Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
22. Kinh Đại Niệm xứ
(Mahàsatipatthana sutta)
Tôi nghe như vậy.
1. Một thời,
Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu lâu), tại Kammàssadhamma (Kiềm ma sắt đàm) -
đô thị của xứ Kuru. Rồi
Thế Tôn gọi các vị
Tỷ kheo: "Này các
Tỷ kheo." Các
Tỷ kheo trả lời Thế Tôn: "Bạch
Thế Tôn."
Thế Tôn nói như sau:
- Này các
Tỷ kheo, đây là
con đường độc nhất, đưa đến
thanh tịnh cho
chúng sanh, vượt khỏi
sầu bi,
diệt trừ khổ ưu,
thành tựu chánh lý,
chứng ngộ Niết bàn. Đó là
Bốn niệm xứ.
Thế nào là bốn? Này các
Tỷ kheo, ở đây vị
Tỷ kheo sống
quán thân trên thân, nhiệt tâm,
tỉnh giác,
chánh niệm, để
chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm,
tỉnh giác,
chánh niệm, để
chế ngự tham ưu ở đời; sống
quán tâm trên tâm, nhiệt tâm,
tỉnh giác,
chánh niệm, để
chế ngự tham ưu ở đời; sống
quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm,
tỉnh giác,
chánh niệm, để
chế ngự tham ưu ở đời.
(
Quán thân)
2. Này các
Tỷ kheo, thế nào là
Tỷ kheo sống
quán thân trên thân?
Này các
Tỷ kheo, ở đây
Tỷ kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và
ngồi kiết già, lưng thẳng và
an trú chánh niệm trước mặt.
Tỉnh giác, vị ấy thở vô;
tỉnh giác, vị ấy
thở ra. Thở vô dài, vị ấy
tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay
thở ra dài, vị ấy
tuệ tri: "Tôi
thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy
tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay
thở ra dài, vị ấy
tuệ tri: "Tôi
thở ra ngắn";
Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác
toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An
tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An
tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Này các
tỷ kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay
tuệ tri thiện xảo, khi quay dài,
tuệ tri rằng: "Tôi quay dài"; hay khi quay ngắn,
tuệ tri rằng: "Tôi quay ngắn." Cũng vậy, này các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo thở vô dài,
tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay
thở ra dài
tuệ tri: "Tôi
thở ra dài"; hay thở vô ngắn,
tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay
thở ra ngắn,
tuệ tri: "Tôi
thở ra ngắn"; "Cảm giác
toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác
toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An
tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An
tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Như vậy, vị ấy sống,
quán thân trên nội thân hay sống
quán thân trên
ngoại thân; hay sống
quán thân trên cả nội thân,
ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh
sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh
sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước vật gì ở trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán thân trên thân.
3. Lại nữa, này các Tỷ keo,
Tỷ kheo đi,
tuệ tri: "Tôi đi"; hay đứng,
tuệ tri: "Tôi đứng"; hay ngồi,
tuệ tri: "Tôi ngồi"; hay nằm ,
tuệ tri: "Tôi nằm".
Thân thể được
sử dụng như thế nào, vị ấy
biết thân như thế ấy.
Như vậy, vị ấy sống
quán thân trên nội thân; hay vị ấy sống
quán thân trên
ngoại thân; hay vị ấy sống
quán thân trên cả nội thân,
ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh
sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh
sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy
an trú chánh niệm như vậy với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán thân trên thân.
4. Lại nữa, này các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo, khi
bước tới,
bước lui, biết rõ việc mình đang làm. Khi ngó tới, ngó lui, biết rõ việc mình đang làm. Khi co tay khi duỗi tay biết rõ việc mình đang làm. Khi mang áo Sanghàti (Tăng-già-lê), mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm. Khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm. Khi đi đại tiện,
tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm. Khi đi, đứng, ngồi, nằm, biết rõ việc mình đang làm.
Như vậy, vị ấy sống
quán thân trên nội thân; hay sống
quán thân trên
ngoại thân; hay sống quánn thân trên cả nội thân,
ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh
sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh
sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy
an trú chánh niệm như vậy với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán thân trên thân.
5. Lại nữa này các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên
cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật
bất tịnh sai biệt: "Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồi hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu."
Này các
Tỷ kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy
các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và
quan sát: "Đây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu đỏ, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi." Cũng vậy, này các
Tỷ kheo, một
Tỷ kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên
cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật
bất tịnh sai biệt: "Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu."
Như vậy vị ấy sống
quán thân trên nội thân; hay sống
quán thân trên
ngoại thân; hay sống
quán thân trên cả nội thân,
ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh
sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh
sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy
an trú chánh niệm như vậy với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy vị
Tỷ kheo sống
quán thân trên thân.
6. Lại nữa này các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo quán sát thân này về
vị trí các giới và sự
sắp đặt các giới: "Trong thân này có
địa đại,
thủy đại,
hỏa đại và
phong đại."
Này các
Tỷ kheo, như một người đồ tể
thiện xảo, hay
đệ tử của một người đồ tể giết một con bò, ngồi cắt chia từng
thân phần tại ngã tư đường. Cũng vậy này các
Tỷ kheo, vị
Tỷ kheo quán sát thân nay về
vị trí các giới và về sự
sắp đặt các giới: "Trong thân này có
địa đại,
thủy đại,
hỏa đại và
phong đại."
Như vậy vị ấy sống
quán thân trên nội thân; hay sống
quán thân trên
ngoại thân; hay sống
quán thân trên cả nội thân,
ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh
sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh
sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm, và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy Tỷ keo sống
quán thân trên thân.
7. Lại nữa này các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo, như thấy một thi thể
quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra.
Tỷ kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy,
bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy."
Như vậy vị ấy sống
quán thân trên nội thân; hay sống
quán thân trên
ngoại thân hay sống
quán thân trên cả nội thân,
ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh
sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh
sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán thân trên thân.
8. Lại nữa này các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo như thấy một thi thể
quăng bỏ trong nghĩa địa bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn; hay bị các loài chó ăn; hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn.
Tỷ kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy,
bản chất là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy."
Như vậy vị ấy sống
quán thân trên nội thân; hay sống quán thên trên
ngoại thân; hay sống
quán thân trên cả nội thân,
ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh
sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh
sanh diệt trên thân; hay sống quán tánh
sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán thân trên thân.
9. Này các
Tỷ kheo, lại nữa
Tỷ kheo như thấy một thi thể bị
quăng bỏ trong nghĩa địa; với các xương còn
liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cốt lại; với các xương còn
liên kết với nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại, với các xương còn
liên kết với nhau, không còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại; chỉ còn có xương không dính lại
với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia, ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu,...
Tỷ kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy,
bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".
Như vậy vị ấy sống
quán thân trên nội thân; hay sống
quán thân trên
ngoại thân; hay sống
quán thân trên cả nội thân,
ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh
sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh
sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy sống
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán thân trên thân.
10. Lại nữa này các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo như thấy một thi thể
quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc... chỉ còn một đống xương lâu hơn một năm... chỉ còn là xương thối
trở thành bột.
Tỷ kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy,
bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy."
Như vậy vị ấy sống
quán thân trên nội thân; hay sống
quán thân trên
ngoại thân; hay sống
quán thân trên cả nội thân,
ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh
sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh
sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy sống
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán thân trên thân.
(Quán thọ)
11. Này các
Tỷ kheo, như thế nào
Tỷ kheo sống quán thọ trên các thọ?
Này các
Tỷ kheo, ở nơi đây
Tỷ kheo khi
cảm giác lạc thọ, biết rằng: "Tôi
cảm giác lạc thọ"; khi
cảm giác khổ thọ, biết rằng: "Tôi
cảm giác khổ thọ"; khi
cảm giác bất khổ
bất lạc thọ, biết rằng: "Tôi
cảm giác bất khổ
bất lạc thọ". Hay khi
cảm giác lạc thọ thuộc
vật chất biết rằng: "Tôi
cảm giác lạc thọ thuộc vật chất". Hay khi
cảm giác lạc thọ không thuộc
vật chất, biết rằng: "Tôi
cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất". Hay khi
cảm giác khổ thọ thuộc
vật chất, biết rằng: "Tôi
cảm giác khổ thọ thuộc vật chất". Hay khi
cảm giác khổ thọ không thuộc
vật chất, biết rằng: "Tôi
cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất". Hay khi
cảm giác bất khổ
bất lạc thọ thuộc
vật chất, biết rằng: "Tôi
cảm giác bất khổ
bất lạc thọ thuộc vật chất". Hay khi
cảm giác bất khổ
bất lạc thọ không thuộc
vật chất, biết rằng: "Tôi
cảm giác bất khổ
bất lạc thọ không thuộc vật chất".
Như vậy vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ; hay sống quán thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán thọ trên cả các nội thọ, ngoại thọ. Hay sống quán tánh
sanh khởi trên các thọ; hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ; hay sống quán tánh
sanh diệt trên các thọ. "Có thọ đây", vị ấy sống
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống quán thọ trên các thọ.
(
Quán tâm)
12. Này các
Tỷ kheo, như thế nào
Tỷ kheo sống
quán tâm trên tâm?
Này các
Tỷ kheo, ở đây vị
Tỷ kheo: "Với tâm có tham, biết rằng tâm có tham"; hay "Với
tâm không tham, biết rằng
tâm không tham"; hay "Với tâm có sân, biết rằng tâm có sân"; hay "Với
tâm không sân, biết rằng
tâm không sân"; hay "Với tâm có si, biết rằng tâm có si"; hay "Với
tâm không si, biết rằng
tâm không si"; hay "Với tâm thâu nhiếp, biết rằng tâm được thâu nhiếp"; hay "Với
tâm tán loạn, biết rằng tâm bị tán loạn"; hay "Với tâm
quảng đại, biết rằng tâm được quảng đại"; hay "Với
tâm không quảng đại, biết rằng
tâm không được quảng đại"; hay "Với tâm hữu hạn, biết rằng tâm hữu hạn"; hay "Với tâm
vô thượng, biết rằng tâm vô thượng"; hay "Với tâm có định, biết rằng tâm có định"; hay "Với
tâm không định, biết rằng
tâm không định"; hay "Với
tâm giải thoát, biết rằng tâm có giải thoát"; hay "Với
tâm không giải thoát, biết rằng
tâm không giải thoát".
Như vậy vị ấy sống
quán tâm trên
nội tâm; hay sống
quán tâm trên ngoại tâm; hay sống
quán tâm trên
nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh
sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh
sanh diệt trên tâm. "Có tâm đây", vị ấy sống
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gi trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy vị
Tỷ kheo sống
quán tâm trên tâm.
(
Quán pháp)
13. Này các
Tỷ kheo, thế nào là vị
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp?
Này các
Tỷ kheo, ở đây
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với năm
triền cái. Và này các
Tỷ kheo, thế nào là vị
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái?
Này các
Tỷ kheo, ở đây
Tỷ kheo,
nội tâm có
tham dục,
tuệ tri: "Nội tâm tôi có tham dục"; hay
nội tâm không có
tham dục,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có tham dục". Và với
tham dục chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy. Và với
tham dục đã sanh nay được
đoạn diệt, vị ấy
tuệ tri như vậy. Và với
tham dục đã được
đoạn diệt, tương lai không
sanh khởi nữa, vị ấy
tuệ tri như vậy.
Hay
nội tâm có
sân hận,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có sân hận"; hay
nội tâm không có
sân hận,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có
sân hận." Và với
sân hận chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy. Và với
sân hận đã sanh nay được
đoạn diệt, vị ấy
tuệ tri như vậy. Và với
sân hận đã được
đoạn diệt, tương lai không
sanh khởi nữa, vị ấy
tuệ tri như vậy.
Hay
nội tâm có
hôn trầm thụy miên,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có
hôn trầm thụy miên"; hay
nội tâm không có
hôn trầm thụy miên,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có
hôn trầm thụy miên". Và với
hôn trầm thụy miên chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy. Và với
hôn trầm thụy miên đã sanh nay được
đoạn diệt, vị ấy
tuệ tri như vậy. Và với
hôn trầm thụy miên đã được
đoạn diệt, tương lai không
sanh khởi nữa, vị ấy
tuệ tri như vậy.
Hay
nội tâm có
trạo hối,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có trạo hối"; hay
nội tâm không có
trạo hối,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có trạo hối". Và với
trạo hối chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy. Và với
trạo hối đã sanh nay được
đoạn diệt, vị ấy
tuệ tri như vậy. Và với
trạo hối đã được
đoạn diệt, tương lai không
sanh khởi nữa, vị ấy
tuệ tri như vậy.
Hay
nội tâm có nghi,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có nghi"; hay
nội tâm không có nghi,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có nghi." Và với nghi chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy. Và với nghi đã sanh, nay được
đoạn diệt, vị ấy
tuệ tri như vậy, và với nghi đã được
đoạn diệt, tương lai không
sanh khởi nữa, vị ấy
tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống
quán pháp trên các
nội pháp; hay sống
quán pháp trên các
ngoại pháp; hay sống
quán pháp trên cả các
nội pháp,
ngoại pháp. Hay sống quán tánh
sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh
sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp, đối với năm
triền cái.
14. Lại nữa, này các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với Năm
Thủ uẩn. Này các
Tỷ kheo, thế nào là
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với Năm Thủ uẩn?
Này các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo suy tư: "Đây là sắc, đây là sắc sanh, đây là sắc diệt. Đây là thọ, đây là thọ sanh, đây là thọ diệt. Đây là tưởng, đây là tưởng sanh, đây là tưởng diệt. Đây là hành, đây là hành sanh, đây là hành diệt. Đây là thức, đây là thức sanh, đây là thức diệt". Như vậy vị ấy sống
quán pháp trên các
nội pháp; hay sống
quán pháp trên các
ngoại pháp; hay sống
quán pháp trên các
nội pháp,
ngoại pháp; hay sống quán tánh
sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh
sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với Năm
Thủ uẩn.
15. Lại nữa này các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với Sáu
Nội Ngoại xứ.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với Sáu
Nội Ngoại xứ?
Này các
Tỷ kheo, ở đây
Tỷ kheo tuệ tri con mắt và
tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này,
kiết sử sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy; và với
kiết sử chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy; và với
kiết sử đã sanh nay được
đoạn diệt, vị ấy
tuệ tri như vậy; và với
kiết sử đã được
đoạn diệt, tương lai không
sanh khởi nữa, vị ấy
tuệ tri như vậy... và
tuệ tri tai và
tuệ tri các tiếng... và
tuệ tri mũi và
tuệ tri các hương... và
tuệ tri lưỡi và
tuệ tri các vị... và
tuệ tri thân và
tuệ tri các xúc... và
tuệ tri ý và
tuệ tri các pháp; do duyên hai pháp này,
kiết sử sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy; và với
kiết sử chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy; và với
kiết sử đã sanh nay được
đoạn diệt, vị ấy
tuệ tri như vậy; và với
kiết sử đã được
đoạn diệt, tương lai không
sanh khởi nữa, vị ấy
tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống
quán pháp trên các
nội pháp; hay sống
quán pháp trên các
ngoại pháp; hay sống
quán pháp trên cả các
nội pháp,
ngoại pháp; hay sống quán tánh
sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh
sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp, đối với Sáu
Nội Ngoại xứ.
16. Lại nữa này các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với
Bảy Giác chi.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi? Này các
Tỷ kheo, ở đây
Tỷ kheo,
nội tâm có
Niệm Giác chi,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có Niệm Giác chi", hay
nội tâm không có
Niệm Giác chi,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có Niệm Giác chi"; và với
Niệm Giác chi chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy, và với
Niệm Giác chi đã sanh, nay được
tu tập viên thành, vị ấy
tuệ tri như vậy.
Hay
nội tâm có
Trạch pháp Giác chi...
Hay
nội tâm có
Tinh tấn Giác chi...
Hay
nội tâm có
Hỷ Giác chi...
Hay
nội tâm có
Khinh an Giác chi...
Hay
nội tâm có
Định Giác chi...
Hay
nội tâm có
Xả Giác chi;
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có Xả Giác chi"; hay
nội tâm không có
Xả Giác chi,
tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có
Xả Giác chi." Và với
Xả Giác chi chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy; và với
Xả Giác chi đã sanh nay được
tu tập viên thành, vị ấy
tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống
quán pháp trên các
nội pháp; hay sống
quán pháp trên các
ngoại pháp; hay sống
quán pháp trên cả các
nội pháp,
ngoại pháp. Hay sống quán tánh
sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh
sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây"; vị ấy sống
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với
Bảy Giác chi.
17. Lại nữa này các
Tỷ kheo, vị ấy sống
quán pháp trên các pháp đối với Bốn
Sự thật.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với Bốn Sự thật? Này các
Tỷ kheo, ở đây
Tỷ kheo như thật tuệ tri: "Đây là khổ";
như thật tuệ tri: "Đây là khổ tập";
như thật tuệ tri: "Đây là khổ diệt";
như thật tuệ tri: "Đây là
con đường đưa đến khổ diệt".
18. Và này các
Tỷ kheo, thế nào Khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, chết là khổ, sầu, bi. khổ, ưu, não là khổ, cầu không được là khổ,
tóm lại Năm
Thủ uẩn là khổ.
Này các
Tỷ kheo thế nào là sanh? Mỗi mỗi hạng
chúng sanh trong từng giới loại, sự xuất sản, xuất sanh, xuất thành,
tái sanh của họ, sự
xuất hiện các uẩn, sự
hoạch đắc các căn. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là sanh.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là già? Mỗi mỗi hạng
chúng sanh, trong từng
giới hạn, sự niên lão, sự hủy hoại,
trạng thái rụng răng,
trạng thái tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ
rút ngắn, các căn hủy hoại. Này các
Tỷ kheo, như vậy là già.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là chết? Mỗi mỗi hạng
chúng sanh trong từng giới loại, sự
tạ thế, sự từ trần, thân hoại, sự
diệt vong, sự chết, sự
tử vong, thời đã đến, các uẩn đã tận diệt, sự vất bỏ
tử thi. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là chết.
Này các
Tỷ kheo, thế nào gọi là sầu? Này các
Tỷ kheo, với những ai gặp phải
tai nạn này hay
tai nạn khác; với những ai
cảm thọ sự
đau khổ này hay sự
đau khổ khác, sự sầu, sự sầu lo, sự
sầu muộn, nội sầu, mọi khổ sầu của người ấy. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là sầu.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là bi? Này các
Tỷ kheo, với những ai gặp phải
tai nạn này hay
tai nạn khác ; với những ai
cảm thọ sự
đau khổ này hay sự
đau khổ khác, sự bi ai, sự
bi thảm, sự than van, sự than khóc, sự bi thán, sự bi thống của người ấy. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là bi.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là khổ? Này các
Tỷ kheo, sự
đau khổ về thân, sự không sảng khoái về thân, sự
đau khổ do thân
cảm thọ, sự không sảng khoái do thân
cảm thọ. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là khổ.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là ưu? Này các
Tỷ kheo, sự
đau khổ về tâm, sự không sảng khoái về tâm, sự
đau khổ do tâm
cảm thọ, sự không sảng khoái do tâm
cảm thọ. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là ưu.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là não? Này các
Tỷ kheo, với những ai gặp
tai nạn này hay
tai nạn khác; với những ai
cảm thọ sự
đau khổ này hay sự
đau khổ khác, sự
áo não, sự bi não, sự
thất vọng, sự
tuyệt vọng của người ấy. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là não.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là cầu bất đắc khổ? Này các
Tỷ kheo,
chúng sanh bị
sanh chi phối, khởi sự mong cầu: "Mong rằng ta khỏi bị
sanh chi phối, mong rằng ta khỏi phải đi thác sanh". Lời cầu mong ấy không được
thành tựu. Như vậy gọi là cầu bất đắc khổ! Này các
Tỷ kheo,
chúng sanh bị già
chi phối...
chúng sanh bị bệnh
chi phối...
chúng sanh bị chết
chi phối..
chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não
chi phối, khởi sự mong cầu: "Mong rằng ta khỏi bị sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối! Mong rằng ta khỏi đương chịu sầu, bi, khổ, ưu, não". Lời mong cầu ấy không được
thành tựu. Như vậy là
cầu bất đắc khổ.
Này các
Tỷ kheo, như thế nào là
tóm lại, Năm
Thủ uẩn là khổ? Như Sắc
thủ uẩn,
Thọ thủ uẩn, Tưởng
thủ uẩn, Hành
thủ uẩn, Thức
thủ uẩn. Này các
Tỷ kheo, như vậy
tóm lại Năm
Thủ uẩn là khổ.
19. Này các
Tỷ kheo, thế nào là
Khổ tập Thánh đế? Sự
tham ái đứa đến
tái sanh,
câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu
hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Như
dục ái,
hữu ái,
vô hữu ái.
Này các
Tỷ kheo, sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đâu, khi
an trú thì
an trú ở đâu? Ở đời, sắc gì
thân ái, sắc gì khả ái? Ở đời con mắt là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đấy, khi
an trú thì
an trú ở đấy. Ở đời cái tai... ở đời mũi... ở đời lưỡi... ở đời thân... ở đời ý là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đấy, khi
an trú thì
an trú ở đấy.
Ở đời các sắc... ở đời các tiếng... ở đời các hương... ở đời các vị... ở đời các
cảm xúc... ở đời các pháp là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đấy, khi
an trú thì
an trú ở đấy.
Ở đời
nhãn thức... ở đời
nhĩ thức... ở đời
tỷ thức... ở đời
thiệt thức... ở đời
thân thức... ở đời
ý thức là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đấy, khi
an trú thì
an trú ở đấy.
Ở đời nhãn xúc... ở đời nhĩ xúc... ở đời tỷ xúc... ở đời thiệt xúc... ở đời thân xúc... ở đời ý xúc là
sắc thân ái, à sắc khả ái. Sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đấy, khi
an trú thì
an trú ở đấy.
Ở đời nhãn xúc sở sanh thọ... ở đời nhĩ xúc sở sanh thọ... ở đời tỷ xúc sở sanh thọ... ở đời thiệt xúc sở thanh thọ... ở đời thân xúc sở sanh thọ... ở đời ý xúc sở sanh thọ là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đấy, khi
an trú thì
an trú ở đấy.
Ở đời sắc tưởng... ở đời thanh tưởng... ở đời hương tưởng... ở đời vị tưởng... ở đời xúc tưởng... ở đời pháp tưởng là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đấy, khi
an trú thì
an trú ở đấy.
Ở đời sắc tư... ở đời thanh tư... ở đời hương tư... ở đời vị tư... ở đời xúc tư... ở đời pháp tư là
sắc thân ái, là sắc khả ai. Sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đấy, khi
an trú thì
an trú ở đấy.
Ở đời
sắc ái... ở đời thanh ái... ở đời hương ái... ở đời vị ái... ở đời xúc ái... ở đời
pháp ái là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đấy, khi
an trú thì
an trú ở đây.
Ở đời sắc tầm ... ở đời thanh tầm... ở đời hương tầm... ở đời vị tầm... ở đời xúc tầm... ở đời pháp tầm là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đấy, khi
an trú thì
an trú ở đấy.
Ở đời
sắc tứ... ở đời thanh tứ... ở đời hương tứ... ở đời vị tứ... ở đời pháp tứ là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi
sanh khởi thì
sanh khởi ở đấy, khi
an trú thì
an trú ở đấy. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là
Khổ tập Thánh đế.
20. Này các
Tỷ kheo, và thế nào là
Khổ diệt Thánh đế? Sự diệt tận không còn luyến tiếc
tham ái ấy, sự xả ly, sự khí xả,
sự giải thoát, sự
vô nhiễm (
tham ái ấy).
Này các
Tỷ kheo, sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đâu, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đâu? Ở đời các sắc gì thân, các sắc gì ái, sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy.
Ở đời sắc gì
thân ái, sắc gì khả ái? Ở đời con mắt là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy. Ở đời lỗ tai... ở đời mũi... ở đời lưỡi... ở đời thân... ở đời ý là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy.
Ở đời các sắc... ở đời các tiếng... ở đời các mùi hương... ở đời các vị.. ở đời các xúc... ở đời các pháp là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy.
Ở đời
nhãn thức... ở đời
nhĩ thức... ở đời
tỷ thức... ở đời
thiệt thức... ở đời
ý thức là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy.
Ở đời nhãn xúc... ở đời nhĩ xúc... ở đời tỷ xúc... ở đời thiệt xúc... ở đời thân xúc... ở đời ý xúc là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy.
Ở đời nhãn xúc sở sanh thọ... ở đời nhĩ xúc sở sanh thọ... ở đời tỷ xúc sở sanh thọ... ở đời thiệt xúc sở sanh thọ... ở đời thân xúc sở sanh thọ.. ở đời ý xúc sở sanh thọ là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy.
Ở đời sắc tưởng... ở đời thanh tưởng... ở đời hương tưởng... ở đời vị tưởng... ở đời xúc tưởng... ở đời pháp tưởng là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy.
Ở đời sắc tư... ở đời thanh tư... ở đời hương tư... ở đời vị tư... ở đời xúc tư... ở đời pháp tư là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy.
Ở đời
sắc ái... ở đời thanh ái... ở đời hương ái... ở đời vị ái... ở đời xúc ái... ở đời
pháp ái là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy.
Ở đời sắc tầm... ở đời thanh tầm... ở đời hương tầm... ở đời vị tầm... ở đời xúc tầm... ở đời pháp tàm là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy.
Ở đời
sắc tứ... ở đời thanh tứ... ở đời hương tứ... ở đời vị tứ... ở đời xúc tứ... ở đời pháp tứ là
sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự
tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi
diệt trừ thì
diệt trừ ở đấy.
Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là
Khổ diệt Thánh đế.
21. Này các
Tỷ kheo, thế nào là
Khổ diệt đạo Thánh đế. Đó là
bát chi Thánh đạo, tức là Chánh
tri kiến,
Chánh tư duy,
Chánh ngữ,
Chánh nghiệp,
Chánh mạng, Chánh tin tấn,
Chánh niệm,
Chánh định.
Này cá
Tỷ kheo, thế nào là Chánh tri kiến? Này các
Tỷ kheo,
tri kiến về Khổ,
tri kiến về
Khổ tập,
tri kiến về
Khổ diệt,
tri kiến về
Khổ diệt đạo. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là Chánh
tri kiến.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là Chánh tư duy?
Tư duy về
ly dục,
tư duy về
vô sân,
tư duy về
bất hại. Này các
tỷ kheo, như vậy gọi là
Chánh tư duy.
Này các
Tỷ kheo thế nào là Chánh ngữ? Tự chế không nói láo, tự chế không nói hai lưỡi, tự chế không
ác khẩu, tự chế không nói lời
phù phiếm. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là
Chánh ngữ.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là Chánh nghiệp? Tự chế không
sát sanh, tự chế không trộm cướp, tự chế không
tà dâm. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là
Chánh nghiệp.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là Chánh mạng? Này các
Tỷ kheo, ở đây vị Thánh
đệ tử từ bỏ tà mạng, sinh sống bằng
chánh mạng. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là
Chánh mạng.
Này các
Tỷ kheo, và thế nào là Chánh tinh tấn? Này các
Tỷ kheo, ở đây
Tỷ kheo, đối với các ác,
bất thiện pháp chưa sanh, khởi lên
ý muốn không cho
sanh khởi; vị này
nỗ lực,
tinh tấn,
quyết tâm,
trì chí. Đối với các ác,
bất thiện pháp đã sanh, khởi lên
ý muốn trừ diệt, vị này
nỗ lực,
tinh tấn,
quyết tâm,
trì chí. Đối với các
thiện pháp chưa sanh, khởi lên
ý muốn khiến cho
sanh khởi; vị này
nỗ lực,
tinh tấn,
quyết tâm,
trì chí. Đối với các
thiện pháp đã sanh, khởi lên
ý muốn khiến cho
an trú, không cho băng hoại, khiến cho
tăng trưởng, phát triển,
viên mãn. Vị này
nỗ lực,
tinh tấn,
quyết tâm,
trì chí. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là
Chánh tinh tấn.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là Chánh niệm? Này các
Tỷ kheo, ở đây vị
Tỷ kheo sống
quán thân trên thân, nhiệt tâm,
tỉnh giác,
chánh niệm, để
chế ngự tham ưu ở đời; trên các
cảm thọ... trên các tâm...
quán pháp trên các pháp,
tinh cần tỉnh giác,
chánh niệm để
chế ngự tham ưu ở đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là
Chánh niệm.
Này các
Tỷ kheo, thế nào là Chánh định? Này các
Tỷ kheo, ở đây
Tỷ kheo ly dục, ly ác
bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, với tầm, với tứ.
Tỷ kheo ấy diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh
nhất tâm.
Tỷ kheo ấy ly hỷ trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự
lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba.
Tỷ kheo ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã
cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm
thanh tịnh. Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là
Chánh định.
Này các
Tỷ kheo, như vậy gọi là
Khổ diệt đạo thánh đế.
Như vậy vị ấy sống
quán pháp trên các
nội pháp; hay sống
quán pháp trên các
ngoại pháp; hay sống
quán pháp trên các
nội pháp,
ngoại pháp. Hay sống quán tánh
sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh
sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống
an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến
chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa,
không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ kheo, như vậy
Tỷ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với
Bốn Thánh đế.
22. Này các
Tỷ kheo, vị nào
tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng
Chánh trí ngay trong
hiện tại; hai là nếu còn
hữu dư y,
chứng quả Bất hoàn. Này các
Tỷ kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào
tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm... trong năm năm... trong bốn năm... trong ba năm... trong hai năm... trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng
Chánh trí ngay trong
hiện tại; hai là nếu còn
hữu dư y,
chứng quả Bất hoàn. Này các
Tỷ kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào
tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng
Chánh trí ngay trong
hiện tại, hay nếu còn
hữu dư y, thì
chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào
tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng... trong năm tháng... trong bốn tháng... trong ba tháng... trong hai tháng... trong một tháng... trong nửa tháng... vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng
Chánh trí ngay trong
hiện tại, hai là nếu còn
hữu dư y, thì
chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào
tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng
Chánh trí ngay trong
hiện tại, hai là nếu còn
hữu dư y, thì
chứng quả Bất hoàn.
Này các
Tỷ kheo, đây là
con đường độc nhất đưa đến sự
thanh tịnh cho
chúng sanh, vượt khỏi
sầu bi,
diệt trừ khổ ưu,
thành tựu Chánh lý,
chứng ngộ Niết Bàn. Đó là
Bốn Niệm xứ.
Thế Tôn thuyết pháp đã xong. Các
Tỷ kheo ấy
hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tôn dạy.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
[Xem bản dịch Anh ngữ]
22. Maha-Satipatthana Sutta
The Great Frames of Reference
Translated by Bhikkhu Thanissaro
I have heard that on one occasion the Blessed One was staying in the Kuru country. Now there is a town of the Kurus called Kammasadhamma. There the Blessed One addressed the monks, "Monks."
"Venerable sir," the monks replied.
The Blessed One said this: "This is the direct path for the purification of beings, for the overcoming of sorrow and lamentation, for the disappearance of pain and distress, for the attainment of the right method, and for the realization of Unbinding -- in other words, the four frames of reference. Which four?
"There is the case where a monk remains focused on the body in and of itself -- ardent, alert, and mindful -- putting aside greed and distress with reference to the world. He remains focused on feelings... mind... mental qualities in and of themselves -- ardent, alert, and mindful -- putting aside greed and distress with reference to the world.
(A. Body)
"And how does a monk remain focused on the body in and of itself?
[1] "There is the case where a monk -- having gone to the wilderness, to the shade of a tree, or to an empty building -- sits down folding his legs crosswise, holding his body erect and setting mindfulness to the fore [lit: the front of the chest]. Always mindful, he breathes in; mindful he breathes out.
"Breathing in long, he discerns that he is breathing in long; or breathing out long, he discerns that he is breathing out long. Or breathing in short, he discerns that he is breathing in short; or breathing out short, he discerns that he is breathing out short. He trains himself to breathe in sensitive to the entire body and to breathe out sensitive to the entire body. He trains himself to breathe in calming bodily fabrication and to breathe out calming bodily fabrication. Just as a skilled turner or his apprentice, when making a long turn, discerns that he is making a long turn, or when making a short turn discerns that he is making a short turn; in the same way the monk, when breathing in long, discerns that he is breathing in long; or breathing out short, he discerns that he is breathing out short... He trains himself to breathe in calming bodily fabrication, and to breathe out calming bodily fabrication.
"In this way he remains focused internally on the body in and of itself, or externally on the body in and of itself, or both internally and externally on the body in and of itself. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to the body, on the phenomenon of passing away with regard to the body, or on the phenomenon of origination and passing away with regard to the body. Or his mindfulness that 'There is a body' is maintained to the extent of knowledge and remembrance. And he remains independent, unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in and of itself.
[2] "Furthermore, when walking, the monk discerns that he is walking. When standing, he discerns that he is standing. When sitting, he discerns that he is sitting. When lying down, he discerns that he is lying down. Or however his body is disposed, that is how he discerns it.
"In this way he remains focused internally on the body in and of itself, or focused externally... unsustained by anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in and of itself.
[3] "Furthermore, when going forward and returning, he makes himself fully alert; when looking toward and looking away... when bending and extending his limbs... when carrying his outer cloak, his upper robe and his bowl... when eating, drinking, chewing, and savoring... when urinating and defecating... when walking, standing, sitting, falling asleep, waking up, talking, and remaining silent, he makes himself fully alert.
"In this way he remains focused internally on the body in and of itself, or focused externally... unsustained by anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in and of itself.
[4] "Furthermore... just as if a sack with openings at both ends were full of various kinds of grain -- wheat, rice, mung beans, kidney beans, sesame seeds, husked rice -- and a man with good eyesight, pouring it out, were to reflect, 'This is wheat. This is rice. These are mung beans. These are kidney beans. These are sesame seeds. This is husked rice,' in the same way, monks, a monk reflects on this very body from the soles of the feet on up, from the crown of the head on down, surrounded by skin and full of various kinds of unclean things: 'In this body there are head hairs, body hairs, nails, teeth, skin, flesh, tendons, bones, bone marrow, kidneys, heart, liver, pleura, spleen, lungs, large intestines, small intestines, gorge, feces, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, skin-oil, saliva, mucus, fluid in the joints, urine.'
"In this way he remains focused internally on the body in and of itself, or focused externally... unsustained by anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in and of itself.
[5] "Furthermore... just as a skilled butcher or his apprentice, having killed a cow, would sit at a crossroads cutting it up into pieces, the monk contemplates this very body -- however it stands, however it is disposed -- in terms of properties: 'In this body there is the earth property, the liquid property, the fire property, and the wind property.'
"In this way he remains focused internally on the body in and of itself, or focused externally... unsustained by anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in and of itself.
[6] "Furthermore, as if he were to see a corpse cast away in a charnel ground -- one day, two days, three days dead -- bloated, livid, and festering, he applies it to this very body, 'This body, too: Such is its nature, such is its future, such its unavoidable fate'...
"Or again, as if he were to see a corpse cast away in a charnel ground, picked at by crows, vultures, and hawks, by dogs, hyenas, and various other creatures... a skeleton smeared with flesh and blood, connected with tendons... a fleshless skeleton smeared with blood, connected with tendons... a skeleton without flesh or blood, connected with tendons... bones detached from their tendons, scattered in all directions -- here a hand bone, there a foot bone, here a shin bone, there a thigh bone, here a hip bone, there a back bone, here a rib, there a chest bone, here a shoulder bone, there a neck bone, here a jaw bone, there a tooth, here a skull... the bones whitened, somewhat like the color of shells... piled up, more than a year old... decomposed into a powder: He applies it to this very body, 'This body, too: Such is its nature, such is its future, such its unavoidable fate.'
"In this way he remains focused internally on the body in and of itself, or externally on the body in and of itself, or both internally and externally on the body in and of itself. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to the body, on the phenomenon of passing away with regard to the body, or on the phenomenon of origination and passing away with regard to the body. Or his mindfulness that 'There is a body' is maintained to the extent of knowledge and remembrance. And he remains independent, unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in and of itself.
(B. Feelings)
"And how does a monk remain focused on feelings in and of themselves? There is the case where a monk, when feeling a painful feeling, discerns that he is feeling a painful feeling. When feeling a pleasant feeling, he discerns that he is feeling a pleasant feeling. When feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling, he discerns that he is feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling.
"When feeling a painful feeling of the flesh, he discerns that he is feeling a painful feeling of the flesh. When feeling a painful feeling not of the flesh, he discerns that he is feeling a painful feeling not of the flesh. When feeling a pleasant feeling of the flesh, he discerns that he is feeling a pleasant feeling of the flesh. When feeling a pleasant feeling not of the flesh, he discerns that he is feeling a pleasant feeling not of the flesh. When feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling of the flesh, he discerns that he is feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling of the flesh. When feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling not of the flesh, he discerns that he is feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling not of the flesh.
"In this way he remains focused internally on feelings in and of themselves, or externally on feelings in and of themselves, or both internally and externally on feelings in and of themselves. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to feelings, on the phenomenon of passing away with regard to feelings, or on the phenomenon of origination and passing away with regard to feelings. Or his mindfulness that 'There are feelings' is maintained to the extent of knowledge and remembrance. And he remains independent, unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on feelings in and of themselves.
(C. Mind)
"And how does a monk remain focused on the mind in and of itself? There is the case where a monk, when the mind has passion, discerns that the mind has passion. When the mind is without passion, he discerns that the mind is without passion. When the mind has aversion, he discerns that the mind has aversion. When the mind is without aversion, he discerns that the mind is without aversion. When the mind has delusion, he discerns that the mind has delusion. When the mind is without delusion, he discerns that the mind is without delusion.
"When the mind is restricted, he discerns that the mind is restricted. When the mind is scattered, he discerns that the mind is scattered. When the mind is enlarged, he discerns that the mind is enlarged. When the mind is not enlarged, he discerns that the mind is not enlarged. When the mind is surpassed, he discerns that the mind is surpassed. When the mind is unsurpassed, he discerns that the mind is unsurpassed. When the mind is concentrated, he discerns that the mind is concentrated. When the mind is not concentrated, he discerns that the mind is not concentrated. When the mind is released, he discerns that the mind is released. When the mind is not released, he discerns that the mind is not released.
"In this way he remains focused internally on the mind in and of itself, or externally on the mind in and of itself, or both internally and externally on the mind in and of itself. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to the mind, on the phenomenon of passing away with regard to the mind, or on the phenomenon of origination and passing away with regard to the mind. Or his mindfulness that 'There is a mind' is maintained to the extent of knowledge and remembrance. And he remains independent, unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on the mind in and of itself.
(D. Mental Qualities)
"And how does a monk remain focused on mental qualities in and of themselves?
[1] "There is the case where a monk remains focused on mental qualities in and of themselves with reference to the five hindrances. And how does a monk remain focused on mental qualities in and of themselves with reference to the five hindrances? There is the case where, there being sensual desire present within, a monk discerns that 'There is sensual desire present within me.' Or, there being no sensual desire present within, he discerns that 'There is no sensual desire present within me.' He discerns how there is the arising of unarisen sensual desire. And he discerns how there is the abandoning of sensual desire once it has arisen. And he discerns how there is no further appearance in the future of sensual desire that has been abandoned. (The same formula is repeated for the remaining hindrances: ill will, sloth and drowsiness, restlessness and anxiety, and uncertainty.)
"In this way he remains focused internally on mental qualities in and of themselves, or externally on mental qualities in and of themselves, or both internally and externally on mental qualities in and of themselves. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to mental qualities, on the phenomenon of passing away with regard to mental qualities, or on the phenomenon of origination and passing away with regard to mental qualities. Or his mindfulness that 'There are mental qualities' is maintained to the extent of knowledge and remembrance. And he remains independent, unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on mental qualities in and of themselves with reference to the five hindrances.
[2] "Furthermore, the monk remains focused on mental qualities in and of themselves with reference to the five aggregates for clinging/sustenance. And how does he remain focused on mental qualities in and of themselves with reference to the five aggregates for clinging/sustenance? There is the case where a monk [discerns]: 'Such is form, such its origination, such its disappearance. Such is feeling... Such is perception... Such are fabrications... Such is consciousness, such its origination, such its disappearance.'
"In this way he remains focused internally on the mental qualities in and of themselves, or focused externally... unsustained by anything in the world. This is how a monk remains focused on mental qualities in and of themselves with reference to the five aggregates for clinging/sustenance.
[3] "Furthermore, the monk remains focused on mental qualities in and of themselves with reference to the sixfold internal and external sense media. And how does he remain focused on mental qualities in and of themselves with reference to the sixfold internal and external sense media? There is the case where he discerns the eye, he discerns forms, he discerns the fetter that arises dependent on both. He discerns how there is the arising of an unarisen fetter. And he discerns how there is the abandoning of a fetter once it has arisen. And he discerns how there is no further appearance in the future of a fetter that has been abandoned. (The same formula is repeated for the remaining sense media: ear, nose, tongue, body, and intellect.)
"In this way he remains focused internally on the mental qualities in and of themselves, or focused externally... unsustained by anything in the world. This is how a monk remains focused on mental qualities in and of themselves with reference to the sixfold internal and external sense media.
[4] "Furthermore, the monk remains focused on mental qualities in and of themselves with reference to the seven factors of awakening. And how does he remain focused on mental qualities in and of themselves with reference to the seven factors of awakening? There is the case where, there being mindfulness as a factor of awakening present within, he discerns that 'Mindfulness as a factor of awakening is present within me.' Or, there being no mindfulness as a factor of awakening present within, he discerns that 'Mindfulness as a factor of awakening is not present within me.' He discerns how there is the arising of unarisen mindfulness as a factor of awakening. And he discerns how there is the culmination of the development of mindfulness as a factor of awakening once it has arisen. (The same formula is repeated for the remaining factors of awakening: analysis of qualities, persistence, rapture, serenity, concentration, and equanimity.)
"In this way he remains focused internally on mental qualities in and of themselves, or externally... unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on mental qualities in and of themselves with reference to the seven factors of awakening.
[5] "Furthermore, the monk remains focused on mental qualities in and of themselves with reference to the four noble truths. And how does he remain focused on mental qualities in and of themselves with reference to the four noble truths? There is the case where he discerns, as it is actually present, that 'This is stress... This is the origination of stress... This is the cessation of stress... This is the way leading to the cessation of stress.'
[a] "Now what is the noble truth of stress? Birth is stress, aging is stress, death is stressful; sorrow, lamentation, pain, distress, and despair are stress; association with the unbeloved is stress; separation from the loved is stress; not getting what is wanted is stress; not getting what is wanted is stress. In short, the five aggregates for clinging/sustenance are stress.
"And what is birth? Whatever birth, taking birth, descent, coming-to-be, coming-forth, appearance of aggregates, and acquisition of [sense] spheres of the various beings in this or that group of beings, that is called birth.
"And what is aging? Whatever aging, decrepitude, brokenness, graying, wrinkling, decline of life-force, weakening of the faculties of the various beings in this or that group of beings, that is called aging.
"And what is death? Whatever deceasing, passing away, breaking up, disappearance, dying, death, completion of time, break up of the aggregates, casting off of the body, interruption in the life faculty of the various beings in this or that group of beings, that is called death.
"And what is sorrow? Whatever sorrow, sorrowing, sadness, inward sorrow, inward sadness of anyone suffering from misfortune, touched by a painful thing, that is called sorrow.
"And what is lamentation? Whatever crying, grieving, lamenting, weeping, wailing, lamentation of anyone suffering from misfortune, touched by a painful thing, that is called lamentation.
"And what is pain? Whatever is experienced as bodily pain, bodily discomfort, pain or discomfort born of bodily contact, that is called pain.
"And what is distress? Whatever is experienced as mental pain, mental discomfort, pain or discomfort born of mental contact, that is called distress.
"And what is despair? Whatever despair, despondency, desperation of anyone suffering from misfortune, touched by a painful thing, that is called despair.
"And what is the stress of not getting what one wants? In beings subject to birth, the wish arises, 'O, may we not be subject to birth, and may birth not come to us.' But this is not be achieved by wishing. This is the stress of not getting what one wants. In beings subject to aging... illness... death... sorrow, lamentation, pain, distress, and despair, the wish arises, 'O, may we not be subject to aging... illness... death... sorrow, lamentation, pain, distress, and despair, and may aging... illness... death... sorrow, lamentation, pain, distress, and despair not come to us.' But this is not be achieved by wishing. This is the stress of not getting what one wants.
"And what is the stress of association with the unbeloved? There is the case where undesirable, unpleasing, unattractive sights, sounds, aromas, flavors, or tactile sensations occur to one; or one has connection, contact, relationship, interaction with those who wish one ill, who wish for one's harm, who wish for one's discomfort, who wish one no security from the yoke. This is called the stress of association with the unbeloved.
"And what is the stress of separation from the loved? There is the case where desirable, pleasing, attractive sights, sounds, aromas, flavors, or tactile sensations do not occur to one; or one has no connection, no contact, no relationship, no interaction with those who wish one well, who wish for one's benefit, who wish for one's comfort, who wish one security from the yoke, nor with one's mother, father, brother, sister, friends, companions, or relatives. This is called the stress of separation from the loved.
"And what is the stress of not getting what is wanted? In beings subject to birth, the wish arises, 'O, may we not be subject to birth, and may birth not come to us.' But this is not be achieved by wishing. This is the stress of not getting what one wants. In beings subject to aging... illness... death... sorrow, lamentation, pain, distress, and despair, the wish arises, 'O, may we not be subject to aging... illness... death... sorrow, lamentation, pain, distress, and despair, and may aging... illness... death... sorrow, lamentation, pain, distress, and despair not come to us.' But this is not be achieved by wishing. This is the stress of not getting what is wanted.
"And what are the five aggregates for clinging/sustenance that, in short, are stress? Form as an aggregate for clinging/sustenance, feeling as an aggregate for clinging/sustenance, perception as an aggregate for clinging/sustenance, fabrications as an aggregate for clinging/sustenance, consciousness as an aggregate for clinging/sustenance: These are called the five aggregates for clinging/sustenance that, in short, are stress.
"This is called the noble truth of stress.
[b] "And what is the noble truth of the origination of stress? The craving that makes for further becoming -- accompanied by passion and delight, relishing now here and now there -- i.e., craving for sensuality, craving for becoming, craving for non-becoming.
"And where does this craving, when arising, arise? And where, when dwelling, does it dwell? Whatever is endearing and alluring in terms of the world: that is where this craving, when arising, arises. That is where, when dwelling, it dwells.
"And what is endearing and alluring in terms of the world? The eye is endearing and alluring in terms of the world. That is where this craving, when arising, arises. That is where, when dwelling, it dwells.
"The ear... The nose... The tongue... The body... The intellect...
"Forms... Sounds... Smells... Tastes... Tactile sensations... Ideas...
"Eye-consciousness... Ear-consciousness... Nose-consciousness... Tongue-consciousness... Body-consciousness... Intellect-consciousness...
"Eye-contact... Ear-contact... Nose-contact... Tongue-contact... Body-contact... Intellect-contact...
"Feeling born of eye-contact... Feeling born of ear-contact... Feeling born of nose-contact... Feeling born of tongue-contact... Feeling born of body-contact... Feeling born of intellect-contact...
"Perception of forms... Perception of sounds... Perception of smells... Perception of tastes... Perception of tactile sensations... Perception of ideas...
"Intention for forms... Intention for sounds... Intention for smells... Intention for tastes... Intention for tactile sensations... Intention for ideas...
"Craving for forms... Craving for sounds... Craving for smells... Craving for tastes... Craving for tactile sensations... Craving for ideas...
"Thought directed at forms... Thought directed at sounds... Thought directed at smells... Thought directed at tastes... Thought directed at tactile sensations... Thought directed at ideas...
"Evaluation of forms... Evaluation of sounds... Evaluation of smells... Evaluation of tastes... Evaluation of tactile sensations... Evaluation of ideas is endearing and alluring in terms of the world. That is where this craving, when arising, arises. That is where, when dwelling, it dwells.
"This is called the noble truth of the origination of stress.
[c] "And what is the noble truth of the cessation of stress? The remainderless fading and cessation, renunciation, relinquishment, release, and letting go of that very craving.
"And where, when being abandoned, is this craving abandoned? And where, when ceasing, does it cease? Whatever is endearing and alluring in terms of the world: that is where, when being abandoned, this craving is abandoned. That is where, when ceasing, it ceases.
"And what is endearing and alluring in terms of the world? The eye is endearing and alluring in terms of the world. That is where, when being abandoned, this craving is abandoned. That is where, when ceasing, it ceases.
"The ear... The nose... The tongue... The body... The intellect...
"Forms... Sounds... Smells... Tastes... Tactile sensations... Ideas...
"Eye-consciousness... Ear-consciousness... Nose-consciousness... Tongue-consciousness... Body-consciousness... Intellect-consciousness...
"Eye-contact... Ear-contact... Nose-contact... Tongue-contact... Body-contact... Intellect-contact...
"Feeling born of eye-contact... Feeling born of ear-contact... Feeling born of nose-contact... Feeling born of tongue-contact... Feeling born of body-contact... Feeling born of intellect-contact...
"Perception of forms... Perception of sounds... Perception of smells... Perception of tastes... Perception of tactile sensations... Perception of ideas...
"Intention for forms... Intention for sounds... Intention for smells... Intention for tastes... Intention for tactile sensations... Intention for ideas...
"Craving for forms... Craving for sounds... Craving for smells... Craving for tastes... Craving for tactile sensations... Craving for ideas...
"Thought directed at forms... Thought directed at sounds... Thought directed at smells... Thought directed at tastes... Thought directed at tactile sensations... Thought directed at ideas...
"Evaluation of forms... Evaluation of sounds... Evaluation of smells... Evaluation of tastes... Evaluation of tactile sensations... Evaluation of ideas is endearing and alluring in terms of the world. That is where, when being abandoned, this craving is abandoned. That is where, when ceasing, it ceases.
"This is called the noble truth of the cessation of stress.
[d] "And what is the noble truth of the path of practice leading to the cessation of stress? Just this very noble eightfold path: right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration.
"And what is right view? Knowledge with regard to stress, knowledge with regard to the origination of stress, knowledge with regard to the cessation of stress, knowledge with regard to the way of practice leading to the cessation of stress: This is called right view.
"And what is right resolve? Aspiring to renunciation, to freedom from ill will, to harmlessness: This is called right resolve.
"And what is right speech? Abstaining from lying, from divisive speech, from abusive speech, and from idle chatter: This is called right speech.
"And what is right action? Abstaining from taking life, from stealing, and from sexual intercourse. This is called right action.
"And what is right livelihood? There is the case where a noble disciple, having abandoned dishonest livelihood, keeps his life going with right livelihood: This is called right livelihood.
"And what is right effort? There is the case where a monk generates desire, endeavors, arouses persistence, upholds and exerts his intent for the sake of the non-arising of evil, unskillful qualities that have not yet arisen... for the sake of the abandoning of evil, unskillful qualities that have arisen... for the sake of the arising of skillful qualities that have not yet arisen... (and) for the maintenance, non-confusion, increase, plenitude, development, and culmination of skillful qualities that have arisen: This is called right effort.
"And what is right mindfulness? There is the case where a monk remains focused on the body in and of itself -- ardent, alert, and mindful -- putting aside greed and distress with reference to the world. He remains focused on feelings in and of themselves... the mind in and of itself... mental qualities in and of themselves -- ardent, alert, and mindful -- putting aside greed and distress with reference to the world. This is called right mindfulness.
"And what is right concentration? There is the case where a monk -- quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful (mental) qualities -- enters and remains in the first jhana: rapture and pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought and evaluation. With the stilling of directed thought and evaluation, he enters and remains in the second jhana: rapture and pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought and evaluation -- internal assurance. With the fading of rapture he remains in equanimity, mindful and alert, physically sensitive of pleasure. He enters and remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous and mindful, he has a pleasurable abiding.' With the abandoning of pleasure and pain -- as with the earlier disappearance of elation and distress -- he enters and remains in the fourth jhana: purity of equanimity and mindfulness, neither pleasure nor pain. This is called right concentration.
"This is called the noble truth of the path of practice leading to the cessation of stress.
"In this way he remains focused internally on mental qualities in and of themselves, or externally on mental qualities in and of themselves, or both internally and externally on mental qualities in and of themselves. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to mental qualities, on the phenomenon of passing away with regard to mental qualities, or on the phenomenon of origination and passing away with regard to mental qualities. Or his mindfulness that 'There are mental qualities' is maintained to the extent of knowledge and remembrance. And he remains independent, unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on mental qualities in and of themselves with reference to the four noble truths...
(E. Conclusion)
"Now, if anyone would develop these four frames of reference in this way for seven years, one of two fruits can be expected for him: either gnosis right here and now, or -- if there be any remnant of clinging-sustenance -- non-return.
"Let alone seven years. If anyone would develop these four frames of reference in this way for six years... five... four... three... two years... one year... seven months... six months... five... four... three... two months... one month... half a month, one of two fruits can be expected for him: either gnosis right here and now, or -- if there be any remnant of clinging-sustenance -- non-return.
"Let alone half a month. If anyone would develop these four frames of reference in this way for seven days, one of two fruits can be expected for him: either gnosis right here and now, or -- if there be any remnant of clinging-sustenance -- non-return.
"'This is the direct path for the purification of beings, for the overcoming of sorrow and lamentation, for the disappearance of pain and distress, for the attainment of the right method, and for the realization of Unbinding -- in other words, the four frames of reference.' Thus was it said, and in reference to this was it said."
That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.
Source: http://www.accesstoinsight.org/canon/digha/dn22.html