GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
II
PHÁP HỘI
VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM
THỨ HAI
(Hán bộ từ quyển thứ tư đến hết quyển thứ bẩy)
Phẩm Vô Thượng Đà La Ni
Thứ Nhất
(Hán bộ từ quyển thứ tư đến hết quyển thứ năm)
Hán dịch: Nhà Đường, Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy, tôi nghe : Một lúc Phật ở thành
Vương Xá Ca Lan Đà Trúc Lâm, chúng
đại Tỳ Kheo và
vô lượng đại Bồ Tát câu hội.
Chư đại Bồ Tát nầy đều là bực nhứt sanh
bổ xứ từ
Phật độ khác
vân tập đến đây.
Lúc bấy giờ
đại chúng vây quanh
cung kính cúng dường đức Thế Tôn.
Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát rời chỗ ngồi trịch y vai bên hữu, quỳ gối mặt,
chắp tay hướng lên Phật mà bạch rằng : «
Thế Tôn ! Tôi có chút ít nghi nay muốn thưa hỏi. Xin
đức Như Lai thương xót cho phép ».
Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát : « Nầy
thiện nam tử !
Như Lai cho phép ông hỏi.
Như Lai sẽ
giải thích chỗ nghi cho ông được
vui mừng ».
Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát bạch rằng : «
Thế Tôn ! Tôi vì chư
Bồ Tát muốn
trang nghiêm vô biên trí huệ mặc áo giáp
tinh tấn, vì người cầu
phương tiện thiện xảo, vì người cầu
trí huệ thiện xảo, vì người
sơ phát tâm quyết định đại trí, vì người đã an trụ đạo
Bồ đề, nên nay tôi thưa hỏi
đức Như Lai. Tôi cũng vì chư
Bồ Tát muốn làm
lợi ích chúng sanh, muốn
chúng sanh đều phát
đại tâm tu hành đại trí, dõng mãnh
tinh tấn được chẳng
thối chuyển Vô thượng Bồ đề, nên nay thưa hỏi
đức Như Lai.
Bạch
Thế Tôn ! Có chư
Bồ Tát vì loài
hữu tình mà nguyện đến bờ kia. Lại có
Bồ Tát quyết chí cầu
vô ngại vô úy,
phương tiện theo cơ khéo
phân biệt diễn thuyết pháp nghĩa, và
tuyên dương bổn
tánh tự tánh của các pháp đúng
như thật. Lại có
Bồ Tát được tâm
vô đẳng, tâm
tối thắng, tâm
vô thượng được
tự tại. Tôi vì chư
Bồ Tát trên đây mà thưa hỏi
đức Như Lai.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu có
chúng sanh cầu tự nhiên trí,
vô sư trí, phá vỏ
vô minh, vượt hơn tất cả nhơn thiên, làm
lợi lạc tất cả
thế gian. Tôi cũng vì những
Bồ Tát nầy mà thưa hỏi
Như Lai.
Bạch
Thế Tôn ! Chư
Bồ Tát đã an trụ nơi bực nầy mau được
viên mãn Phật quả, có thể chứng những môn
ba la mật bất khả tư nghì, dùng chút ít
công dụng thành thục chúng sanh, khiến
chúng sanh lìa ác thêm thiện, chỉ bày
chủng tánh Phật, có thể
an lập vô lượng chúng sanh chẳng
thối chuyển đạo
Vô thượng Bồ đề. Nay tôi vì hạng nầy mà thưa hỏi
Như Lai.
Bạch
Thế Tôn !
Đại chúng đây đều đã
vân tập, ngưỡng mong
đức Như Lai diễn thuyết pháp môn vi diệu truyền dạy chư
Bồ Tát khiến họ được
viên mãn đại nguyện, và được trọn nên căn lành nhứt sanh
bổ xứ.
Bạch
Thế Tôn ! Môn
đà la ni vi diệu như vậy,
đức Như Lai nên
tùy thời truyền dạy khiến chư
Bồ Tát có thể
thọ trì vô lượng pháp môn, an trụ
vô biên đại
thần thông,
thành thực vô lượng vô số chúng sanh đều được
nhiếp thọ Phật trí. Xin
đức Như Lai khai thị
pháp môn như vậy,
chúng sanh sẽ được
chứng đạo Bồ đề.
Bạch
Thế Tôn ! Từ xưa,
đức Phật đã từng
trải qua thời gian lâu xa
phát nguyện rộng lớn làm cho
vô số chúng sanh được
Phật trí và
tự nhiên trí. Nay Phật nên diễn nói môn
đà la ni nầy cho các
Bồ Tát được trọn nên
thiện căn của mình, và cũng nhờ sức
oai thần của
Phật gia hộ để
giữ gìn đại nguyện bất tư nghì của chư
Bồ Tát.
Bạch
Thế Tôn !
Đại chúng đây
chiêm ngưỡng đức Như Lai không tạm rời. Tất cả đều một lòng mong cầu
nhứt thiết trí và các
pháp tạng, muốn được nghe diệu nghĩa
quyết định của
Như Lai.
Đức Thế Tôn an trụ trong cảnh
nhứt thiết trí, đã biết
tâm nguyện của chư
Bồ Tát nầy.
Thế Tôn nên nói
cú nghĩa viên mãn của môn
đà la ni, làm cho chư
Bồ Tát chưa
thành thục đều được
thành thục, người đã
thành thục thời mau được
thần thông và
được giải thoát tri kiến.
Bạch
Thế Tôn ! Chư
Bồ Tát trụ bực
bất định nếu được dự nghe
diệu pháp thời được
thành tựu cảnh giới nhứt thiết trí.
Bạch
Thế Tôn ! Do những
duyên cớ trên đây nên tôi dám thưa hỏi việc lớn. Xin đức
Đại Từ giảng thuyết diệu pháp, dùng
oai thần gia hộ nhiếp thọ chư
Bồ Tát.
Bạch
Thế Tôn ! Đời
mạt thế sau nầy, trong
thời kỳ đấu tranh,
chúng sanh nhiều
chấp trước làm hại lẫn nhau, thêm lớn tham, sân, si, hoại loạn
chánh pháp. Khiến chư
Bồ Tát ở trong
thời kỳ đó, dùng đức
đại từ bi chịu đựng mọi sự khổ để
lưu hành diệu pháp nầy, không tranh không đấu. Do không
tranh đấu nên có thể
nhiếp thọ đại từ đại bi, và sẽ chứa nhóm những căn lành.
Bạch
Thế Tôn ! Do nghĩa trên đây nên nay tôi dám thưa hỏi
đức Như Lai về
pháp môn vô ngại và diệu nghĩa
quyết định.
Bạch
Thế Tôn !
Phương tiện gì để chư
Bồ Tát phát khởi vô lượng pháp môn ? Lại xin
đức Như Lai nói
pháp môn tịch tịnh chẳng diệt hoại, gồm diễn nói
pháp tạng vi mật,
thành tựu chánh niệm để
hàng phục ma oán và
ngoại đạo, mà chẳng bị họ xô phá.
Xin
đức Như Lai diễn nói
chánh pháp cho
chúng sanh chứa nhóm căn lành cũng khiến họ chứa nhóm
vô biên phương tiện thiện xảo, thẳng đến
nhứt thiết trí,
kết tập vô lượng pháp yếu, được
biện tài vô ngại, cũng khiến họ chứng được
vô lượng pháp môn và
đà la ni, lại khiến họ
phát tâm vô trụ. Cũng làm cho chư
Bồ Tát rõ biết
bổn sự của chư Phật, dùng
thần thông vô úy khắp các
thế giới truyền pháp nhãn
thanh tịnh cho
chúng sanh, cũng khai thị
diệu pháp bất tư nghì trọn nên
Phật trí.
Do những nghĩa nầy tôi dám thưa hỏi, xin
đức Thế Tôn nói
diệu pháp rộng lớn rất sâu của Phật, làm cho chư
Bồ Tát được
viên mãn bổn nguyện. Chư
Bồ Tát nầy dự nghe
diệu pháp rồi đều sẽ được
chứng trí huệ
thiện xảo đại Bồ đề, và những
hoằng thệ đều được
viên mãn ».
Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát : «
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay ông vì chư
Bồ Tát trụ nguyện
thanh tịnh phương tiện thiện xảo, cũng vì
thương xót chúng sanh, nên dùng
trí huệ quyết định khéo thưa hỏi
Như Lai.
Công đức của ông không có hạn lượng.
Ông lắng nghe và khéo
suy nghĩ, Phật sẽ
giải thuyết cho. Khiến chư
Bồ Tát đối với
cảnh giới trí huệ của
Như Lai, được sanh
vô lượng công đức.
Nầy
thiện nam tử ! Nếu các
Bồ Tát vì cầu
vô biên thiện xảo phương tiện, thời phải rõ biết
ngữ ngôn bí mật của chư Phật, rồi
thọ trì tư duy quan sát đúng lý.
Quan sát như thế nào ?
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Trí của
Như Lai nhiếp các
phương tiện, những điều
diễn thuyết đều
thanh tịnh cả. Chư
Bồ Tát cần phải tiến tu pháp yếu nầy.
Lời của chư Phật đều từ nơi
đại bi, đều
bình đẳng khắp với
quần sanh.
Quyết định thành thục các loài
hữu tình.
Hoặc có hạng trụ nơi
hạ thừa cầu
được giải thoát trong đạo
Thanh Văn. Có hạng phát thệ rộng lớn
viên mãn chơn thật
Niết Bàn thành nhứt thiết
chủng trí.
Nay Phật an trụ
giải thoát vô thượng, xa hẳn
pháp hạ liệt của các thừa khác, đã khéo vào
ngữ ngôn bí mật của chư Phật, nói câu lời
vô tỉ rộng lớn
thanh tịnh nhiếp thọ các pháp của
Như Lai, khiến các hàng
hữu tình theo
căn tánh của họ mà
được giải thoát thành thục.
Dầu vậy, nhưng nơi
pháp yếu nầy thảy đều
bình đẳng, chẳng thêm chẳng bớt, không
thiếu sót, nhẫn đến
vô biên tế tự tánh thanh tịnh.
Lời
diễn thuyết của chư Phật đều thấu rõ
như thật bổn
tánh tự tánh, nhưng trọn không có pháp rõ thấu cùng chẳng rõ thấu. Vì tất cả
pháp môn đều là
Như Lai dùng
giả danh mà
tuyên thuyết.
Nếu các pháp kia đã là
giả danh, thời chẳng thể dùng pháp để thi thiết, cũng không hiện bày. Vì không hiện bày, nên những điều Phật nói đều là
thắng nghĩa chơn thật.
Tùy theo pháp mà đồng vào tất cả pháp. Với tất cả pháp chẳng trụ nơi
phân biệt, cũng chẳng phải chẳng trụ. Do pháp
phân biệt cùng chẳng
phân biệt bình đẳng như thật mà chứng tất cả pháp
vô sai biệt.
Pháp vốn không có sanh, vì
sanh pháp vô sở hữu. Pháp vốn không có pháp mà vì vọng
phân biệt chấp trước. Pháp vốn không có khởi, vì không
tự tại.
Pháp không có quán đãi vì
hoàn toàn xả.
Pháp không có
tác dụng vì không có khứ lai.
Pháp không có
tự tánh vì
siêu quá tất cả
tự tánh. Pháp vốn
bình đẳng không sai khác vì không
hí luận. Tùy thật
hành pháp gì, phát nuyện
thù thắng đều
thành tựu cả, nhưng trong đây không có
tác giả nhẫn đến không có chút
pháp bị được, vì đều quy về nơi không.
Do những nghĩa trên đây, nên
Như Lai nói tất cả
pháp như huyễn, như mộng, không có cao hạ.
Chính đương lúc Phật dùng
hoằng thệ để nhiếp hóa
chúng sanh đây, cũng thiệt không có chút pháp gì có thể chấp lấy được cả.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây lá
pháp môn quang minh của chư
Bồ Tát. Do
pháp môn nầy nên được
tăng trưởng bổn nguyện
thù thắng. Như
mặt trời mọc lên thì tỏa ánh sáng khắp nơi. Người tin hiểu được
pháp môn nầy thì làm pháp
quang minh cho tất cả
chúng sanh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư
Bồ Tát, trong có
chánh tư duy, ngoài không
tán loạn, dứt được các
chướng ngại, niệm
phổ quang tam muội và tin hiểu được pháp
thậm thâm, thì cần nên
quan sát các
pháp môn nầy.
Như Lai biết rõ tất cả pháp, dùng môn
duyên khởi mà
tuyên thuyết khai thị :
Duyên khởi như vậy là
hư vọng không thật,
tự tánh bổn tánh thảy đều
không tịch. Tánh
duyên khởi nầy cũng chẳng chơn thật, dầu nó có thể làm cho
chúng sanh hết
tạp nhiễm được
thanh tịnh, nhưng tìm khắp
mười phương đều
bất khả đắc vì là
bất khả đắc nên không
nhiếp thọ. Vì không
nhiếp thọ nên với giáo thuyết của Phật còn nên xả ly huống là những
phi pháp. Nói xả ly là vì nó chẳng phải có, là
vô sở thủ, không có
công dụng, bổn tánh vốn
thanh tịnh. Tất cả
pháp không sai khác, vì rõ biết
phân biệt bổn tánh
như thật. Tất cả
pháp không có chỗ trụ, cũng không thể thấy, vì không có tánh riêng khác. Do đây nên tất cả pháp vốn không có chỗ trụ, không có chỗ y ỷ. Chỉ do
danh tự giả lập ra. Tất cả pháp đều
không tịch, chẳng có
tự tánh,
vô trụ mà trụ.
Vì vậy nên các
pháp không có trụ xứ. Vì không nơi chỗ nên là tận, là diệt, là
biến dịch.
Như Lai chỉ dùng
giả danh tuyên thuyết,
mật ý như vậy
cần phải rõ biết, chẳng nên
chấp trước là thiện cùng
bất thiện. Nếu chấp
thiện pháp thì cũng sẽ
chấp pháp bất thiện. Vì
chấp pháp bất thiện nên sanh những
khổ não. Phật dùng
giả danh ở nơi đây nói là
khổ thánh đế.
Do chẳng
chấp trước pháp thiện và
bất thiện nên những
chấp thọ kia dứt diệt.
Như Lai ở nơi bị
thiện pháp dứt đây mà giả nói là
tập thánh đế.
Vì rõ biết được
thánh đế thứ hai, vì diệt, vì tận, vì không ức tưởng, vì nhàm lìa,
quan sát vô sở hữu, vì
không tưởng, không thọ, không
phân biệt,
Như Lai nơi đây giả nói là
khổ diệt thánh đế.
Vì rõ biết
thánh đế thứ ba, là
đạo quả chỗ mong cầu,
như thật ngộ nhập tất cả pháp, vượt khỏi tất cả cảnh ức tưởng
phân biệt hí luận,
tương ưng bát thánh đạo,
tu tập chánh kiến nhẫn đến
chánh định, rõ biết
thánh đế là
con đường diệt khổ. Phật dùng
giả danh nói đây là đạo
diệt khổ,
thánh đế thứ tư.
Chư Phật ở nơi đây lập ra : Biết khổ, dứt tập, chứng diệt và
tu đạo. Đây là khổ,
khổ tập,
khổ diệt, và
khổ diệt đạo. Khổ nầy vốn không có, vì theo
thế tục giả danh lập ra.
Những
vô minh nầy tất cả đều là
phan duyên phân biệt, trong đây vốn
vô trí. Vì
vô trí nên cũng không có một chút
phan duyên có thể chấp lấy được. Không có chỗ chứng, không có
quang minh, không thể rõ biết, cũng
bất khả đắc. Như vậy thời trong đây sẽ có vật gì ? Tất cả đều là những pháp
hư vọng bại hoại không thật không chắc. Trong đây nếu lập ra có vật chắc thật, thời có chấp thường. Nếu cho là không thời thành chấp đoạn. Do đây chẳng nên
phân biệt đối với pháp khổ.
Do
trí huệ nên rõ biết
tự tánh của
vô trí là
tự tánh của khổ, vì
tương ưng với
vô minh.
Vô minh kia cũng chẳng cùng với vật
tương ưng, đã chẳng
tương ưng thì nó cũng không có. Vì chẳng
tương ưng, nên
vô minh chẳng phải là
phân biệt cũng chẳng phải là chẳng
phân biệt, chẳng tạo tác, chẳng hư hoại, cũng không
tác giả, vì không thể
tìm ra tác giả.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là chư
Bồ Tát ngộ nhập tự tánh của
vô minh mà thuận với
minh pháp môn. Do
pháp môn nầy có thể bỏ rời tất cả
vô minh đen tối,
hiện tiền chứng đặng
tùy thuận minh pháp, có thể khéo
tu tập Bồ đề phần, khéo rõ biết các
thánh đế.
Chư
Bồ Tát đây có thể được
thanh tịnh nơi
pháp môn nầy, nghĩa là : Do vì
bất sanh nên khổ được
thanh tịnh. Vì chẳng
phan duyên nên tập được
thanh tịnh. Vì diệt tận nên diệt được
thanh tịnh. Do
tu tập nên đạo được
thanh tịnh. Vì
tín tâm bình đẳng nên đạo liền
bình đẳng.
Những
pháp giả danh sai khác như vậy
cần phải rõ biết. Đã rõ biết rồi thì phải dứt, phải chứng, phải tu.
Đối với lời dạy của
Như Lai, nếu
hiểu rõ được, người đó liền biết khắp, liền dứt, liền chứng, liền
tu tập.
Do đây nên bực thánh rõ biết như vậy rồi, đối với tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, bèn được an trụ nơi
pháp môn tứ đế.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả
pháp không có
phân biệt, không có
tăng trưởng, cũng chẳng tích tập.
Vì bực thánh khéo rõ biết đúng
như thật, nên chẳng
phân biệt, chẳng
hí luận, chẳng bỏ, chẳng lấy, mà thấy được
như thật. Do
đạo đế đoạn trừ, nên đối với những
thiện pháp còn chẳng
phân biệt, không
hí luận, huống là pháp
bất thiện. Do
tương ưng với
vô phân biệt nên cũng chẳng trụ nơi dứt pháp và dứt
phi pháp. Đã
hoàn toàn dứt thời không còn
chấp pháp và
phi pháp. Bực nầy có thể rõ biết
pháp chấp là
hư vọng, pháp
hư vọng đây trống rỗng
vô sở hữu.
Như trên đây là môn đế lý
chứng nhập của những bực ấy. Do môn nầy, nên chẳng
tham ái, chẳng
sân hận. Chứng được
viên mãn đức xả, dứt được những
kiết sử, an trụ
chánh đạo đến bờ kia,
chứng pháp tánh nhưng không xuất không nhập.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay ông phải
quan sát bổn tánh của tất cả pháp đều không,
tự tánh tịch tịnh không có
tác giả. Tất cả pháp đều chẳng thật,
tương ưng với
kiết sử. Trong
pháp không tự tánh đó chẳng nên
chấp trước, lại cũng chẳng nên rời ngoài
tự tánh và chẳng phải
tự tánh mà có niệm
phân biệt. Đã rõ biết được
nhơn duyên thanh tịnh, thì với tất cả
pháp duyên sanh chẳng nên
hí luận.
Duyên sanh kia vốn không
tự tánh rốt ráo thanh tịnh,
nhơn duyên đó chẳng
tương ưng lẫn nhau. Các pháp xoay vần, trong đó không có
sở tác, không có sở hành, không có
sự nghiệp. Vì tất cả pháp đối
với nhau là không, nên không có
tự tánh, không
sở y, không sở trụ.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Trong
diệu pháp nầy ông
cần phải ngộ nhập. Được như vậy thời có thể
tăng trưởng không bị tổn hoại, được
pháp môn thanh tịnh phổ biến quang minh. Do
nhiếp thọ nên được
thanh tịnh. Vì không
hí luận nên thành
quang minh. Vì lìa
kiết sử không chỗ
chấp trước nên được
xuất ly.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả
pháp chỉ có
danh tướng để khai thị
tuyên thuyết. Danh là tất cả uẩn chẳng phải sắc. Tướng là những
sắc pháp do
tứ đại tạo thành.
Danh tướng như vậy, tất cả đều là
hư vọng chẳng chơn thật. Vì
chúng sanh điên đảo nên có
chấp trước : Hoặc chấp sắc là ngã, sắc là
ngã sở. Vì
phân biệt nơi tướng mà có tên gọi, có chỉ bày, có
tuyên thuyết. Hai thứ
danh sắc như vậy đều chẳng thật. Tất cả đều là những pháp
biến hoại hư vọng,
như huyễn, như mộng. Thể của sắc chẳng bền chắc như
cảnh chiêm bao, nhẫn đến bốn uẩn cũng đều chẳng thật. Tất cả chỉ là
văn tự thi thiết của
thế tục thôi.
Quan sát như vậy, lúc đã biết rõ, thì chẳng thấy có khổ. Vì không
phan duyên nên tâm
vô sở hữu. Vì
tương ưng với
thật đế nên không
phan duyên. Vì
vô sở hữu nên đâu có gì
tương ưng với
phan duyên kia. Do đây nên đối với
cảnh giới Niết Bàn được bặt tưởng và dứt
sở tri.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Tam giới do tưởng và
tác ý sanh ra, nên gọi rằng
tam giới hư vọng. Tưởng và
tác ý cũng chẳng phải chơn thật. Tưởng đây tức là
chấp trước sắc. Bao nhiêu
tác ý đều
tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Bổn tánh của các pháp cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, nhẫn đến
phi tưởng cũng chẳng phải
tác ý. Tưởng và
tác ý bổn tánh đều không. Những
ngôn thuyết cũng đều
hư vọng, chỉ nhờ
ngôn thuyết để làm cho tánh
tịch tịnh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Bổn tánh của các pháp vì là
giả danh, nên chỗ nói ra cũng đều
bình đẳng.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Thật đế trong pháp nầy, chư
Bồ Tát cần phải rõ biết. Nghĩa là
chư Phật Như Lai vì đã dứt rời tất cả
kiết sử, nên những điều
diễn thuyết ra trọn chẳng luống hư. Nơi đây các ông phải khéo
suy nghĩ, chớ có
quan niệm chấp trước. Đối với tất cả pháp chớ
phân biệt, chớ
hí luận. Rõ tất cả
pháp không có
tự tánh, sanh
lòng từ bi đối với
chúng sanh,
tư duy ngộ nhập pháp môn như vậy, khai thị
diễn thuyết để
lợi ích tất cả.
Pháp môn nầy thế nào ? Nghĩa là thấu rõ
vô minh các
pháp hữu vi, tỏ ngộ trí, kiến v.v... các
pháp vô vi. Phải
chứng nhập trí
thanh tịnh không
hí luận với tất cả
pháp hữu vi,
pháp vô vi.
Chẳng phải số lượng mà vào số lượng, mà trụ số lượng, vì
tùy thuận pháp chẳng phải số như vậy nên
chứng nhập pháp môn vô vi thanh tịnh, chứng đặng
trí huệ quang minh chiếu khắp,
nhiếp thọ các pháp làm cho chẳng mất chẳng hoại. Có thể dùng giác
huệ phương tiện
thiện xảo rộng vì
chúng sanh diễn thuyết các pháp.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là chư
Bồ Tát chứng nhập môn
đà la ni. Do môn nầy, mà sanh ra giác huệ
sai biệt rộng lớn, và có thể
phát khởi chí
thiện xảo diễn thuyết những pháp nghĩa.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Trong đây gì là môn
đà la ni ? Bực
Bồ Tát nầy đối với các pháp có thể được
tổng trì phương tiện thiện xảo.
Bồ Tát nầy an trụ nơi chí
thiện xảo thanh tịnh mà thật hành
biện tài thuyết pháp. Do giác huệ
nghĩa vô ngại mà
quán sát bổn
tánh tự tánh của các pháp. Nhưng tất cả
pháp tự tánh vốn
vô trụ,
vô danh,
vô tướng, không chỗ
kiến lập, chẳng thể tuyên thị, chỉ dùng
ngôn từ của
thế tục để
diễn thuyết. Tất cả pháp, bổn
tánh tự tánh đều
bất khả thuyết, không đến không đi, không có
văn tự,
văn tự vốn
thanh tịnh không có
công dụng. Vì bổn tánh của tất cả pháp đồng như
hư không, không tạo tác, không
sanh khởi,
vô tướng thanh tịnh. Dùng
hư không để khai thị
diễn thuyết, thời các
pháp môn nầy là không có
pháp môn, vì
pháp môn thanh tịnh,
rốt ráo không nhiễm cũng chẳng theo nơi nhiễm. Vì các pháp
rốt ráo chẳng
sanh khởi,
tự tánh của pháp cũng chẳng
sanh khởi. Do đây nên biết rằng tất cả pháp nói ra trong
ba đời,
tự tánh là
vô tánh, nhưng cũng chẳng nên chấp các pháp là
vô tánh. Đây là môn
đà la ni vô sở trước của chư
Bồ Tát, vì
pháp môn của chư
Bồ Tát đều
thanh tịnh.
Khai thị
diễn thuyết tất cả pháp có
hình tướng như vậy,
hình tướng đó chính là chẳng phải
hình tướng, chẳng tạo tác, chẳng hư hoại, chẳng
tham ái, chẳng
sân hận. Do đây nên biết môn
hình tướng nầy là chẳng phải môn. Vì môn
thanh tịnh nên được vào nơi
pháp môn thanh tịnh không
hình tướng. Vì muốn rõ biết môn
hình tướng nầy là
vô sở hữu. Chẳng dùng nghĩa có mà
tuyên thuyết như vậy, vì
vô sở tác nên vào nơi
pháp môn không
hình tướng.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Pháp môn không
hình tướng đã nói như vậy là vì
đà la ni thanh tịnh mà nói.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Pháp môn đã nói đó dường như
hư không, tất cả pháp nương nơi
hư không mà có
sanh diệt. Pháp
sanh diệt kia tánh đều
bình đẳng, không có
sanh diệt, không chỗ
nhiếp thọ. Với tất cả pháp phải biết như vậy. Tất cả pháp cũng chẳng phải
nhiếp thọ, chẳng phải không
nhiếp thọ, chẳng phải đồng, chẳng phải không đồng, nhẫn đến không có chút pháp gì mà có thể được. Do đây có thể rõ được môn
hình tướng nầy, vì được môn
vô tướng thanh tịnh mà khai thị diễn nói.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nói rằng
vô tướng đó chính là không thân, không thân thi thiết, không danh, không cú, cũng không
thị hiện. Nơi
giáo nghĩa nầy phải nên rõ biết môn không
hình tướng kia đồng với
hư không.
Nói rằng
hư không, cũng chẳng có
hư không và thị thuyết
hư không. Đây là
pháp môn vô minh tùy thuận minh trí lực.
Bồ Tát có thể
chứng nhập lý thú phương tiện của môn
đà la ni. Do
chứng nhập nên không có tránh luận cũng không quên mất. Liền
chứng nhập môn
đà la ni vô đoạn
bí mật ngữ ngôn. Như rồng
Vô Nhiệt Não làm trận mưa to không ngớt hột.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nói
đà la ni trên đây là
cú nghĩa gì ? ».
Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát nói : « Bạch
Thế Tôn !
Đà la ni là
giả danh phương tiện tùy thuận các pháp
bí mật; là
nghiệp dụng liền ghi nhớ khắp các pháp; là những câu
ngữ ngôn thuyết pháp. Do
trí lực được vào số
đà la ni như vậy. Do
thiện giác hưệ
cần phải thọ trì công lực Bồ đề vô lượng vô biên.
Bạch
Thế Tôn, như chỗ tôi hiểu,
phương tiện diễn thuyết trí
vô biên nầy là vì muốn
lợi ích cho tất cả
chúng sanh nên khai thị
lưu bố làm cho
chánh pháp chẳng
đoạn tuyệt.
Bạch
Thế Tôn !
Đà la ni nầy là đại
hư không, là
đại phương quảng. Do nghĩa đây nên có thể
tuyên thuyết rộng khắp. Do
tuyên thuyết bình đẳng có thể
nhiếp thọ nên gọi là
tùy thuận giáo pháp thiện xảo khai thị
lưu bố rộng lớn. Vì
văn tự sai biệt viên mãn mà được
thành tựu biện tài vô ngại. Do
quan sát nghĩa
thiện xảo ngôn thuyết nên được
nghĩa vô ngại biện tài. Vì
quyết định các
pháp thiện xảo khai thị nên được
viên mãn pháp
vô ngại biện tài.
Thương xót chúng sanh dùng tâm
đại từ bi nên có thể
nhiếp thọ. Do
nhiếp thọ, nên
tuần tự điều phục làm cho được
thanh tịnh, không
hí luận, có thể
diễn thuyết pháp xả
bình đẳng.
Bạch
Thế Tôn ! Lúc diễn nói
pháp môn phương tiện bí mật đà la ni nầy,
vô lượng vô biên nghĩa
thiện xảo ra từ
kim khẩu của Phật ».
Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát: « Nói
pháp môn chính là
từ ngữ nhứt thiết trí môn của
Như Lai. Trong môn nầy, do
ngữ ngôn mà
diễn thuyết được tất cả pháp.
Như Lai an trụ nơi
tự nhiên trí vô biên thanh tịnh rốt ráo thanh tịnh, từ nơi
vô sở trụ,
vô sở lập mà diễn ra
pháp môn rộng lớn rất sâu.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai từng nói tất cả pháp đều là
Phật pháp. Vì đối với các pháp có thể khéo rõ biết nên gọi là
Phật pháp. Bổn tánh của các pháp đồng với
Phật pháp nên các pháp đều là
Phật pháp. Do có thể rõ biết các pháp và
phi pháp nên nói rằng có thể rõ biết tất cả pháp. Người có thể rõ biết các pháp, thì có thể rõ biết môn
đà la ni. Môn
đà la ni này có thể vào khắp tất cả pháp, nghĩa là có thể nói năng
diễn thuyết đàm luận. Tất cả những sự nói năng
diễn thuyết đàm luận đều
do nơi văn tự mà tuyên thị. Trong
văn tự này, đầu là chữ « a », rốt sau là chữ « hà ». Dường như lúc
nhập thai, thọ thai, trụ thai, thời lấy mẹ làm trước. Lại như
chủng tử và nuôi lớn thời dùng cha làm trước. Tất cả
văn tự hòa hiệp
sai biệt dùng mẫu
tự như vậy làm trước. Phát sanh
văn tự thời trước là chữ a, rốt sau là chữ hà, những
văn tự khác ở chặng giữa,
tùy theo sự
tương ưng, các
văn tự hòa hiệp có ra. Đây chính là có thể vào môn
ngữ ngôn đà la ni.
Lại phải rõ biếttất cả những
hành pháp thảy đều
hoại diệt. Như
văn tự kia, đã viết học thành rồi liền sẽ
trừ diệt. Tất cả
nghiệp dụng lập ra đều sẽ
hoại diệt. Như những
hành pháp kia vì hòa hiệp mà sanh, nó chẳng hòa hiệp thời
hoại diệt. Hai thứ
tương ưng hòa hiệp như vậy
lập thành tất cả
ái kiến trong
ba cõi, cũng do hai thứ hòa hiệp như vậy
lập thành tất cả
pháp hữu vi.
Quan sát như vậy, lần lần có thể
thành tựu pháp môn vô tác, do đây có thể
diễn thuyết môn
đà la ni sanh diệt, làm cho chư
Bồ Tát mau được
viên mãn phương tiện thiện xảo. Như mẫu tự, trước là chữ a, sau là chữ hà. Được như vậy rồi, nên dùng
lời nói diễn thuyết đàm luận, khéo vào tất cả
ngôn từ bí mật, lại phải rõ biết pháp
vô ngại để khai thị
tuyên thuyết.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Như mẫu tự, chữ « a » làm đầu, bao nhiêu
văn tự theo đó
lập thành, do
tác ý mà có biên chép. Sau chữ « hà », không còn
văn tự nào có thể
kiến lập được nữa. Do hai thứ
tác ý nầy có thể sanh tất cả
hành pháp hữu vi. Hai thứ
phân biệt đó đều không chơn thật, vì nơi chơn
thật không có bổn
tánh tự tánh của
văn tự, cũng không có
phân biệt và chẳng
phân biệt, mà trong đó cũng không có chút phần gì làm ra.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả các pháp do
trí nhận biết. Trí nầy đều từ nơi
văn tự mà được
sanh khởi. Vì
văn tự nầy chẳng
thành tựu, nên trí kia cũng lại không
hình tướng có thể được. Vì nơi chơn thật vốn không có
hình tướng. Do vào nơi không
hình tướng như vậy nên rời bỏ tất cả
sự nghiệp tạo tác. Vì
vô tác nên rời bỏ tất cả sự
hữu vi.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là
pháp môn thanh tịnh thiện xảo đà la ni. Nếu chư
Bồ Tát lúc học
pháp môn nầy, thời có thể
phát khởi tất cả
sự nghiệp vô ngại, vì
chúng sanh tuyên thuyết chánh pháp không thiếu bớt, chẳng trụ nơi
chấp trước, và có thể
xa lìa những tưởng cùng
tác ý, vì đã có thể vào nơi
pháp vô ngại trí, chứng
vô biên trí.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư
Bồ Tát khi đã khắp dùng tất cả
danh tự, mà rõ biết tất cả
pháp chỉ có
ngôn thuyết mà không chơn thật. Biết như vậy rồi
Bồ Tát cần phải vào
phương tiện đà la ni môn.
Thế nào là nên vào môn
phương tiện đà la ni ? Rõ biết tất cả
danh ngôn vốn không chỗ trụ, nên chẳng trụ nơi các pháp, chẳng trụ trong ngoài chặng giữa, tất cả chỗ đều là
bất khả đắc. Chỉ nương
ngôn thuyết mà lập ra
danh tự. Với
danh tự lập ra liền rõ biết
như thật, là
như thật. Do
như thật nầy
cần phải rõ biết tất cả pháp vốn không
danh tự, không
ngôn thuyết, đây là chỗ
trí lực vô sở úy của chư Phật. Với tất cả pháp,
Bồ Tát nên dùng
pháp môn nầy để khai thị
diễn thuyết.
Như Lai nói tất cả pháp chẳng phải một tánh, chẳng phải khác tánh, vì các
pháp không có tánh một tánh khác. Tất cả pháp nầy chẳng phải sanh chẳng phải có. Những pháp tuyên thị như vậy cũng không. Pháp đã không thời chính nó là
vô tướng. Đã
vô tướng thời không nguyện cầu. Nếu các pháp đã là không, là
vô tướng, là
vô nguyện, thời là bất
khả tri, bất khả
biến tri. Do đây chẳng nên nói các pháp là hữu là vô. Nói hữu nói vô chỉ là
ngôn thuyết, trong đó chẳng nên
chấp trước. Vì Phật thường nói nếu người chẳng
chấp trước tất cả
pháp thời là chơn thật
thắng nghĩa. Nếu người có
chấp trước, thì với pháp nào cũng đều sanh
chấp trước.
Chấp trước như vậy đều là pháp
bại hoại, là không, chỉ có
hư vọng,
phân biệt,
hí luận.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông
cần phải quan sát diễn thuyết các pháp, nhưng những pháp đó thật ra không thị không thuyết, há lại ở trong đó mà có người
năng thuyết vì người khác mà
diễn thuyết.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Pháp thanh tịnh đây do
Như Lai diễn bày ra. Người nào có thể rõ biết được thời đáng gọi là rất
hi hữu.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay các ông ở trước ta được
nghe pháp như vậy, dầu
đa số có thể khéo rõ biết sanh
thắng giải, trụ nơi
tín tâm thanh tịnh, nhưng
chúng sanh đời sau đối với pháp nầy ít người
hiểu biết. Chỉ trừ những người hiện nay gần gũi bên
Phật phát hoằng thệ : nguyện đời
vị lai đem sự
an lạc lợi ích cho
chúng sanh, mà sẽ
thọ trì giáo pháp của
Như Lai. Những người
hiện tiền thừa sự cúng dường Như Lai tin sâu hiểu chắc sẽ có thể chứng được môn
đà la ni nầy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Do ngày trước
cúng dường chư Phật, lại được tin hiểu
giáo pháp thậm thâm, nên chư
Bồ Tát nguyện cầu Đại thừa hướng đến
công hạnh sâu rộng.
Hàng
Thanh Văn thừa nhàm lìa
ba cõi nên siêng năng
tu hành giáo pháp thậm thâm, những người nầy chưa từng được nghe
giáo pháp thâm diệu nầy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Đức Như Lai vì muốn
lợi ích cho hạng
hữu tình nầy, khiến họ chứng
chủng trí rộng lớn
vô lượng, nên lại nói
giáo pháp thậm thâm.
Giáo pháp nầy chẳng phải kẻ
ngu phu nhiều
chấp trước chẳng mong cầu
diệu pháp mà có thể hiểu, có thể làm được.
Diệu pháp nầy là chỗ nương dựa của những người
tu hành đúng lý đầy đủ căn lành, biết sợ tội mà cầu
giải thoát.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay Phật vì các ông và tất cả
đại chúng luôn
thuyết pháp chẳng mỏi nhàm. Do
xưa kia lúc Phật còn thật
hành đạo Bồ Tát, trong
vô lượng kiếp tinh tấn tu học diệu pháp thậm thâm này. Đã
tu học rồi bèn
hồi hướng tất cả
chúng sanh : Làm thế nào sẽ vì các loài
hữu tình mà chuyển được
pháp luân vô thượng và vì các
hữu tình thị hiện được
trí huệ vô thượng khiến cho
Phật chủng chẳng dứt ?
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là do
nguyện lực thuở xưa của
đức Như Lai vì muốn Phật trủng trẳng dứt và dùng oai lực
gia hộ môn
đà la ni nầy, khai thị
diễn thuyết pháp
thậm thâm đây cho được
lưu bố rộng khắp, khiến
chúng sanh sẽ được
ngộ nhập trong
Phật pháp.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay các ông nếu muốn học theo Phật, thời có
chúng sanh nào mong cầu
chánh pháp, các ông phải khai thị
diễn thuyết chớ sanh lòng nhàm mỏi.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Chư
Bồ Tát ở trong
đại chúng, đem pháp của mình đã được nghe mà
diễn thuyết khai thị. Do đây sẽ được gần
Phật trí, mau chứng được môn
đà la ni. Vì chứng
đà la ni nên dùng
công lực ít mà có thể
thọ trì pháp môn thanh tịnh sáng suốt.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả
pháp bổn tánh
thanh tịnh. Bổn tánh của các pháp nếu đã là chẳng phải
tương ưng, chẳng phải không
tương ưng, chẳng phải hòa hiệp, chẳng phải không hòa hiệp, thời trong các pháp vẫn không có pháp. Nếu pháp đã không có thì không chỗ nào có thể thị thuyết được, chỉ trừ khi để dứt tập nhơn, vì dứt tập nhơn nên được
xa lìa, vì được
xa lìa nên được
tịch diệt.
Như Lai vì muốn
chúng sanh hiểu rõ nên
tuyên thuyết. Tất cả
pháp bổn tánh tự tánh vốn là vô nhơn, thì là vô nhơn dứt. Vì vô nhơn dứt nên không lìa không diệt.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông xem chỗ
thuyết pháp của Phật
thanh tịnh như vậy. Nếu người dùng pháp để
quan sát Như Lai, người đó nơi
Như Lai thấy chẳng
thanh tịnh. Vì
Như Lai chẳng phải pháp chẳng phải
phi pháp.
Như Lai còn chẳng an trụ chút pháp gì huống là
phi pháp.
Như Lai vượt khỏi các pháp
biểu thị, không thể
tuyên thuyết, vì tất cả
ngữ ngôn đều
thanh tịnh. Do đây nên
Như Lai rất là rộng sâu
vô lượng.
Như Lai chẳng phải sắc
biểu thị, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức
biểu thị, cũng chẳng phải sắc diệt tận
giải thoát, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức diệt tận
giải thoát. Do đây nên
Như Lai tuyệt những pháp
biểu thị cùng sắc, thọ v.v... với các pháp chẳng phải
tương ưng, chẳng phải không
tương ưng, nhưng ở nơi tất cả
pháp hữu vi vô vi đều có thể khắp
giải thoát, chẳng
phân biệt, không
hí luận.
Như Lai chẳng
tương ưng với sự
chấp trước nơi sắc, cũng chẳng
tương ưng với sự
chấp trước nơi thọ, tưởng, hành, thức, đã dứt hẳn tất cả cội gốc
chấp trước, và cũng
xa lìa cội gốc của các pháp. Nghĩa là
Như Lai không
hí luận, chẳng nhập chẳng xuất, vượt khỏi các dòng, chẳng trụ
cảnh giới Phật
vô thượng, cũng chẳng phải không trụ. Nên nói rằng
Như Lai chẳng trụ nơi chút pháp gì, chẳng lấy chẳng bỏ.
Lúc
thuyết pháp cũng phải
diễn thuyết như đã nói về
vấn đề Như Lai. Vì
Như Lai chẳng
tương ưng nên pháp của
Như Lai cũng chẳng
tương ưng.
Như pháp của
Như Lai, tất cả pháp cũng vậy. Cứ nơi lý
như thật thời các pháp đều như. Do đây nên Phật nói tất cả pháp đều là
chơn như. Tất cả pháp
chơn như cùng Phật
chơn như không sai không khác, chẳng phải nhứt chẳng phải dị. Vì
Như Lai an trụ nơi pháp
vô phân biệt chẳng phải là
biến kế chấp.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai thuyết pháp trọn chẳng
siêu quá tất cả pháp, vì không có chút pháp nào có thể
siêu quá.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Lúc
đức Như Lai chứng được
Vô thượng Bồ đề, nhưng thật ra lúc đó không có pháp gì được, vì tất cả pháp đều
bất khả đắc, chẳng
phân biệt, chẳng thấy có pháp cùng
phi pháp, cũng không
tác ý, nơi
pháp tánh thanh tịnh chẳng an trụ, chẳng
kiến lập. Lúc
giản trạch rõ biết các
pháp như vậy, cũng không có người rõ biết và
giản trạch.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Văn cú đệ nhứt nghĩa đã
diễn thuyết đây là
văn cú chẳng phải
văn cú của
Như Lai, vì
văn cú vốn
thanh tịnh. Do nghĩa nầy nên chư
Bồ Tát chứng được trí tất cả
văn cú thanh tịnh. Do đây có
thể nhập môn
đà la ni lý nghĩa
vô biên, nhưng cũng không chút pháp gì có thể
chứng nhập, vì không có khứ lai.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Văn cú đã nói đó, vốn không
văn cú có thể được, vì
văn cú vốn chẳng phải
văn cú. Đối với tất cả
văn cú cần phải rõ biết như vậy. Những
văn cú như vậy là nhàm lìa
văn cú, đã nhàm lìa
văn cú thì là
văn cú hư vọng. Nếu
văn cú hư vọng thời là nhàm lìa
văn cú. Tất cả
văn cú đó là
văn cú diệt tận, nếu
văn cú diệt tận thời là
văn cú chơn như. Nếu
văn cú chơn như thời là
văn cú rốt ráo. Nếu
văn cú rốt ráo thời là
văn cú tận diệt. Nếu
văn cú tận diệt thời là
văn cú Niết Bàn. Nếu
văn cú Niết Bàn thời chẳng phải
thế tục, không
văn cú đặt ra cũng không thị thuyết.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nói một câu được
bình đẳng vào trong tất cả pháp. Thế nào là một câu ? Chính là câu yểm ly. Trong yểm ly vốn không có câu. Tất cả câu đây còn là yểm ly, thời câu cũng chẳng phải câu vì câu
thanh tịnh. Nếu câu
thanh tịnh, thời
Niết Bàn thanh tịnh. Nếu
Niết Bàn thanh tịnh thời câu
thanh tịnh. Những
văn cú như vậy đều bất knả thuyết. Dầu dùng
lời nói để tuyên thị
văn cú, nhưng
lời nói đó tìm khắp
mười phương vẫn không tìm được ai vì ai mà nói. Nên tất cả
ngôn thuyết đều không.
Ngôn thuyết đã không thời không có nghĩa. Chẳng nên ở trong đó
phân biệt hí luận đặt ra những
cú nghĩa như vậy. Tất cả đều là
cú nghĩa vô phân biệt, là
cú nghĩa không
hí luận. Do đây nên người
tu quán hạnh, lúc tìm cầu
quan sát tất cả
cú nghĩa, phải biết đều là
tịch diệt Niết Bàn. Những
văn cú như vậy chẳng khác với
Niết Bàn, cũng là
bất khả thuyết. Nhưng chẳng phải là không khác vì
ngôn thuyết và
văn cú đều là
hư vọng. Vì
văn cú thanh tịnh nên
phương tiện tuyên thuyết để
biểu thị các
cú nghĩa, chẳng phải
biểu thị chơn thật. Nếu là chẳng phải
biểu thị cũng chẳng phải không
biểu thị, thì là ở
trung đạo. Nếu ở
trung đạo thì là
vô phân biệt, vì trong đây đã dứt
phân biệt. Lúc
chứng nhập pháp tánh bình đẳng đây, không còn có chỗ nào thật hành chút ít
ác hạnh, vì là
vô sở đắc.
Chư Phật nói người tu
Bồ Tát thừa, lúc không có chút pháp gì để có thể thật hành, đây chính là thật hành
Bồ Tát hạnh, vì an trụ môn
đà la ni thanh tịnh vô thượng.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay Phật sẽ nói câu
đà la ni. Do câu này mà chư
Bồ Tát được
đà la ni có thể khai thị
vô biên pháp tạng. Chư
Bồ Tát nầy trụ bực
vô tránh, vì có thể phá trừ những ngoại luận, vì rất
tịch tịnh, vì
thuyết pháp rộng. Đây là câu
đà la ni của
pháp môn đó :
Đát điệt tha nhã duệ - vi nhã duệ - ô kế - ô ca phiệt để - a lộ kế -a
lộ ca phiệt để - bát ra bệ - bát ra bà phiệt để - na rị thiết nãnh - nễ na rị thiết đàm phiệt để - yết thế - yết tha phiệt để - thú thát nãnh - bệ thú thát nãnh - bát rị thú thát nãnh - cật rị gia - cật rị gia phiệt để - ôn đát ra ni - san đát ra ni -
ma ha tỳ xã duệ -
ma ha tỳ xã gia phiệt để - a nộ san địa - a bát ra để - san địa -
du già ma nại đà -
tất địa - tất đà yết thê - tất đà yết tha phiệt để - ma để - ma để bát ra bệ - ôn đát rị - ôn đát ra phiệt để - nhĩ ma rị - di
ma ra nộ
tán địa – tát lê - tát ra phiệt để - tát ra nộ già để - ta mĩnh - ta ma
lam bà nhĩ già để -
yết để - a nễå già để - a bát ra để nễ phiệt để – di thế sái - di thế sái phiệt để -
a ma hê nễ - nễ ma hê nễ - bát ra ma hê nễ - ô hà ô đát ra nãnh -
ma ra bát na duệ - a thế sát - a nộ ba thế sát - a nộ già mê - a bát ra để già mê -
a già đế -a
na già đế - già để nhĩ thú đà nễ - bát rị thú đệ - cương kiệt sai chế na nễ dạ đế - ma để bát ra tị đế - ma để tỳ thú đà nễ - tam mạn đa nộ
yết đế - mạn đa bát rị phược lê - tam mạn đa tỳ thú đà - nễ a nộ ba ngật ra hứ - a nễ ngật ra hứ đế - hứ ra na thê - a ra
tha tỳ thú địa bát ra mĩnh - hê đô nễ địa san ninh bát ra tị để - bát ra tị đa phiệt để - tỳ nễ thiết giả duệ - tị nễ thuyết giả gia nộ
yết đế -a nan đa ra thê -
a nan đa bí ngật ra hế - ma xã tỳ thú địa a nộ kiệt ra hế - bát ra kiệt ra hà tỳ thú đả nễ - a địa da đa ma tỳ kiệt đế - ma hứ ra đà tỳ thú đà nễ - bí địa da nộ kiệt để - bí địa da nộ
tán địa - bát rị thú đà nễ.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là câu
đà la ni. Chư
Bồ Tát do câu này có thể nhớ rõ các
pháp tạng của
vô lượng Như Lai, cũng có thể khai thị
diễn thuyết làm cho
chúng sanh trụ bực
vô tránh, lại có thể được
phương tiện vào tất cả
nghĩa lý, có thể rõ biết trí
sai biệt rộng lớn
vô lượng, tất cả
hạnh nguyện đều được
viên mãn.
Cũng làm cho chư
Bồ Tát được
phương tiện thiện xảo đà la ni. Do được
đà la ni nầy sẽ có thể rõ biết
nghĩa lý bí mật của các pháp : nơi
nhãn căn thấy sắc
đà la ni, nhẫn đến
ý căn biết
pháp đà la ni.
Môn
đà la ni sáu căn thấy biết
sáu trần như thế nào ?
Chư
Bồ Tát do
nhãn căn thấy
sắc trần rồi, vì
trí lực và
niệm lực biết rõ sắc là
vô thường sanh diệt chẳng dừng, do đây chẳng
chấp ngã và chẳng phải ngã, chẳng
phan duyên nơi sắc nên
nhãn căn thanh tịnh, không
hí luận, không
vọng niệm, không
huân tập, không
hệ phược nơi
nhãn căn và
nhãn thức, không
phân biệt đối với các pháp. Vì thấy biết
thanh tịnh như thật nên rõ biết các
pháp như huyễn, được trí rộng lớn không đồng với
thế gian !
Nói lược như vậy, nhẫn đến chư
Bồ Tát dùng
ý căn rõ biết
pháp trần rồi, do
trí lực và
niệm lực biết rõ các pháp là
vô thường sanh diệt chẳng dừng, chẳng
chấp ngã và chẳng phải ngã,
ý căn thanh tịnh chẳng chấp lấy
pháp trần, chẳng
phân biệt, chẳng
hí luận, chẳng
vọng niệm,chẳng
huân tập, chẳng
hệ phược nơi
ý thức và
pháp trần, vì
ý căn thanh tịnh như thật rõ biết nên rõ biết các
pháp như huyễn được
phước huệ thù thắng chẳng đồng với
thế gian.
Bồ Tát nầy lại có thể đối với tất cả
pháp không có
kiến chấp là vô nhơn, cũng chẳng ở nơi nhơn thấy có duyên, chẳng ở nơi duyên thấy có nhơn, rõ biết tất cả pháp đều chẳng
tương ưng nhau mà
chứng nhập bổn tánh
thanh tịnh tịch diệt, chẳng sanh chẳng khởi, chẳng
lưu chuyển, cũng chẳng phải dùng
ngôn thuyết mà nói đến được. Tất cả pháp nghĩa chẳng phải đồng phận, chẳng phải
tương ưng, chẳng phải không
tương ưng. Vì tất cả
pháp không có
tác giả. Vì không
tác giả nên không
thọ giả, không
chúng sanh, không ngã.
Những
pháp cú đã nói đây chẳng phải
như thật, chẳng phải không
như thật. Vì với tất cả pháp chẳng thọ, chẳng chấp, đồng với
Niết Bàn lìa hẳn sự
chấp trước.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là chư
Bồ Tát diễn nói môn
đà la ni phương tiện sai khác. Với tất cả pháp
cần phải rõ biết. Lúc
diễn thuyết như vậy, chư
Bồ Tát xa lìa nơi trong, cũng chẳng duyên lấy nơi ngoài, lại có thể
quan sát không có
thỉ chung. Nương theo xe
sanh tử vào trong
thế gian ở nhà
vô minh mà trôi lăn cùng khắp. Dầu
luân chuyển sanh tử như vậy, nhưng vẫn không
sanh tử có thể được, cũng không có thiệt xe
sanh tử.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư
Bồ Tát có thể
hiểu rõ pháp nầy thời mau được
trí huệ sáng suốt thuyết pháp thanh tịnh,
tu tập nhẫn nhục, có thể
tinh tấn, sanh lòng
đại từ bi,
chí nguyện vững chắc, có thể
thành tựu phương tiện diễn thuyết, làm cho
chúng sanh trụ bực
vô tránh, có thể
phá hoại tất cả tà luận của
ngoại đạo, để trừ sự
tối tăm cho
chúng sanh.
Lúc
Bồ Tát nầy
thuyết pháp, được
vô lượng chư Phật ở
mười phương khen ngợi.
Bồ Tát này phóng ánh sáng pháp chẳng thể nghĩ bàn, là
pháp thí chủ, có thể khai thị không
mê lầm pháp tạng của chư Phật, có thể trọn nên
hạnh nguyện thù thắng, có
phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn, làm cho
chúng sanh được mở mang tâm ý.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Trong pháp nầy chư
Bồ Tát phải siêng
tu tập phát khởi môn tam ba địa.
Tu tập rồi thời
chứng nhập được môn
đà la ni. Được
tự tại nơi môn
đà la ni rồi thời có thể
diễn thuyết những danh từ sai khác rộng lớn
bí mật, có thể
chứng nhập trí
từ ngữ vô ngại, có thể thuận nhập
nghĩa lý thậm thâm, khéo rõ biết được
ý nghĩa của
ngôn thuyết không
mảy may nghi hoặc. Tự mình có thể trụ bực
nhẫn địa, không phải nhờ người chỉ dạy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư
Bồ Tát có thể
phát nguyện dũng mãnh tinh tấn vì muốn làm
lợi ích cho tất cả
chúng sanh, mà cầu được các
pháp trí,
thông đạt tất cả thừa, được
Phật trí rốt ráo thanh tịnh thời chẳng khó khăn lắm.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nơi đây
diễn thuyết các
pháp môn đà la ni phương tiện thậm thâm, chính là Phật vì muốn
nhiếp thủ chư
Bồ Tát mà khai thị.
Nay Phật sẽ tuyên nói cho chư
Bồ Tát đều được
khai ngộ, khéo
nhiếp thủ được
ngôn giáo bí mật. Phàm có chỗ làm đều có thể rõ biết nghĩa của tất cả
ngữ ngôn âm thinh. Lại có thể
chứng nhập trí
sai biệt thiện xảo.
Đó là những
pháp môn gì ?
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Chư
Bồ Tát đủ
giới đức thanh tịnh, an trụ nơi sức
gia trì thật đế, thời có thể thêm lớn được
phương tiện bố thí, không
ngã sở, không
nhiếp thọ,
tu tập phương tiện chứng lý
nghĩa chơn thật của tất cả pháp, được pháp
bất thối và khéo trụ bực
bất thối, mau được
trí huệ biện tài vô ngã rộng lớn như biển cả.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Đời sau đây ít người có thể
cung kính thọ trì pháp nầy, chỉ trừ chư
Bồ Tát mong
cầu pháp như thật thậm thâm, vào
pháp tạng của
Như Lai. Chư
Bồ Tát nầy
tinh tấn tu học pháp
thậm thâm nầy
ngộ nhập lý nghĩa thời có thể được trí
vô ngại, cũng có thể rõ biết
tự tánh bổn tánh của tất cả pháp.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Giả sử Như Lai dùng các thứ danh từ để
diễn thuyết các pháp, nhưng đối với bổn
tánh tự tánh của các pháp cũng chẳng trái. Chỗ
diễn thuyết của
Như Lai không có sở thuyết, không có
năng thuyết.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai đã được
viên mãn phương tiện diễn thuyết ba la mật.
Như Lai cũng không có chút pháp gì là được.
Như Lai chẳng vì được pháp cùng không được mà
thuyết pháp.
Như Lai chẳng hành động cũng chẳng phải hành động, chỗ hành động của
Như Lai là
vô sở đắc. Chẳng nên cho rằng chư Phật làm
công hạnh như thật, vì không có chút pháp nào gọi là
Như Lai. Chính đây là
Như Lai an trụ chỗ trụ như vậy, thật hành chỗ làm như vậy. Nếu dùng
danh tự để gọi hiệu
Như Lai, thì
Như Lai cùng
danh tự chẳng phải khác chẳng phải không khác. Vì chẳng khác chẳng phải không khác nên chẳng được cho
Như Lai là có lai có khứ.
Như Lai chẳng phải
hí luận, đã
siêu quá hí luận, cũng không có
siêu quá.
Như Lai cùng
Như Lai tánh chẳng phải tức chẳng phải ly, là tánh chẳng
hư vọng, là tánh chẳng biến dị, không có chút pháp gì để khai thị
diễn thuyết, cũng không có
thị hiện.
Như Lai chứng được bổn tánh
như thật của tất cả pháp. Nhưng bổn tánh của tất cả pháp chẳng thể
tuyên thuyết, vì tất cả pháp là
vô sở hữu.
Do đây
Như Lai nói tất cả pháp là
vô sở tác, cũng không biến dị, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng xuất chẳng ly, vì tất cả pháp
rốt ráo thanh tịnh. Với tất cả
pháp không có chỗ được, vì không chỗ được nên không có chỗ chứng , như vậy là không có chút pháp gì có thể được. Nếu pháp là có thể được thời trong các pháp lẽ ra có
thọ giả. Đã không
thọ giả nên biết rằng tất cả pháp do chẳng
sanh khởi mà không có chỗ được.
Danh hiệu của
Như Lai cũng do
Thánh giáo dùng
giả danh đặt ra,
ngôn thuyết như vậy, bổn tánh vốn
thanh tịnh. Bực Thánh ở trong đó không có chút pháp gì là được, cũng không có pháp và
phi pháp. Cũng không có pháp gì gọi là thánh và chẳng phải thánh, không có pháp gì
tương ưng với thánh hay chẳng
tương ưng.
Với chỗ
diễn thuyết của
Như Lai đây, đều phải rõ biết như vậy, lại cũng chẳng nên
phân biệt theo
thế tục.
Như Lai có thể diễn nói các pháp và
phi pháp, cũng chẳng
kiến lập có pháp và
phi pháp.
Như Lai có thể
diễn thuyết pháp lành và pháp chẳng lành, cũng chẳng
kiến lập có pháp lành và pháp chẳng lành.
Như Lai có thể
diễn thuyết pháp tất cả pháp, nhưng cũng chẳng
kiến lập có tất cả pháp.
Như Lai có thể
diễn thuyết không
biểu thị, nhưng cũng chẳng
kiến lập không
biểu thị.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Pháp
thậm thâm của
Như Lai nói đây, người không có nghiệp
thanh tịnh thì không thể rõ biết.
Nếu người nào mong cầu
Vô thượng Bồ đề, cầu
giải thoát sanh tử,
cần phải hiểu rõ những pháp của
Như Lai diễn thuyết.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư
Bồ Tát hiểu rõ được pháp nầy,
cần phải không dụ dự, chẳng lấy chẳng bỏ, cũng chẳng thấy có chút pháp
sanh diệt, không có
hí luận chẳng phải không
hí luận. Được vậy thời chư
Bồ Tát có thể
diễn thuyết pháp chơn thật nầy, cũng chẳng
chấp trước pháp chơn thật nầy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Như
núi Tu Di là chỗ
y chỉ cho những cung điện của các
chúng sanh có
thiện căn phước đức, nơi đó
chúng sanh hưởng
thọ sự vui sướng.
Cũng vậy, chư
Bồ Tát vun trồng căn lành thời được nghe và
thọ trì pháp bảo thậm thâm nầy, do đây
Bồ Tát được nhứt thiết
chủng trí.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Kinh pháp nầy có thể
tùy thuận chứng nhập pháp trí vô thượng, vì muốn khai thị
pháp tạng đà la ni của
Như Lai, nên
lưu bố như vậy.
Đà la ni nầy có thể nhiếp tất cả pháp chơn thật rộng lớn,
như pháp của
chư Phật Như Lai diễn thuyết đều
từ môn vô biên đà la ni nầy. Vì muốn
thanh tịnh tất cả
pháp môn nên
Như Lai khai thị
diễn thuyết môn
đà la ni nầy. Môn nầy có thể nhiếp tất cả pháp trong
khế kinh làm
cho không thành không hoại, không trước sau chặng giữa.
Như Lai hộ niệm môn
đà la ni nầy, có thể làm
vô lượng vô biên Phật sự khắp
mười phương thế giới..
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Chư
Bồ Tát nếu muốn
hiểu rõ giáo pháp nầy, muốn
lưu bố chánh pháp, muốn nhập
pháp ấn vô trụ, muốn
hiểu rõ môn
bí mật vô ngại, muốn
phát khởi gia hạnh đại
tinh tấn, muốn
hiểu rõ tánh tướng của các pháp để
diễn thuyết, thời phải
thọ trì giáo pháp của
Như Lai diễn thuyết. Đã
thọ trì rồi sẽ rõ biết tất cả
ngôn từ bí mật, được trí
diễn thuyết văn tự và
hiểu rõ lý nghĩa sai khác của các pháp. Vì muốn
lợi ích an vui tất cả
chúng sanh nên chư
Bồ Tát nầy lập ra
thắng nghĩa khéo
tùy theo căn cơ mà truyền dạy cho
chúng sanh được
lợi ích. Hoặc
tán dương giáo pháp, hoặc
lưu truyền giáp pháp, hoặc
diễn thuyết giáo pháp, vì
thương xót muốn làm
lợi ích chúng sanh mà cầu
Phật trí, chẳng
chấp trước, vì
không chấp trước nên không chỗ lấy, cũng chẳng
thị hiện nội trí ngoại trí, chẳng sanh lòng nhàm đủ nơi chút ít pháp, chẳng
dùng sức tinh tấn hạ liệt mà mong cầu trí
vô thượng, phải siêng tu tất cả pháp
thậm thâm. Có ai gạn hỏi thời
tùy nghĩa mà
giải thuyết. Trụ nơi hạnh
tự lợi và
lợi tha, khéo
quan sát tự tha tất cả pháp đều
vô ngã. Ngã đã
thanh tịnh, liền
chứng nhập tất cả
pháp thanh tịnh, thích
diễn thuyết giáo pháp để khai thị, chẳng bỏn sẻn nơi
chánh pháp.
Chư
Bồ Tát nên thật hành
bốn tâm vô lượng như vầy : Tôi
vì lợi ích tất cả
chúng sanh,
ban cho họ pháp bửu
vô thượng thù thắng. Nay tôi sẽ làm cho tất cả
chúng sanh tương ưng với pháp bửu
vô thượng. Dầu
chúng sanh tạo
nghiệp ác nặng, tôi cũng chẳng có
quan niệm bỏn sẻn
chánh pháp đối với họ. Nay tôi sẽ làm
pháp sự của
Như Lai, làm
pháp sự nhứt thiết trí, làm cho
chúng sanh thoát khỏi sự khổ, tôi sẽ dùng
pháp thuyền đưa
chúng sanh qua khỏi dòng
sanh tử, cho
chúng sanh được tất cả sự an vui. Chư
Bồ Tát phải
phát tâm đại bi như vậy. Do đây mau chứng được pháp
thù thắng, sẽ được
thành tựu môn
đà la ni thuyết pháp vô ngại của kinh nầy, thoát hẳn
sanh tử, không bị ngoại luận chiết phục, mà có thể chiết phục tất cả luận điệu của
ngoại đạo và
hàng phục quân ma. Chư
Bồ Tát vì muốn
trừ diệt pháp tránh luận mà phải an trụ như vậy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả
Như Lai đều
nhiếp thọ và khéo ghi nhớ môn
đà la ni nầy.
Như
hậu thân Bồ Tát trụ
cung trời Đâu Suất,
chư Thiên đều
cúng dường,
chúng sanh đều mến kính.
Thiện căn và
phước đức của
Bồ Tát nầy đã
thành thục thù thắng. Chỉ còn
một đời thời tất cả
công đức bố thí,
trì giới,
trí huệ đều
viên mãn đầy đủ. Là bực
chí tôn trong cõi
Đại Thiên. Là bực
phước đức thiện căn vô thượng, được tất cả loài
hữu tình cung kính ca ngợi.
Khi
Bồ Tát nầy rời
cung trời Đâu Suất xuống
Diêm Phù Đề, thời sanh trong cung điện của dòng tôn quý nhứt ở đô thành của đại quốc, được
mọi người, mọi loài mến kính
cúng dường.
Cũng vậy, môn
đà la ni nầy an trụ trong tất cả pháp. Chính từ nơi môn nầy mà các pháp sanh và diệt.
Chư
Bồ Tát đã an trụ nơi môn nầy thời
thành thục tăng trưởng tất cả pháp,
tự tại đối với tất cả pháp, làm chủ tất cả pháp.
Hậu thân Bồ Tát giáng sanh trong
loài người dùng sức chánh định vô quán thị mà
quan sát tất cả
chúng sanh và
quan sát toàn cõi
Đại Thiên. Vì đã được môn
đà la ni vô thượng, dùng tâm rộng lớn trụ
cảnh trí quảng đại, nên trọn chẳng
tham luyến tất cả cảnh dục, cũng chẳng mong cầu những pháp
xinh đẹp nhiễm ái. Vì trụ nơi trí không
tam ma địa, khéo
quan sát được
phương tiện vô tướng của tất cả pháp, nên đối với tất cả đều
không chấp trước, rõ biết các
pháp hữu vi trong
ba cõi đều là lỗi là họa, đâu nên tham, đâu nên lấy, phải mau
xuất ly cầu
cảnh giới tịch tịnh giải thoát thù thắng.
Dầu
Bồ Tát quan sát như vậy, nhưng không
trụ trước nơi
quan niệm ấy. Phát sanh lòng
đại bi đại từ đối với loài
hữu tình, vì
thành thục họ mà muốn
xuất ly dùng
phương tiện thuận nhập
trí huệ thù thắng, được
tự tại đối với các
hữu tình, được môn
phương tiện đà la ni vô ngại đối với các pháp. Dùng trí
phương tiện khéo quan sát tất cả
hữu tình và khéo
quan sát nghĩa lý quyết định bất tư nghì.
Dầu đương
tuổi thanh xuân tươi đẹp mà trọn không
ưa thích các cảnh
dục lạc, chỉ mong
cầu tịch tịnh. Rồi
xa lìa quyến thuộc thân thích mà
xuất gia, trọn nên
phương tiện thậm thâm bất tư nghì. Đem tất cả
phước huệ đã từng chứa nhóm mà thẳng đến
đạo tràng Vô thượng Bồ đề, chứng được môn
đà la ni vô thượng thậm thâm,
thành tựu tự nhiên trí,
vô ngại trí, an trụ nhứt thiết
chủng trí,
chuyển pháp luân thanh tịnh vô thượng,
phạm âm thâm diệu khai thị
tri kiến cho tất cả trời, người, tất cả
chúng sanh. Như
mặt trời giữa trưa tỏa ánh sáng khắp nơi.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Bồ Tát trụ nơi đá la ni nhứt thiết
chủng trí chứng
vô thượng Bồ đề.
Cú nghĩa sai biệt của môn
đà la ni đó, chư
Bồ Tát khác không thể biết được.
Nếu là bực
Bồ Tát nhứt sanh
bổ xứ ngồi nơi
đạo tràng, do trí
thanh tịnh, không thầy mà tự được
giác ngộ, thời chứng được môn
đà la ni trên đây.
Cũng như bực
Bồ Tát vì đạo
Bồ đề, nên trong
vô lượng kiếp vun trồng căn lành,
tu tập phạm hạnh được
pháp nhẫn thậm thâm, vì
thương xót tất cả
chúng sanh nên do tâm
đại từ bi mà được chứng môn
đà la ni này.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Bồ Tát do môn
đà la ni nầy ngồi nơi
đạo tràng sẽ chứng
Vô thượng Bồ đề. Nay Phật không thể thị thuyết cho ông được. Tự ông sẽ chứng được
pháp môn đó khi mà ông đã đủ
trí huệ phải có của bực
Bồ Tát.
Pháp môn đó không thể chỉ bày, cũng không thể
tuyên thuyết. Đây là
pháp môn mà
Bồ Tát tự mình phải
hiểu rõ, là
pháp môn vô biên,
vô lượng, vô
thí dụ.
Pháp môn nầy
siêu quá tất cả
thế gian, không
cùng chung với Trời, Người, Ma, Phạm,
Sa Môn,
Bà La Môn v.v... thẳng đến
pháp thanh tịnh vô thượng nhứt thiết
chủng trí và
tự nhiên trí.
Do trí
thanh tịnh tự nhiên vô thượng này mà
Bồ Tát có thể
chuyển pháp luân thanh tịnh vô thượng,
lần lượt nhiếp thủ chúng sanh đến trí
vô thượng nhứt thiết chủng.
Vì nơi các
pháp môn và
Niết Bàn đều được
thanh tịnh, nên
Bồ Tát khai thị
diễn thuyết vô lượng pháp nghĩa : những uẩn, xứ, giới,
duyên khởi v. v...
Đồng thời cũng
thị hiện trí
thanh tịnh thiện xảo đối với uẩn, xứ v.v...
Bồ Tát lại làm cho
chúng sanh phát khởi tâm hướng vào môn
thánh đế,
đồng thời cũng
thị hiện trí
thanh tịnh thiện xảo nơi
thánh đế. Phát sanh ba mươi bảy phẩm
Bồ đề phần và
thị hiện trí
thanh tịnh thiện xảo Bồ đề phần.
Phát khởi chỉ quán thiền
thanh tịnh thiện xảo và
thị hiện trí nhiếp trì
chỉ quán thiền
thanh tịnh thiện xảo.
Phát khởi và
thị hiện trí
vô sanh thanh tịnh, trí
minh giải thoát thiện xảo, mà có thể
diễn thuyết đại Niết Bàn. Nơi các
pháp hữu vi,
vô vi,
hữu lậu,
vô lậu,
thế gian,
xuất thế gian, dùng
vô lượng danh nghĩa để khai thị
tuyên thuyết.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai nói
phương tiện nhiếp trì khắp tất cả pháp của môn
đà la ni nầy. Đây là chỗ an trụ của tất cả
công lực thiện xảo của
nhứt thiết trí đà la ni.
Tùy theo bổn nguyện của tất cả
chúng sanh mà rưới
pháp vũ, cho tất cả
hữu tình khô khan đều được
thấm nhuần đầy đủ
diệu pháp.
Các ông, hàng
Bồ Tát, phải
theo Như Lai học
pháp môn thậm thâm nầy, không được trái nghịch.
Nơi
đà la ni nhứt thiết
chủng trí này, không bao
lâu các ông sẽ được nhiếp trì
tự tại, làm cho
chúng sanh được
vô lượng lợi ích như Phật hôm nay.
Các ông nên dùng
vô lượng danh từ sai khác để khai thị
tuyên thuyết môn
đà la ni trí huệ thậm thâm này.
Các ông phải mong cầu
thắng giải nơi pháp này, chẳng được
xa lìa tư lương Bồ đề.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Thế nào là mong cầu
thắng giải ?
Chư
Bồ Tát phải
hiểu rõ tất cả các pháp vốn chẳng sanh chẳng diệt, không động không dừng, chẳng đến chẳng đi,
tự tánh rỗng rang
vắng lặng. Nơi
tánh không đây cũng
không chấp trước, huống là nơi tướng mà lại
chấp trước ! Trong
tánh không đó, không có tướng tưởng.
Nếu ở nơi
tánh không đó mà được không có tướng tưởng, thời có thể vào được
pháp hữu vi không, chẳng có ngã,
ngã sở, chẳng có tất cả ngã, nhơn,
chúng sanh,
thọ giả.
Không tánh như vậy : Chẳng phải
nhiễm trước, chẳng phải không
nhiễm trước, chẳng phải ô cấu, chẳng phải không ô cấu, chẳng phải
mê hoặc, chẳng phải không
mê hoặc, chẳng phải
tham ái, chẳng phải không
tham ái, chẳng trụ nơi không cũng chẳnh trụ chỗ nào, cũng chẳng
kiến lập. Với không nếu yểm ly thời không liền
tịch diệt, không có
phân biệt, không khắp
phân biệt, không thắng
phân biệt, không có
công dụng. Nhẫn đến không có chút pháp gì có thể lấy.
Tự tánh vốn
thanh tịnh.
Không tánh đó chính là bổn
tánh tự tánh của các pháp. Tất cả
pháp hữu vi bổn tánh đều không,
cho đến pháp lành, pháp ác,
hữu vi,
vô vi, pháp
thế gian,
xuất thế gian, bổn tánh cũng đều không như vậy cả.
Chư
Bồ Tát nhiếp thọ được
thắng giải như vậy, thời được vào nơi
giải thoát và
tri kiến giải thoát, cũng có thể
nhiếp thọ vô cấu giải thoát và
tư lương Bồ đề.
Thế nào là
tư lương Bồ đề ?
Chính là
giới thanh tịnh, định
thanh tịnh, huệ
thanh tịnh,
giải thoát thanh tịnh,
giải thoát tri kiến thanh tịnh,sáu môn
ba la mật thanh tịnh. Nếu các pháp trên đều
thanh tịnh thời là khắp
thanh tịnh. Nếu khắp
thanh tịnh thời là
vô cấu pháp môn :
tâm tánh thanh tịnh chiếu sáng không có
phiền não. Tâm đó
thường trụ, bổn
tánh không tịch. Cũng không bị
tri kiến,
khách trần,
phiền não ba thứ nầy làm
nhiễm ô. Ba thứ đều chẳng thật, rỗng
không vô sở hữu.
Tâm tánh đây chẳng
tương ưng với
phiền não thanh tịnh. Vì tâm nầy bổn tánh tự
thanh tịnh không hai, cũng không hai phần.
Nếu có thể rõ biết
tâm tánh như vậy, chẳng phải
phiền não nhiễm ô mà làm
ô nhiễm được, chẳng phải trong ngoài chặng giữa, tất cả đều
bất khả đắc. Chỉ
trừ ra vọng tưởng nhơn duyên hòa hiệp thời có
tâm niệm sanh khởi, dầu có tâm sanh nhưng cũng chẳng thể thấy, tìm cầu khắp
mười phương cũng trọn
bất khả đắc. Cũng không có tâm thấy được nơi tâm,
phan duyên như vậy chẳng phải hòa hiệp với tâm, tâm cũng chẳng hòa hiệp với
phan duyên,
nhơn duyên cũng chẳng phải
tương ưng với tâm, tâm cũng chẳng
tương ưng với
nhơn duyên, chỉ
do nơi tâm mà tất cả pháp kia
tương ưng với tâm. Bao nhiêu pháp
tương ưng với tâm, chẳng biết lẫn nhau cũng chẳng thấy được, huống là những pháp chẳng
tương ưng với tâm.
Dùng
đệ nhứt nghĩa tư duy quan sát không có vật gì có thể
tương ưng và chẳng
tương ưng. Vì không có chút pháp nào
tương ưng và chẳng
tương ưng với chút pháp nào.
Tất cả
pháp tự tánh
tịch tịnh.
Tự tánh này cũng chẳng
tương ưng với chút vật nào.
Tự tánh của tất cả pháp tức là bổn tánh. Nếu là bổn tánh thời tất cả pháp kia đều không có
tự tánh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay ông nên biết rằng nếu dùng
ngôn thuyết mà nói lên được bổn
tánh tự tánh của tất cả pháp, thời quyết không đúng lý. Trong các
pháp không có chút pháp nào gọi là bổn
tánh tự tánh. Tất cả
pháp bổn tánh đều không. Tất cả
pháp tự tánh vốn
vô tánh. Nếu đã là không, là
vô tánh thời kia là một tướng. Một tướng đây chính là không có tướng. Vì không có tướng nên bổn
tánh tự tánh được
thanh tịnh. Nếu đã là không, là
vô tánh, thời bổn
tánh tự tánh kia chẳng thể dùng tướng để
biểu thị, nhẫn đến tất cả pháp cũng như vậy.
Không vô tánh đây chẳng phải nhiễm, chẳng phải tịnh, nhưng là bổn tánh của tất cả pháp. Nếu là bổn tánh của tất cả pháp, thời chẳng phải do
nhiễm tịnh kiến lập lên, mà là không trụ không khởi.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông nên
quan sát tất cả
pháp không trụ không khởi, không bị
kiến lập, đã là bổn tánh
thanh tịnh, tại sao
chúng sanh lại ở trong đó mà
mê lầm ? Đây là do
chúng sanh trong
thế gian ngồi trên xe
hư vọng nên bị xe
hư vọng làm
mê lầm. Nói là ngồi xe, thật ra không có ngồi cũng chẳng phải không ngồi. Mà
thế gian ngồi trên xe
hư không rồi bị xe
hư không ràng buộc. Nhưng thật ra xe
hư không cũng là
vô sở hữu. Những
chúng sanh đây vì quá
ngu si mà
mê lầm. Nhưng thật ra không có
ngu si cũng không có
mê lầm.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông
quan sát chúng sanh vì do
ngu si nên ở trong pháp nầy chẳng rõ biết được mà ở mãi nơi tránh luận. Ở nơi tránh luận chính là chẳng phải ở. Nhưng
thế gian vì
mê lầm chẳng rõ biết được kia chính là
thanh tịnh. Nếu chẳng ở thời đó gọi là ở, chính đây là căn lành
thanh tịnh chẳng ở.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Pháp môn bí mật của
Như Lai đây khó hiểu khó vào. Chỉ trừ các ông từ lâu đã
tu hành pháp lành nên được rõ biết.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai từng nói ở nơi tránh luận thời chẳng phải là ở, vì là
bất thiện. Nhưng
bất thiện vẫn là
vô sở hữu. Nếu ở trong
vô sở hữu nầy chẳng rõ biết được ở cùng chẳng
ở không sai khác, đây thời gọi là ở nơi tránh luận.
Nếu được ở nơi căn lành
thanh tịnh thời chẳng gọi là ở. Nếu ở thời không
lỗi lầm. Vì không
lỗi lầm có thể rõ biết
pháp môn như vậy. Đã rõ biết, nếu chẳng
thanh tịnh, thời không đúng lý.
Những
chúng sanh không có
trí huệ bị nhiều
phiền não che đậy,
giả sử nói chút ít
pháp thuận rõ ràng, họ còn chẳng hiểu được, huống là pháp
bí mật chẳng phải
tùy thuận.
Nếu không ở, thời là
thanh tịnh nghĩa là chẳng ở nơi pháp lành và
cảnh giới xuất ly. Vì không có
cảnh giới xuất ly và
cảnh giới thi thiết. Nơi
cảnh giới Niết Bàn, nếu chẳng trụ thời gọi là được
Niết Bàn. Danh từ
Niết Bàn đây cũng chỉ là
giả thiết.
Niết Bàn đây, không chỗ chứng được, cũng không có người chứng được. Nếu có chứng được, thời lẽ ra sau khi
diệt độ lại có
Như Lai.
Nếu không được, lẽ ra sau khi
diệt độ có
Như Lai. Sau khi
diệt độ, đều không thể nói rằng có
Như Lai hay không
Như Lai.
Câu không thể nói đây cũng là câu
giả thiết của
Như Lai thôi.
Có những
chúng sanh đối với pháp
thậm thâm, chẳng
chuyên cần tu hành mà lại
sanh nghi lầm, hoặc cho rằng
Như Lai có sắc, sau khi
diệt độ có
Như Lai. Hoặc cho rằng
Như Lai không sắc, sau khi
diệt độ không
Như Lai. Nhẫn đến hoặc cho rằng sau khi
diệt độ chẳng phải có
Như Lai chẳng phải không
Như Lai.
Nếu pháp đã là chẳng sanh chẳng diệt, sau khi pháp đó diệt, chẳng nên nói có nói không.
Như Lai đây chẳng sanh chẳng diệt, sau khi
diệt độ cũng chẳng nên nói có nói
không nhẫn đến cũng chẳng nên nói
hữu biên vô biên v.v... tất cả đều chẳng thể nói. Nếu nói
hữu biên thời không có chính giữa, nếu nói có chính giữa, thời
không hữu biên. Chínhgiữa trên đây là
phi hữu, phi vô. Nếu ở trong đây cho rằng thiệt có thiệt không, thời
trái với duyên khởi.
Nếu có pháp nào chẳng phải từ nơi
duyên khởi và chẳng phải
duyên khởi, thời pháp đó chẳng diệt, chẳng
trái với hữu với vô. Tất cả pháp từ nơi
duyên khởi và
pháp duyên khởi đều không có biên, không có chặng giữa, chẳng phải có chẳng phải không. Nếu đã chẳng phải có chẳng phải không, thời đâu có thể nói được.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai dùng
đại phương tiện an trụ trong đó, vì phá vỏ
vô minh cho
chúng sanh mà khai thị
diễn thuyết chẳng
trái với duyên khởi. Tất cả các pháp đều vào
duyên khởi. Nếu đã vào
duyên khởi thời không có thuyết trung hay biên. Nếu lìa
ngôn thuyết thời không có chút pháp gì có thể được.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay ông nên
quan sát pháp
vô sở hữu,
pháp không hữu biên gọi đó là
trung đạo.
Do nơi phương tiệân mà nói có giác huệ có thể nhiếp trì các pháp. Nhưng pháp nhiếp trì cũng
bất khả đắc, vì
bất khả đắc nên không có
ngôn thuyết.
Các ông là bực
trí giả nên biết tướng chơn thật của tất cả
pháp như vậy : chẳng đến chẳng đi, không có phần không có đoạn, chẳng một tánh chẳng khác tánh, đến bờ
rốt ráo kia, không có chút pháp nào chẳng đến bờ kia. Đến bờ kia chính là
Niết Bàn. Tất cả pháp đều là tướng
Niết Bàn. Do đây nên biết rằng chẳng thể
tuyên thuyết được, chỉ
tùy theo thế tục nói là
trung đạo.
Trung đạo đây chính là thẳng đến đường
đại Niết Bàn, nhưng cũng có
Niết Bàn là chỗ để đến. Nếu có
Niết Bàn là chỗ để đến thời nơi các pháp lẽ ra có đi có đến. Nhưng tất cả
pháp bổn tánh đều
bình đẳng, nên
Niết Bàn gọi là không chỗ đến.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây gọi là
trung đạo, nhưng
trung đạo đây bèn chẳng phải là
trung đạo, vì không tăng không giảm, vì không có biên không có lấy. Nếu pháp đã
vô biên thời đâu phải là
hữu biên. Chính không có chỗ nơi là pháp
vô biên.
Hàng
phàm phu đối với không chỗ nơi chấp là có biên có chỗ. Vì
chấp có biên có chỗ nên chẳng
được giải thoát. Tại sao không
được giải thoát ? vì nơi chơn thật vốn là không chỗ nơi.
Ông
xem Như Lai dùng giác huệ
quyết định thiện xảo mới có thể
diễn thuyết trung đạo như vậy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đối với tất cả pháp,
chư Phật Như Lai không có nghi lầm, cũng không quên sót. Chư
Phật Thế Tôn thường ở trong
chánh định vô ngại tự tại, thường khéo
quan sát trụ nơi chánh định tối thắng, dùng
vô lượng tri kiến mà
diễn thuyết. chẳng ở nơi phi xứ để nói
pháp thanh tịnh, nói pháp
rốt ráo, nói
pháp tịch tịnh. Chỗ nói của
Như Lai không dư không sót.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Như có bửu châu tên là
chủng chủng sắc ở trong
đại hải, dầu có
vô lượng dòng nước chảy vào
đại hải, do hỏa lực của bửu châu làm cho nước biển chẳng đầy tràn.
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dùng hỏa lực
trí huệ có thể làm
tiêu diệt phiền não của
chúng sanh cũng như vậy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu có người trong mỗi ngày
xưng niệm danh hiệu công đức của
Như Lai , người nầy có thể lìa khỏi sự
tối tăm, lần lần sẽ đốt tiêu nhữngphiền não. Người
xưng hiệu Nam Mô Phật thời
ngữ nghiệp chẳng luống không.
Ngữ nghiệp nầy gọi là cầm đuốc lửa có thể đốt tiêu
phiền não.
Nếu có người nào được nghe
danh hiệu của
chư Phật Như Lai, thời lìa khỏi các sự
tối tăm, cùng với người
xưng niệm kia đồng là nhơn của
Niết Bàn.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay Phật vì những
chúng sanh kính tin nơi
Như Lai mà
diệt trừ phiền não cho họ, nên rưới
pháp vũ.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là pháp chơn thật của
Như Lai nói. Vì chơn thật nên không có chút pháp gì để khai thị
diễn thuyết, mà nơi pháp nầy
không thật không hư.
Như Lai là đấng chơn
thật ngữ trụ nơi pháp chơn thật, có thể
diễn thuyết môn
đà la ni nầy.
Pháp chơn thật đây, ai sẽ có thể
hiểu rõ được ? Chính là chư
Bồ Tát, những bực đã thấy biết
như thật, thấy biết đầy đủ, thật hành những điều lành. Ngoài những bực nầy, người khác không
hiểu rõ được.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Phải nên
tùy thuận nơi nghĩa nầy, tự phải
chuyên niệm nơi pháp nầy , chẳng tin ưa nơi
trí huệ phát sanh do người khác. Vì muốn đem sự
lợi ích an vui cho
chúng sanh, nên cần
tùy thuận nơi pháp nầy. Nếu có trí nhẫn
tùy thuận pháp nầy, thời là an trụ trong chẳng
tùy thuận.
Nhửng
chúng sanh không
học rộng, không có trí nhẫn
tùy thuận thời chẳng rõ biết được
giáo pháp nầy. Những người thật hành theo
kiến chấp của
ngoại đạo, đi trên
con đường khác thẳng đến
ác đạo, chẳng làm điều lành, gần gũi với những người thật hành hạnh nghiệp tà ngoại, thời không thể vào được
pháp môn nầy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay ông nên
quan sát : nếu lúc có người
diễn thuyết pháp tạng quang minh vô ngại này, tất cả
chúng sanh không
học rộng chưa
điều phục tâm
phàm phu, thời cách xa
giáo pháp này. Còn những
chúng sanh có thể
tu tập lấy tự thân dầu chưa có chí nhẫn
tùy thuận, nhưng chẳng cách xa
giáo pháp nầy. Huống là những người có chí nhẫn
vô lậu,
không chấp trước, có thể
chuyển pháp luân vô ngại. Vì những người nầy đều trụ bực
vô ngại.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Phật vì
thành tựu những
chúng sanh có
thiện căn, vì
gia trì cho
chúng sanh được
tri kiến thanh tịnh đối vói pháp
vô ngại, cũng vì muốn đem sự
lợi ích an vui cho tất cả, nên Phật diễn nói môn
đà la ni nầy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu người nào
ngộ nhập được
pháp môn nầy, nên biết người đó đã trụ bực
Bồ Tát, có thể mau chứng được
vô sanh pháp nhẫn, sẽ được
thọ ký Vô thượng Bồ đề.
Các ông phải có
thắng giải đối với
pháp môn thậm thâm nầy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay ông nên biết
pháp môn nầy là chỗ ở của người
không chấp trước, của trí
vô sở đắc.
Những người này trước đã từng
cúng dường chư Phật,
chuyên cần tu tập thân, khẩu, ý, có
trí huệ bình đẳng không
trụ trước, khéo
thọ trì pháp nầy chẳng tiếc
thân mạng, thời có thể
lưu truyền kinh điển nầy.
Đời sau, nếu có
chúng sanh vì muốn được
nghe pháp nầy nên
chuyên cần tu tập, những người đây còn là khó có được, huống là những người có thể biên chép
thọ trì,
đọc tụng thông thuộc, khai thị
tuyên thuyết. Những người đây chẳng bao lâu sẽ được môn
thanh tịnh đà la ni, sớm được
trí huệ thanh tịnh, sẽ được
chứng nhập nhứt thiết
chủng trí.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông xem
đức Như Lai vì Chư
Bồ Tát cầu được nhứt thiết
chủng trí mà khai thị
diễn thuyết pháp tạng này, nhưng trong đó không có chút pháp gì là chẳng
diễn thuyết.
Thuyết pháp như vậy là không thuyết mà thuyết, có thể sanh và có thể khai thị
pháp môn thanh tịnh.
Tất cả pháp đồng như tướng
hư không. Thế nào là đồng ? Bởi tất cả pháp đồng với
hư không, nhưng
hư không này chẳng phải đồng chẳng phải không đồng. Tất cả pháp cũng chẳng phải đồng chẳng phải không đồng. Như
hư không vô biên, các pháp cũng
vô biên. Biên bờ của tất cả pháp là
bất khả đắc. Vì
bất khả đắc nên là
vô biên. Nếu ở trong pháp đây trụ được như vậy thời gọi là trụ.
Như Lai pháp. Trụ
Như Lai pháp thời là
vô sở thuyết. Nếu đã là
vô sở thuyết, thời đối với tất cả pháp dùng
danh tướng giả theo đó để rõ biết, chẳng nên sanh lòng
chấp trước. Nếu chẳng
chấp trước thời chẳng đọa nơi biên. Nếu chẳng đọa nơi biên thời chẳng đọa nơi trung. Nếu đọa nơi biên thời tất đọa nơi trung. Do đây
cần phải xa lìa nơi trung và biên. Nếu đã
xa lìa được trung và biên, thời là
xa lìa tất cả. Nếu
xa lìa tất cả thời là
vô sở thuyết. Do đây được
trí huệ thanh tịnh, không
thủ trước tất cả pháp, không
sở thủ, không
năng thủ. Vì các pháp là
vô ngã, vì ngã vốn
vô sở đắc, vì ngã tánh vốn không có
tự tánh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Như Phật từng nói các
hành pháp vô thường.
Diễn thuyết như vậy là
nghĩa không biến dị, là nghĩa chẳng
tương ưng.
Như Phật đã nói nghĩa khổ của các cỏi.
Diễn thuyết như vậy là nghĩa yểm ly, là nghĩa
Niết Bàn.
Như Phật đã nói
Niết Bàn tịch tịnh.
Diễn thuyết như vậy là nghĩa bỏ lìa tất cả
pháp hữu vi.
Hoặc
vô thường, hoặc các khổ, hoặc
vô ngã, hoặc
Niết Bàn, đây là những
pháp môn của
Như Lai diễn thuyết. Đây cũng là
Như Lai khai thị bổn
tánh tự tánh của tất cả pháp.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai dùng các thứ danh từ, các thứ
ngữ ngôn, các thứ
phương tiện mà
tuyên thuyết các pháp.
Như Lai cũng chẳng lập ra khác với bổn tánh của các pháp. Tánh chẳng phải một, tánh chẳng phải khác, tất cả pháp cũng chẳng phải một chẳng phải khác, vì chẳng thể thấy, nên mau chứng vào
tự tánh hư không thẳng đến tất cả pháp
vô tướng.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai vì Chư
Bồ Tát bổn tánh
thanh tịnh,
tự tánh điều phục, nên
phát khởi môn
đà la ni nầy. Trên đây nói
điều phục là nói
điều phục tham, sân, si,
điều phục vô minh, để được vào thẳng
pháp tánh bình đẳng. Tham, sân, si cùng người
điều phục đều
bất khả đắc. Nếu là
bất khả đắc chính đó là
điều phục.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Tham, sân, si đúng như lý tìm cầu cũng là
bất khả đắc. Bởi tham, sân, si rỗng không
hư vọng chẳng thật, nó phỉnh lầm hàng
ngu phu, chính nó không chỗ an trụ, cũng là
bất khả đắc, nó từ
hư vọng sanh,từ
hư vọng diệt, bổn
tánh không tịch,
cần phải biết như vậy.
Phải biết thế nào ? Như nó chẳng sanh, thời là chẳng thật, cũng chẳng
điên đảo. Tham, sân, si đây đều do
vô minh hắc ám làm
nguyên thủ, theo nơi đó mà sanh. Do theo nơi đó sanh nên tất cả đều là
hư vọng chẳng thật. Tham, sân, si đây bổn tánh
thanh tịnh. Người thấy biết như
vậy thì có thể được môn
thanh tịnh bất tư nghì và được môn
đà la ni.
Người nào có thể ở trong pháp này khéo
tư duy quán sát, thời gọi là được
công hạnh đà la ni và được
công hạnh trí huệ. Đây gọi là trí rõ biết
bình đẳng, gọi là
tư lương Bồ đề thanh tịnh, gọi là bực
tinh tấn chẳng
phóng dật, gọi là bậc
điều phục kiêu mạn phóng dật, gọi là chẳng hư hoại
giới hạnh oai nghi, gọi là thân ngữ
ý thanh tịnh, gọi là
tùy thuận trí
vô ngã, gọi là hay dứt hay lìa tưởng, gọi là xuất sanh
vô lượng vô biên phương tiện thiện xảo.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay ông nên
quan sát trong pháp tin hiểu
xuất ly này có thể khai thị
diễn thuyết bổn tánh
tự tướng của tất cả pháp, có thể khai thị các
pháp môn đây, có thể
diễn thuyết tất cả pháp đồng tánh
hư không. Người
năng thuyết cũng là
bất khả thuyết, người được vì
thuyết pháp cũng là
bất khả đắc.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay Phật nói
pháp môn ngộ nhập của chư
Bồ Tát đây. Nếu chư
Bồ Tát đã học
pháp môn nầy rồi, thì có thể được
trí huệ rất sâu như biển, tất cả ngoại luận không đè bẹp được, liền được
công hạnh hướng đến nhứt thiết
chủng trí, khéo
diễn thuyết pháp yếu, đặng
trí huệ bình đẳng bất tư nghì không do người khác. Do
trí huệ nên
không chấp trước, có thể diễn nói tất cả
pháp môn không danh
không tướng nầy. Có thể được gần gũi
Phật trí và
tự nhiên trí. Chỗ có
danh hiệu đều được tất cả
danh tướng thanh tịnh, mau chứng được âm thinh
phổ biến, âm thinh duy y, âm thinh thắng diệu, âm thinh
thanh tịnh. Được các
chúng sinh kính tin gần gũi thưa hỏi.
Bồ Tát này dùng
trí huệ quyết định khéo
giải đáp,
lời nói phải thời,
lời nói đúng lý,
lời nói lợi ích,
lời nói dịu dàng,
lời nói nghĩa
quyết định, dùng một nghĩa để
diễn thuyết, có thể làm cho
chúng sanh rõ biết nhiều nghĩa.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông nay nên
quan sát chư
Bồ Tát tu hành pháp nầy, có thể
hiểu rõ Phật trí, được
vô lượng công đức như vậy, dứt những
tham ái sân não
ngu si, có thể được trí
sai biệt, làm xong những
công hạnh nên làm,với tất cả chỗ đã khéo
tu học, được chí nhẫn đầy đủ, chẳng thối thất
ý chí thanh tịnh, đứng vững nơi
đại nguyện, đối với
chúng sanh dùng lời lành
thăm hỏi.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư
Bồ Tát ở trong pháp này đã chẳng siêng tu, nay chẳng siêng tu, ngày mau cũng chẳng siêng tu, thời không dự được phần ít nào nơi
công đức thù thắng của
Như Lai.
Nếu chư
Bồ Tát ở trong pháp này có thể siêng năng
tu tập, có chí cầu tất cả thời đúng như chỗ nguyện cầu, đúng như chỗ thật hành, đúng như chỗ hướng đến, đúng như chỗ
ưa thích, sẽ được đầy đủ.
Nếu có
Bồ Tát ở trong pháp
thậm thâm này có thể an trụ, có thể nhẫn thọ, khéo
quan sát giản trạch, thời sẽ chứng được
thần thông vô tận và trí đại
thần thông,
siêu quá tất cả trí
thế gian, được
tự nhiên trí,
vô biên trí,
vô lượng trí.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Pháp môn xuất ly đà la ni nầy, nếu có người nào siêng
tu học, thời sẽ được gần
đạo tràng Bồ đề vì tất cả
chúng sanh mà
phát khởi tâm
đại từ đại bi thật hành những
Phật sự ».
Phẩm Xuất Ly Đà La Ni
Thứ Hai
(Hán bộ từ quyển thứ sáu đến giữa quyển thứ sáu)
Hán dịch: Nhà Đường, Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ,
Vô Biên Trang Nghiêm bạch rằng : ‘‘Thếù Tôn ! Thế nào gọi là
pháp môn xuất ly đà la ni ?’’.
Phật nói : ‘‘ NầyVô Biên
Trang Nghiêm ! Đây là
pháp ấn xuất ly tất cả
văn tự. Tất cả pháp đều nhiếp vào trong đây.
Thế nào gọi là nhiếp vào ?
Vì là
bình đẳng. Tất cả đều vào nơi
bình đẳng, cũng chẳng thấy pháp nào vào nơi
bình đẳng, chẳng thể rõ biết, vì là
bất khả đắc.
Nơi
tự tánh như thật của tất cả pháp, lúc chẳng
phân biệt, thời tất cả pháp đều nhiếâp vào trong đó, vì rời
hữu tác và
vô tác.
Do các
văn tự và
ngữ nghiệp nên
diễn thuyết các pháp. Hai thứ trên đây vì chẳng
như thật, vì tánh bình đẳêng nên tất cả
văn tự và
ngữ nghiệp thảy đều
bình đẳng.
Ở trong các pháp, bao nhiêu
ngôn thuyết đều chẳng phải
như thật. Đây là
cú nghĩa như thật của các pháp : bao nhiêu
văn từ và
ngữ nghiệp đều là không có. Vì không có, nên không có chơn thật khai thị
diễn thuyết.
Văn tự và
ngữ nghiệp không chơn thật đã nói đó, chính là câu
vô sai biệt của các pháp, câu vô tăng thắng, câu
vô kiến lập của các pháp.
Nơi pháp
thậm thâm này, không thể
tuyên thuyết. Tất cả pháp đều chẳng phải chơn thật, chẳng phải không chơn thật. Vì bổn tánh của tất cả pháp, chẳng phải dùng
văn tự ngữ nghiệp tuyên thuyết mà có thể thấy, có thể được.
Tất cả pháp đều không bổn tánh. Các
pháp như vậy, chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác, chẳng phải đồng, chẳng phải không đồng, chẳng phải
tịch tịnh, chẳng phải
không tịch tịnh.
Dầu vậy, nhưng các pháp cũng trụ nơi
tịch tịnh và
không tịch tịnh. Trong đây nói là trụ, cũng vẫn không chỗ trụ, cũng chẳng biến dị. Lại cũng chẳng trụ nơi pháp chẳng biến dị.
Vì sao vậy ? Vì pháp vốn
vô trụ chẳng vào nơi toán số. Chẳng phải do toán số
kiến lập ngôn giáo mà có thể làm cho các pháp vào nơi toán số.
Tất cả
văn tự ngữ nghiệp diễn thuyết đều
bất khả đắc, chẳng trụ nơi chỗ nào và tất cả chỗ nào.
Văn tự và
ngữ nghiệp như vậy, không từ đâu lại, đi không chỗ đến, chẳng trụ ở giữa, chẳng trụ một bên. Vì tất cả
văn tự và
ngữ nghiệp là nghiệp mà chẳng phải nghiệp, vì chẳng phải
công dụng. Vì nơi tất cả
văn tự ngữ nghiệp,
tự tánh là không, nên
văn tự ngữ nghiệp cũng đều là không.
Tự tánh đã không, nên tha tánh cùng tự tha tánh cũng đều không. Vì tự tha không nên nó
tịch tịnh. Vì
tịch tịnh nên nó
tịch diệt. Nếu là
tịch diệt, thời tất cả
pháp chính là môn
tịch diệt. Do đây nên được nói danh từ các pháp, hoặc nói
văn tự, hoặc nói
ngữ nghiệp. Tất cả môn đó cũng
bất khả đắc, vì môn
thanh tịnh, vì
vô sở hữu.
Do các môn đó mà
diễn thuyết các pháp, mà trong môn nầy
rốt ráo thanh tịnh, có thể
bình đẳng vào tất cả pháp. Đây là yểm ly.
Thế nào là yểm ly ? Chính là tham bổn tánh. Tham bổn tánh thì là
thanh tịnh. Đã
thanh tịnh thời là
cứu cánh. Đã
cứu cánh thời đâu được có tham, đâu được có
ngôn thuyết !
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Trên đây là lược nói môn
thanh tịnh đà la ni, là
pháp môn vô phân biệt, không
hí luận.
Vào môn nầy rồi, có thể phá chướng nặng
vô minh hắc ám, có thể
tùy thuận giác minh. Nơi tất cả pháp, được vào môn
quang minh thanh tịnh pháp nhãn đà la ni. Và có thể chứng được
pháp môn văn tự sai biệt diễn thuyết. Do môn nầy bèn được vào nhứt thiết
chủng trí và được gần chư Phật. Ở trong các pháp, là bực
dũng kiện có thể phá dẹp
ngoại đạo,
hàng phục quân ma, có thể làm cho
chúng sanh thêm lớn căn lành vào nơi
pháp tạng bí mật của
Như Lai, liền được các
pháp môn,
đà la ni môn. Do
pháp môn nầy, ở trong
mười trí lực, được pháp quang lớn, mau
thành tựu trí lực của
Như Lai.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Chư Phật dùng
mười trí lực làm
sức mạnh, làm sức
vô thượng siêu quá tất cả sức
thế gian, có thể làm
sư tử rống giữa
đại chúng.
Những gì gọi là
mười trí lực ?
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai dùng trí
vô thượng nhứt thiết chủng nơi thị xứ phi xứ, rõ biết
như thật thị xứ phi xứ . Đây là
trí lực thứ nhứt của
Như Lai.
Do trí
vô thượng nầy,
Như Lai ở bực
đại tiên vì
chúng sanh diễn thuyết chánh pháp, và vì họ
chuyển pháp luân vô thượng.
Như Lai lại dùng trí vô phân biẹât rõ biết
như thật các nghiệp và thủ nhơn của các nghiệp
quá khứ,
hiện tại,
vị lai, là thiện,
bất thiện,
vô lượng hành tướng, không
trụ trước, không
chướng ngại. Đây là
trí lực thứ hai của
Như Lai.
Đức Như Lai dùng trí vô phân biẹât nhứt thiết chủng
vô trước vô ngại, có thể khéo rõ biết
vô lượng hành nghiệp của các loài
hữu tình. Đây là
trí lực thứ ba của
Như Lai.
Đức Như Lai dùng trí
vô thượng nhứt thiết chủng biết rõ
như thật tất cả
vô lượng thắng giải phân biẹât và vọng phân biẹât. Đây là
trí lực thứ tư của
Như Lai.
Đức Như Lai rõ biết
như thật tất cả
vô lượng nhơn, tất cả
vô lượng duyên chỗ y trụ của
thế gian. Đây là
trí lực thứ năm của
Như Lai.
Đức Như Lai rõ biết
như thật, hoặc nhơn, hoặc duyên,
tri kiến thẳng đến đạo. Đây là
trí lực thứ sáu của
Như Lai.
Đức Như Lai dùng
thiên nhãn vô ngại rõ biết
như thật sự
sanh tử của
hữu tình . Đây là
trí lực thứ bảy của
Như Lai.
Đức Như Lai rõ biết
như thật tất cả
tịnh lự,
giải thoát,
đẳng trì, đẳng chí,
ly nhiễm thanh tịnh, hoặc xuất hoặc nhập. Đây là
trí lực thứ tám của
Như Lai.
Đức Như Lai rõ biết
như thật tất
cả đời trước. Đây là
trí lực thứ chín của
Như Lai.
Đức Như Lai rõ biết
như thật lậu tận. Đây là
trí lực thứ mười của
Như Lai.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Trí lực nhứt thiết chủng
vô lượng vô thượng như vậy,
Như Lai đều
thành tựu. Vì muốn cho chư
Bồ Tát và tất cả
chúng sanh được
nhiếp thọ nơi
Phật trí và
chứng pháp trí
thanh tịnh, nên
Như Lai tuyên thị
vô biên pháp tạng.
Nầy
thiện nam tử ! Nay ông nên
quan sát Như Lai nói
trí lực thậm thâm thanh tịnh khó hiểu như vậy. Tất cả các pháp gọi là
Như Lai và
trí lực của
Như Lai. Nhưng nơi các pháp đó cũng là bất khả kiến và
bất khả thuyết.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Trí lực đã nói trên đây là
pháp môn vô thượng cứu cánh kiên cố của
Như Lai. An trụ nơi đó mà
Như Lai tuyên thị
lý thú của pháp nầy. Do
lý thú đây mà
kiến lập trí lực, có thể
diễn thuyết tánh không kiến lập của tất cả pháp đây, dùng đó làm
trí lực.
Những
trí lực như vậy
không tánh sanh khởi, không
tự tánh, lìa
tự tánh.
Mười trí lực của
Như Lai viên mãn như vâïy, có thể khai thị
vô lượng vô biên nghĩa lý rất sâu.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là
pháp môn vô thượng của chư Phật. Trụ
pháp môn nầy thì có thể
diễn thuyết mười trí lực của
Như Lai, va øcó thể
diễn thuyết môn
thanh tịnh, môn khắp
thanh tịnh của
trí lực nầy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay Phật lại vì chư
Bồ Tát nói
đà la ni, cho họ được
thanh tịnh nơi
pháp môn nầy. Ông nên lắng nghe và lãnh thọ”.
Đức Phật liền nói
đà la ni rằng:
‘‘Đát điệt tha bát ra mâu chiết ninh - nễ mâu chiết ninh - mâu chiết ninh - tùy bát ra muộn chiết nễ - a chiết lê -
a tỳ gia trạch nễ - bát ra bà nộ
yết đế - đế thệ -
ma ha đế thệ - a bát ra để gia - mạt ra ni -
a na mạt ra ni - a mạt ra noa tỳ thú đạt nễ - nễ
đà na bát ra phệ thiết nễ - đột ra a nễ khất túng bát nễ - mạt ngu - mạt ngu tát phược lê - tát phược ra vĩ thú đàn nễ - mẫu đạt ra - mẫu đạt ra vĩ thú đàn nễ - tát bát rị phược lê - tam mạn đa bát lê phược lê - a yết ra nỗ ma để - yết tha ta đàn nễ - tăng yết ra ni ma chế đàn nễ - thú lê - thú ra mị rị duệ - a cát ra ni -
ô ba na
mạt để - nễ na lê thiết nễ - tam mạn đa ba lê phổ lý dã
yết đế -
đà la nỗ
yết đế - a nễ mê thiết nễ - a tán nễ mê thiết nễ -
đà la ni yết đế - nễ
đà na bát rị thú đàn nễ - a nỗ đạt ra
tỳ bà tỉ nễ - bạt trí lệ - bạt đạt ra phiệt đế - mạc di - mạc xí phiệt để - san đà ra ni - ô phiệt đà rị ni -
a nan đa bát ra bá phệ - bát ra bộ da bát rị phược lê - thiết nễ - bát rị ta thiết nễ -
ma ha phược ca thế - a ca xả ta mâu tát ra ni - nhĩ để di ra ca ra ni -
tát bà nhã bát thả tỳ thâu đạt nễ -
niết bàn na bát thả san na rị thiết nễ -
ta bà ha.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là
pháp ấn đà la ni, tất cả pháp đều vào trong đó. Chư
Bồ Tát tu hành đúng theo đây thì được
trí huệ biện tài vô ngại, có thể khéo biết rõ câu
xuất ly đà la ni tối thắng.
Thế nào gọi là câu
xuất ly đà la ni tối thắng ?”
Đức Phật liền nói
đà la ni rằng:
“Tá yết ra á bát diễn đa - tô mế rô ra
đát na ta yết ra san nễ chiết gia -
a tỳ đát nễ - a tam tỳ đát nễ -
a tỳ mạt lê - bạt chiết ra san nễ - niết bệ thiết nễ - a khất sô tỳ nễ -
a tăng khất sô tỳ nễ - a khất sa gia - a tị dạ dĩ - khất sa gia a bát diễn đế - a khất sử na khất sa diễn đa tát điệt lý thế - a bát rị khất sa duệ -
a tỳ khất sớ tị nễ -
a tỳ yết lê -
a tỳ yết
la nhã na yết ra ni -
ta bà ha.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là câu
xuất ly đà la ni tối thắng. Chư
Bồ Tát tinh tấn tu tập pháp nầy, thì có thể thêm lớn
trí huệ như biển, có thể dùng tâm
đại từ an ủi chúng sanh rằng : Ta truyền
thọ pháp được rộng lớn cho các người, phá trừ
vô minh hắc ám của các người, dứt
trừ phiền não sanh tử vô thỉ vô chung của các người, cũng làm cho các người
thoát khỏi tham ái, qua khỏi tất cả dòng
sanh tử.
Bồ Tát làm pháp quang rộng lớn, làm cho căn lành của
chúng sanh được sanh trưởng có thể
rốt ráo giải thoát.
Bồ Tát nầy làm bực đạo thủ lành có thể vào nơi nhứt thiết
chủng trí, cũng chẳng để có một
chúng sanh nào thối thất nơi trí
vô thượng nầy.
Bồ Tát đây có thể dùng tâm
đại từ làm cho tất cả
chúng sanh được
tương ưng với pháp nghĩa mà từ trước chưa từng nghe và
lãnh thọ, làm cho họ được trí
vô sanh tịch diệt, được
biện tài vô ngại.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư
Bồ Tát lúc muốn
thuyết pháp, thì nên nhiếp niệm nơi câu
đà la ni nầy làm cho pháp nghĩa chẳng
gián đoạn. Nghĩa là chư
Bồ Tát ngồi tòa
sư tử, dùng
biện tài vô ngại suy gẫm vô lượng công đức của
Như Lai, do đây
trí huệ được rộng lớn
thanh tịnh.
Lúc
chúng sanh vân tập đến
pháp hội để
nghe pháp,
Bồ Tát đối với họ nên có lòng
đại bi, dùng
trí huệ rộng lớn khai thị
nghĩa lý quyết định đúng
như thật chẳng thêm chẳng bớt.
Bồ Tát biết rõ
căn tánh của
thính giả, dùng
ngữ nghiệp rõ ràng quyết định lành tốt và câu
văn từ ngữ vì họ mà
diễn thuyết rộng rãi. Do sự
diễn thuyết nầy có thể làm cho
thiện căn của
Bồ Tát được
tăng trưởng.
Như Lai có thể dùng
vô lượng thí dụ tuyên thị môn
đà la ni như vậy. Các ông
nếu có thể tuyên thuyết chánh pháp vô thượng như vậy, thì là an trụ nơi
việc làm của Phật, các ông sẽ mau
viên mãn bốn pháp
vô úy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Chư
Bồ Tát nầy dùng
trí huệ phương tiện thanh tịnh rộng lớn có thể khéo
tu tập những
công hạnh phát khởi thần thông, có thể
nhiếp thọ trí huệ rộng lớn.
Những gì là
công hạnh phát khởi thần thông ?
Chư
Bồ Tát an trụ trong
thần thông không có tưởng niệm nương gá dường như
hư không, khéo phân tích các
đại chủng, biết rõ
đức Như Lai thành tựu trí huệ vô ngại vô biên. Do sức
trí huệ nầy, nơi tất cả pháp,
đức Như Lai quyết định biết rõ không có chút pháp nào là có thể rõ biết, trụ nơi
vô sở đắc, trụ nơi
vô đẳng đẳng, cũng chẳng thấy có
vô sở đắc vô đẳng đẳng, trụ
a lan nhã, trụ
không chấp trước, trụ
trí huệ thanh tịnh, không có chút pháp nào mà chẳng biết rõ chẳng thấy rõ,
xa lìa vô minh hắc ám, không bị
chướng ngại, khéo an trụ nơi
trí huệ vô lượng vô biên. Do đây
đức Như Lai bình đẳng thấy biết tất cả
pháp như huyễn, như mộng, và có thể khai thị pháp
tưởng quán vô minh ? Vì thế nên
Bồ Tát chúng ta cần phải theo học
trí huệ vô ngại của
Như Lai.
Trí tuệ nầy có thể khéo rõ biết
căn tánh thượng trung hạ của tất cả
chúng sanh, làm cho chư
Bồ Tát an trụ
công hạnh bình đẳng phát khởi thần thông. Do đây được
thành tựu thần thông. Do sức
thần thông nầy
gia trì nên khéo an trụ được nơi giới, định, huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến cùng sáu môn
ba la mật. Do được chơn thật
gia trì nhiếp thọ nên có thể được
vô lượng thần biến sai khác, được
tự tại nơi
thế gian, ngồi tòa
sư tử đánh trống pháp lớn, làm cho
đại chúng trong các
pháp hội thảy đều
hoan hỷ, và làm
lợi ích lớn cho tất cả
chúng sanh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Ví như vòng núi
Đại Thiết Vi do
nghiệp lực tăng thượng của
chúng sanh, nên bao quanh
thế giới nầy. Nhờ vòng núi nầy che, nên
chúng sanh không ngửi mùi
địa ngục, không nghe tiếng
địa ngục, không thấy
địa ngục.
Cũng vậy, chư
Bồ Tát khéo
tu tập nơi pháp nầy rồi, vì
chúng sanh mà
trừ diệt tất cả pháp
chướng ngại, trao cho tất cả pháp
vô ngại. Chư
Bồ Tát đây dùng trí
kim cương khéo
nhiếp thọ,
ngộ nhập rất sâu nơi pháp nầy, trụ nơi
vô sở đắc được
cam lồ rưới nhuần.
Thế nào gọi là
cam lồ rưới nhuần ?
Chư
Bồ Tát nầy không bị ma
phiền não, ma
ngũ uẩn và
Thiên ma làm
tổn hại. Dầu lúc chết có
tử ma, nhưng cũng được
tự tại chẳng có
quan niệm là chết? Do
Bồ Tát nầy an trụ nơi không,
vô tướng,
vô nguyện,
vô phân biệt, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng đến chẳng đi, chẳng trụ chẳng khởi, chẳng nhiễm chẳng tịnh, cũng chẳng khiếp nhược,
vô ngại vô đắc, bỏ
kiêu mạn, tâm thường khiêm hạ, trong lìa
mê lầm, ngoài khéo rõ biết, không nhiếp thuộc nơi
kiến văn giác tri, biết rõ các pháp đều
bình đẳng,
chứng nhập như thật trong pháp của
Như Lai, an trụ nơi
chơn như chẳng
hư vọng không biến dị. Chính đây gọi là chư
Bồ Tát chứng nhập Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát an trụ nơi đây thì
thành tựu được
vô biên trí huệ. Do sức
trí huệ nầy có thể
chứng nhập trí bất tư nghì và
ngôn thuyết bí mật của
Như Lai. Do đây có thể khéo rõ biết tất cả pháp, chỗ thấy biết chẳng thể nghĩ bàn, không
phân biệt, không sở đắc, đồng như
Bồ đề chẳng thể nghĩ bàn
vô phân biệt vô sở đắc.
Bồ Tát nầy cũng chẳng
phân biệt, chẳng tưởng niệm đồng với
Bồ đề. Trong nghĩa
Bồ đề thường trụ, chẳng thành chẳng hoại, chẳng nhóm chẳng tan, mà có thể làm ra tất cả
Phật sự. Nơi
pháp môn tịch tịnh đã nói đây,
Bồ Tát chẳng
chấp trước, cũng chẳng
phân biệt những
nghiệp quả báo, khéo rõ biết được
nghiệp quả bình đẳng, vì
bình đẳng nên chẳng thấy
nghiệp quả, cũng chẳng
phân biệt chấp trước. Vì chư
Bồ Tát nầy đã được nhẹ nhàng nơi
phiền não và
nghiệp chướng, đã
xa lìa kiết sử, đã rõ thấu các
pháp môn và thấy biết
đà la ni nầy. Vì đã an trụ
pháp môn thanh tịnh, nên chư
Bồ Tát nầy có thể đi
giáo hóa mười phương thế giới, đủ hạnh
thanh tịnh không
trụ trước, chẳng bị
thế pháp làm
nhiễm ô, đáng là
phước điền cho trời, người, các
thế gian gần gũi
cúng dường.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai nói
cúng dường bực
Bát địa Bồ Tát được
vô lượng công đức, huống là
Bồ Tát tu hành chứng nhập nơi pháp nầy.
Nếu chư
Bồ Tát đối với
Bồ đề, với
chúng sanh, với
pháp chúng sanh, với pháp
thế gian mà không chỗ được, không
phân biệt, không
hí luận, thì có thể rõ biết pháp nầy và
tu hành đúng thật, có thể tiêu được sự
cúng dường rộng lớn của
thế gian. Tất cả
chúng sanh nên đem sự
cúng dường Phật mà
cúng dường chư
Bồ Tát nầy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư
Bồ Tát tu học pháp nầy thì được đầy đủ tất cả sự
cúng dường, lìa khỏi những sự bố úy nhẫn đến có thể rời bỏ tất cả
thân mạng. Chư
Bồ Tát nầy nơi các
pháp không chỗ
nhiếp thọ mà có thể
nhiếp thọ pháp rộng lớn, ngồi tòa
vô úy, như
sư tử rống,
hàng phục ngoại đạo và pháp của
ngoại đạo, trừ dẹp
ma vương Ba tuần và đoàn quân ma, có
thể diệt trừ tất cả sự che ngăn cho
chúng sanh, sẽ dùng
pháp thuyền độ
chúng sanh, sẽ chỉ bày
con đường nhứt thiết
chủng trí cho
chúng sanh, sẽ có thể đặt tất cả
chúng sanh trên
con đường tùy thuận thánh đế, sẽ khai thị tất cả pháp
Bồ đề phần cho
chúng sanh, sẽ dùng
pháp thí dạy bảo chúng sanh, sẽ làm cho
chúng sanh được
pháp hỷ.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư
Bồ Tát có
thể tín thọ môn
đà la ni nầy, thì không khác gì những bực đã được
thọ ký Vô thượng Bồ đề. Chư
Bồ Tát sẽ tự
thọ ký cho mình :
“Như Lai là
đấng Pháp Vương khai thị
pháp tạng nầy, có thể
an lành ấn
đà la ni nầy, có thể
kiến lập những
pháp môn nầy.
Đức Như Lai nhiếp thọ chúng tôi, là cha của
chúng tôi, là người
thương xót chúng tôi”.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư
Bồ Tát có thể ở nơi
Như Lai có tâm
quyết định tưởng là cha lành, thì sẽ được vào số chư Phật, như Phật không khác.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Trong pháp phẩm
đà la ni môn, đây là môn
xuất ly đà la ni thứ hai,
diễn thuyết pháp tạng của Như Lai”.
Phẩm Thanh Tịnh Đà La Ni
Thứ Ba
(Hán bộ từ giữ quyển thứ sáu đến hết quyển thứ bẩy)
Hán dịch: Nhà Đường, Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn quan sát bốn phương hiện các thứ
thần thông,
dùng sức thần thông làm cho chư
Bồ Tát trong
pháp hội được thấy
vô lượng chư Phật ở
mười phương và nghe chư
Phật thuyết pháp.
Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát : « Ông xem nơi tất cả pháp,
Như Lai vô tác vô vi tịch tịnh, mà làm được
tự tại thần thông như vậy,
trí lực vô úy như vậy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai tánh chẳng một chẳng khác, chẳng phải chẳng một chẳng khác, vì là
vô sở hữu nên chẳng phải có chẳng phải không, không
tự tánh chẳng phải không
tự tánh, nên biết rằng
Như Lai tánh nhẫn đến không có chút pháp gì là có thể được. Thấy biết như vậy lại cũng không có chút pháp gì là có thể thấy biết. Đã chẳng thể thấy thời là không chỗ có cũng không chỗ lấy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai tánh không chơn
thật không chẳng chơn thật. Nếu là chơn thật và chẳng chơn thật thời là có
Như Lai tánh, không
Như Lai tánh.
Như Lai tánh lìa có lìa không, nhưng cũng chẳng từng lìa.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả
pháp tự tánh bổn tánh như
hư không.
Chư Phật Như Lai lúc chưa
xuất thế, chưa từng có nói
pháp môn như vậy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nơi pháp nầy, nếu chư
Bồ Tát hiểu rõ như vậy, thời có thể phát sanh
vô lượng biện tài, có thể
diễn thuyết các pháp, thấu rõ đức
vô úy của Phật.
Đức
vô úy nói trên đây, nghĩa là được đức
vô úy tối thượng của
Như Lai, vì có thể đối với các pháp chẳng
nhiếp thọ, chẳng
tăng trưởng, chẳng thể được, chẳng khắp được, chẳng theo được.
Dầu
đức Như Lai ra đời hay chẳng ra đời, pháp vẫn chẳng tăng giảm, chẳng khắp tăng giảm.
Tự tánh bổn tánh của các pháp vẫn
thường trụ, là trụ tánh
định tánh của
pháp giới.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả
pháp trụ nơi
định tánh của các pháp, vì
bất khả đắc như vậy, nên tất cả pháp đều là
hư vọng phân biệt, chẳng phải do
nghiệp báo mà được thành, do đây nên có thể vào nơi môn tất cả
pháp không nghiệp báo. Vì các
pháp không tự tánh như vậy, chẳng thật như vậy, nên các nghiệp đối với quả chẳng phải là nhơn
sanh diệt, nơi sự dứt trừ các thú các đạo cũng chẳng phải là nhơn.
Đức Như Lai chỉ
tùy theo thế tục, nói tất cả pháp có nhơn có chẳng phải nhơn, vì nhơn
tự tại, vì không có nhơn, đây là đức
vô úy của
Như Lai. Vì
Như Lai đầy đủ
vô lượng biện tài nên được vào bực đại
vô úy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Thế nào là
vô úy ? Chính là bốn pháp
vô sở úy của
Như Lai. Bốn pháp
vô sở úy nầy, hàng
Duyên Giác còn không có được, huống là hàng
Thanh Văn cùng các
thế gian.
Những gì là bốn ?
Một là,
đức Như Lai xướng rằng : Ta là
Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, là bực biết tất cả, thấy tất cả. Hoặc trời hoặc người, tất cả
thế gian không ai có thể
lập luận nói rằng
Như Lai chẳng rõ biết được các pháp. Do đây nên
Như Lai được
tối thượng vô úy, ở giữa
đại chúng như
sư tử rống,
Như Lai có thể
diễn thuyết giáo pháp vô thượng rộng lớn rất sâu.
Hai là,
Như Lai xướng rằng ta là bực dứt sạch tất cả lậu
phiền não. Hoặc trời hoặc người, tất cả
thế gian không ai có thể
lập luận được rằng
Như Lai chưa sạch hết các lậu. Vì sạch hết các lậu, nên
Như Lai có thể trụ nơi
rốt ráo an lạc, khai thị
pháp tạng vô thượng đã chứa nhóm
từ vô lượng ức kiếp.
Ba là,
Như Lai diễn thuyết đạo
xuất ly,
tu tập nơi đó, dứt hẳn tất cả khổ. Hoặc trời hoặc người, tất cả
thế gian không ai có thể
lập luận được rằng nơi đạo
diệt khổ của
Như Lai nói,
tu tập theo đó chẳng được
xuất ly.
Như Lai chẳng thấy tướng
xuất ly nên được
rốt ráo an lạc, rồi vì
chúng sanh thị hiện pháp nầy, nên ở giữa
chúng hội như
sư tử rống.
Bốn là,
Như Lai tuyên nói những pháp chướng đạo. Hoặc trời hoặc người, tất cả
thế gian không ai có thể
lập luận được rằng pháp chướng đạo của
Như Lai nói là không chướng. Vì chẳng thấy có pháp chướng đạo nên
Như Lai trụ nơi
an lạc tăng thượng,
Như Lai ở giữa
đại chúng như
sư tử rống.
Như Lai có thể
chuyển pháp luân vô thượng nầy, tất cả
thế gian, hoặc trời hoặc người đều không chuyển được.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là bốn pháp
vô sở úy của
Như Lai. Chư
Bồ Tát tinh tấn tu học pháp nầy thời mau chứng được bực
vô úy, là bực
tối thắng trong người, trong trời.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Chư
Bồ Tát vì khéo
tu tập pháp không, nên có thể phát sanh môn biến
thanh tịnh bất tư nghì. Do môn nầy, nơi tất cả pháp, chư
Bồ Tát tối sơ thấy rõ tất cả pháp đồng với tướng
hư không, không hai không khác, tất cả pháp đều như vậy cả ; nhưng với
hư không, chẳng
phân biệt cũng chẳng
hí luận. Chư
Bồ Tát nầy được nghĩa
thiện xảo : không có chút pháp nào bị đem từ đâu lại, cũng chẳng đem đi đâu, cũng chẳng chứa nhóm. Do đây,
Bồ Tát bèn có thể
quan sát tất cả
pháp không chứa nhóm, không đến không đi; nơi tất cả pháp, làm mà không chỗ làm, thắp đuốc
đại pháp, làm trí pháp cho các
chúng sanh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông xem pháp nầy đem lại bao nhiêu là
lợi ích, bao nhiêu là
sự nghiệp cho chư
Bồ Tát ! Chính là
mười trí lực và bốn
vô sở úy của Phật. Lại cũng không có chút pháp gì có thể được, cũng chẳng phải không được.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả pháp đồng với tướng
hư không. Vì để được
lợi ích nên
Như Lai khai thị
diễn thuyết những
quả báo cùng nghiệp nhơn. Trong đó cũng không có được
lợi ích.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Pháp
thậm thâm nầy rất là khó tin đối với tất cả
thế gian. Vì
thế gian là diệt hoại, là
hư vọng kiến lập, nên không
thể tín thọ được pháp nầy, và cũng chẳng biết được.
Thế gian đều là
phi pháp, do
chấp trước nên nói có
thế gian và chỗ an trụ.
Giả sử nhẫn đến có
quan niệm chấp nơi pháp, cũng không có pháp để có thể chấp được.
Do
chấp trước nơi
phi pháp, nên sanh ra sự
tranh luận với
Như Lai và pháp của
Như Lai đã nói. Lại họ chẳng thể rõ
tự tánh bổn tánh của tất cả pháp, lại
trái với vô sanh pháp nhẫn. Vì thế nên họ không hiểu được
giáo pháp thậm thâm nầy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai vì tất cả trời, người, những hàng tin lời
như thật, lời không
hí luận mà khai thị
diễn thuyết giáo pháp như vậy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Trong đây đều
không pháp thiện pháp bất thiện. Những
pháp thiện bất thiện thảy đều
tịch tịnh.
Pháp thiện pháp
bất thiện đều chẳng biết nhau.
Pháp thiện pháp
bất thiện chẳng chói che nhau. Vì
nhơn duyên chấp trước pháp thiện pháp
bất thiện, nên
Như Lai nói tất cả pháp thảy đều
vô ký, vì không thể được
pháp thiện pháp
bất thiện chơn thật vậy. Nếu đã
bất khả đắc thời là
vô ký, vì trong đó không có nhơn, không thấy được nhơn.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay ông nên
quan sát tất cả pháp thảy đều
vô ký.
Nếu có chư
Bồ Tát giác ngộ như vậy rồi thì đối với tất cả pháp,
ngôn thuyết vô ký cũng là
bất khả đắc.
Pháp môn như vậy là vì chư
Bồ Tát như thật thấy pháp
bất thiện, được xả
viên mãn, chẳng trụ nơi pháp, do môn
vô ký mà
chứng nhập các pháp. Môn
vô ký nầy vẫn là chẳng phải môn. Nếu là phi môn thời là
bất khả đắc. Nếu đã
bất khả đắc thời đó là
thanh tịnh.
Đây là chỗ chư
Bồ Tát vào
pháp môn thanh tịnh đà la ni. Do môn nầy, chư
Bồ Tát được
trí huệ chiếu suốt tất cả pháp, không còn ngu ám
mê hoặc dụ dự đối với tất cả pháp, và có thể được
pháp trí vô ngại,
huệ nhãn thanh tịnh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nơi trong pháp nầy phải nên cầu thích.
Thế nào là cầu thích ? Nghĩa là với tất cả pháp, không lấy,
không chấp,
rốt ráo lìa bỏ,
siêu quá nhiếp tàng, không mong cầu. Chẳng quán đãi tất cả
pháp hữu vi thế gian, thiện,
bất thiện. Đây là bực
bất phóng dật vô thương, bực lìa
phan duyên. Trong tất cả pháp, không đến không đi, không trụ,
không kiến lập. Đây gọi là
huệ nhãn thanh tịnh, vì
rốt ráo bỏ lìa không chỗ chấp lấy. Khéo có thể
quan sát bỏ lìa tất cả bổn
tánh tự tánh thời gọi là
huệ nhãn.
Huệ nhãn trên đây là trí tánh yểm
ly diệt tận. Trí tánh nầy vốn
vô sanh,
vô tác, bổn tánh
tịch tịnh, lại cũng chẳng
tương ưng với
tịch tịnh, vì đã dứt
tương ưng, lại cũng chẳng phải đoạn dứt, chẳng phải không đoạn dứt, không thiếu không giảm. Đây gọi là
huệ nhãn thanh tịnh, là đạo không
hí luận. Do
thành tựu huệ nhãn nầy, dùng
từ bi nhiếp thọ chúng sanh, khiến họ
phát tâm. Duyên nơi
chúng sanh mà
phát khởi vô lượng diệu hạnh, và có thể
hiểu rõ tất cả
pháp không có ngã, nhơn,
chúng sanh,
thọ giả.
Bồ Tát nầy lúc chứng được
Vô thượng Bồ đề,
quyết định có thể khai thị
diễn thuyết pháp tạng vô thượng, và có thể
thanh tịnh môn
đà la ni, vì làm cho
giáo pháp theo
chủng tánh của
chúng sanh không đoạn dứt nên
thiết lập pháp ấn.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Pháp môn thanh tịnh đà la ni nầy, chư Phật luôn
nhiếp thọ khai thị
diễn thuyết.
Thập phương tam thế chư Phật cũng đều tuyên nói
pháp môn nầy, vì chư
Bồ Tát mà khai thị
pháp tánh tam thế bình đẳng. Do đây đối với các pháp trong
ba đời có thể
ngộ nhập pháp môn nầy. Vì
thành tựu huệ
tổng trì tam thế thanh tịnh.
Chư
Bồ Tát nầy không có
quan niệm thế gian, nơi pháp lành cùng pháp chẳng lành biết rõ không hai, không khác, các
thiện căn được sanh trưởng, thân ngữ ý
ba nghiệp thảy đều
thanh tịnh, có thể khắp
thanh tịnh vô lượng pháp môn, vì để được huệ
thanh tịnh tổng trì, cũng có thể
khai diễn giáo pháp thanh tịnh vô khởi
vô tác, lại có thể khai thị tất cả pháp
rốt ráo không tịch như
hư không, lai có thể
thị hiện trí huệ rộng lớn mà vì người khai thị trí
thanh tịnh, cũng có thể khai thị tất cả pháp và
Bồ đề như tánh
hư không, mà vì người
thị hiện đạo nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh, lại có thể khai
thị đạo pháp thanh tịnh, tức là tùy
sở nguyện được
viên mãn Bồ đề, có thể rõ biết chơn chánh,
diễn thuyết thật đế phương tiện thiện xảo, mà có thể
tuyên thuyết đế lý
vô phân biệt, có thể khai thị
trí huệ của chư Phật, vì
tùy thuận giác ngộ tất cả nghĩa.
Nếu chư
Bồ Tát khéo
tu học pháp nầy thời có thể mau
thanh tịnh tư lương Bồ đề, được trụ nơi
Bồ đề không có
xa gần, chẳng
trái với chút pháp gì, với các pháp hiện nói đây, cũng chẳng thấy
xa gần, chẳng dùng pháp và
phi pháp để thấy
Bồ đề, đã
thông đạt Bồ đề dứt tuyệt các sự
hiển thị, có thể dùng nghĩa
bình đẳng không
hiển thị để biết rõ
Bồ đề, đến lúc quán
nghĩa tịch tịnh của các
pháp thời với
Bồ đề chẳng
phân biệt, cũng chẳng thấy
nghĩa tịch tịnh, nghĩa chẳng
tịch tịnh, chẳng phải ngoài
tịch tịnh mà thấy chẳng
tịch tịnh, không có chút tưởng niệm là có năng quán năng kiến, có thể thấy
thanh tịnh với tất cả chỗ, cũng không có chút gì có thể
thanh tịnh. Đây là
trí môn thanh tịnh của chư
Bồ Tát.
Do
trí môn nầy, mà chư
Bồ Tát có thể
tùy niệm môn
đà la ni vô biên pháp tạng của
chư Phật Như Lai, khắp biết được bổn
tánh tự tánh của các loài
hữu tình, khai thị
diễn thuyết các
pháp tạng cho
hữu tình, có thể khắp
thanh tịnh các
nghiệp trí huệ, các nguyện cầu nơi
Vô thượng Bồ đề, hiện bực
đẳng giác không thối chuyển, mau được
tự tại đối với tất cả pháp, có thể
tu tập đức đạt từ
đại bi của chư Phật,
Pháp tạng thiện xảo của tất cả
Như Lai đều
hiện ra trước, và có thể
thị hiện vô lượng vô biên pháp quang rộng lớn, thân thường an trụ nơi
trí cảnh của chư Phật.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Pháp môn vô lượng vô biên nầy chỉ cho những pháp nào ?
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả pháp : địa, thủy, hỏa, phong,
hư không,
thức giới đều
vô lượng. Các
hữu tình cõi dục, cõi sắc, cõi
vô sắc đều
vô lượng. Nhưng không có một chút
hữu tình nào là
khả đắc,
khả tri, vì
hữu tình là không. Thật vậy,
hữu tình giới nầy là
bất khả đắc, bất
khả tri, vì giới là không. Vì thế nên các pháp đồng
Niết Bàn giới, thu
nhập Niết Bàn. Tất cả các pháp đồng hướng vào chỗ
bất khả thuyết, vì nơi
Niết Bàn giới, không có chút phần nào là khả thuyết. Trong
Niết Bàn giới không
chướng ngại, không
che đậy, vì đã
vĩnh viễn thanh tịnh chướng che vậy. Nên
Niết Bàn giới là
thanh tịnh, là rất
thanh tịnh.
Niết Bàn giới nầy, cũng chẳng phải giới, vì
xa lìa giới, vì không có giới, vì
siêu quá giới, nhưng dùng tương tợ mà
phương tiện nói là giới.
Giới đã nói đó là an tru phi giới và chẳng phải phi giới. Trong
ngôn thuyết cũng không có giới, chỉ dùng
ngữ ngôn để nói bày các pháp.
Ngôn thuyết cùng người nói đều
bất khả đắc, bất
khả tri. Tất cả
ngôn thuyết đều là chẳng phải
ngôn thuyết. Tất cả
ngôn thuyết như vậy, như tánh
hư không, đồng vào
hư không. Do đây nên
địa giới,
thủy giới nhẫn đến
hư không giới đều không thể
ngôn thuyết, không lực dụng
năng thuyết.
Thức giới đã nói đó, chỉ là dùng
ngữ ngôn để thuyết bày các pháp, nhưng
thức giới đó, giới cũng chẳng phải giới, chẳng vào các giới, chẳng
tương ưng với giới cũng chẳng phải chẳng
tương ưng, từ
hư không sanh, vào nơi
hư không.
Thức giới như vậy chẳng ở trong, ngoài, chặng giữa. Tùy
nhiếp thọ nơi phần
hư không của nó mà hướng vào
hư không, chẳng thể thi thiết, chẳng thể xem thấy. Nếu nó đã là chẳng thể thi thiết thời nó không chỗ làm, trừ có duyên
tương ưng nói là có
thức giới.
Đây là
pháp môn của
Bồ Tát chứng nhập. Tất cả
pháp bổn tánh tự tánh như
hư không. Bởi y nơi
pháp giới mà khai thị
diễn thuyết, nhưng cũng không có giới của các pháp, vì giới mà chẳng phải giới, nên tất cả
pháp như hư không. Do đây
Như Lai nói tất cả pháp đều là
hư không, vì khó được số lượng.
Hiển bày tất cả pháp đều
hư không tánh, vì bổn tánh của các
pháp như hư không, chỉ là dùng
ngữ ngôn khai thị
diễn thuyết thôi !
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông xem chỗ
diễn thuyết từ nơi trí
Như Lai thanh tịnh dường ấy.
Giáo pháp thanh tịnh như vậy,
không pháp có thể sanh, cũng
không pháp truyền thọ.
Đây là trí không
điên đảo của chư
Bồ Tát.
Vì thế nên các ông
cần phải cầu thích
trí huệ không do người khác làm duyên, được
vô phân biệt, chẳng thêm
phân biệt, và có thể
thanh tịnh được
pháp môn lý nghĩa
bất khả thuyết, vì do
pháp trí thanh tịnh vậy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Các loài phi điểu đi nơi đâu ?
- Bạch
Thế Tôn ! Loài phi điểu bay đi nơi
hư không.
-
- Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Hư không đi nơi đâu ?
- Bạch
Thế Tôn !
Hư không chẳng đi đâu cả.
- Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Phải lắm ! Tất cả
pháp như hư không, không có chỗ đi. Pháp đi không chỗ đi đều
bất khả đắc. Vì thế nên các
pháp không có chỗ đi, lại cũng chẳng đi. Bổn tánh của các
pháp không có đi không có nói.
-
Vì muốn chư
Bồ Tát được trí
hư không thanh tịnh, nên
Như Lai chuyển
pháp môn nầy. Đây là
pháp môn vô biên quang minh,
soi sáng cùng khắp
vô lượng vô biên dường như
hư không.
Quang minh chiếu khắp đó cũng bất khả kiến. Chư
Bồ Tát được
pháp môn nầy rồi thời có thể
quan sát khắp
mười phương thế giới, và có thể liền thấy tất cả
thế gian.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là
cảnh giới sở tri của
trí huệ Bồ Tát,
cảnh giới thông đạt của trí
Bồ Tát, chẳng phải
cảnh giới của ngoại luận khác, vì họ không thể nói đến được.
Lý nghĩa của pháp nầy là
bất khả thuyết, vì
pháp ấn ngữ ngôn không thể
hiển thị được. Vì thế nên tất cả
pháp không ấn, cũng chẳng
tăng ấn, vì rõ biết chẳng ấn mà khéo léo
tu tập. Dùng ấn
hư không mà ấn tất cả pháp. Dùng ấn
vô tướng có thể
thị hiện hư không vô tướng kia
không tướng hữu vi,
không tướng ngữ ngôn. Do vì
không vô nên nói
hư không nầy. Vì
hư không đã nói đó không có thật thể nên nói là không. Cứ nơi chơn
thắng nghĩa, nên biết các pháp
rốt ráo là
vô ngôn thuyết.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay đây
Như Lai sẽ nói
đà la ni ấn : những câu hay
thanh tịnh, là những câu
hư không. Vì trí
thanh tịnh, nên như
hư không không có câu, không có câu nên
thanh tịnh. Nên phải rõ không có các câu như vậy ».
Đức Phật liền nói chú rằng :
« Tỳ phiệt lê - tỳ phiệt ra nỗ ta hê đế - bát ra nỗ nễ - nễ san nã vĩ phiệt ra ni -
a tỳ dạ phiệt ca san nại thiết nễ - bát ra bá lê - bát ra bá ra nhĩ thâu đạt nễ - niết tỳ yết bệ - a cá xa
tam ma phiệt bà ra ni- nễ tỉnh nghê- tỉnh giả ba
yết để - tỉnh giá tỳ mâu chiết nễ -
a nã đà nễ - a đá nẵng tỳ
yết đế - cương khất sa xiết na bát rị
yết ma - át chế nê - a nỗ bát xiết nê - a
tam minh - a ta ma ta mê - địa
tỳ da nhã nẵng a ha la ninh - bát ra nhương chước sô tỳ thâu đà nễ - thiết
lê da bá
na da nễ - địa dựng kỳ ô đát ra ni - a dụ kê -
a tỳ dụ kê - a tam bát ra dụ kê -
a tỳ bát ra dụ kê - a hột ra bát đà niết hạ lê - niết đề xa bát đà tỳ thâu đạt nễ - a để đa na yết đa bát ra để du bát na tỳ thâu đạt nễ - ngật rị đa bát rị
yết ma tỳ nễ đế - nẵng đa ra tha nỗ
yết đế -
a tăng yết ra ninh - a ngật ra bát đà tỳ thâu đạt nễ - bát đà bát ra
bệ đà nhương na tỳ thâu đạt nễ - niết bá tư - á bá ta tỳ thâu đạt nễ- tam mạn đa nại xa địa xa
tỳ da phiệt lư yết ninh - nhĩ ra ngược bát đà niết ha lê - bát ra nhã nhĩ thâu địa - ô bá ta a bát ra minh ca ra ni - a cự la ba
đạt ma nại rị thiết na nhĩ thâu đạt nễ - bộ đá át ra tha san nại rị thiết nễ - a nộ mạo đà át tha nhĩ thâu đản nễ - ta kiệt ra
chất đa nỗ bát ra phệ thế - mế rô bát rị tăng tát tha ninh - ra thấp nhĩ bát ra đa bát nễ - tát bà
lộ ca địa
bát đế da nhương nang vĩ thâu đản nễ - a bát ra để cát đa -
a tăng già nhương na nại rị thiết ninh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là ấn
đà la ni, những câu hay
thanh tịnh diễn thuyết hư không. Những
câu phần đoạn đều không có phần đoạn. Vì không phần đoạn, nên trong đó không có câu, không có câu
thanh tịnh, vì tất cả pháp vẫn là
thanh tịnh. Vì người
phát tâm Đại thừa mong
cầu pháp thanh tịnh thậm thâm, do vì
thần lực Như Lai gia trì, nên những câu chú nầy được
lưu bố.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu người
phát tâm muốn
hiện tiền chứng đại Bồ đề, muốn làm
lợi ích cho
chúng sanh, thời nơi những câu
thần chú nầy, dầu chưa từng nghe nhưng cũng
hiểu rõ được, hoặc có
trời Tịnh Cư, hoặc
chư Thiên thần
thọ trì thần chú nầy, sẽ đem truyền thọ cho người đó. Nếu có người
phát tâm Vô thượng Bồ đề,
chư Thiên thọ trì thần chú nầy cũng đem truyền dạy lại người đó ».
Đức Như Lai liền nói
thần chú rằng :
«
Ô ba tăng hà lê - ta hà lê - hột rị - thất rị địa rị để nhĩ thâu đản nễ - yết lượng nẵng át tha niết đệ siểm bát ra để bá để -
chất đa mạt nỗ nhĩ nhương na nhĩ thâu đản nễ - a địa da đát
ma ma tứ át đà bát rị thâu đản nễ -
yết để tỉ mật lý để
mạt để - a cát ra nễ cấp đa - cấp đa bát để - tát lê - tát ra phiệt để.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Các vị
Thiên Thần ở trong núi Tuyết, nếu được
thần lực của
Như Lai gia trì, họ có thể truyền
thọ pháp quang cho những người
thuyết pháp ».
Đức Như Lai liền nói
thần chú rằng :
«
Mạt để nhĩ thâu đản nễ- tô dục đa mị rị duệ- a kiệt ra tứ đa bát đà niết hà rị- a chỉ lã tỉ nễ- a nhĩ lã tỉ nễ- uất tha nẵng tam bán ninh- nhĩ nễ đa
tam ma na bát nễ-
mạt để a yết la nộ nghiệt đế.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Chư Thiên thần ở núi Kê La Ta, có thể làm cho người
thuyết pháp được sáu căn
thanh tịnh, giúp
ngữ nghiệp người
thuyết pháp được
tương tục không
gián đoạn ».
Đức Phật liền nói
thần chú rằng :
« Bát ra đa bát đát để- phệ rô chiết na phiệt để- một đà mạt để- phược tô mạt để-
đạt ma mạt để- át tam bát ra mưu sa phiệt để- việt bá san nại rị thiết nẵng phiệt để-
ô ba tăng hà ra niết đệ xa phiệt để.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Các vị
Thiên thần ở rừng
Ta La, có thể làm cho thân ngữ
ý nghiệp của những người
thuyết pháp đều
thanh tịnh, làm cho
tiếng tăm trong suốt,
thanh tao, khả ái, và có thể truyền cho lời
ái ngữ, lời
hòa thuận ».
Đức Như Lai liền nói
thần chú rằng :
« Niết ra
lam ba a nghiệt ra yết lê -
khất sái ma tỳ chế duệ - niết bá ta phiệt để - niết hà ra phiệt để- ô xà phiệt để-
ô ba nẳng danh để -
ô ba tăng hà ra yết ra ni - a vĩ xả tha - y hà đà ra ni
mục khê -
đạt ma mục khê -
đạt ma ba tra lê.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Có các vị
Thiên thần ở phía Nam núi Tuyết trợ thêm
sức lực cho những người
thuyết pháp, những người siêng
tu hành pháp nầy, những người mong
cầu pháp nầy, những người
ưa thích pháp nầy ».
Đức Phật liền nói
thần chú rằng :
« Yết rị da nẵng át tha vi tác nhã nễ -
kiêu xa rị da nộ nghiệt đế - ô bá da tăng ngật rị
tứ đế - vi ninh mục đế - phiến đa bát na vi tác ra nễ - ô bá ta da xa phiệt để.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Có các vị
Thiên thần ở bờ
đại hải, vì
nghe pháp nên làm cho các
pháp sư được
an lạc.
Đức Như Lai vì muốn
lợi ích cho họ nên nói câu
thần chú nầy.
Thiên Đế Thích cũng có thể truyền cho họ những câu
thần chú nầy.
Thần chú đây là những câu có thể nhiếp
Đế Thích v.v... ».
Đức Như Lai liền nói
thần chú rằng :
« Ma khí bát để - ma tô mãng để - nê bã a ra nhã - xá chí bát để - tát bà a tô ra nẵng - niết ra già đa nể - mạt nhi sái dã - tố bát ra để sắc sĩ đa - bát ra mãng a ra na nỗ tỉ - a tố ra nẳm - nê phược nẳm a địa bát thầm - tát nã - bố ra tắt ngật rị đổ tứ niết - nê vi tứ thử bả tế - phược ta phược tát na - bố lãng nại ra đô - đa bế tứ - a tố ra tát na - đọa nặc a khất lâm - đa phược bát thi chủy - vi đồ dựng tứ đa -
ma ha tố ra - a tố lệ na ra bát ra diễn để - tị
đa đa ra tất ra -
na la địa thâu địa xa - na mãng
bột đà tứ dã - dĩ át để sử duệ - nẵng ma ngúc đa ra -
ma ha dã xá - nê phược a tố ra tứ danh - tăng nghiệt ra danh -
bột đà nhiếp đà -
a nậu đa la - thất ra mạt tư - nê phược
vi thệ da -
na ma bột đà để nẵng mãng tư - tấn yết ra ma xiển na tư mạt nẳm -
bột đà nang danh nẳng phược tứ đa - vi thệ duệ tố -
đa đa nê phược - a tố ra thất giả - vi ninh đa phạm - ngật lý đa đế - ra khất sa nê phược nẳm - ma nỗ sa nẳm - ra khất sa vĩ na - dục ế ha-
đạt ma nễ nê thế - ô đa lang để - tô bát ra để sắc sĩ đa - ninh ngật lý tứ đa - đa phược dạ a tố ra - a ra khứ sái ta
dược xoa khẩn na ra - nẵng già cưu bàn tra
bộ đa đa nễ -
tỳ xá giá na nẵng ra
đa tha - a giả la tất thả nẵng - bát ra bát đô tứ - ấn na ra ấn na ra - bố ra tắt ngật lý đa - a để nghiêm tỳ ra - phiến thẻ giả - a nghiệt ra
bố lộ sa - tế vĩ nang - bát ra nhương mạn đô tứ - nê
mạt na ra - bột địa ma ta tha vi thứ lộ đa - a mạt xả ế ha - tố đa ra tứ thị - a ra khất sa
mạt na tứ đa -
ta ha tát ra nê đa ra - tố
mục khê am bá ta lệ - bát rị phược lý đa -
ô ba muộn nhương tát phược cam yết nang - bố ra mê tứ đổ tứ danh - giả ngật rị đảm - a để bát thỉ giá - a nỗ bát ra một đa - a giả ra tố bát rị để sắc sỉ đa - ngật lý chiêm tứ - cứ xá lam bố ra mê - ma nộ thế số - mang
tứ bát để - bố ra phược hư mâu tứ - nê phược nẫm - bố thệ ấn để - đáp phược mang nộ sá -
bột đà tứ dã ngật rị đắc phược - tát đắc ca lam - bố xà bệ sát để - đế mạc hô -
ma ha phược mãng ninh - vi giả lam bá phược nan giả - tố thứ bá để - nê phược lai dã tứ - mãng địa dã tứ thị - dã khứ sớ tứ bá lý phược lý đỗ - bát ra lạm ma - ha rị ma hồng giả - đa phược tứ ca - vi xá na a ngật ra phược tứ - ta đa để ma để - tố ra đa bát ra để -
ta ra đa ta
đa tha - bát ra bộ tát kiến đà - a nễ ra giả mãng ra giả -
ma ha ma nghê -
ma ha tát kiến đà -
ma ha kế đô- tố bát ra địa giả -
ma ha ma ra - ế đế
dược xoa -
ma ha đế nặc - a ra khất sằn để bá phược nam đa phược - ma hộ
dược xoa bát rị phược lộ - duệ na thâu bá tứ phược ta phược - ma tố tát phược phược tố để nặc -
ma ha đế nặc
ma ha ngưỡng nể -
ma ha bát ra ha ra nộ chế phược - a vĩ tứ ta na gia đa thế phược giả - tố danh rô mộ ra đà nễ - đa phược phược ta phược - tát phược nê phược - bố ra tắt ngật rị đỗ - thứ bà để - bà phược nẳng ô bà ta - bát ra ma muộn giả tứ - để nặc ta.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Thần chú nầy là những câu có thể nhiếp
Thiên Đế v.v...
Nếu chư
Bồ Tát hướng đến
Bồ đề, sau đó vì
nhiếp thọ chúng sanh mà an trụ trong nhiếp pháp, do
thần chú trên đây nên sẽ được
Thiên Đế Thích v.v... truyền thọ các câu
thần chú.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Gì là những câu có thể nhiếp lấy
Tứ Thiên Vương và các quyến thuôïc ? ».
Đức Phật liền nói kệ rằng :
«
Dạ Xoa không giận não
Người
tu tập pháp nầy
Đa Văn Vương
Thái TửCha con đều
cung kính.
San Xà Gia,
Dạ XoaCác đoàn quân lữ mạnh
Thường
ủng hộ những người
Nơi pháp nầy
ưa thích.
Trì Quốc
đại thần vươngHằng đem
quyến thuộc theo
Thường
ủng hộ những người
Khéo
diễn thuyết pháp nầy.
Quyến thuộc thần Xứ Mục
Tự mình và quân chúng
Tất cả sẽ
ủng hộNgười
tu tập kinh nầy.
Tăng Trưởng đại Thiên VươngQuyến thuộc và quân lữ
Đều thường theo vệ hộ
Người
ưa thích pháp nầy.
Thần
La Sát Tràng PhanLa Sát Đại Tràng Lực
Đều ở tại phương Đông
Nhiếp vào câu chú nầy
Tự mình và
quyến thuộcThường gần gũi
thủ hộNgười
đọc tụng thọ trìPháp môn thậm thâm nầy.
Thần Hề Ly
Mạt ĐểLam Bà, Tỳ Yết Giá
Và thần Tát Đà Đa
Đồng ở tại phương Nam
Hầu hạ
Thiên Đế ThíchĐều nhiếp trong chú nầy
Thường giúp thêm
tinh lựcCho người trí
thuyết pháp.
Và các thần
La SátKiếm Ly
Tam Mật Đa
Cùng
Già La Hệ Sí
Với thần
Mật Thất Đa
Đồng ở tại phương Tây
Thần chú nầy nhiếp đến
Tất cả thường
ủng hộNgười
thuyết pháp rõ nghĩa.
Và các thần
La SátThật Đế, Hữu
Thật ĐếTin sâu nơi pháp nầy
Đồng ở tại Bắc phương,
Vì muốn họ
ủng hộPhật nhiếp họ vào đây,
Do oai lực
Như LaiĐều
chắp tay mà đứng.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là những câu có thể nhiếp
Tứ Thiên Vương, các quyến thuôïc và hàng thị tùng ».
Đức Phật liền nói
thần chú rằng :
«
Tán ninh vi xá nễ -
ma ha tát lê -
ma ha yết nễ -
ma ha yết nhã nễ - bát ra
bộ đa vi thệ duệ - đà phược xả a nghiệt ra - ô bá phược tác nễ - a nể lã tế nẳng đô
ta ha - nẳng nẳng phiệt nang nại xa nễ xá - chiết đỏa rị
lộ ca bá ra nễ - đổ
tứ minh ra nhã nẵng ô chiết tha - a phệ thiết na - y ha tát mạn phược ha ra thá - vật ra thệ ninh tiết ra ha - tát mê chiết đột địa xá.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Những câu gì có thể
hàng phục ma Ba Tuần ? Ông nên lóng nghe nghĩ kỹ ».
Đức Phật liền nói
thần chú rằng :
« Mật để lệ - mật đa ra phược để - ca lộ ninh - ca lộ nẳng phược để - vi bộ để - vi
bộ đa phược để - bát ra mâu chiết nễ - bát ra mâu chiết nẳng phược để - ngật rị đa ngật rị đa phược để - a nộ nghinh danh - a nộ nghinh mãng phược để - ô bá đa xiết na nễ -
già ma vi phược nhương nễ - đế rị sắc nẵng ta mâu, châu sát nễ - nễ tiết rị tứ
đa mang ra phược lam - ôn đa ra nang phược để - bát ra để dữ đa ra phược để - ô bế khứ sa nộ ta
tứ đế a lam ma nang vi thâu đà nễ - ninh na ra xá nẵng - a tam mộ ha nễ – nễ sắc tra bát ra bán giả ninh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là những câu chú
hàng phục ma Ba Tuần. Do những câu chú nầy,
Thiên ma và
ma quân không được dịp đễ.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Gì là những câu có thể nhiếp
Đại Phạm Thiên ? Ông lắng nghe và nghĩ kỹ ».
Đức Phật liền nói
thần chú rằng :
A địa bát để -
ma ha tất thá nẵng phiệt để - ta phược viêm ngật rị đa - tất tha nẵng danh để - nẵng nẵng ma hộ vi vĩ đà - bát ra để dữ bá tát tha nẵng
già la nẵng - a địa già tát tha nẵng bát để - thứ đà tát tha nẵng tiết đỗ - ta hàm bát để - a địa yết lãng đa - vi thứ đà nẵng - thứ bà bát rị - bát ra thứ bá địa
mục đa - bát ra bột đa thất rị đa - nễphược ta nang - bát ra
bộ đa - bát ra bá - nể tiết ra khê đa giá ma - ta phược tất để
già ma - bát ra để dữ bá tát tha nẵng.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là những câu có thể nhiếp
Đại Phạm Thiên. Do
thần chú nầy,
Đại Phạm Thiên có thể truyền thọ cho những người
thuyết pháp cả
văn cú phạm hạnh thanh tịnh viên mãn.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Gì là những câu pháp quan của
Tịnh Cư Thiên ? Ông lắng nghe và nghĩ nhớ kỹ ».
Đức Phật liền nói
thần chú rằng :
« Vi thâu đà nẵng phược để - án để ma già rô nễ -
già ma ma phược - ô ta đả nễ- bát ra niết danh đa nễ - bát rị diễn đa - bát ra để dữ ba tất tha nẵng bát gia - phược ta nẵng -
a lại da vi thâu đà nễ - a nhương bát diễn đa già ra nễ - án để ma nể xá - bát ra để dữ bá tất tha ninh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Do
thần chú nầy,
chư Thiên cõi trời Tịnh Cư có thể truyền thọ những
pháp tạng của
Như Lai cho chư
Bồ Tát.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Với các vị
Thiên Vương, Nhơn Vương,
A Tu La Vương,
Ca Lâu La Vương,
Long Vương, hoặc những hàng
quỷ thần oai đức lớn, hoặc
oai đức nhỏ, không luận tin hay chẳng tin,
Như Lai đều truyền thọ câu
đà la ni, làm cho những người đã tin được thêm lớn
lòng tin đối với pháp nầy, những kẻ không tin thời
mặc nhiên bỏ đó, chẳng cho họ nói năng cãi cọ. Lúc
diễn thuyết pháp nầy, nếu có ai đến làm
chướng nạn, do
thần chú nầy thời đều
hàng phục.
Trong đây gì là những câu
thần chú có thể
nhiếp thủ người có
lòng tin ? ».
Đức Phật liền nói
thần chú rằng :
« Ngu rô nã lê - a giả bát lệ - ta phược tỳ niết ha ra - cú mạt nê - niết nhương nẵng bát ra để vi rô dị ninh -
chỉ đa san giả nẵng nễ -
chỉ đa bát rị yết danh -
chỉ đa tam bát ra ta nã nễ - ma nẵng tứ dã- ha rị sái già ra nễ - vi nhương nẵng tứ dã - a nộ ta phược để – a nộ
đạt ma nộ bế khứ sái ninh - tứ đô san na rị xá nễ-
đa tha a khứ sát ra bát na - niết nê xá - thâu địa đa phược để - dã tha
tiết đa - dã tha nỗ cú lộ
bá ma - ô bá mãng niết nê hiệp - vi thứ địa đa - đát đa ra già lẹâ - nẵng giả yết đáp vi diêm - tam bát ra ta na át tha đổ ta ma - dã tha nộ cú lại giả
mục khê -
ô ba tăng hạ ra dụ nễ xá - a xá da tứ dã - vi thứ địa gia - dã
tha thứ địa để - la khứ sái nẵng la khứ sái nễ - la khứ sái nẵng phược để - la khứ sái nang vi thâu đà nễ - bát ra để
phệ đà át tha - san na rị xá nễ - cú xá ra mạo
tha tác mê ha - bát ra vi giả duệ - ta ma
ta ra nễ - ngật rị đa nộ a ra khứ sử - tát để dã át thế - tát để dã nẳm - tố vi thâu địa đế.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Trên đây là những câu
nhiếp thủ người có
lòng tin thanh tịnh, và cũng có thể truyền trao nghĩa lành cho
pháp sư diễn thuyết pháp nầy.
Như Lai lại nói những câu nhiếp phục người chẳng tin ».
Đức Phật liền nói
thần chú rằng :
« Khứ sái mê - khứ sái
ma phược để - mê đa ra bát rị
yết ma - bát ra để giữ ba ta tha ninh - già lộ nang bát ra để lã ta - tứ đa nỗ
kiếm ba - tán nặc nẵng nễ - tăng yết ra ha phược tát đỗ - tứ đa phược tát đỗ - tán na ra xá nễ - bát rị phược nặc nễ gia - phược nặc nễ - ky ba dương đa ra - tế phược nễ - nẵng đát đa ra nê thế tát tha đáp vi gia - dã đa ra vĩ yết ra ha phược để nộ - tát ma tiết lãng đà - bát ra na lã nễ -
ô ba giá ra san na rị xá nễ - nễ xá ra dạ vi thứ đà nễ - a đa ma nộ già danh - bát ra
ô ba tăng ha la nễ - niết danh đa nễ - a nộ ra khứ sa - bát ra để giữ ba ta tha ninh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là những câu
điều phục người
bất tín, chẳng cho họ tạo những lỗi ác, bằng không họ còn
ganh ghét pháp lành, huống là đối với pháp
vô thượng nầy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai thấy
chúng sanh, những kẻ không có
lòng tin thanh tịnh, hoặc muốn
tranh đấu, hoặc muốn
tổn hại, hoặc muốn
não loạn, mà họ đế gần
Như Lai.
Như Lai liền biết
tâm niệm của họ, theo cơ của mỗi người,
Như Lai dùng các
pháp môn làm cho họ được
giác ngộ, cho họ hết những
ý nghĩ chẳng lành mà pháp khởi các căn lành.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai an trụ trong mười
tám pháp bất cộng, có thể khéo rõ biết tâm hạnh của
chúng sanh, và rõ biết những
phương pháp để nhiếp độ.
Những gì là mười
tám pháp bất cộng của Phật ?
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Từ lúc
thị hiện chứng
vô thượng Bồ đề nhẫn đến nhập
vô dư Niết Bàn, trong
thời gian đó
đức Như Lai trọn không lầm lỗi, không lời sốt bạo, không quên mất, không có chẳng trạch xả, không các thứ tưởng,
không tâm chẳng định,
tinh tấn bất thối, niệm
bất thối,
chí nguyện bất thối,
đẳng trì bất thối, huệ
bất thối,
giải thoát bất thối,
giải thoát tri kiến bất thối, tất cả
thân nghiệp hành động theo
trí huệ, tất cả
ngữ nghiệp nói năng theo
trí huệ, tất cả
ý nghiệp là
trí huệ,
tri kiến về
quá khứ,
hiện tại và
vị lai đều không
trụ trước, không
chướng ngại.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Vì
Như Lai thành tựu mười
tám pháp bất cộng nầy nên
vô lượng tri kiến thảy đều
thành tựu, có thể khai thị
diễn thuyết pháp môn thanh tịnh đà la ni nầy. Làm cho những
hữu tình bất tín sanh
lòng tin thanh tịnh. Làm cho người đã tin được trí
thanh tịnh nơi
pháp môn nầy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay
Như Lai dùng
vô lượng danh ngôn vì các ông mà khai thị
diễn thuyết pháp môn nầy, muốn cho các ông rõ biết khắp
vô lượng pháp môn, được
đà la ni ».
Đức Phật liền nói
thần chú rằng :
«
Đát điệt tha a rị duệ - a rị gia phược để - a rị gia nỗ
yết đế - nễ đà ninh - nễ đà nẵng phược để - phược đỗ bát đa danh - phược ra đỗ ky xiết nã
già la nễ -
a già xá vi thâu đà nễ - a nộ khứ sát ky nễ - a ninh khứ sát ky nễ - a vi
tiết đa bát ra danh - a nộ bá tiết để nễ - niết bạn nẳng bát tha vi thâu đà nễ - vi gia ba nễ khứ sử bát để - a nộ bá na - ninh lộ đà bá ra danh - tát phược nhương niết bạn nẵng - ninh ba ra xá ninh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là ấn
đà la ni, câu có thể
thanh tịnh, câu danh thuyết đặc dị.
Do
thọ trì pháp môn đà la ni nầy, dùng
công dụng ít mà có thể chứng
Bồ Tát vị, được
sai biệt diệu trí và gần
đại bi. Do rõ biết nghĩa nên
chứng ngộ được nhứt thiết
pháp trí.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Câu
đà la ni nầy là đại
lương dược vì có thể phá trừ được các trọng bịnh. Lại có thểù
trừ diệt vô minh vô trí, những chướng rất
tối tăm. Thuận với
minh pháp mà chuyển
viên mãn.
Thuận
minh pháp gì mà chuyển
viên mãn ? Nghĩa là vì thuận với
minh pháp nên
trí viên mãn, mà có
thể hiện tiền chứng được
trí túc mạng minh. Vì thuận với
minh pháp nên trí
thiện xảo, mà được trí
thiên nhãn minh. Vì
tùy thuận minh pháp nên
xa lìa các
phiền não, mà
hiện tiền chứng được trí
lậu tận minh. Do đây lại có thể
thành tựu tất cả môn
ba la mật nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông
xem Như Lai có thể khéo
thuyết pháp rộng lớn như vậy, khéo
viên mãn những
phương tiện thiện xảo như vậy.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm !
Như Lai thành tựu đại trí như vậy có thể khéo trụ nơi nhứt thiết
chủng trí,
thập lực,
tứ vô úy, mười
tám pháp bất cộng. Đây là
bảo tạng vô thượng kết tinh của những căn lành đã tu
từ vô lượng vô số ức kiếp. Do đó nên khéo an trụ được nơi những
pháp môn nầy. Nay
Như Lai vì các ông khai thị
diễn thuyết pháp môn thanh tịnh đà la ni nầy, để được
thành thực Phật Pháp.
Nếu có
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn những người
phát tâm cầu đến
đại Bồ đề, mà muốn
tu học theo Phật, muốn
ủng hộ Phật Pháp, muốn
thọ trì vô lượng pháp tạng của Phật, đối với pháp nầy phải siêng
tu tập chẳng
phóng dật, chẳng
tham trước nơi
ba cõi, phải khéo
gia trì nhứt thiết trí, khéo
tu tập những
phương tiện thanh tịnh nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, với
thật đế, siêng
tu tập thanh tịnh, trong các pháp, phải thích cầu
trí huệ thanh tịnh.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Vì
nội tâm thanh tịnh nên tất cả
pháp thanh tịnh, vì
nội tâm thanh tịnh nên tất cả
pháp tịch tịnh, vì
nội tâm tịch diệt nên tất cả
pháp tịch diệt, vì
nội tâm vô sở thủ nên tất cả pháp
vô sở thủ, vì
nội tâm bất trụ nên các pháp bất trụ, vì
nội tâm diệt nên tất cả
pháp diệt, vì
nội tâm vô sở tác nên tất cả pháp
vô sở tác, vì
nội tâm không đến không đi nên tất cả pháp cũng không đến không đi.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Những
pháp môn nầy làm cho chư
Bồ Tát nội tâm được
thanh tịnh. Vì bổn tánh tất cả pháp là
vô phân biệt nên
nội tâm cũng chẳng khởi
phân biệt. Nhưng có thể
thọ trì môn
thanh tịnh đà la ni, rời bỏ
tham lam,
sân khuể,
cống cao. Được chư Phật khen ngợi. Làm
pháp chủ vô thượng tối thắng của
chúng sanh. Sẽ có thể chứng đặng trí
thanh tịnh vô ngại biện tài, và có thể chứng được
vô sanh pháp nhẫn, có thể
thanh tịnh các
nguyện hạnh, có thể khắp
thọ trì tất cả pháp
bất cộng,
lời nói ra
đại chúng đều
tín thọ, sẽ có thể
chuyển đại pháp luân.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Do được
đà la ni nên chư
Bồ Tát quyết định sẽ chứng
vô sanh pháp nhẫn, được
pháp trí thanh tịnh, nghĩa là tất cả pháp
bất sanh bất diệt. Tất cả pháp đây đều ở trong môn diệt hoại, môn diệt hoại nầy đồng là tướng
vô sanh, đã là
vô sanh thời là vô diệt.
Quán sát như thật vậy rồi,
Bồ Tát đối với tất cả pháp
xa lìa tất cả tướng. Đã
lìa tướng thời chẳng
chấp trước, chẳng
hí luận.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là chư
Bồ Tát dùng trí
vô sanh khéo
quan sát mà có thể
chứng nhập các môn
đà la ni nầy, do đây mau chứng được
vô sanh pháp nhẫn biện tài vô ngại ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng :
« Nếu pháp
hư vọng sanh
Sanh xong tất diệt hoại
Các pháp chẳng phải có
Nắm lấy được cái gì ?
Các pháp chẳng phải có
Không có không thể lấy
Pháp đã
bất khả đắcThời nắm lấy nơi đâu ?
Nếu chẳng rõ các pháp
Tự tánh bất khả đắcNgười nầy duyên theo tướng
Chẳng được
đà la ni.
Các
pháp như hư khôngNên
diễn thuyết khai thị
Hư không và khai thị
Cả hai
vô sở hữu.
Hai thứ nầy là không
Các pháp cũng là không
Hiểu pháp được như vậy
Người nầy được
tổng trì.
Rõ biết không sơ thỉ
Chẳng
phân biệt trung hậu
Các pháp rời
phân biệtTất cả đều là không
Nếu đã không cứng thật
Chẳng thật chẳng phải có
Cứ chơn lý các pháp
Nắm lấy đâu thể được !
Rõ các
pháp như vậy
Tự tánh vô sở hữuNay Phật lược nói họ
Được
tổng trì thanh tịnhCác
pháp như hư khôngCũng rỗng đồng
hư khôngDùng huệ tường
quan sátNgười nầy được
tổng trìCác pháp
vô sở hữuChẳng sanh cũng chẳng khởi
Không có không thể lấy
Thế nào nắm lấy được
Tất cả pháp
vô tướngTự tánh không hí luậnTất cả đều
ly tướngThuyết pháp vô sở hữuNếu hiểu được như vậy
Đúng thật lý các pháp
Người nầy
vô phân biệtMà là nắm lấy được
Tự tánh của các pháp
Vì không nên bất đắc
Rõ nghĩa
vô sở hữuNgười nầy được
tổng trìNếu
quán sát như vậy
Không nhiễm tất cả pháp
Trí
không vô phân biệtNgười nầy nắm được pháp
Nghĩa không, nghĩa
vô thườngNghĩa yểm ly, nghĩa khổ
Nếu dùng huệ
hiểu rõNgười nầy trí thêm lớn
Thị thuyết
vô sở thủ
Nghĩa
Niết Bàn như lý
Gìn tâm
vô phân biệtCũng chẳng
phân biệt pháp
Do đây nhận rõ được
Các pháp chẳng bền chắc
Là
không vô sở thủTịch tịnh, không, khó thấy
Hiểu pháp xong
diễn thuyếtDiễn thuyết vô phân biệtVô trước vô phân biệtTrì được
pháp môn nầy
Nếu hiểu
pháp tướng rồi
Rõ được là
vô tướngNgười nầy nơi các pháp
Chẳng có tưởng xả ly
Người nầy rõ được nghĩa
Pháp của Phật đã nói
Nghĩa lý rất
bí mậtNgười nầy hiểu theo Phật
Nếu
quán sát đúng lý
Tất cả pháp
vô lượngXa lìa các số lượng
Hiểu được
nghĩa lý nầy
Nếu
quán sát các pháp
Không danh và
không tướngRõ thấu được nghĩa nầy
Trí người này thêm lớn
Rõ nghĩa
pháp môn này
Quán sát được đúng lý
Trong
nghĩa lý các pháp
Người nầy không
nghi hoặcNếu dùng
huệ quán sát
Tướng của tất cả pháp
Quyết định hiểu rõ đó
Người nầy chứng
vô tướng.
Đối với
nghĩa lý nầy
Hiểu rõ khéo an trụ
Được
vô úy như vậy
Mau chứng được
Phật PhápChẳng
hí luận nơi pháp
Bình đẳng vô phân biệtTương ưng hiểu pháp rồi
Không lầm nghĩa yểm ly
Tịch diệt vô phân biệtTịch tịnh dứt các uẩn
Bình đẳng với các pháp
Được
biện tài đúng lý
Tu tập được
từ biLợi ích các
chúng sanhKhéo
tương ưng an trụ
Hiểu được đạo
vô thượngNếu rời tướng
chúng sanhHiểu được
pháp vô ngãCùng
nghĩa không hí luậnThật lý chẳng
hí luậnNếu
nghe pháp nầy rồi
Được
lòng tin thanh tịnhNgười nầy sẽ gặp Phật
Di Lặc Lưỡng Túc Tôn.
Họ làm ta
vui mừngỞ trong
chúng hội nầy
Nghe hiểu được pháp đây
Làm được bực hiền thiện
Người kính mến
Như LaiThì tất không
phá hoạiDo
nghe được pháp nầy
Được bực hiền thiện mến.
Nếu ở trong
hiền kiếpMuốn được thấy chư Phật
Tu học pháp môn nầy
Chư Phật đều
hoan hỷMuốn thấy
Vô Lượng ThọCùng
Phật A Súc BệOai quang
đại danh xưng
Phải học
pháp môn nầy.
Nếu muốn thành
Bồ đềPháp tịch tịnh
tối thắngHoặc cầu ngôi
Chuyển LuânPhải học
pháp môn nầy.
Nếu muốn cầu
vô thượngMôn
thiện xảo tổng trìPhải học
pháp môn nầy
Tinh tấn chớ
phóng dật.
Nếu muốn thành nguyện lớn
Rộng
tối thượng thù thắngCầu chứng được
Bồ đềPháp môn nầy phải học.
Pháp môn đà la niPhật nói trong kinh nầy
Là ấn pháp
vô thượngKhai thị được các pháp.
Thật nghĩa trong các pháp
Dùng
tổng trì khai thị
Pháp môn hư không nầy
Giải quyết nghĩa
vô biên.
Pháp nầy khai thị được
Những
thiện pháp đã nói
Nghĩa
tổng trì thiẹân xảo
Do sức
đà la ni.
Tổng trì là
trí huệTrì được tất cả pháp
Nghĩa
tổng trì thiện xảoDùng huệ rõ biết được.
Nơi đây
giải thích nhiều
Đã nói rõ
Phật PhápDùng nghĩa để khai thị
Đạo
Bồ đề Vô thượng.
Trí
sai biệt thiện xảoChánh khai thị pháp nầy
Nếu học
tập pháp nầy
Chứng
Bồ đề Vô thượng.
Khai thị
văn pháp nầy
Pháp môn lành
vô thượngĐược trí
phương tiện rồi
Nên
diễn thuyết pháp nầy.
Chưa từng nói
chủng tánhVô thượng của các pháp
Nơi nghĩa nầy phải học
Khai thị pháp
cam lồ.
Người trí nếu muốn cầu
Trí
vô ngại của Phật
Nếu học tập nghĩa nầy
Sẽ được trí
vô thượng.
Thuở
quá khứ xa xưa
Vô lượng vô số kiếp
Nếu chẳng học pháp nầy
Ta chẳng chứng
tịch diệt.
Do ta từng
cúng dườngVô lượng trăm ngàn Phật
Do đây rõ biết được
Diễn thuyết pháp
vô thượng.
Ta vì các
chúng sanhLàm
vô biên lợi íchCác ông cũng nên làm
Sẽ được
tổng trì nầy.
Nếu có thể rõ biết
Pháp ấn đà la niNgười trí do một câu
Vào được
pháp môn nầy.
Phật trí huệ vô thượngCũng không có số lượng
Do Phật đủ
trí huệKhai thị được pháp nầy.
Người trí cầu nơi đây
Liền rõ nghĩa
Bồ đềNghĩa của
pháp môn nầy
Nên học pháp
vô úy.
Người trí nếu muốn cầu
Tánh
trí huệ rộng lớn
Tôn trọng cung kính Phật
Phải học
pháp môn nầy.
Nếu muốn
chuyển pháp luânVà thổi
pháp loa lớn
Người trí đúng chơn lý
Cần học
pháp môn nầy.
Nếu muốn
phóng quang minh
Soi khắp
vô biên tếLúc mong cầu
Phật PhápPhải học đúng pháp nầy.
Với trời, người,
thế gianNếu muốn làm
thiện thủPhải cần học kinh nầy
Quyết định tất cả pháp.
Muốn cầu trí rộng lớn
Phát khởi các
công đứcThích cầu
trí huệ PhậtPhải học theo pháp nầy
Muốn học theo
pháp mônThích cầu
trí huệ PhậtVô thượng không
hí luậnPhải học
nghĩa lý nầy.
Nếu muốn thích khai thị
Vô ngại trí thuyết phápTu học pháp nầy rồi
Sẽ nói pháp
cam lộ.
Nếu muốn soi muôn ức
Vô lượng vô biên cõi
Người nầy phải khéo tu
Giáo pháp của kinh nầy.
Pháp môn vô thượng đây
Sạch trừ được các pháp
Trong kinh nầy đã nói
Tất cả
pháp thanh tịnh.
Đấng
chủng trí Thế TônDiễn thuyết pháp rộng lớn
Vì
Bồ Tát mà nói
Kinh nầy là
vô thượng.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Do đây nên
Bồ Tát sau khi
ưa thích giáo pháp nầy rồi, vì
nhiếp thọ pháp nầy cho được còn lâu, lại vì
thương xót chúng sanh, thời nên biên chép,
thọ trì,
đọc tụng.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu có người được
nghe pháp nầy,
thường có quan niệm kính mến
Như Lai, những người nầy sẽ đượcvô biên
pháp tạng của
Như Lai, sẽ được các môn
đà la ni và đầy đủ
biện tài, mau được
tự tại đối với tất cả pháp, sẽ
nhiếp thọ đầy đủ
Phật độ trang nghiêm bất tư nghì, chúng
Bồ Tát và chúng
Thanh Văn cũng bất tư nghì.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư
Bồ Tát an trụ nơi tất cả
pháp không hí luận do môn
thanh tịnh đà la ni, nên các
pháp môn thường được
hiện tiền,
nhiếp thọ được
công đức thù thắng bất tư nghì.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là môn
thanh tịnh đà la ni thứ ba.
Thời kỳ sau đây, nếu chư
Bồ Tát muốn theo Phật để học
pháp môn đà la ni nầy, thời phải gần gũi
thiện hữu,
xa lìa ác hữu,
ủng hộ các
pháp môn nầy,
trọn đời thọ trì pháp ấn thanh tịnh đà la ni, dầu phải bỏ
thân mạng.
Ví như trăng tròn đêm rằm tháng tám chiếu sáng
rực rỡ hơn tất cả
tinh tú. Ba
pháp ấn đà la ni nầy,
quang minh rất
sáng suốt trong tất cả
khế kinh cũng như vậy. Chư
Bồ Tát do
tôn trọng pháp môn nầy nên được
vô lượng biện tài.
Vô lượng biện tài đây chính là bực
bất phóng dật. Những gì là bực
bất phóng dật ? Nghĩa là nơi những pháp nầy
tư duy quán sát đúng như lý, chẳng sanh
vọng niệm do đây có thể làm cho chí nhẫn được
thanh tịnh. Chư
Bồ Tát tinh tấn cầu bực
bất phóng dật thời phải khéo
tu tập pháp môn nầy. Vì muốn cho pháp nầy được còn lâu, nên tâm thường khiêm hạ
tôn trọng chánh pháp, biên chép quyển kinh chẳng rời nơi tay. Thấy người có chí mong
cầu pháp nầy,
phát tâm hướng đến
đại Bồ đề, thời phải vì họ khai thị
diễn thuyết bảo họ
đọc tụng biên chép, đúng theo nghĩa mà
giải thích cho họ, chẳng nên ẩn giấu
pháp môn cưa mình đã
thọ trì. Phải nguyện cho
chúng sanh được
Phật Pháp Vô thượng nầy, phải làm cho tất cả
chúng sanh thường chẳng khuyết giảm các
Phật Pháp. Chư
Bồ Tát nầy chẳng lẩn pháp, thường thích đem ban bố cho người, nơi
nghĩa lý chẳng giấu giếm, đều vì người
diễn giải, không có chút pháp gì mà chẳng khai thị.
Nầy
Vô Biên Trang Nghiêm ! Vì
an lạc lợi ích các
chúng sanh, các ông phải
thọ trì pháp môn thanh tịnh đà la ni nầy ».
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn lại bảo
Tôn giả A Nan Đà rằng : « Ông nên
thọ trì pháp môn nầy. Hàng
đệ tử kính thờ ta, cũng phải
thọ trì kinh điển nầy ».
A Nan bạch Phật rằng : “
Thế Tôn ! Do
thần lực của Phật, tôi đã
thọ trì. Do tôi
thành tựu pháp môn nầy nên
vô lượng pháp môn đều được
hiện tiền ».
Phật nói : “Đúng như lời ông. Nầy
A Nan ! Do oai lực của Phật và vì
pháp môn nầy khắp
thanh tịnh, nên những người
thọ trì pháp môn nầy, những người gần gũi ta
thọ trì được pháp nầy, thời
vô lượng pháp môn đều được
hiện tiền.
Do đây ông phải
thọ trì vô lượng pháp tạng của
Như Lai ».
Lúc Phật nói pháp nầy rồi, trong
pháp hội,
vô lượng Bồ Tát chứng được
đại pháp quang minh. Do được pháp quang nên
vô lượng pháp môn của chư Phật nói đều được
hiện tiền, được gần nhứt thiết
chủng trí, được
thành tựu những nguyện cầu
thù thắng trang nghiêm.
Phật bảo A Nan : “ Ông xem bổn tánh của các pháp rất sâu như vậy.
Như Lai có thể ở nơi
pháp không danh tướng mà
diễn thuyết danh tướng, lại có thể khai thị bổn tánh của các pháp, lại cũng trừ sạch làm cho được thấy
thanh tịnh. Dầu rằng nói các pháp nhưng
không pháp gì là có thể nói và cũng không người
hay nói.
Nầy
A Nan !
Nếu có thể quan sát pháp tánh như
vậy thì có thể phát sanh được
vô lượng trí huệ ».
Lúc Phật nói pháp nầy, vô sốâ
Bồ Tát chứng
vô sanh pháp nhẫn.
Vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn gia trì môn
đà la ni nầy, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp
vô lượng vô biên thế giới của chư Phật. Do ánh sáng nầy, chư
Bồ Tát ở các
thế giới kia đều được nghe môn
đà la ni nầy, được
thành thục pháp phần
Bồ đề. Trong những
thế giới đó lại có
vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Lúc đó tất cả
chúng sanh đều được
an lạc.
Chư Thiên rưới hoa trời, ở giữa
đại hội xướng lên rằng : Nguyện tất cả
chúng sanh đồng được
Phật huệ.
Chư
Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn !
Pháp môn nầy tên gọi là gì ?
Chúng tôi phải phụng trì thế nào ? ».
Phật nói : «
Pháp môn nầy hiệu là
Đà La Ni Vương, gọi là
Đà La Ni Aán, cũng gọi là
Tam Phẩm Nhiếp Trì
Thiện Xảo. Các ông phải phụng trì. Đây là
pháp môn thiện xảo vô biên biện tài nhiếp tất cả nghĩa. Do
pháp môn nầy mà chiếu rõ được tất cả pháp, dứt tất cả nghi. Do đây nên chư
Bồ Tát phải phụng
trì pháp môn nầy ».
Lúc bấy giờ vì
cúng dường pháp nên tất cả
đại chúng dùng hoa
ngũ sắc rải lên Phật.
Phật nói kinh nầy rồi,
chư đại Bồ Tát,
toàn thể chúng hội và Trời, Người,
Bát bộ,
nghe lời Phật dạy đều rất
vui mừng tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM -
THỨ HAI
HẾT