Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
29. Kinh Thanh tịnh
(Pàsàdika sutta)
Như vầy tôi nghe.
1. Một thời,
Thế Tôn trú giữa giòng tộc Sakya (Thích-ca) trong vườn xoài của một
gia đình Thích-ca tên là Vedhannà.
Lúc bấy giờ, Nigantha Nàthaputta (Ni-kiền tử) vừa mới
tạ thế ở Pàvà. Sau khi vị này
tạ thế, các vị Nigantha chia ra làm hai phái, chia rẽ nhau,
tranh chấp nhau,
tranh luận nhau và sống tàn hại nhau với binh khí bằng miệng - "Ngươi không biết
pháp luật này, ta biết
pháp luật này. Sao Ngươi có thể biết
pháp luật này? Ngươi theo
tà hạnh, ta theo
chánh hạnh.
Lời nói của ta
tương ưng,
lời nói Ngươi không
tương ưng. Điều đáng
nói trước, Ngươi nói sau; điều đáng nói sau, Ngươi
nói trước. Điều Ngươi
quan niệm trình bày, đã bị
đảo lộn.
Quan điểm của Ngươi đã bị thách đố. Ngươi đã bị đánh bại. Hãy đi giải tỏa
quan điểm của Ngươi! Hãy tự
thoát khỏi bế tắc nếu Ngươi có thể làm được." Hình như các
đệ tử của Nigantha Nàthaputta muốn tàn hại lẫn nhau. Chính các
đệ tử cư sĩ mặc đồ trắng của Nigantha Nàthaputta cũng chán ngấy, cơ hiềm, và
phản đối các vị Nigantha, vì
pháp luật của họ đã được trình bày,
tuyên bố một cách
vụng về, không có
hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến
an tịnh, không do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết,
pháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ
y chỉ.
2. Rồi Sa-di Cunda (Thuần-đà), sau khi
an cư mùa mưa ở Pàvà đến thăm
tôn giả Ananda ở Sàmàgama, sau khi đến,
đảnh lễ tôn giả Ananda (A-nan) và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên. Sa-di Cunda bạch
tôn giả Ananda:
- Bạch
Tôn giả, Nigantha Nàthaputta đã từ trần ở Pàvà sau khi vị này
tạ thế, các Nigantha chia ra làm hai phái...
Pháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ
y chỉ.
Khi nghe nói vậy,
tôn giả Ananda nói với Sa-di Cunda:
- Này
Hiền giả Cunda, đây là
vấn đề đáng đưa ra để
yết kiến Thế Tôn. Này
Hiền giả Cunda,
chúng ta hãy đi
yết kiến Thế Tôn; sau khi đến xong,
chúng ta hãy trình bày
vấn đề này để
Thế Tôn biết.
- Bạch
Tôn giả, vâng!
Sa-di Cunda
vâng lời tôn giả Ananda.
3. Rồi
tôn giả Ananda cùng với Sa-di Cunda, đi đến
yết kiến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên,
tôn giả Ananda bạch
Thế Tôn:
- Bạch
Thế Tôn, Sa-di Cunda có nói: "Nigantha Nàthaputta đã từ trần ờ Pàvà. Sau khi vị này từ trần, các vị Nigantha chia ra làm hai phái...
pháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ
y chỉ."
- Này Cunda, như vậy ở đây
pháp luật đã được trình bày
tuyên bố một cách
vụng về, không có
hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến
an tịnh, không do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết.
4. Này Cunda, ở đây có
vị đạo sư không phải là
Chánh Đẳng Giác, có
pháp luật đã được trình bày
tuyên bố một cách
vụng về, không có
hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến
an tịnh, không do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết. Và người
đệ tử trong pháp này, không
thành tựu và
an trú trong pháp và
tùy pháp, không sống đúng
chánh hạnh, không sống đúng
tùy pháp, sống vượt ra ngoài pháp. Người
đệ tử ấy cần được nói như sau: "Này
Hiền giả, thật là
lợi ích cho Ngươi. Thật khéo
chứng đắc cho Ngươi.
Đạo sư của Ngươi không phải là vị
Chánh Đẳng Giác. Pháp của Ngươi đã được trình bày,
tuyên bố một cách
vụng về, không có
hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến
an tịnh, không do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Và Ngươi trong pháp này, không
thành tựu và
an trú trong pháp và
tùy pháp, không sống đúng
chánh hạnh, không sống đúng
tùy pháp, vượt ra ngoài pháp. Này Cunda, như vậy ở đây,
vị đạo sư đáng
quở trách, ở đây pháp đáng
quở trách, nhưng ở đây
đệ tử đáng
tán thán. Này Cunda, với vị
đệ tử như vậy, nên nói như sau:" Này
Đại đức, dầu
Đại đức thực hành đúng
như pháp vị đạo sư đã dạy và trình bày, ai có suy tầm, ai có bị suy tầm, ai có suy tầm rồi như thực
thi hành, tất cả đều không có
phước báo. Vì sao vậy? Vì
pháp luật đã được trình bày
tuyên bố một cách
vụng về, không có
hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến
an tịnh, không do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết."
5. Này Cunda, ở đây,
vị đạo sư không là vị
Chánh Đẳng Giác, và pháp được trình bày
tuyên bố một cách
vụng về, không có
hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến
an tịnh, không do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết, và vị
đệ tử trong pháp này, sống
thành tựu pháp và
tùy pháp, sống theo
chánh hạnh, sống đúng
tùy pháp, sống
thuận theo pháp. Người này nên được nói như sau: "Này
Hiền giả,
thật không lợi ích cho Ngươi,
thật không khéo
chứng đắc cho Ngươi.
Vị đạo sư của Ngươi không là vị
Chánh Đẳng Giác và pháp được trình bày
tuyên bố một cách
vụng về, không có
hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến
an tịnh, không do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết, những người trong pháp này sống
thành tựu pháp và
tùy pháp, sống theo
chánh hạnh, sống đúng
tùy pháp, sống
thuận theo pháp". Này Cunda, ở đây
vị đạo sư đáng
quở trách, ở đây pháp đáng
quở trách, ở đây vị
đệ tử cũng đáng
quở trách. Này Cunda, với vị
đệ tử như vậy, có ai, nên nói như sau: "Thật vậy,
Đại đức thành tựu theo
chánh hạnh,
tinh tấn trong
chánh hạnh, người khen, người được khen, người được khen như vậy lại càng
tinh tấn hơn nữa, tất cả đều không được
phước đức." Vì sao vậy? Này Cunda, vì pháp được trình bày
tuyên bố một cách
vụng về, không có
hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến
an tịnh, không do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết.
6. Này Cunda, ở đây
vị đạo sư là vị
Chánh Đẳng Giác, pháp được khéo giảng và trình bảy, có
hiệu năng hướng dẫn, hướng đến
an tịnh, do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết. Vị
đệ tử trong pháp này sống không
thành tựu pháp và
tùy pháp, sống không theo
chánh hạnh, sống không đúng
tùy pháp, sống không
thuận theo pháp. Vị
đệ tử ấy
cần phải được nói: "Này
Hiền giả,
thật không lợi ích cho Ngươi,
thật không khéo
chứng đắc cho Ngươi.
Vị đạo sư của Ngươi là vị
Chánh Đẳng Giác, pháp được khéo
tuyên bố trình bày, có
hiệu năng hướng dẫn, hướng đến
an tịnh, do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết. Nhưng Ngươi trong pháp này sống không
thành tựu pháp, sống không theo
chánh hạnh, sống không đúng
tùy pháp, sống không
thuận theo pháp." Này Cunda, ở đây
vị đạo sư đáng được
tán thán, ở đây pháp đáng được
tán thán, ở đây vị đệr tử đáng
quở trách. Nếu có ai, hãy nói với vị
đệ tử ấy như sau: "Đại đức hãy
thực hành đúng
như pháp do
vị đạo sư của
Đại đức trình bày và
tuyên thuyết. Ai có
điều tra, ai có bị
điều tra, ai có bị
điều tra rồi như thực
thi hành, tất cả đều được phước báo". Vì sao vậy? Này Cunda,
pháp luật này khéo thuết khéo trình bày là như vậy, có
hiệu năng hướng dẫn, hướng đến
an tịnh, do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết.
7. Này Cunda ở đây
vị đạo sư là
Chánh Đẳng Giác, và pháp được khéo
tuyên thuyết, khéo trình bày, có hiệu nằn hướng dẫn, hướng đến
an tịnh, do vị Cháng
Đẳng Giác tuyên thuyết, và vị
đệ tử trong pháp này sống
thành tựu pháp và
tùy pháp, sống
thành tựu chánh hạnh, sống đúng
tùy pháp, sống
thuận theo pháp. Nếu có ai, hãy nói vị
đệ tử ấy nói như sau: "Này
Hiền giả, thật là
lợi ích cho Ngươi, thật khéo chứng đắ cho Ngươi.
Vị đạo sư của Ngươi là vị
A la hán Chánh Đẳng Giác, pháp được khéo
tuyên thuyết, được khéo trình bày, có
hiệu năng hướng dẫn, hướng đến
an tịnh, do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết. Và Ngươi trong pháp này sống
thành tựu pháp và
tùy pháp, sống
thành tựu chánh hạnh, sống đúng
tùy pháp, sống
thuận theo pháp". Này Cunda, như vậy ở đây
vị đạo sư đáng được
tán thán, ở đây pháp đáng được
tán thán, ở đây vị
đệ tử cũng đáng được
tán thán. Này Cunda, nếu có ai, hãy nói vị
đệ tử ấy như sau: "Thật vậy,
Đại đức thành tựu như pháp,
tinh tấn như pháp, người khen, người được khen, người được khen như vậy lại càng
tinh tấn thực hành, tất cả đều được nhiều công đức". Vì sao vậy? Này Cunda, vì
pháp luật được khéo
tuyên thuyết, khéo trình bày như vậy, có
hiệu năng hướng dẫn, hướng đến
an tịnh, do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết.
8. Này Cunda, ở đây
vị đạo sư
xuất hiện ở đời, bậc
A la hán,
Chánh Đẳng Giác, và pháp được khéo
tuyên thuyết, được khéo trình bày, có
hiệu năng hướng dẫn, hướng đến
an tịnh, do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết. Và các vị
đệ tử chưa được
tinh thông diệu pháp, và
phạm hạnh hoàn toàn viên mãn chưa được tỏ lộ cho các vị này, chưa được trình bày
rõ ràng, với tất cả thứ bậc
vị trí liên hệ, chưa được
trở thành diệu dụng, chưa được khéo trình bày cho
loài Người, và
vị đạo sư
viên tịch. Này Cunda, đối với
vị đạo sư như vậy, nếu
viên tịch, các
đệ tử sẽ
ưu tư rất nhiều. Vì sao vậy? Vì
đạo sư của
chúng ta xuất hiện ở đời, và pháp được khéo
tuyên thuyết, khéo trình bày, có
hiệu năng hướng dẫn, hướng đến
an tịnh, do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết. Nhưng
chúng ta chưa được
tinh thông diệu pháp, và
phạm hạnh hoàn toàn viên mãn chưa được tỏ lộ cho
chúng ta với tất cả thứ bậc,
vị trí liên hệ, chưa được
trở thành diệu dụng, chưa được khéo trình bày cho
loài Người, và
vị đạo sư của
chúng ta viên tịch. Này Cunda,
vị Đạo sư như vậy có
viên tịch, các
đệ tử có sự
ưu tư.
9. Này Cunda, ở đây
vị đạo sư
xuất hiện ở đời, bậc
A la hán,
Chánh Đẳng Giác, pháp được khéo
tuyên bố và được khéo trình bày, có
hiệu năng hướng dẫn, hướng đến
an tịnh, do vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết. Và các vị
đệ tử được
tinh thông diệu pháp, và
phạm hạnh hoàn toàn viên mãn được tỏ lộ cho các vị ấy với tất cả thứ bậc
vị trí liên hệ, được
trở thành diệu dụng, được khéo trình bày cho
loài Người, và
vị đạo sư của những vị ấy
viên tịch. Này Cunda,
vị đạo sư như vậy có
viên tịch, các
đệ tử không có
ưu tư. Vì cớ sao?
Vị đạo sư của
chúng ta xuất hiện ở đời là bậc
A la hán,
Chánh Đẳng Giác, pháp được khéo
tuyên thuyết, được khéo trình bày, có
hiệu năng hướng dẫn, hướng đến
an tịnh, được vị
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết. Còn
chúng ta được
tinh thông diệu pháp, và
phạm hạnh hoàn toàn viên mãn được tỏ lộ cho
chúng ta biết với tất cả thứ bậc
vị trí liên hệ, được
trở thành diệu dụng, được khéo trình bày cho
loài Người, và
vị Đạo sư của
chúng ta viên tịch. Này Cunda,
vị đạo sư như vậy có
viên tịch, các
đệ tử không có
ưu tư.
10. Này Cunda, nếu
phạm hạnh được đầy đủ những
chi phần như vậy,
nếu không có một
vị đạo sư là một vị
Thượng tọa có nhiều
kinh nghiệm,
xuất gia lâu ngày, đã đến tuổi
trưởng thượng, đã đến tuổi
trưởng thành, một
phạm hạnh như vậy được xem là không
viên mãn, trong
trường hợp như vậy. Này Cunda, nếu
phạm hạnh được đầy đủ những
chi phần như vậy, và nếu có
vị đạo sư là một vị
Thượng tọa có nhiều
kinh nghiệm,
xuất gia lâu ngày, đã đến tuổi
trưởng thượng, đã đến tuổi
trưởng thành, một
phạm hạnh như vậy được xem là
viên mãn, trong
trường hợp như vậy.
11. Này Cunda, nếu
phạm hạnh được đầy đủ những
chi phần như vậy, và có
vị đạo sư là vị
Thượng tọa có nhiều
kinh nghiệm,
xuất gia lâu ngày, đã đến tuổi
trưởng thượng, đã đến tuổi
trưởng thành, nhưng không có các vị
Thượng tọa Tỷ kheo, những vị
đệ tử là những vị
sáng suốt, tự
điều phục,
vô úy,
đa văn, đã
đạt đến sự
an ổn, có thể thuyết
diệu pháp, với
giáo lý ngoại đạo được khởi lên có thể khéo nhiếp phục với
giáo pháp của mình, có thể thuyết
diệu pháp bất tư nghì; như vậy
phạm hạnh này không thể
viên mãn bởi
chi tiết này.
12. Này Cunda, khi nào
phạm hạnh được đầy đủ về những
phương diện này,
vị đạo sư là vị
Thượng tọa, có nhiều
kinh nghiệm,
xuất gia đã lâu ngày, đã đến tuổi
trưởng thượng, đã đến tuổi
trưởng thành, và những vị
Thượng tọa Tỷ kheo, những vị
đệ tử...
nếu không có các vị Trung lạp
Tỷ kheo, những vị
đệ tử... Có các vị Trung lạp
Tỷ kheo, những vị
đệ tử... nhưng
nếu không có các vị
Hạ lạp Tỷ kheo, những vị
đệ tử... có các
Hạ lạp Tỷ kheo, những vị
đệ tử... nhưng
nếu không có các vị
Trưởng lão Tỷ kheo ni, các vị
đệ tử... nhưng
nếu không có các vị Trung lạp
Tỷ kheo ni, các vị
đệ tử... nhưng
nếu không có các vị
Hạ lạp Tỷ kheo ni, các vị
đệ tử... có các vị
Hạ lạp Tỷ kheo ni, các vị
đệ tử... nhưng
nếu không có
Nam cư sĩ đệ tử, những vị
tại gia, mặc áo trắng, sống theo
phạm hạnh... có những
Nam cư sĩ đệ tử, những vị
tại gia, mặc áo trắng, sống theo
phạm hạnh... nhưng
nếu không có những
Nam cư sĩ đệ tử, những vị
tại gia, mặc áo trắng,
chấp nhận dục lạc... có những
Nam cư sĩ đệ tử, những vị
tại gia, mặc áo trắng,
chấp nhận dục lạc... nhưng
nếu không có những
Nữ cư sĩ đệ tử, những vị
tại gia, mặc áo trắng, sống theo
phạm hạnh... có những Nư
cư sĩ đệ tử, những vị tại giam mặc áo trắng, sống theo
phạm hạnh... nhưng
nếu không có những
Nữ cư sĩ đệ tử, những vị
tại gia, mặc áo trắng
chấp nhận dục lạc... có những
Nữ cư sĩ đệ tử, những vị
tại gia, mặc áo trắng
chấp nhận dục lạc ...
phạm hạnh như vậy
nếu không được
thành công, hưng thịnh, phát triển và
phổ thông một cách
rộng rãi, khéo
tuyên bố giữa các người, nhưng không
đạt được danh xưng và
lợi dưỡng một cách
tối thắng,
phạm hạnh như vậy không được
viên mãn về
phương diện này.
13. Này Cunda, khi nào
phạm hạnh được đầy đủ với những
phương diện này,
vị đạo sư là
Thượng tọa có nhiều
kinh nghiệm,
xuất gia đã lâu ngày, đã đến tuổi
trưởng thượng, đã đến tuổi
trưởng thành, và những vị
Thượng tọa là những bậc
Tỷ kheo, những vị
đệ tử sáng suốt, tự
điều phục...
thuyết pháp diệu dụng, có Trung lạp
Tỷ kheo đệ tử, có
Hạ lạp Tỷ kheo đệ tử, có
Trưởng lão Ni đệ tử, có Trung lạp Ni
đệ tử, có
Hạ lạp Ni
đệ tử, có
Nam cư sĩ đệ tử, những vị
tại gia, mặc áo trắng, sống theo
phạm hạnh, có
Nam cư sĩ đệ tử, những vị
tại gia, mặc áo trắng,
chấp nhận dục lạc, có
Nữ cư sĩ đệ tử, những vị
tại gia, mặc áo trắng, sống theo
phạm hạnh, có những vị
Nữ cư sĩ đệ tử, những vị
tại gia, mặc áo trắng,
chấp nhận dục lạc;
phạm hạnh như vậy được
thành công, hưng thịnh, phát triển, và
phổ thông một cách
rộng rãi, khéo
tuyên bố giữa các người,
đạt được danh xưng và
lợi dưỡng một cách
tối thắng,
phạm hạnh như vậy được
viên mãn về
phương diện này.
14. Này Cunda, nay Ta
hiện tại là bậc
Đạo sư xuất hiện ở đời, là bậc
A la hán,
Chánh Đẳng Giác, và pháp được khéo
tuyên bố, khéo trình bày, có
hiệu năng hướng dẫn, hướng đến
an tịnh, được vị
Chánh Đẳng Giác trình bày, và các vị
đệ tử của Ta
tinh thông diệu pháp, và
phạm hạnh hoàn toàn viên mãn được tỏ lộ với tất cả thứ bậc
vị trí liên hệ, được
trở thành diệu dụng, được khéo trình bày cho
loài Người. Này Cunda, nay Ta là
vị Đạo sư Trưởng lão, có nhiều
kinh nghiệm,
xuất gia đã lâu ngay, đã đến tuổi
trưởng thượng, đã đến tuổi
trưởng thành.
15. Này Cunda, nay Ta có những vị
Thượng tọa Tỷ kheo đệ tử sáng suốt, tự
biết điều phục,
vô úy,
đa văn, đã
đạt đến sự
an ổn, có thể thuyết
diệu pháp, đối với
giáo lý ngoại đạo được khởi lên, có thể khéo
thuyết phục với
giáo pháp của mình, có thể thuyết
diệu pháp bất khả tư nghì. Này Cunda, Ta lại có những Trung lạp
Tỷ kheo sáng suốt. Này Cunda, nay Ta có những vị
Hạ lạp Tỷ kheo đệ tử. Này Cunda, nay Ta có những vị
Trưởng lão Tỷ kheo ni đệ tử. Này Cunda, nay Ta có những vị Trung lạp
Tỷ kheo ni đệ tử. Này Cunda, nay Ta có những vị
Hạ lạp Tỷ kheo ni đệ tử. Này Cunda, nay Ta có những vị
Nam cư sĩ, là những vị
tại gia, mặc áo trắng, sống theo
phạm hạnh. Này Cunda, nay Ta có những vị
Nam cư sĩ, là những vị
tại gia mặc áo trắng,
chấp nhận dục lạc. Này Cunda, nay Ta có những vị
Nữ cư sĩ, là những vị
tại gia, mặc áo trắng, sống theo
phạm hạnh. Này Cunda, nay Ta có những vị
Nữ cư sĩ là những vị
tại gia, mặc áo trắng
chấp nhận dục lạc... Này Cunda, nay
Phạm hạnh của Ta được
thành công, hưng thịnh, phát triển, và
phổ thông một cách
rộng rãi, khéo
tuyên bố giữa
mọi người.
16. Này Cunda, đối với tất cả những
vị đạo sĩ nay
xuất hiện ở đời; này Cunda, Ta không thấy một
vị đạo sư nào khác có thể bằng Ta về
phương diện lợi dưỡng và danh xưng
tối thượng. Này Cunda, đối với tất cả các đoàn thể, các
hội chúng nay
xuất hiện ở đời; này Cunda, Ta không thấy một đoàn thể nào khác có thể bằng đoàn thể Tỷ-kheo về
phương diện lợi dưỡng và danh xưng
tối thượng. Nếu có ai, khi tả một
phạm hạnh,
thành tựu hết thảy tướng, không
thiếu sót, không
quá đáng, được khéo
tuyên bố một cách
viên mãn, vị ấy nếu
tuyên bố đúng đắn sẽ
tuyên bố như sau: "Thành tựu hết thảy tướng...
phạm hạnh được khéo tuyên bố". Này Cunda, Uddaka con của Ràma thường nói: "Thấy mà không thấy". Thấy cái gì mà không thấy? Với một con dao sắc bén, chỉ thấy lưỡi dao không thấy khía cạnh sắc bén của dao. Này Cunda, đấy là nghĩa của câu: "Thấy mà không thấy". Này Cunda, ở đây Uddaka con của Ràma đề cập đến một vật đê tiện,
hạ liệt, thuộc về
phàm phu, không xứng bậc Thánh, không có
lợi ích, nói về con dao. Này Cunda, nếu
nói đúng đắn câu "Thấy mà không thấy", thời phải nói như sau: "Thấy mà không thấy". Vị ấy thấy cái gì mà không thấy? Một
phạm hạnh,
thành tựu hết thảy tướng, đầy đủ hết thảy tướng, không
thiếu sót, không
quá đáng, được khéo
tuyên bố một cách
viên mãn, được khéo trình bày.
Chính vị ấy thấy
phạm hạnh này. Nếu vị ấy trừ bớt một
phương diện nào tại một chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được
rõ ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Nếu vị ấy thêm vào một
phương diện nào tại chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được
rõ ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Nếu vị ấy thêm vào một
phương diện nào tại chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy được
viên mãn hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Như vậy gọi là "Thấy mà không thấy". Này Cunda, nếu có ai khi tả một
phạm hạnh thành tựu hết thảy tướng...
phạm hạnh được khéo
tuyên bố, vị ấy sẽ
tuyên bố đúng đắn như sau: "Phạm hạnh này
thành tựu hết thảy tướng,
cụ túc hết thảy tướng, không
thiếu thốn, không
quá đáng, được khéo
tuyên bố một cách
viên mãn, được khéo trình bày".
17. Do vậy, này Cunda, những pháp do Ta
tự chứng tri và
tuyên bố cho các Ngươi, tất cả các Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có
cãi lộn nhau, nhưng hãy
so sánh các nghĩa
với nhau, các câu
với nhau để cho
phạm hạnh này được
tồn tại lâu dài, được
an trú lâu dài, vì
hạnh phúc cho muôn loài, vì
an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì
an lạc cho
chư Thiên và cho
loài Người. Này Cunda, thế nào là những pháp do Ta
tự chứng tri và
tuyên bố cho các Ngươi, tất cả các Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có
cãi lộn nhau, nhưng hãy
so sánh các nghĩa
với nhau, các câu
với nhau, để cho
phạm hạnh này được
tồn tại lâu dài, được
an trú lâu dài, vì
hạnh phúc cho muôn loài, vì
an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì
an lạc cho
chư Thiên và cho loài Người? Những pháp ấy là
Bốn Niệm xứ,
Bốn Chánh cần,
Bốn Như ý túc, Năm Căn,
Năm Lực,
Bảy Giác chi,
Tám Thánh đạo. Này Cunda, những pháp ấy do Ta
tự chứng tri và
tuyên bố cho các Ngươi, tất cả Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có
cãi lộn nhau, nhưng hãy
so sánh các nghĩa
với nhau, các câu
với nhau, để cho
phạm hạnh này được
tồn tại lâu dài, được
an trú lâu dài, vì
hạnh phúc của muôn loài, vì
an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì
an lạc cho
chư Thiên và cho
loài Người.
18. Này Cunda, các Ngươi hãy hội họp
với nhau trong
tinh thần hòa đồng và tương kính, không có
tranh luận nhau. Có vị đồng
phạm hạnh nói pháp giữa
Tăng chúng. Nếu các Ngươi nghĩ rằng "Vị
Đại đức này nắm nghĩa
sai lạc hay hành văn sai lạc", các Ngươi không nên
tán thán, không nên
bác bỏ. Không
tán thán không
bác bỏ, các Ngươi nên nói với vị ấy:
"Này
Hiền giả, với nghĩa này, cách hành văn này hay cách hành văn kia, cách nào
thích hợp hơn? Giữa những cách hành văn này, nghĩa này hay nghĩa kia, nghĩa nào
thích hợp hơn?" Nếu vị ấy
trả lời: "Này
Hiền giả, với nghĩa này, cách hành văn này
thích hợp hơn cách hành văn kia. Giữa những cách hành văn này, nghĩa này
thích hợp hơn nghĩa kia", các Ngươi không nên
bác bỏ vị ấy, không nên
phỉ báng vị ấy. Không
bác bỏ, không
phỉ báng, các Ngươi phải
giải thích cho vị ấy một cách
cẩn thận cả nghĩa lẫn hành văn.
19. Lại nữa này Cunda, có vị đồng
phạm hạnh khác nói pháp giữa
Tăng chúng. Nếu các Ngươi nghĩ rằng: "Vị
Đại đức ấy nắm nghĩa
sai lạc nhưng hành văn đúng đắn", các Ngươi không nên
tán thán, không nên
bác bỏ. Không thán thán, không
bác bỏ, các ngươi nên nói với vị ấy: "Này
Hiền giả, giữa những cách hành văn này, nghĩa này hay nghĩa kia, nghĩa nào
thích hợp hơn?" Nếu vị ấy
trả lời: "Này
Hiền giả, giữa những cách hành văn này, nghĩa này
thích hợp hơn nghĩa kia", các Ngươi không nên
bác bỏ, không
phỉ báng, các Ngươi phải
giải thích một cách
cẩn thận ý nghĩa đúng đắn cho vị ấy.
20. Này Cunda, có vị đồng
phạm hạnh khác nói pháp giữa
Tăng chúng. Nếu các Ngươi nghĩ rằng: "Vị
Đại đức này nắm nghĩa
đúng đắn, nhưng hành văn sai lạc", các Ngươi không nên
tán thán, không nên
bác bỏ. Không
tán thán không
bác bỏ, các Ngươi nên nói với vị ấy: "Này
Hiền giả, giữa những cách hành văn này, nghĩa này hay nghĩa kia, nghĩa nào
thích hợp hơn?" Nếu vị ấy
trả lời: "Giữa những cách hành văn này, nghĩa này
thích hợp hơn nghĩa kia", các Ngươi không nên
bác bỏ vị ấy, không nên
phỉ báng vị ấy. Không
bác bỏ, không
phỉ báng, các ngươi phải
giải thích một cách
cẩn thận cách hành văn cho vị ấy.
21. Này Cunda, có vị đồng
phạm hạnh khác nói pháp giữa
Tăng chúng, nếu các Ngươi nghĩ rằng: "Vị
Đại đức này nắm nghĩa
đúng đắn và hành văn đúng đắn", các Ngươi nên tán đồng và
tán thán vị ấy với câu: "Thật là tốt đẹp", các Ngươi phải nói với vị ấy" "Thật là tốt đẹp", các Ngươi phải nói với vị ấy: "Này
Hiền giả thật là
lợi ích cho
chúng tôi, này
Hiền giả thật là
lợi ích cho
chúng tôi; này
Hiền giả, thật là
may mắn cho
chúng tôi; này
Hiền giả, thật là
may mắn cho
chúng tôi, khi
chúng tôi thấy một vị đồng
phạm hạnh như
Hiền giả,
tinh thông nghĩ lý như vậy,
tinh thông hành văn như vậy".
22. Này Cunda Ta không
thuyết giảng chỉ để ngăn chận các
lậu hoặc ngay trong
hiện tại. Này Cunda, Ta không
thuyết pháp, chỉ để
diệt trừ các
lậu hoặc trong tương lai mà thôi. Này Cunda, Ta
thuyết pháp vừa để ngăn chận các
lậu hoặc ngay trong
hiện tại mà cũng để
diệt trừ các
lậu hoặc trong tương lai nữa. Do vậy, này Cunda, tấm y mà Ta
cho phép các Ngươi mặc, như vậy
vừa đủ cho các Ngươi ngăn chận lạnh, ngăn chận nóng, ngăn chận sự xúc chạm của các loài ruồi muỗi, của gió,
mặt trời và các loài rắn, và các
che dấu sự
hổ thẹn. Các món ăn
khất thực mà Ta
cho phép các Ngươi dùng, như vậy
vừa đủ để
nuôi dưỡng thân thể, giúp
thân thể sống còn,
tránh khỏi nguy hại và giúp
đời sống phạm hạnh với
hy vọng: "Như vậy ta
diệt trừ các
cảm thọ cũ và không cho khởi lên các
cảm thọ mới. Nhờ vậy
đời sống của ta mới khỏi bị lầm lỗi và ta sống
an lạc." Nhà cửa nào mà Ta
cho phép các ngươi
an trú, như vậy
vừa đủ cho các Ngươi ngăn chận lạnh, ngăn chận nóng, ngăn chận sự xúc chạm của ruồi muỗi, gió,
mặt trời và các loài rắn, chỉ với
mục đích tránh thoát sự nguy hiểm của
thời tiết, và
an hưởng đời sống tịnh cư. Các dược phẩm và thuốc trị bịnh mà Ta
cho phép các Ngươi dùng, như vậy
vừa đủ để ngăn chận các
cảm thọ đau ốm khởi lên và để
gìn giữ sức khỏe.
23. Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra, các du sĩ
ngoại đạo có thể nói: "Các Sa-môn
Thích tử sống
đam mê hỷ lạc". Này Cunda, nếu được nói như vậy, các du sĩ
ngoại đạo phải được
trả lời như vậy: "Này
Hiền giả, thế nào là
đam mê hỷ lạc?
Đam mê hỷ lạc có nhiều loại, có nhiều cách". Này Cunda, bốn loại
đam mê hỷ lạc này là
thấp kém,
hạ liệt, thuộc
phàm phu, không xứng
Thánh hạnh, không có
lợi ích, không hướng đến yểm ly,
vô tham, tich diệt,
an tịnh, thắng trí,
giác ngộ và Niết-bàn.
Thế nào là bốn? Này Cunda, ở đây có người
ngu si, sau khi
sát sanh, tự mình
sung sướng hoan hỷ, đó là
hỷ lạc thứ nhất. Lại nữa, này Cunda, ở đây có người sau khi lấy của không cho, tự mình
sung sướng,
hoan hỷ, đó là
hỷ lạc thứ hai. Lại nữa, này Cunda, ở đây có người sau khi nói láo, tự mình
sung sướng,
hoan hỷ, đó là
hỷ lạc thứ ba. Lại nữa này Cunda, ở đây có người
say đắm,
đam mê sống vây quanh với năm món
dục lạc, đó là
hỷ lạc thứ tư. Này Cunda, bốn loại
hỷ lạc này là
thấp kém,
hạ liệt, thuộc
phàm phu, không xứng
Thánh hạnh, không có
lợi ích, không hướng đến yểm ly,
vô tham,
tịch diệt,
an tịnh, thắng trí,
giác ngộ và Niết-bàn.
24. Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra, các
ngoại đạo có thể hỏi: "Các Sa-môn
Thích tử có phải sống
đam mê bốn loại
hỷ lạc này không?" Họ
cần phải được
trả lời: "Chớ có nói như vậy. Các ông nói như vậy là nói không
đúng đắn. Nói như vậy là các ông
xuyên tạc, không đúng
sự thật, không thực có". Này Cunda, có bốn loại
hỷ lạc nhất định đưa đến yểm ly,
vô tham,
tịch diệt,
an tịnh, thắng trí,
giác ngộ, Niết-bàn.
Thế nào là bốn? Này Cunda, ở đây vị Tỷ-kheo,
ly dục, ly
ác pháp, chứng và
an trú Sơ thiền, một
trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, với tầm, với tứ. Đó là
hỷ lạc thứ nhất. Lại nữa này Cunda, vị Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh
nhất tâm. Đó là
hỷ lạc thứ hai. Lại nữa này Cunda, vị Tỷ-kheo ly hỷ trú xả ... chứng và trú Thiền thứ ba... Đó là
hỷ lạc thứ ba. Lại nữa này Cunda, vị Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ ... chứng và trú Thiền thứ tư ... Đó là
hỷ lạc thứ tư. Này Cunda, bốn loại
hỷ lạc nhất định đưa đến yểm ly,
vô tham,
tịch diệt,
an tịnh, thắng trí,
giác ngộ, Niết-bàn. Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ
ngoại đạo có thể nói: "Các vị Sa-môn
Thích tử đang sống
đam mê bốn loại
hỷ lạc này". Họ
cần phải được
trả lời: "Nói như vậy là phải; các ông nói như vậy là
nói đúng đắn. Nói như vậy là các ông không
xuyên tạc, đúng
sự thật, và thực có".
25. Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đọa có thể nói: "Này
Hiền giả, những ai sống
đam mê theo bốn loại
hỷ lạc ấy có thể
mong đợi kết quả gì,
lợi ích gì?" Được nói vậy, phải
trả lời cho các du sĩ
ngoại đạo như sau: "Này
Hiền giả, những ai sống
đam mê bốn loại
hỷ lạc ấy, có thể
mong đợi bốn kết quả, bốn sự
lợi ích.
Thế nào là bốn? Này
Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo
diệt trừ ba
kiết sử, được nhập vào dòng Thánh, không còn bị
đọa lạc,
nhất định sẽ được
giác ngộ. Đó là kết quả thứ nhất. Lại nữa này
Hiền giả, vị Tỷ-kheo
diệt trừ ba
kiết sử, làm muội lược tham, sân, si, chứng bậc Nhật lai, chỉ còn
trở lại đời này
một lần nữa trước khi diệt
tận khổ đau. Đó là kết quả thứ hai,
lợi ích thứ hai. Lại nữa, này
Hiền giả, vị Tỷ-kheo
diệt trừ năm hạ phần
kiết sử, được
hóa sanh ở tại chỗ ấy mà nhập Niết-bàn, không còn phải
trở lại đời này nữa. Như vậy là kết quả thứ ba,
lợi ích thứ ba. Lại nữa, này
Hiền giả, vị Tỷ-kheo
diệt trừ các
lậu hoặc, tự mình
chứng tri,
chứng ngộ và
an trú ngay trong
hiện tại vô lậu Tâm giải thoát,
Tuệ giải thoát. Như vậy là kết quả thứ tư. Này
Hiền giả, vị nào sống
đam mê bốn loại
hỷ lạc này, có thể
mong đợi bốn kết quả, bốn
lợi ích như vậy".
26. Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ
ngoại đạo có thể nói: "Các Sa-môn
Thích tử sống không giữ vững lập trường". Này Cunda, các vị du sĩ
ngoại đạo nói vậy
cần phải được
trả lời như sau: "Này
Hiền giả,
Thế Tôn, vị đã biết, đã thấy, là bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác đã thuyết, đã trình bày những pháp cho các
đệ tử cho đến trọn đời. Này
Hiền giả, giống như cột trụ bằng đá hay bằng sắt, chân cột được khéo chôn sâu vào đất, không lắc qua lại, không có
rung động. Cũng vậy này
Hiền giả,
Thế Tôn, vị đã biết, đã thấy là bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác đã thuyết, đã trình bày những pháp cho các
đệ tử cho đến trọn đời. Này
Hiền giả, giống như cột trụ bằng đá hay bằng sắt, chân cột được khéo chôn sâu vào đất, không lắc qua lại, không có
rung động. Cũng vậy này
Hiền giả,
Thế Tôn, vị đã biết, đã thấy là bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác đã thuyết, đã trình bày những pháp cho các
đệ tử cho đến trọn đời.
Này
Hiền giả, vị Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, đã
diệt trừ các
lậu hoặc,
phạm hạnh đã thành, các
việc phải làm đã làm, đã đặt
gánh nặng xuống,
mục tiêu đã đạt, hữu
kiết sử đã
diệt trừ,
chánh trí giải thoát, không thể làm chín việc sau đây: Này
Hiền giả, vị Tỷ-kheo đã
diệt trừ các
lậu hoặc, không thể
cố ý tước đoạt sanh mạng của loài
hữu tình; vị Tỷ-kheo đã
diệt trừ các
lậu hoặc không thể lấy của không cho, tức là
ăn trộm; vị
Tỷ kheo đã
diệt trừ các
lậu hoặc không thể hành dâm; vị Tỷ-kheo đã
diệt trừ các
lậu hoặc, không thể biết mà nói láo; vị Tỷ-kheo đã
diệt trừ các
lậu hoặc không thể cất chứa
tiền của để hưởng thọ
dục lạc, như khi còn
tại gia; vị Tỷ-kheo đã diệt tận các
lậu hoặc không thể đi
con đường hành tham; vị Tỷ-kheo đã diệt tận các
lậu hoặc không thể đi
con đường hành sân; vị Tỷ-kheo đã diệt tận các
lậu hoặc, không thể đi
con đường hành si; vị Tỷ-kheo đã diệt tận các
lậu hoặc, không thể đi
con đường hành theo
sợ hãi. Này
Hiền giả, một vị Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác, đã diệt tận các
lậu hoặc,
phạm hạnh đã thành, các
việc phải làm đã làm, đã đặt
gánh nặng xuống,
mục tiêu đã đạt, hữu
kiết sử đã
diệt trừ,
chánh trí giải thoát, không thể làm chín việc như vậy".
27. Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ
ngoại đạo có thể nói như sau: "Đối với
quá khứ, Sa-môn Gotama có
tri kiến siêu việt. Nhưng đối với tương lai, Sa-môn Gotama không có
tri kiến siêu việt; như sự việc xảy ra như thế nào và vì sao lại xảy ra như vậy?" Như vậy, các vị du sĩ
ngoại đạo này chủ trương rằng
tri kiến về
vấn đề này có thể được trình bày nêu rõ bởi
tri kiến một
vấn đề khác, như những kẻ
ngu si, không
thông minh khác. Này Cunda, về
vấn đề quá khứ,
Như Lai có thức nhớ đến
đời sống quá khứ. Ngài muốn như thế nào, Ngài có thể nhớ xa được như vậy. Về
vấn đề vị lai,
Như Lai có trí do tuệ sanh: "Đây là
đời sống cuối cùng, nay không còn
đời sống nào khác nữa".
28. Này Cunda, nếu những gì thuộc
quá khứ là
hư vọng,
không thật, không
lợi ích,
Như Lai không
trả lời. Này Cunda, nếu những gì thuộc
quá khứ là chơn chánh,
như thật, nhưng không
lợi ích,
Như Lai cũng không
trả lời. Này Cunda, nếu những gì thuộc
quá khứ là chơn chánh,
như thật, có
lợi ích,
Như Lai biết thời
trả lời câu hỏi ấy.
Này Cunda, nếu những gì thuộc
vị lai là
hy vọng,
không thật, không
lợi ích,
Như Lai không
trả lời. Này Cunda, nếu những gì thuộc
vị lai là chơn chánh,
như thật, nhưng không
lợi ích,
Như Lai cũng không
trả lời. Này Cunda, nếu những gì thuộc
vị lai là chơn chánh,
như thật, có
lợi ích,
Như Lai biết thời
trả lời câu hỏi ấy một cách
vắn tắt.
Này Cunda, nếu những gì thuộc
hiện tại là
hư vọng,
không thật, không
lợi ích,
Như Lai không
trả lời. Này Cunda, nếu những gì thuộc
hiện tại và chơn chánh,
như thật, nhưng không
lợi ích,
Như Lai cũng không
trả lời. Này Cunda, nếu những gì thuộc
hiện tại là chơn chánh,
như thật, có
lợi ích,
Như Lai biết thời
trả lời câu hỏi ấy. Như vậy, này Cunda, đối với các pháp
quá khứ,
vị lai,
hiện tại,
Như Lai là vị nói phải thời nói chơn chánh, nói
như thật, nói có
lợi ích,
nói đúng Pháp,
nói đúng Luật. Do vậy mới gọi là
Như Lai.
29. Này Cunda, trong
thế giới này với
chư Thiên,
Ma vương,
Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với
chư Thiên và
loài Người, những gì được thấy, được nghe, được
cảm giác, được
phân biệt, được
đạt đến, được tìm cầu, được suy đạt với ý, tất cả đều được
Như Lai biết rõ. Do vậy mới gọi là
Như Lai. Này Cunda, trong
thời gian giữa đêm
Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh Đẳng Giác và đêm
Như Lai nhập
Vô dư y Niết-bàn giới,
trong thời gian ấy, những gì
Như Lai nói trong khi
thuyết giảng, nói chuyện hay trình bày, tất cả là như vậy, chớ không gì khác. Do vậy mới gọi là
Như Lai. Này Cunda,
Như Lai nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy. Nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy nên được gọi là
Như Lai. Đối với
thế giới với
chư Thiên,
Ma vương,
Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với
chư Thiên và
loài Người,
Như Lai là bậc
Toàn Thắng, không ai có thể thắng nổi, bậc Toàn kiến, bậc
Tự Tại.
30. Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ
ngoại đạo có thể nói: "Thế nào
Hiền giả,
Như Lai có
tồn tại sau khi chết không. Như vậy là đúng sự thực,
ngoài ra là sai lầm?" Này Cunda, được nói vậy, Ngươi phải
trả lời các du sĩ
ngoại đạo như sau: "Như Lai không có nói: "Như Lai có
tồn tại sau khi chết. Như vậy là đúng
sự thật,
ngoài ra là sai lầm!" Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ
ngoại đạo có thể nói: "Thế nào
Hiền giả,
Như Lai không có
tồn tại sau khi chết, có phải không? Như vậy là đúng
sự thật,
ngoài ra là sai lầm?" Này Cunda, được nói vậy, Ngươi phải
trả lời các du sĩ ngoại đọa như sau: "Như Lai không có nói: "Như Lai không có
tồn tại sau khi chết. Như vậy là đúng sự thực,
ngoài ra là sai lầm!" Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ
ngoại đạo có thể nói: "Thế nào
Hiền giả,
Như Lai có
tồn tại và
không tồn tại sau khi chết...
Như lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết? Như vậy là đúng sự thực,
ngoài ra là sai lầm?" Này Cunda được nói vậy, Ngươi phải
trả lời các du sĩ
ngoại đạo như sau: "Như Lai không có nói: "Như Lai không có
tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết. Như vậy là đúng sự thực,
ngoài ra là sai lầm!".
31. Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ
ngoại đạo có thể nói: "Này
Hiền giả, vì sao
Sa môn Gotama lại không nói?" Này Cunda, được nói vậy, Ngươi phải
trả lời các du sĩ
ngoại đạo như sau: "Này
Hiền giả, vì không
liên hệ đến
lợi ích, không
liên hệ đến Pháp, không
liên hệ đến
căn bản phạm hạnh, không hướng đến yểm ly,
vô tham,
đoạn diệt,
an tịnh, thắng trí,
giác ngộ và
Niết bàn. Do vậy
Thế Tôn không
trả lời."
32. Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ
ngoại đạo có thể nói: "Này
Hiền giả,
Sa môn Gotama nói điều gì?" Này Cunda, được nói vậy, Ngươi phải
trả lời các du sĩ
ngoại đạo như sau: "Đây là Khổ, này
Hiền giả, đó là điều
Thế Tôn nói. Đây là
Khổ tập, này
Hiền giả, đó là điều
Thế Tôn nói. Đây là
Khổ diệt, này
Hiền giả, đó là điều
Thế Tôn nói. Đây là
con đường đưa đến
Khổ diệt, này
Hiền giả, đó là điều
Thế Tôn nói."
33. Này Cunda,
sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ
ngoại đạo có thể nói: "Này
Hiền giả, vì sao
Thế Tôn lại nói vậy?" Này Cunda, được nói như vậy, Ngươi phải
trả lời cho các du sĩ
ngoại đạo như sau: "Này
Hiền giả, vì
liên hệ đến
lợi ích,
liên hệ đến Pháp,
liên hệ đến
căn bản phạm hạnh, vì
nhất định hướng đến yểm ly,
vô tham,
đoạn diệt,
an tịnh, thắng trí,
giác ngộ và
Niết bàn. Do vậy,
Thế Tôn mới nói."
34. Này Cunda, mọi
biện luận về các
tà kiến liên hệ đến
quá khứ tối sơ, những
biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi. Còn những
biện luận nào không đáng nói cho các Ngươi, sao Ta lại sẽ nói cho các Ngươi? Này Cunda, mọi
biện luận về các
tà kiến liên hệ đến tương lai, những
biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi. Còn những biện nào không đáng nói cho các Ngươi, sao Ta lại sẽ nói cho các Ngươi?
Này Cunda, thế nào là những
biện luận về
tà kiến liên hệ đến
quá khứ tối sơ, những
biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi, và những
biện luận không đáng nói cho các Ngươi? Này Cunda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
quan điểm như sau, có những
tri kiến như sau: "Bản ngã và
thế giới là thường còn, như vậy là đúng sự thực,
ngoài ra là sai lầm". Có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
quan điểm như sau, có những
tri kiến như sau:
"Bản ngã và
thế giới là không thường còn...
"Bản ngã và
thế giới là thường còn và không thường còn...
"Bản ngã và
thế giới là không thường còn và
không không thường còn...
"Bản ngã và
thế giới là do mình tự tạo ra...
"Bản ngã và
thế giới là do người khác tạo ra...
"Bản ngã và
thế giới là do mình tạo ra và do người khác tạo ra...
"Bản ngã và
thế giới là không do mình tự tạo ra và cũng không phải không do mình tự tạo ra...
"Bản ngã và
thế giới là
tự nhiên sanh, không do mình tư tạo ra, không do người khác tạo ra. Như vậy là đúng sự thực,
ngoài ra sai lầm.
"Lạc, khổ là thường còn...
"Lạc, khổ là
vô thường...
"Lạc, khổ là thường còn và
vô thường...
Lạc, khổ là không thường còn và
không vô thường
"Lạc, khổ là do tự mình tạo ra...
"Lạc, khổ là do người khác tạo ra...
"Lạc, khổ là do tự mình tạo ra và do người khác tạo ra...
"Lạc, khổ là do
tự nhiên sanh, không do mình tự tạo ra, không do người khác tạo ra. Như vậy là đúng sự thực,
ngoài ra đều là sai lầm".
35. Này Cunda, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có
quan điểm như sau, có
tri kiến như sau: "Bản ngả và
thế giới là thường còn, như vậy là đúng
sự thật,
ngoài ra đều là sai lầm". Ta đến những vị ấy và nói: "Này
Hiền giả có phải
Hiền giả nói rằng: "Bản ngã và
thế giới là thường còn" không?" Nếu các vị ấy
trả lời: "Như vậy là đúng
sự thật,
ngoài ra đều là sai lầm", thì Ta
không chấp nhận như vậy. Tại sao vậy? Có một số
hữu tình có những
tư tưởng sai khác. Ta cũng không xem
quan điểm ấy ngang bằng
quan điểm của Ta, chớ đừng nói cao hơn. Như vậy ở đây Ta cao hơn về thượng trí.
36. Này Cunda, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có
quan điểm như sau, có
tri kiến như sau:
"Bản ngã và
thế giới là thường còn...
"Bản ngã và
thế giới là không thường còn...
"Bản ngã và
thế giới là thường còn và không thường còn...
"Bản ngã và
thế giới là không thường còn và
không không thường còn...
"Bản ngã và
thế giới là do mình tự tạo ra...
"Bản ngã và
thế giới là do người khác tạo ra...
"Bản ngã và
thế giới là do tự mình tạo ra và do người khác tạo ra..."
"Bản ngã và
thế giới là do tự mình tạo ra và không do người khác tạo ra.
"Bản ngã và
thế giới do
tự nhiên sanh, không do mình tự tạo, không do người khác tạo ra...
"Lạc, khổ là thường còn...
"Lạc, khổ là
vô thường...
"Lạc, khổ là thường còn và
vô thường...
"Lạc,
khổ không thường còn và
không vô thường...
"Lạc, khổ là tự mình tạo ra...
"Lạc, khổ là tự người khác tạo ra...
"Lạc, khổ là tự mình tạo ra và tự người khác tạo ra...
"Lạc, khổ là
tự nhiên sanh, không tự mình tạo ra và không do người khác tạo ra. Như vậy là đúng sự thực,
ngoài ra đều là sai lầm".
Ta đến những vị ấy và nói: Này
Hiền giả, có phải
Hiền giả nói rằng: "Lạc, khổ là
tự nhiên sanh, không tự mình tạo ra và không do người khác tạo ra?" Nếu các vị ấy
trả lời: "Như vậy là đúng sự thực,
ngoài ra đều là sai lầm", thì Ta
không chấp nhận như vậy. Tại sao vậy? Có một số
hữu tình có những
ý tưởng sai khác. Này Cunda Ta cũng không xem
quan điểm ấy ngang bằng
quan điểm của Ta, chớ đừng nói cao hơn. Như vậy ở đây Ta cao hơn về thượng trí. Này Cunda, những
biện luận về các
tà kiến liên hệ đến
quá khứ tối sơ này,
biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi. Còn những
biện luận nào không đáng nói cho các Ngươi, sao Ta lại sẽ nói cho các Ngươi?
37. Này Cunda, thế nào là những
biện luận về
tà kiến liên hệ đến tương lai, những
biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi; và những
biện luận không đáng nói cho các Ngươi?
Này Cunda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
quan điểm như sau, có những
tri kiến như sau: "Bản ngã là có sắc, không bệnh,
sau khi chết. Như vậy là đúng
sự thật,
ngoài ra là sai lầm".
Lại nữa này Cunda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
quan điểm như sau, có những
tri kiến như sau:
"Bản ngã là
vô sắc...
"Bản ngã là có sắc và
vô sắc...
"Bản ngã là không có sắc và
không vô sắc...
"Bản ngã là có tưởng...
"Bản ngã là
vô tưởng...
"Bản ngã là có tưởng và
vô tưởng...
"Bản ngã là không có tưởng và
không vô tưởng...
"Bản ngã là
đoạn diệt,
biến hoại,
sau khi chết không có
tồn tại. Như vậy là đúng
sự thật ngoài ra là sai lầm".
38. Này Cunda, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có
quan điểm như sau, có
tri kiến như sau: "Bản ngã là có sắc, không bệnh
sau khi chết. Như vậy là đúng
sự thật,
ngoài ra là sai lầm", Ta đến những vị ấy và nói: "Này
Hiền giả có phải
Hiền giả có nói: "Bản ngã là có sắc, không có bệnh sau khi chết?" Nếu các vị ấy
trả lời: "Như vậy là đúng
sự thật,
ngoài ra là sai lầm", thì Ta
không chấp nhận như vậy. Tại sao vậy? Này Cunda, vì có mọt số
hữu tình có những
tư tưởng sai khác. Này Cunda, Ta cũng không xem
quan điểm ấy ngang bằng
quan điểm của Ta, chớ đừng nói cao hơn. Như vậy ở đây, Ta cao hơn về thượng trí.
39. Này Cunda, có những Sa-môn, Bà-la-môn có những
quan điểm như sau, có những
tri kiến như sau:
"Bản ngã là có sắc...
"Bản ngã là
vô sắc...
"Bản ngã là có sắc và
vô sắc...
"Bản ngã là không có sắc và
không vô sắc...
"Bản ngã là có tưởng...
"Bản ngã là
vô tưởng...
"Bản ngã là có tưởng và
vô tưởng...
"Bản ngã là không có tưởng và
không vô tưởng...
"Bản ngã là
đoạn diệt,
biến hoại,
sau khi chết không có
tồn tại. Như vậy là đúng
sự thật,
ngoài ra là sai lầm".
Ta đến những vị ấy và nói: "Này
Hiền giả, có phải
Hiền giả nói rằng: "Bản ngã là
đoạn diệt biến hoại,
sau khi chết không có tồn tại?" Này Cunda nếu những vị ấy nói: "Như vậy là đúng
sự thật,
ngoài ra là sai lầm", thì Ta
không chấp nhận như vậy. Tại sao vậy? Vì có một số
hữu tình có những
tư tưởng sai khác. Này Cunda, Ta cũng không xem
quan điểm ấy ngang bằng
quan điểm của Ta chớ đừng nói cao hơn. Như vậy ở đây, Ta cao hơn về thượng trí. Này Cunda, những
biện luận về những
tà kiến liên hệ đến tương lai, những
biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi. Còn những
biện luận nào không đáng nói cho các Ngươi, sao Ta lại sẽ nói cho các Ngươi?
40. Này Cunda, với
mục đích đoạn trừ và
vượt qua những
biện luận về các
tà kiến liên hệ đến
quá khứ tối sơ này và các
biện luận về các
tà kiến liên hệ đến tương lai này, mà bốn
pháp Niệm xứ được ta
tuyên thuyết, trình bày. Thế nào là bốn? Này Cunda, ở đây vị
Tỷ kheo sống quan thân trên thân, nhiệt tâm,
tỉnh giác,
chánh niệm, với
mục đích nhiếp phục tham, sân ở đời, sống quán thọ trên các
cảm thọ... trong các tâm...
quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm,
tỉnh giác,
chánh niệm, với
mục đích nhiệp phục tham ưu ở đời. Này Cunda, với
mục đích đoạn trừ và
vượt qua các
biện luận về các
tà kiến liên hệ đến
quá khứ tối sơ này và các
biện luận về các
tà kiến liên hệ đến tương lai này mà
bốn Niệm xứ được Ta
truyền thuyết trình bày.
41. Lúc bấy giờ,
Tôn giả Upavàna đang đứng sau lưng hầu quạt
Thế Tôn.
Tôn giả Upavàna bạch
Thế Tôn:
- Thật
hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thật
kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch
Thế Tôn,
pháp thoại này thật là thanh tịnh! Bạch
Thế Tôn,
pháp thoại này thật là
tuyệt đối thanh tịnh! Bạch
Thế Tôn,
pháp thoại này tên là gì?
- Này Upavàna,
pháp thoại này là
Thanh tịnh (Pàsàdikà), hãy như
vậy mà phụng trì.
Thế Tôn thuyết dạy như vậy.
Tôn giả Upavàna
hoan hỷ,
tín thọ lời dạy của
Thế Tôn.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt