng
tha tâm trí thông thanh tịnh sáng suốt ấy , đều có thể biết rõ
vô lượng tâm tướng của tất cả
hữu tình khắp
thế giới trong
mười phương. Ở các nơi
chúng sanh không luận
tiền tế tâm tướng.
vị lai tâm tướng,
hiện tại tâm tướng,
Bồ Tát đều biết rõ cả
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì có đủ
tha tâm trí thông như vậy, nên
đại Bồ Tát dùng
quá khứ tâm trí đều có thể biết rõ tâm nhơn và tâm tùy nhơn của tất cả
chúng sanh : có thể biết rõ những
chúng sanh ấy là nhơn
quảng đại sanh ra tâm nhơn, là nhơn
trung phẩm sanh ra tâm nhơn , là nhơn
hạ liệt sanh ra tâm nhơn. Lại hay biết rõ các
chúng sanh ấy, hoặc có căn
tương ưng thí dục giải, có căn
tương ưng giới dục giải, có căn
tương ưng nhẫn dục giải, có căn
tương ưng tinh tấn dục giải , có căn
tương ưng định dục giải , có căn
tương ưng huệ dục giải. Cũng biết rõ các
chúng sanh hoặc có căn từ hạnh , có căn bi hạnh , có căn hỉ hạnh, có căn xả hạnh. Cũng biết rõ các
chúng sanh hoặc có căn
Phật thừa hạnh ?,có căn
Độc Giác thừa hạnh, có căn
Thanh Văn thừa hạnh. Cũng biết rõ các
chúng sanh hoặc có nhơn lực mạnh
xu hướng Đại thừa thiện nhơn
thành tựu, hoặc có
duyên lực mạnh
xu hướng Đại thừa duyên nhơn
thành tựu. Cũng biết rõ các
chúng sanh hoặc có nhơn lực mạnh
thành tựu xu hướng đại thừa thiện nhơn, nhưng
chúng sanh ấy do
phương tiện nhơn sanh
nhà hạ tiện, hoặc
chúng sanh sức
phương tiện mạnh dầu chẳng
thành tựu thiện nhơn
quảng đại nhưng
chúng sanh ấy lại trồng nhơn lực sanh nhà
quảng đại. Cũng biết rõ các
chúng sanh hoặc dục giải
thanh tịnh mà
phương tiện chẳng tịnh, hoặc
phương tiện thanh tịnh mà dục giải chẳng tịnh, hoặc dục giải và
phương tiện đều
thanh tịnh, hoặc đều chẳng
thanh tịnh.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc
đại Bồ Tát tu hành Tĩnh lự Ba la mật, vì được
tha tâm trí thông ấy, nên chỗ có trí biết nhơn căn
tâm hành tiền tế của tất cả
chúng sanh và trí tùy các
tâm hành ấy mà
thuyết pháp, thì đều gọi là
tha tâm trí thông Bồ Tát .
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì có trí ấy, nên dùng
trí thông nhập
hậu tế tâm ấy biết rõ các
chúng sanh hoặc đời
vị lai sẽ có giới nhơn mà đời
hiện tại thì có thí nhơn, hoặc đời
vị lai sẽ có thí nhơn mà đời
hiện tại thì có giới nhơn, hoặc đời
vị lai sẽ có
tinh tấn nhơn mà đời
hiện tại thì có nhẫn nhơn , hoặc đời
vị lai sẽ có nhẫn nhơn mà đời
hiện tại thì có
tinh tấn nhơn, hoặc đời
vị lai sẽ có huệ nhơn mà đời
hiện tại thì có
tĩnh lự nhơn, hoặc có đời
vị lai sẽ có
tĩnh lự nhơn mà đời
hiện tại thì có huệ nhơn .
Vô lượng nhơn hạnh như vậy ,
Bồ Tát đều biết rõ.
Đại Bồ Tát cũng biết rõ các
chúng sanh, hoặc đời
vị lai sẽ có nhơn hạnh
xuất thế mà đời
hiện tại thì có nhơn hạnh
thế gian , hoặc đời
vị lai sẽ có nhơn hạnh
thế gian, mà đời
hiện tại thì có nhơn hạnh
xuất thế,
vô lượng nhơn hạnh như vậy,
Bồ Tát đều biết rõ.
Đại Bồ Tát cũng biết rõ các
chúng sanh , hoặc đời
vị lai sẽ có căn
Đại thừa nhơn phát sanh mà đời
hiện tại thì có căn
Độc Giác thừa, hoặc đời
vị lai sẽ có căn
Độc Giác thừa nhơn phát sanh mà đời
hiện tại thì có căn
Đại thừa, hoặc đời
vị lai sẽ có căn
Đại thừa nhơn phát sanh mà đời
hiện tại thì có căn
Thanh Văn thừa, hoặc đời
vị lai sẽ có căn
Thanh Văn thừa nhơn phát sanh mà đời
hiện tại thì có căn
đại thừa, hoặc đời
vị lai sẽ có căn
Độc Giác thừa nhơn phát sanh mà đời
hiện tại thì có cănThanh Văn thừa, hoặc đời
vị lai sẽ có căn
Thanh Văn thừa nhơn phát sanh mà đời
hiện tại thì có căn
Độc Giác thừa. Tất cả
chúng sanh ở đời
vị lai sẽ có căn gì, hoặc nhơn hoặc hạnh hoặc duyên ,
Bồ Tát đều biết rõ cả..
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nên biết
chư đại Bồ Tát đối với các
chúng sanh chưa
thành thục, thì
phát khởi tinh tấn dùng
phương tiện hóa đạo họ chẳng hề chán mỏi, theo chỗ đáng được
ngộ nhập mà
thuyết pháp .
Đại Bồ Tát biết
chúng sanh ấy là
pháp khí gì, thì vì họ mà dạy
chánh pháp ấy, công việc
thuyết pháp thường không sai thất nên có hiệu là người
thuyết pháp chẳng hư luống.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Do
tu hành Tĩnh lự Ba la mật, nên
đại Bồ Tát được tha tâm
tác chứng trí thông ấy, đối với các tâm và
tâm sở pháp
hiện tại sanh khởi của tất cả
chúng sanh dầu là
vô lượng, nhưng
Bồ Tát đều biết rõ cả. Những là nếu các
chúng sanh có tâm
tham tâm sân tâm si, hoặc rời lìa tâm
tham tâm sân tâm si,
Bồ Tát đều biết rõ như thiệt. Do các hoặc
phiền não ấy che chướng tâm các
chúng sanh ,
đại Bồ Tát đều biết rõ rồi
tùy theo mỗi
phiền não mà tuyên nói
chánh pháp xuất ly.
Lại nầy
Xá lợi Phất !
Đại Bồ Tát có
tha tâm trí thông ấy, lúc muốn
thuyết pháp đến trước
đại chúng, trước phải
quan sát tướng căn hành
sai biệt của tất cả chúng, rồi theo chỗ đáng dạy mà vì chúng giảng nói. Phải biết
đại Bồ Tát ấy dùng trí biết rõ căn tâm thắng liệt của
chúng sanh có thể biết rõ tánh căn tâm thắng liệt của
chúng sanh .
Đại Bồ Tát ấy chẳng vọng khinh hủy
tâm tướng của mình và
tâm tướng của người, do vì
đại Bồ Tát ấy dùng
trí huệ quan sát tâm nối luôn không hở vậy.
Cũng thế,
đại Bồ Tát, dùng niệm quán sàt, dùng
xu hướng dùng giác dùng ngộ
quán sát tâm nối luôn không hở, nên rời lìa
tập khí phiền não, dứt hẳn
tương tục thanh tịnh vô cấu,
sáng suốt vô nhiễm, không trược, không tháo, chiếu rõ các pháp vào trong tất cả
tâm hành của các
chúng sanh,
quán sát nơi tâm nối luôn không hở như vậy.
Đại Bồ Tát nếu hay
ngộ nhập trí biết rõ tất cả
tâm pháp như vậy, thì gọi là
đại Bồ Tát do
tu hành Tĩnh lự Ba la mật nên được tha
tâm thần thông trí nghiệp
viên thành.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát lúc
tu hành Tĩnh lự Ba la mật được
túc trụ tùy niệm tác chứng trí
thần thông trí nghiệp viên mãn?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Do
Đại Bồ Tát có
trí lực túc trụ tùy niệm ấy, nên bao nhiêu
chúng sanh ở khắp
thế giới mười phương có
vô số sự việc các đời trước đều có thể
tùy niệm biết rõ cả. Hoặc
một đời, mười đời, hoặc trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, nhẫn đến
vô lượng đời đều có thể biết rõ cả.
Đại Bồ Tát cũng biết rõ kiếp
hoại kiếp thành, kiếp thành hoại
vô lượng kiếp như vậy đều biết rõ cả.
Đại Bồ Tát cũng biết rõchúng sanh ấy đã từng ở xứ ấy có tên gì họ gì dòng gì,
sắc tướng nào trạng mạơ nào
hình tượng nào,
ăn uống sanh sống thế nào hưởng thọ khổ vui ra sao,
vô lượng thứ như vậy đều
tùy niệm biết rõ cả.
Đại Bồ Tát cũng biết rõ
chúng sanh ấy ở chổ nầy chết sanh chỗ kia, ở chỗ kia chết sanh chỗ nầy hoặc của mình hoặc của người
vô lượng sự chết sanh
hành tướng và xứ sở đều
tùy niệm biết rõ cả.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do y
Tĩnh lự Ba la mật nên
trí lực túc trụ có thể
tùy niệm biết rõ sự việc
vô lượng đời trước của mình , cũng biết rõ tất cả sự việc
vô lượng đời trước của
vô lượng chúng sanh khác.
Lại cũng
tùy niệm biết rõ nhơn
tiền tế sanh
thiện căn của mình, nhơn
tiền tế sanh
thiện căn của các
chúng sanh.
Trí lực túc trụ của
đại Bồ Tát có
vô lượng phương tiện đem căn lành của mình
hồi hướng Vô thượng Bồ đề có thể làm cho
chúng sanh nhớ biết căn lành của họ khiến họ
phát tâm Bồ đề.
Lại hay
tùy niệm biết rõ những nhơn khổ lạc đã có đời trước và cũng biết rõ tất cả đều về nơi
vô thường khổ và
vô ngã, biết rõ như vậy rồi,
đại Bồ Tát thật hành
Bồ Tát hạnh , không
phóng dật nơi sắc nơi của nơi
quyến thuộc, không
tự do phóng dật, không
phóng dật mong cầu ngôi
Chuyển Luân Vương,
Thiên Đế Thích ,
Phạm Thiên,
Tứ Thiên Vương, không
phóng dật mong cầu sanh vào các xứ hưởng thọ
vui sướng hay
giàu sang quyền quí, chỉ trừ vì muốn
thành thục chúng sanh nên dùng
nguyện lực mà thọ sanh vào các cõi.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy vì biết rõ tất cả đều về nơi
vô thường khổ
vô ngã nên đối với các hành
phiền não quá khứ hay khéo
quở trách khinh hủy chán bỏ, chẳng còn
dung nạp nó ở
hiện tại, nhẫn đến lúc bị
nhơn duyên nạn
chết khổ lớn nặng cũng chẳng hề tạo
nghiệp ác hay pháp ác.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy đem tất cả
thiện căn đã có đều
hồi hướng Vô thượng Bồ đề và làm cho các
thiện căn hiện tại đang tích chứa thêm rộng lớn vì muốn
nhiếp thọ tất cả
chúng sanh và xa rời tất cả
hồi hướng bất
bình đẳng vậy. Có đủ những
thiện căn ấy,
đại Bồ Tát nối giống
Tam bảo cho chẳng
đoạn tuyệt đều để
hồi hướng nhứt thiết
chủng trí.
Nầy
Xá Lợi Phất !Nên biết do sức
niệm định mà
đại Bồ Tát mới
thành tựu được
vô lượng pháp lành như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
tu hành Tĩnh lự Ba la mật nên được
trí túc trụ ấy,
tùy niệm biết rõ rất khéo an trụ, do vì trụ nơi
pháp giới vậy.
Tùy niệm ấy
kiên cố bất động vì
phương tiện thiện xảo tập họp vậy.
Tùy niệm ấy không điệu tán vì đã hay tu nghiệp
tĩnh lự vậy.
Tùy niệm ấy không tháo động nhiễu loạn, vì
diệu xa ma tha hay
trụ trì vậy.
Tùy niệm ấy không
mê lầm vì diệu
tỳ bát xá na nhiếp thọ vậy.
Tùy niệm ấy
tánh không thô lỗ chất phát vì hay chúng
thanh tịnh hiện trí
vi diệu vậy.
Tùy niệm ấy hay nhớ giữ vì các niệm lâu xa không quên mất vậy.
Tùy niệm ấy là kho kín
châu báu, vì khéo chứa họp
tư lương phước đức vậy.
Tùy niệm ấy chẳng
tùy theo người vì khéo chứa họp
tư lương trí huệ vậy.
Tùy niệm ấy đã đến
bỉ ngạn, vì khéo chứa họp
tư lương các độ vậy. Nên biết
vô lượng vô biên những pháp lành
vi diệu đều do
niệm lực nắm giữ nên đối với đời
quá khứ và đời
hiện tại phát khởi pháp nhớ biết không quên mất.
Đây gọi là
đại Bồ Tát do y
Tĩnh lự Ba la mật nên được
túc trụ thần thông thành tựu đầy đủ
nghiệp trí viên mãn vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát như ý túc tác chứng thần thông, những gì gọi là
như ý túc thông trí nghiệp
viên mãn ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì y
Tĩnh lự Ba la mật nên
đại Bồ Tát được dục
tam ma địa đoạn hành
thành tựu mà tu
như ý túc, rồi tâm
chuyên cần ấy quán
tam ma địa đoạn hành
thành tựu mà tu
như ý túc.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát y nơi dục cần tâm và quán ấy
trợ phát pháp định rất khéo tu trau rất khéo
thành lập tự tại chuyển vận nên hay
tu tập tứ như ý túcNầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát thành tựu tứ như ý túc rồi,
tùy theo ý mình muốn thì
như ý thần thông liền
hiện tiền có thể
hiển thị vô lượng thần biến,
đại Bồ Tát dầu hiện
vô lượng thần thông biến hóa, nhưng đều vì
độ thoát các
chúng sanh mà
tu tập vậy. Có
chúng sanh đáng thấy
thần thông ấy mà chịu
điều phục, thì
đại Bồ Tát vì họ mà hiện
thần biến ấy. Hoặc hiện
sắc tướng hoặc hiện oai lực, hoặc ngầm
gia bị, nhơn đó
chúng sanh ấy
được giải thoát.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát như ý túc thông hiện các
sắc tướng để
điều phục chúng sanh ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát quan sát các
chúng sanh, do thấy hoặc nghe
sắc tượng ấy, mới được
điều phục,
Bồ Tát liền hiện
sắc tượng ấy : hoặc hiện
sắc tượng Như Lai, hoặc hiện
sắc tượng Độc Giác, hoặc hiện
sắc tượng Thanh Văn, hoặc hiện
sắc tượng Thiên Đế, hoặc hiện
sắc tượng Phạm Vương, hoặc hiện
sắc tượng Tứ Thiên Vương, hoặc hiện
sắc tượng Chuyển Luân Vương và
vô lượng sắc tượng khác,
tùy theo sắc tượng nào mà
chúng sanh được độ,
Bồ Tát đều có thể
thị hiện,
cho đến như
sắc tượng súc sanh chẳng hạn.
Bồ Tát đều vì
chúng sanh mà
thị hiện thuyết pháp.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
như ý túc thông hiện các oai lực ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát quan sát các
chúng sanh nhiều
tăng thượng mạn,
sân hận kiêu căng phóng dật rất nặng, do thấy
thần lực ấy mà được
điều phục,
đại Bồ Tát liền
hiện
thần lực ấy: hoặc hiện sức
đại lực sĩ, hoặc hiện sức một phần tư của
na la diên, hoặc hiện một nửa hoặc
toàn phần sức lực của
na la diên, hoặc đến gấp bội để các
chúng sanh đưọc
hóa độ.
Nầy Xá Lơị Phất!
Đại Bồ Tát do
Tĩnh lự Ba la mật mà được
như ý thần thông lực, có thể dùng hai ngón tay cất tòa núi chúa
Tu Di lên nhẹ nhàng như lấy một trái xoài, và có thể ném núi chúa ấy qua để nơi
vô biên thế giớí khác. Núi chúa
Tu Di ấy cao mười sáu vạn tám ngàn
do tuần, rộng tám vạn bốn ngàn
do tuần, do bốn chất báu: vàng, bạc,
lưu ly và
pha lê tạo thành cao rộng
đệ nhứt. Do an trụ
như ý thần thông nên dầu ném núi qua phương khác mà
sức lực của
Bồ Tát không hề tổn giảm.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát an trụ
như ý thần thông có thể dùng bàn tay bưng cả
Tam thiên Đại thiên thế giới nầy
từ thủy luân đến Hữu đảnh đứng cả một kiếp và hiện tất cả
oai nghi không hề trở ngại.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Vô lượng sự như vậy chẳng nghĩ bàn được,
đại Bồ Tát đều có thể tùy chỗ
thích đáng mà hiện các
thần biến.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát thị hiện đại lực ấy cho các
chúng sanh kia hết
kiêu mạn sân hận mà chịu
điều phục rồi,
đại Bồ Tát liền theo chổ
thích nghi mà
thuyết pháp cho họ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!Thế nào là
như ý túc thông gia bị?
Đại Bồ Tát dùng sức trí thông gia bị ấy, tùy chổ gia niệm đều được
thành tựu. Nếu muốn gia niệm biển lớn
sâu rộng khiến như dấu chưn trâu, cho biển lớn ấy liền đúng như
niệm lực của
Bồ Tát mà lượng bằng dấu chưn trâu. Nếu muốn dấu chưn trâu rộng lớn như biển lớn thì liền lớn bằng biển lớn.
Nếu
Đại Bồ Tát muốn ngọn lửa lớn lúc
kiếp thiêu thành khối nước liền thành khối nước, ngược lại cũng vậy, tất cả đều theo
ý niệm của
đại Bồ Tát mà
thành tựu.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nếu có gia
niệm pháp hạ trung thượng chuyễn đổi lẫn nhau, liền đều
thành tựu cả.
Đại Bồ Tát phàm gia niệm
thần thông giúp vật thì cứng chắc khó hư chẳng thể
chuyển biến được, tất cả người hay trời
thế gian đều chẳng thể
giao động cất dấu, chỉ trừ
Phật Thế Tôn.
Nầy
Xá Lợi Phất! Phải biết
đại Bồ Tát ấy
dùng sức niệm
gia trì như vậy chỉ vì những
chúng sanh tôn trọng các thứ biến hiện kỳ lạ
quảng đại nên
thị hiện oai thần để
thuyết pháp cho họ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Do
đại Bồ Tát tu hành Tĩnh lự Ba la mật nên được
như ý thần túc ấy
tự tại không thối thất vượt khỏi
cảnh giới của ma
phiền não thẳng vào
cảnh giới tất cả chư Phật, đầy đủ
phương tiện chẳng
não hại chúng sanh, chứa họp
tư lương tất cả
thiện căn, tất cả
ma vương ma quân và
chư Thiên oai đức chẳng ngăn dứt được.
Đây gọi là
đại Bồ Tát y
Tĩnh lự Ba la mật được
như ý túc tác chứng thần thông trí nghiệp
viên mãn.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đại Bồ Tát y
Tĩnh lự Ba la mật được năm
thần thông ấy,
thần thông ấy có
nghĩa lý gì và do những gì mà gọi là trí?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nếu quán
sắc tượng thì gọi là
thần thông,
nếu có thể biết rõ
sắc tượng tận diệt mà chẳng chứng tận thì gọi là trí. Nếu nghe biết tất cả
âm thanh thì gọi là
thần thông, nếu biết rõ được
âm thanh tiền tế bất khả đắc thì gọi là trí. Nếu rõ thấu được
tâm hành của
chúng sanh thì gọi là
thần thông, nếu biết rõ
tâm tánh tịch diệt mà chẳng chứng
tịch diệt ấy thì gọi là trí.
Nếu có thể tùy niệm quá khứ biên tế thì gọi là
thần thông, nếu biết rõ được
tam thế vô ngại thì gọi là trí. Với các
Phật độ hoặc qua hoặc lại thì gọi là
thần thông, nếu biết được
quốc độ đồng tướng hư không thì gọi là trí. Biết các pháp hưng khởi thì gọi là
thần thông,
quán pháp bình đẳng thì gọi là trí. Sáng thấu các
thế gian thì gọi là
thần thông, chẳng tạp với
thế gian thì gọi là trí . Oai thế
che khuất tất cả
Đế Thích,
Phạm Vương, Tứ Vương,
chư Thiên thì gọi là
thần thông, biết rõ tất cả
Thanh Văn Duyên Giác chỗ chứng của họ
hạ liệt thì gọi là trí. Những
thần thông và trí như vậy số đến
vô lượng chẳng thể nghĩ bàn. Đây gọi là
đại Bồ Tát do y
Tĩnh lự Ba la mật tinh cần tu tập nên được
thần thông trí nghiệp
viên mãn như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát do y
Tĩnh lự Ba la mật nên chứng được
vô biên tĩnh định thâm dìệu. Tại sao ? Vì
đại Bồ Tát xả bỏ bao nhiêu
vô số phiền não tích tập nơi tâm, thì cũng có bấy nhiêu
vô số tĩnh lự tư lương công đức an trụ nơi tâm mình. Bao nhiêu
vô số chúng sanh do tâm
phiền não mà sanh các
tán loạn,
đại Bồ Tát cũng phải tích tập bấy nhiêu
vô số tĩnh lự công đức.
Đây gọi là
đại Bồ Tát chứng được
tĩnh lự số đến
vô lượng vô biên đều do
tịnh lự Ba la mật phát khởi.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát chứng những
chánh định rất sâu
vi diệu, an trụ trong đó,
đại Bồ tát đúng
thời bình đẳng dẫn nhiếp, chỗ ấy gọi là
đại tự tại. Thế nào gọi là
bình đẳng dẫn nhiếp ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại tự tại dẫn nhiếp tánh
bình đẳng của
hữu tình, nên gọi là
chánh định ấy là
đại tự tại. Vì
đại tự tại dẫn nhiếp tánh
bình đẳng của tâm
hữu tình,
dẫn nhiếp tánh
bình đẳng của dục giải,
dẫn nhiếp tánh
bình đẳng của
phương tiện,
dẫn nhiếp tánh
bình đẳng của
tăng thượng dục giải,
dẫn nhiếp tánh
bình đẳng của
đàn na,
dẫn nhiếp tánh
bình đẳng của
Thi la, của
Sằn đề, của Tỳ lê gia, của
Tĩnh lự, của
Bát Nhã,
dẫn nhiếp tánh
bình đẳng tất cả pháp. Đây gọi là
đại Bồ Tát tĩnh lự đại tự tại rất sâu
vi diệu dẫn nhiếp pháp tánh bình đẳng vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do y
Tĩnh lự Ba la mật nên được
tĩnh lự rất sâu
vi diệu chỉ trí mới nhập được, cũng được tên là chánh an trụ . Sao gọi là chánh an trụ ? Vì diệu định ấy đồng với
pháp tánh. Tại sao ? Vì nếu
Bồ đề bình đẳng tức là tất cả
hữu tình bình đẳng. Nếu tất cả
hữu tình bình đẳng tức là các
pháp bình đẳng. Nếu
chứng nhập được tánh
bình đẳng ấy thì gọi là chánh an trụ vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Nếu không tánh
bình đẳng, tức là các
pháp bình đẳng,
vô tướng tánh
vô nguyện tánh và
vô hành tánh đều
bình đẳng tức là các
pháp bình đẳng,
chứng nhập được tánh
bình đẳng ấy thì gọi là chánh an trụ vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
tâm tánh bình đẳng tức là các
pháp bình đẳng , chứng được tánh
bình đẳng ấy thì gọi là chánh an trụ vậy.
Đây gọi là
đại Bồ Tát được
tĩnh lự chánh an trụ tánh
bình đẳng ấy đều do
Tĩnh lự Ba la mật vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do y
Tĩnh lự Ba la mật nên được
tĩnh lự vi diệu bình đẳng ấy, đối với các
hữu tình có ơn hay không ơn đều
bình đẳng,
tâm không lấy bỏ . Vì thế nên tâm của
Bồ Tát đồng như
địa đại, như
thủy đại, như
hỏa đại, như
phong đại, như
hư không, không có cao hạ
sai biệt, an trụ khéo an trụ, chứng chổ không
dao động, ở trong các
oai nghi tâm luôn đại
chánh định và chẳng
phân biệt oai nghi đang an trụ,
tâm tánh thuần thục, thích ở thân định, chẳng điệu cử, không chuyễn lay, xa các
ngu độn,
lời nói chẳng tạp loạn, biết nghĩa biết pháp, khéo biết thời nghi : đó là phải
thời gian đúng
thời gian. Khéo
tùy thuận thế gian mà chẳng tạp với
thế gian tánh,
siêu việt tám pháp thế gian, các hoặc
phiền não chẳng
ô nhiễm được, rời chỗ ồn náo, xa các hành tác, chỉ thường an ở trong
pháp tánh bình đẳng, chẳng xả thâm định mà hiện tất cả
việc làm thế gian.
Đây gọi là
đại Bồ Tát y
Tĩnh lự Ba la mật chứng nhập vô lượng công đức như vậy. Nên biết đều do
diệu huệ phương tiện phát khởi.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát vì y
Tĩnh lự Ba la mật nên chứng được
diệu huệ và
phương tiện.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát dùng sức đại bi duyên tâm nơi cảnh, vì độ
chúng sanh thì gọi là
phương tiện,
chứng nhập tịch tĩnh tối cực
tịch tĩnh thì gọi là huệ. Nếu nhập được
Phật trí vô ngại thì gọi là
phương tiện, không có một pháp nào có thể suy biết được thì gọi là huệ. Nếu
chứng nhập được các pháp nhiếp quán thì gọi là
phương tiện, ở nơi
pháp tánh không tạp
tư duy thì gọi là huệ. Nếu
bình đẳng chứng nhập Phật thân trang nghiêm hiện tiền thì gọi là
phương tiện,
quán pháp thân tánh
vô sở hữu thì gọi là huệ. Nếu
bình đẳng chứng nhập ức niệm âm thanh ngôn từ của Phật diễn nói thì gọi là
phương tiện,
quán pháp tánh không thể
ngôn thuyết thì gọi là huệ. Nếu
bình đẳng chứng nhập tâm an trụ kim cương dụ định thì gọi là
phương tiện, niệm không
tán loạn quán pháp tánh thì gọi là huệ . Nếu an trụ bổn nguyện
thành thục chúng sanh thì gọi là
phương tiện,
quán chúng sanh tánh
vô ngã thì gọi là huệ. Nếu duyên
cảnh giới tăng thượng phát khởi tất cả
thiện căn tăng thượng thì gọi là
phương tiện,
quán không duyên không căn thì gọi là huệ. Nếu
chánh định ấy tu trau
Phật độ hiện tiền thì gọi là
phương tiện, quán
quốc độ đồng như
hư không thì gọi là huệ. Nếu
chánh định phát khởi trang nghiêm đạo tràng thì gọi là
phương tiện, nếu an trụ
tịch tĩnh lự tri các pháp thì gọi là huệ. Nếu
chánh định phát khởi chuyển
chánh pháp luân thì gọi là
phương tiện, nếu
quán pháp luân được chuyển ấy không khởi thì gọi là huệ.
Vô lượng giác phần
tư lương như vậy
bình đẳng chứng nhập quán sát hiện tiền thì gọi là
phương tiện.
Vô lượng như Vậy, các hoặc
phiền não tịch diệt dứt trừ
nhiệt não,
đức Như Lai có những
tĩnh lự diệu lạc chẳng
cùng chung với các pháp, không có các tướng, biết rõ khắp các tướng rời xa tất cả
cảnh giới sở duyên, tất cả như vậy đều nhập vào
tĩnh lự chánh định của
Bồ Tát. Nếu
đại Bồ Tát hay
quan sát đầy đủ như
vậy thì gọi là huệ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
đại Bồ Tát thành tựu vô tận tĩnh lự ấy, vì cùng hiệp với
Tĩnh lự Ba la mật nên tất cả
ác ma chẳng nhiểu hại được. Đây gọi là an trụ
pháp khí chư Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Phương tiện ấy,
diệu huệ ấy tức gọi là
đại Bồ Tát thành tựu Tĩnh lự Ba la mật đầy đủ, đều do
diệu huệ và
phương tiện phát khởi vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do y
Tĩnh lự Ba la mật nên đầy đủ
thành tựu thần thông bất thối hay gầy dựng trí nghiệp,
du hí thần thông thị hiện tất cả
tác dụng thế gian, an trụ
thần thông phát khởi tất cả
đại sự thế gian.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Thần thông nầy là
tướng đại trí, vì đầy đủ
tác dụng vi diệu thế gian và
xuất thế vậy.
Thần thông nầy là
tướng đại huệ, vì
hiện tiền thấy tất cả pháp
thế gian và
xuất thế vậy.
Thần thông nầy là tướng
vô tận, vì khắp tất cả như
hư không vậy.
Thần thông nầy
bình đẳng thấy các sắc, vì trong sắc và
vô sắc đều thấy
Bình đẳng.
Thần thông nầy khéo liền nhập vào được
pháp môn âm thanh, vì
âm thanh tiền tế tánh
bình đẳng vậy.
Thần thông nầy hay quán tất cả
tâm hành của các
chúng sanh vì
hiện tiền thấy tánh ấy vậy.
Thần thông nầy khéo
tùy niệm nhớ biết được tất cả các kiếp, vì
phân biệt biết rõ
tiền tế hậu tế vậy.
Thần thông nầy khéo
thị hiện được
vô lượng thần biến, vì thường hiện ở trước không có tướng
gia hành vậy.
Thần thông nầy biết rõ
lậu tận, vì phải thời đúng thời chẳng
lỗi thời vậy.
Thần thông nầy là thánh
xuất thế, vì
quyết trạch nơi tất cả pháp vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Thần thông như vậy rất sâu
vi diệu, hàng
Thanh Văn và
Duyên Giác chẳng lường được.
Thần thông như vậy có
oai đức lớn vì khéo
điều phục được các
hữu tình.
Thần thông như vậy
công nghiệp lớn, vì chứng được
quán đảnh tự tại chuyển tất cả pháp vậy.
Đây gọi là
đại Bồ Tát do y
Tĩnh lự Ba la mật nên được
thần thông bất thối thù thắng ấy, khéo gầy dựng được trí nghiệp, chẳng phải
năng lực tăng thượng mạn kia
phát khởi.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Phải biết
đại Bồ Tát được thông trí ấy là do
tâm thanh tịnh, tâm trắng bóng, tâm sáng sạch,
tâm không ô trược, tâm rời lìa
tùy phiền não, tâm khéo
tùy thuận, tâm khéo
tịch tĩnh, tâm khéo sửa trau, những
tâm tướng như vậy là do
phát khởi tĩnh lự giải thoát định và
giải thoát huệ vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy ở các
thế giới là cố
tác ý mà sanh chớ chẳng phải bị nghiệp buộc mà sanh, cũng chẳng phải do nghiệp buộc
mạng chung mà sanh. Tại sao ? Vì
đại Bồ Tát ấy đã
giải thoát tất cả
hư vọng phân biệt vậy, đã
giải thoát tất cả
phiền não phược chẳng chơn thiệt vậy,
giải thoát tất cả chỗ
y chỉ của những
điên đảo vọng chấp vậy. Thế nên
đại Bồ Tát ấy
hiện thân thế giới :
giải thoát mà sanh,
giải thoát mà
mạng chung,
giải thoát mà thọ sanh. Thọ sanh rồi,
đại Bồ Tát ấy làm xong
Đại thừa viên mãn chánh giáo của tất cả chư Phật, …khắp
mười phương rộng cầu
Phật pháp. Dầu chí có chỗ cầu, mà không lấy không được, tùy nhập chư
Phật pháp tức là tất cả pháp, tùy nhập tất cả pháp tức là chư
Phật pháp.
Đại Bồ Tát ấy tùy
nhập Phật pháp và tất cả pháp, nhưng chẳng
tùy theo pháp hành phi pháp hành ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Chư đại Bồ Tát lúc có thể như thiệt cầu các pháp mà an trụ không lấy không được như
vậy thì không có một pháp nào có thể đem vào toán số. Tại sao ? Vì tất cả
pháp siêu quá đạo toán số vậy. Nếu rõ thấu được
pháp tánh bình đẳng thì chẳng
chấp pháp cùng
phi pháp. Tại sao? Vì tất cả
pháp tánh không chấp vậy. Nếu tính cho rằng trong ấy có nghĩa thì có
vô nghĩa lớn rộng. Nếu khéo chẳng tính nơi nghĩa thì nghĩa và
vô nghĩa đều không. Người chẳng thấy nghĩa đối với tất cả chỗ có giác huệ
vô ngại.
Đại Bồ Tát ấy
nếu có thể rõ biết
vô ngại thì là được trí
vô ngại. Nếu có trí
vô ngại thì chẳng
chấp trước tất cả.
Nếu không sở trước thì là không sở trụ.
Nếu không sở trụ thì là không chỗ thiếu.
Nếu không chỗ thiếu thì không
ngu si không nguyện cầu.
Nếu không ngu si không nguyện cầu thì không mê không lầm.
Nếu không mê không lầm thì không
ngã sở.
Nếu không ngã sở thì không
nhiếp thọ.
Nếu không nhiếp thọ thì không chỗ chấp.
Nếu không chỗ chấp thì không
tranh luận.
Nếu không tranh luận thì là pháp
vô tránh của
Sa Môn . Nếu có pháp
vô tránh của
Sa Môn thì là tất cả không chướng không ngại như
hư không.
Nếu không chướng không ngại như
hư không thì chẳng hệ thuộc
ba cõi:
Dục giới,
Sắc giới và
Vô Sắc giới. Nếu chẳng hệ thuộc các cõi thì
không sắc tướng và hình lượng. Nếu đều
không sắc tướng và hình lượng thì có thể tùy giác.
Nếu có thể tùy giác thì có thể
thông đạt.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là tùy giác thông đạt?
Đại Bồ Tát nếu có thể liền
giác ngộ thông đạt chỗ ấy không có chút pháp có được, thì gọi là tùy giác
thông đạt.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư đại Bồ Tát do
bình đẳng chứng nhập tùy giác
thông đạt như vậy, nên gọi là
đại Bồ Tát y
Tĩnh lự Ba la mật được
thành tựu pháp hi kỳ chưa từng có.
Thế nào là pháp hi kỳ chưa từng có?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát y
Tĩnh lự Ba la mật, dầu thật hành
đại từ mà luôn
quán vô ngã. Dầu thật hành
đại bi mà biết không
chúng sanh. Dầu thật hành
đại hỉ mà biết không
thọ mạng. Dầu thật hành
đại xả mà biết
không hữu tình. Dầu rộng thật hành đại thí mà tâm luôn điều thuận. Dầu duyên
cảnh tịnh giới mà tâm
thường tịch tĩnh. Dầu thật hành
nhẫn nhục mà tâm
vô biên tế. Dầu siêng
tinh tấn mà tâm hay chọn họp. Dầu nhập các
tĩnh lự mà chánh
tâm quán sát. Dầu khắp hành
trí huệ mà tâm
vô sở hành. Dầu hành
tứ niệm trụ mà
tâm không duyên niệm cũng không
tác ý. Dầu hành
tứ chánh cần mà
tâm không sanh diệt. Dầu hành
tứ như ý túc mà tâm chẳng
hí luận. Dầu hành
tịnh tín mà
tâm không hệ trước. Dầu hành
tinh tấn mà tâm luôn xa rời. Dầu hành nơi niệm mà tâm thường
tự tại. Dầu ở trong định mà
tâm chứng bình đẳng. Dầu hành nơi huệ mà tâm vốn
vô tướng. Dầu hành
ngũ lực mà
tâm không dẹp phục. Dầu hành
giác phần mà phân tích
Bồ đề. Dầu
tu đạo phần mà
tâm không tu. Dầu hành chỉ mà tâm luôn
tịch diệt. Dầu hành quán mà
tâm không định quán. Dầu
tu hành thánh đế mà
cứu cánh biến tri. Dầu
thành thục chúng sanh mà tâm vốn
thanh tịnh. Dầu
nhiếp thọ chánh pháp mà chẳng
hoại pháp tánh. Dầu
tịnh Phật Độ mà tâm đồng
hư không. Dầu
chứng pháp vô sanh mà tâm
vô sở đắc . Dầu hành
bất thối chuyển địa mà
tâm tánh không thối chuyển . Dầu được các
diệu tướng mà biết
tánh không có tướng. Dầu
trang nghiêm đạo tràng mà tâm đi trong
tam giới thường ở khắp nơi. Dầu
hàng phục quân ma mà đối với tất cả
hữu tình không có xô dẹp. Dầu biết các pháp là tánh
bồ đề mà tâm liền biết rõ. Dầu
chuyển pháp luân mà
tâm an trụ pháp tánh không hoàn không chuyển. Dầu hiện
Niết Bàn mà tâm thường
bình đẳng đối với
sanh tử.
Đây gọi là
đại Bồ Tát bình đẳng chứng nhập tùy giác
thông đạt. Pháp hi kỳ chưa từng có ấy phải biết là do
tu hành Tĩnh lự Ba la mật mà
thành tựu.
Lại này
Xá Lợi Phất ! Những gì gọi là
tướng đại Bồ Tát y
Tĩnh lự Ba la mật tu học Bồ Tát tĩnh lự ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát tĩnh lự chẳng trụ
tự tánh, vì để đầy đủ những
chánh định như vậy.
Bồ tát tĩnh lự không có mến mùi, vì chẳng
tham trước để tự an vui vậy.
Bồ Tát tĩnh lự duyên nơi
đại bi, vì dứt
phiền não tất cả
chúng sanh vậy,
Bồ Tát tĩnh lự chánh định không thối chuyển, vì duyên nơi tánh dục
tăng thượng vậy,
Bồ Tát tĩnh lự nháng phát
thần thông vì rõ thấu các
tâm hành của
chúng sanh vậy,
Bồ Tát tĩnh lự tâm thích mến vui, vì khéo có thể hiển
phát tâm tự tại vậy.
Bồ Tát tĩnh lự biết rõ tất cả
tam ma bát đề, vì chói che tất cả cõi Sắc,
vô Sắc vậy,
Bồ Tát tĩnh lự là
tịch tĩnh tối thắng, vì chói che
chánh định của
Thanh Văn ,
Độc Giác vậy.
Bồ Tát tĩnh lự không có
phân biệt, vì tột
cứu cánh thanh tịnh vi diệu vậy,
Bồ Tát tĩnh lự hành phẩm
tối thắng, vì
tập khí tương tục đã
trừ diệt hẳn vậy,
Bồ Tát tĩnh lự dùng
huệ siêu độ, vì
siêu độ tất cả các
thế gian vậy,
Bồ Tát tĩnh lự làm đạo thủ dục giải cho các
hữu tình, vì khéo
độ thoát được các
hữu tình vậy.
Bồ Tát tĩnh lự nối giống
Tam Bảo chẳng dứt vì lấy
tĩnh lự Phật làm
cứu cánh vậy.
Bồ Tát tĩnh lự tối cao hiển, vì
đại tự tại thường
hiện tiền vậy.
Bồ Tát tĩnh lự tối cao hiển, vì
đại tự tại thường
hiện tiền vậy.
Bồ Tát tĩnh lự tự tại chuyển vận, vì những chỗ làm đều
viên mãn vậy.
Bồ Tát tĩnh lự là
đại ngã, vì dùng
trí huệ vi diệu làm
đại ngã vậy
Bồ Tát tĩnh lự có
vô lượng tướng như vậy đều do
đại Bồ Tát y
Tĩnh lự Ba la mật tâm chứa họp
phát khởi.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Pháp gì làm
tiền đạo cho
Tĩnh lự Ba la mật của
đại Bồ Tát ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát Tĩnh lự Ba la mật ấy, lấy tâm tĩnh
quán trí làm
tiền đạo, lấy
tâm an trụ một
cảnh sở duyên làm
tiền đạo, lấy
tâm không tán dộng làm
tiền đạo, lấy
tâm an trụ làm
tiền đạo, lấy tâm
xa ma tha làm
tiền đạo, lấy tâm
tam ma địa làm
tiền đạo, lấy căn
tam ma địa làm
tiền đạo, lấy lực
tam ma địa làm
tiền đạo, lấy
giác phần tam ma địa làm
tiền đạo, lấy chánh
tam ma địa làm
tiền đạo, lấy
giải thoát tĩnh lự làm
tiền đạo, lấy
cửu thứ đệ định làm
tiền đạo, lấy chín
pháp diệt trừ làm
tiền đạo, lấy tất cả pháp lành làm
tiền đạo, lấy phục
phiền não oán làm
tiền đạo, lấy khối
tam ma địa đầy đủ
viên mãn làm
tiền đạo, lấy các
tam ma địa đại Bồ Tát làm
tiền đạo , lấy các
tam ma địa chư
Phật Thế Tôn làm
tiền đạo.
Vô lượng tĩnh lự như vậy đều làm
tiền đạo cho
Tĩnh lự Ba la mật cả. Lại còn có
vô lượng vô biên pháp tịch tĩnh được chứng đều là
tiền đạo cho
Tĩnh lự Ba la mật cả.
Đây gọi là
đại Bồ Tát Tĩnh lự Ba la mật.
Đại Bồ Tát vì
Vô thượng Bồ đề phải ở trong ấy
phát khởi tinh tấn tu học đầy đủ, thật hành
Bồ Tát hạnh”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
Tĩnh lự giải thoát đến bờ kia
Siêng tu hạnh nầy nhiều
số kiếpTâm ấy
tịch tĩnh không dơ đục
Chẳng nhiễm
thế pháp như
hoa senCó đại tĩnh định tên
biến chiếuY định nầy tu đến bờ kia
Có tên
nguyệt quang tịnh
trang nghiêmLại tên điện quang được
nghiêm sứcHoặc tên cao hạnh tên tâm dũng
Có định tên là
vô cấu quang
Tên
giới đức biện tên
vô ưuHoặc tên
chư pháp tự tại chuyển
Tên là
pháp cự hoặc
pháp dũngHoặc tên sơn oai
pháp tự tạiHoặc
chánh pháp trí
tự nhiên siêu
Hoặc trì
chánh pháp diệu thanh tịnh
Hoặc tên
quán sát tha
tâm địnhHoặc tên
chánh pháp bửu quang minh
Hoặc tên diệt hoặc nghiêm thắng tràng
Có định tên là tồi
ma lựcHoặc tên đoạn nghi tên
vô trướcCó định tên là
tịch tĩnh đăng
Tên lực cao thắng tên
thập lựcHoặc tên kính
thủ đại danh xưng
Hoặc tên trì sơn thiện an trụ
Tên
Tu di sơn đại minh đăng
Hoặc tên
vô thắng thắng bỉ thắng
Hoặc tên
trí cự tên huệ hành
Tên
vô biên trí tên
tự tạiHoặc tên phát
huệ tịch tĩnh định
Hoặc tên nguyệt định nhựt
âm thanhTên
na la diên tồi
kiêu mạnTên thiện điều long
sư tử hốngTên là
viễn ly chủng chủng tưởng
Hoặc tên triền chuyển tên phàn hoàn
Tên
vô minh nhãn lực thanh tịnhCó định tên là niệm chư Phật
Có tên
niệm Pháp tên
niệm TăngHoặc tên trí chuyển tên
nhập khôngHoặc tên
vô tướng tên
vô nguyệnTên
kim cương dụ tên địa tịnh
Tên
kim cương địa tên cao thắng
Hoặc tên
sơn vương tên chẳng tối
Tên
vô biên chuyển tên tịnh âm
Tên ly
phiền não tên
quán sátTên
hư không diệu tên
như khôngTên phát
quảng đại chư
công đứcTên xu giác huệ tên
niệm huệTên biện
vô tận tên
tương tụcTên
vô biên thuyết từ
vô tậnTên vô hoài thiện tác
sở tácTên là
quan sát tên chúng duyệt
Hoặc tên từ biện tên bi quảng
Tên nhập
hoan hỉ tên hân khánh
Tên xả tên thoát hai thứ ngại
Hoặc tên pháp quang tên pháp nghĩa
Tên
kim cương tràn tên
trí hảiTên
giải thoát kiên tên chúng hỉ
Hoặc tên
trí cự vô động định
Có định tên là thắng
liên hoaTên giản
tập pháp tên
vô độngHoặc tên huệ thượng tên
tịch tĩnhTên
vô biên quang tên
Phật hảiHoặc tên
giải thoát tên trí thọ
Hoặc tên
Như Lai diệu
trang nghiêmHoặc tên
vô biên thắng quang diệm
Hoặc tên
hoan hỉ trang nghiêm độ
Hoặc tên duyệt dự
chúng sanh ý
Có định tên là nhứt thiết thời
Thuận
Bồ đề đạo tam ma địaCó định tên là
đáo bỉ ngạnGiác phần hoa nghiêm thí bửu kế
Tên thí
cam lồ tên
giải thoátTên phong tam động thạnh
quang minhHoặc tên hải triều dòng bửu tạng
Tên chư
kim cương sơn phong lực
hoặc tên
thần thông quảng đại nghĩa
Tên thiện
nhiếp thọ tam ma địaCó định tên là đại thông chiếu
Cảnh giới của
chư Phật Như LaiChứng được định
tịch tĩnh dường ấy
Và
câu chi vô biên định khác
Tu hành tĩnh lự đến bờ kia
Bồ Tát công đức rộng
vô lượngĐi đứng luôn du cảnh
tĩnh lựTâm ấy không loạn thường
đạm bạcHoặc đi hoặc nằm ở trong định
Hoặc đứng hoặc ngồi thường tại định
Ở định hay
phát âm thanh lớn
Bởi vì
pháp tánh thường tịch tĩnh
không dị
phân biệt không
tự tạiKhông
ngã không mạng không
phân biệtNhư vậy và những không
biên tếVô số vô lượng biển
công đứcBồ Tát sáng suốt thương
chúng sanhTu hành tĩnh lự Ba la mật.
HẾT PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
Phẩm tĩnh lự ba la mật
Thứ mười
Hết