Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
13. Kinh Tevijja (Tam minh)
(Tevijja sutta)
1.
Như vầy tôi nghe. Một thời
Thế Tôn đang
du hành ở Kosala (Câu-tát-la) cùng với
đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị và đi đến một làng Bà-la-môn ở Kosala tên là Manasàkata. Tại đây, ở Manasakata,
Thế Tôn trú tại một vườn xoài trên bờ sông Aciravati (A-trí-la-phạt-để), phía Bắc làng Manasàkata.
2. Lúc bấy giờ, nhiều Bà-la-môn
trứ danh,
đại phú hào ở tại Manasàkata như Bà-la-môn Canki (Thường-già), Bà-la-môn Tàrukkha (Đa-lê-xa) Bà-la-môn Pokkharasàti (Phí-già-la-bà-la), Bà-la-môn Jànussoni (Sanh Lậu), Bà-la-môn Todeyya (Đạo-đề-da) và nhiều Bà-la-môn
trứ danh,
đại phú hào khác.
3. Lúc bấy giờ, một cuộc nghị luận về
chánh đạo và
tà đạo khởi lên giữa Vàsettha (Bà-tất-sá) và Bhàradvàja (Bạt-la-đà-phạn-xà) trong khi
đi bách bộ để
tĩnh dưỡng, vừa đi vừa
suy nghĩ tư duy.
4. Thanh niên Bà-la-môn Vàsettha nói:
- Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo. Đó là
con đường do Bà-la-môn Pokkharasàti giảng dạy;
5. Thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja nói:
- Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo, đó là
con đường do Bà-la-môn Tàrukkha giảng dạy.
6. Thanh niên Bà-la-môn Vàsettha không thể
thuyết phục được thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja và thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja, cũng không thể
thuyết phục được thanh niên Bà-la-môn Vàsettha.
7. Khi ấy thanh niên Bà-la-môn Vàsettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja:
- Này Bhàradvàja, Sa-môn Gotama là
Thích tử,
xuất gia từ
dòng họ Thích-ca, nay trú ở Manasàkata, tại một vườn xoài trên bờ sông Aciravati, phía Bắc làng Manasàkata.
Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về
Tôn giả Gotama: "Ngài là
Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Này Bhàradvàja, hãy đến Sa-môn Gotama và hỏi Sa-môn Gotama về
nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama
trả lời như thế nào,
chúng ta sẽ như vậy
thọ trì.
-
Tôn giả, xin vâng!
Thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja
trả lời với thanh niên Bà-la-môn Vàsettha.
8. Lúc bấy giờ hai thanh niên Bà-la-môn Vàsettha và Bhàradvàja đến
Thế Tôn, khi đã đến liền nói những lời chào đón
hỏi thăm xã giao với
Thế Tôn và ngồi xuống một bên, khi ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vàsettha bạch
Thế Tôn:
-
Tôn giả Gotama, một cuộc nghị luận về
chánh đạo và
tà đạo khởi lên giữa hai
chúng tôi trong khi
đi bách bộ để
tĩnh dưỡng vừa đi vừa
suy nghĩ,
tư duy. Tôi nói
như vầy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo, hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo, đó là
con đường do Bà-la-môn Pokkharasàti giảng dạy". Thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja nói
như vầy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo, đó là
con đường do Bà-la-môn Tàrukkha giảng dạy".
Tôn giả Gotama , đó là sự
tranh luận,
sự luận chấp, đó là sự bất
đồng ý kiến.
9. Này Vàsettha, Ngươi nói
như vầy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo, hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo. Đó là
con đường do Bà-la-môn Pokkharasàti giảng dạy". Còn thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja nói
như vầy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng , dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo, đó là
con đường do Bà-la-môn Tàrukkha giảng dạy". Này Vàsettha, ở nơi đây
tranh biện về
vấn đề gì, luận chấp về
vấn đề gì và bất
đồng ý kiến về
vấn đề gì?
10. -
Tôn giả Gotama, về
vấn đề chánh đạo và
tà đạo.
Tôn giả Gotama, nhiều Bà-la-môn thuyết dạy nhiều
con đường sai khác như các vị Bà-la-môn Addhàriyà, các vị Bà-la-môn Tittiriyà, và các vị Bà-la-môn Chandokà, các vị Bà-la-môn Chandavà, các vị Bà-la-môn Bràhmacariyà - tất cả
con đường này hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo.
Tôn giả Gotama, như gần làng hay gần trị trấn có nhiều
con đường sai khác, nhưng tất cả
con đường này đều dẫn đến làng. Cũng vậy,
Tôn giả Gotama, nhiều Bà-la-môn thuyết dạy nhiều
con đường sai khác - như các Bà-la-môn Addhariyà, các vị Bà-la-môn Tittiriyà, các vị Bà-la-môn Chandokà, các vị Bà-la-môn Chandàvà, các vị Bà-la-môn Bràhmacariyà. Tất cả
con đường này hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo.
- Này Vàsettha, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến?"
-
Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn đến".
- Này Vàsettha, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến".
-
Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn đến".
- Này Vàsettha, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến".
-
Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn dến".
12. - Thế nào Vàsettha? Có Bà-la-môn nào trong những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà tận mặt đã thấy Phạm thiên?
-
Tôn giả Gotama, không có vị nào.
- Thế nào Vàsettha? Có
tôn sư nào của các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên?
-
Tôn giả Gotama, không có vị nào.
- Thế nào Vàsettha? Có Bà-la-môn nào
cho đến bảy đời
tôn sư và đại
tôn sư của những vị Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt nhìn thấy Phạm thiên?
-
Tôn giả Gotama, không có vị nào.
13. - Thế nào, này Vàsettha. Những vị
tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà, những vị
sáng tác các
thần chú, những vị trì tụng
thần chú mà
xưa kia những
thần chú được hát lên, được trì tụng, được
ngâm vịnh và ngày nay những vị Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và ngâm giảng như các vị Atthaka (A-sá-ca) Vàmaka (Bà-ma), Vàmadeva (Bà-ma-đề-bà), Angirasa (Ương-kỳ-sá), Bhàradvàja (Bạt-la-đà-phan-xà), Vàsettha (Bà-tất-sá), Kassapa (Ca-diếp), Bhagu (Bà-cữu), những vị này có nói: "Chúng tôi biết,
chúng tôi thấy chỗ ở
Phạm thiên, chỗ đến
Phạm thiên, chỗ đi Phạm thiên?"
-
Tôn giả Gotama, không có vị nào.
14. - Này Vàsettha, như vậy Ngươi nói không có một Bà-la-môn nào trong những vị
tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy
Phạm thiên - không có một
tôn sư nào của các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy
Phạm thiên, không có một đại
tôn sư nào của ác Bà-la-môn
tinh thông ba tập và đã tận mặt thấy
Phạm thiên - không có một Bà-la-môn nào
cho đến bảy đời đại
tôn sư,
tôn sư của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà đã tận mắt thấy
Phạm thiên, trong những
tu sĩ thời cổ, trong các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà, những vị
sáng tác các
thần chú, những vi trì tụng
thần chú mà
xưa kia những
thần chú được hát lên, được trì tụng, được
ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy như các vị Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmita, Yamataggi, Angirasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu, không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết,
chúng tôi thấy
Phạm thiên ở đâu,
Phạm thiên từ đâu đến,
Phạm thiên sẽ đi đâu". Như vậy các bà Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà đã nói: "Chúng tôi không biết,
chúng tôi không thấy
con đường đưa đến cộng trú với
Phạm thiên, nhưng
chúng tôi thuyết dạy
con đường ấy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo".
Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy thời có phải
lời nói của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý?
-
Tôn giả Gotama,
sự kiện là như vậy thời
lời nói của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác,
hợp lý.
15. - Này Vàsettha, những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không biết, không thấy
con đường đưa đến cộng trú với
Phạm thiên mà thuyết dạy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo",
thật không thể có
sự kiện ấy. Này Vàsettha,
ví như một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người trước không thấy, người giữa cũng không thấy, người
cuối cùng cũng không thấy. Như vậy, này Vàsettha
lời nói của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà, người đầu không thấy, giữa cũng không thấy, người
cuối cùng cũng không thấy, giống như
lời nói mù quáng.
Lời nói của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà như vậy là
lời nói đáng chê cười, là
lời nói suông, là
lời nói không tưởng, là
lời nói trống rỗng.
16. - Này Vàsettha, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà như phần đông nhiều người khác - có thể thấy
mặt trăng,
mặt trời không, trong khi các vị này
cầu khẩn,
tán thán, vừa đi
xung quanh, vừa
chấp tay và
đảnh lễ chỗ
mặt trăng,
mặt trời mọc và lặn?
- Thưa vâng,
Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà như phần đông nhiều người khác có thể thấy
mặt trăng,
mặt trời, trong khi các vị này
cầu khẩn,
tán thán, vừa đi
xung quanh, vừa
chấp tay đảnh lễ chỗ
mặt trăng,
mặt trời mọc và lặn.
17. - Này Vàsettha, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà - như phần đông nhiều người khác thấy
mặt trăng,
mặt trời, trong khi các vị này
cầu khẩn,
tán thán, vừa đi
xung quanh, vừa
chấp tay và
đảnh lễ chỗ
mặt trăng mặt trời mọc và lặn, những vị này có thể thuyết dạy
con đường đưa đến sự cộng trú với
mặt trăng mặt trời không? Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
mặt trăng,
mặt trời cho những ai
thực hành theo?
-
Tôn giả Gotama, không thể được!
18. - Này Vàsettha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà như phần đông nhiều người khác, thấy
mặt trăng,
mặt trời trong khi các vị này
cầu khẩn tán thán, vừa đi
xung quanh, vừa
chấp tay và
đảnh lễ chỗ
mặt trăng,
mặt trời mọc và lặn, những vị này không có thể thuyết dạy
con đường đưa đến sự cộng trú với
mặt trăng mặt trời: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cọng trú với
mặt trăng,
mặt trời cho những ai
thực hành theo". Ngươi cũng nói các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được
Phạm thiên, các
tôn sư, các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được
Phạm thiên, các đại
tôn sư các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được
Phạm thiên, các Bà-la-môn
cho đến bảy đời đại
tôn sư,
tôn sư của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được
Phạm thiên. Ngươi cũng nói trong những
tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà, những vị
sáng tác các
thần chú, được hát lên, được trì tụng, được
ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy - như các vị Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Anigirasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu, không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết,
chúng tôi thấy
Phạm thiên ở đâu,
Phạm thiên từ đâu đến,
Phạm thiên sẽ đi đâu". Như vậy các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà đã nói: "Chúng tôi không biết,
chúng tôi không thấy
con đường đưa đến cộng trú với
Phạm thiên, nhưng
chúng tôi thuyết dạy
con đường ấy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo". Này Vàsettha, nhà Ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy, thời có phải
lời nói của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý?"
-
Tôn giả Gotama,
sự kiện là như vậy, thời
lời nói của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác,
hợp lý.
-
Lành thay, này Vàsettha! Những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không biết, không thấy
con đường đưa đến cọng trú với
Phạm thiên mà thuyết dạy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo".
Thật không có
sự kiện ấy.
19. Này Vàsettha, như có người nói: "Tôi yêu và
ái luyến một cô gái đẹp trong nước này". Có người hỏi: "Này bạn, cô gái đẹp mà Ông yêu và
ái luyến ấy, Ông có biết là người
giai cấp nào, là Sát-đế-lỵ, hay Bà-la-môn, hay Phệ-xá, hay Thủ-đà?" Khi được hỏi, người ấy
trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, cô gái đẹp Ông yêu và
ái luyến ấy, Ông có biết tên gì, họ gì, lớn người, thấp người hay người bậc trung? Da đen sẩm, da ngăm ngăm đen hay da hồng hào? Ở tại làng nào, ấp nào, hay thành phố nào?" Khi được hỏi vậy, người ấy
trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, như vậy có phải Ông đã yêu và đã
ái luyến một người Ông không biết, không thấy?" Được hỏi vậy, vị ấy
trả lời phải. Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy, thời có phải
lời nói của người kia là không chánh xác, hợp lý?
Vâng phải,
Tôn giả Gotama.
Sự kiện là như vậy, thời
lời nói của người kia không chánh xác,
hợp lý.
20. - Cũng vậy, này Vàsettha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được
Phạm thiên, các đại
tôn sư các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được
Phạm thiên, các Bà-la-môn
cho đến bảy đời đại
tôn sư,
tôn sư của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà, không thể tận mắt thấy được
Phạm thiên. Ngươi cũng nói những
tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà, những vị
sáng tác các
thần chú, những vị trì tụng
thần chú mà
xưa kia các
thần chú được hát lên, được trì tụng, được
ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, cũng trì tụng và giảng dạy như các vị Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angirasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu, không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết,
chúng tôi thấy
Phạm thiên ở đâu,
Phạm thiên từ đâu đến,
Phạm thiên sẽ đi đâu". Như vậy các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà đã nói: "Chúng tôi không biết,
chúng tôi không thấy
con đường đưa đến sự cộng trú với
Phạm thiên nhưng
chúng tôi thuyết dạy
con đường ấy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo". Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy, thời có phải
lời nói của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý?
-
Tôn giả Gotama,
sự kiện là như vậy thời
lời nói của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác,
hợp lý.
-
Lành thay, Vàsettha, những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không biết, không thấy
con đường đưa đến cộng trú với
Phạm thiên mà thuyết dạy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo",
thật không có
sự kiện ấy.
21. Này Vàsettha, như một người muốn xây tại ngã tư đường một cái thang để leo lên lầu. Có người hỏi: "Này bạn, Ông muốn xây một cái thang để leo lên lầu, vậy Ông có biết lầu ấy là về hướng Đông, hay về
hướng Tây, hay về hướng Bắc, hay về hướng Nam? Nhà lầu ấy cao hay thấp, hay trung bình?". Được hỏi vậy, vị ấy
trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, như vậy có phải Ông xây một cái thang để leo lên một cái lầu mà Ông không biết, không thấy?". Hỏi vậy, vị ấy
trả lời phải. Này Vàsettha, ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy, thời có phải
lời nói người kia không chánh xác, hợp lý?
- Vâng phải, bạch
Thế Tôn.
Sự kiện là như vậy thời
lời nói của người kia là không chánh xác,
hợp lý.
22. - Cũng vậy, này Vàsettha. Ngươi nói rằng các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được
Phạm thiên, các
tôn sư các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được
Phạm thiên, các đại
tôn sư các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được
Phạm thiên, các Bà-la-môn
cho đến bảy đời đại
tôn sư,
tôn sư của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được
Phạm thiên. Người cũng nói trong những
ẩn sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà, những vị
sáng tác các
thần chú, những vị trì tụng
thần chú mà
xưa kia những
thần chú được hát lên, được trì tụng, được bình tán và ngày nay những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy - như các vị Atthaka, Vamaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angirasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu, không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết,
chúng tôi thấy
Phạm thiên ở đâu,
Phạm thiên từ đâu đến,
Phạm thiên sẽ đi đâu?" Như vậy các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà đã nói: "Chúng tôi không biết,
chúng tôi không thấy
con đường đưa đến sự cộng trú với
Phạm thiên nhưng
chúng tôi thuyết dạy
con đường ấy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo". Này Vàsettha, ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy thời có phải
lời nói của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý?
-
Tôn giả Gotama,
sự kiện là như vậy thời
lời nói của những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là không
chính xác hợp lý.
23. -
Lành thay, Vàsettha. Những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không biết, không thấy
con đường đưa đến cộng trú với
Phạm thiên mà thuyết dạy: "Đây là
trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những ai
thực hành theo".
Thật không có
sự kiện ấy.
24. Này Vàsettha, như sông Aciravati này, đầy tràn
cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến, có sự việc bên
bờ bên kia, tìm
đến bờ bên kia, hướng
đến bờ bên kia và muốn lội qua
bờ bên kia. Người đứng bờ bên này kêu
bờ bên kia và nói: "Bờ bên kia, hãy lại đây!
Bờ bên kia, hãy lại đây". Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Có phải vì người kia kêu gọi
bờ bên kia, vì
cầu khẩn, vì
hy vọng, vì
tán thán mà
bờ bên kia của sông Aciravati đến bờ bên này không?
-
Tôn giả Gotama, không thể vậy.
25. - Cũng vậy, này Vàsettha, những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà,
loại bỏ những pháp
tác thành người Bà-la-môn,
tuân theo những
pháp không tác thành người Bà-la-môn, những vị này đã nói: "Chúng tôi
cầu khẩn Indra (Nhân-đà-la),
chúng tôi cầu khẩn Soma (Tô-ma),
chúng tôi cầu khẩn Vanena (Bà-lưu-va),
chúng tôi cầu khẩn Isàna (Y-sa-na),
chúng tôi cầu khẩn Pajàpati (
Sanh chủ),
chúng tôi cầu khẩn Brahmà (
Phạm thiên),
chúng tôi cầu khẩn Mahiddhi (Ma-hi-đề),
chúng tôi cầu khẩn Yama (Dạ-ma). Này Vàsettha, những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà ấy,
loại bỏ những pháp
tác thành người Bà-la-môn - vì kêu gọi, vì
cầu khẩn, vì
hy vọng, vì
tán thán, sau khi thân hoại
mạng chung, những vị ấy sẽ cộng trú với
Phạm thiên -
Thật không có
sự kiện ấy.
26. - Này Vàsettha, như sông Aciravati này, đầy tràn
cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến, có sự việc bên
bờ bên kia, tiến
đến bờ bên kia, hướng
đến bờ bên kia, và muốn lội qua
bờ bên kia. Người này đứng bên bờ này kêu
bờ bên kia và nói: "Bờ bên kia hãy lại đây!
Bờ bên kia hãy lại đây!" Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Có phải vì người kia kêu gọi
bờ bên kia, vì
cầu khẩn, vì
hy vọng, vì
tán thán mà
bờ bên kia của sông Aciravati đến bờ bên này không?
-
Tôn giả Gotama, không thể vậy.
27. - Cũng vậy, này Vàsettha, có năm pháp khiến
dục lạc tăng thịnh. Năm pháp này được xem là sợi dây chuyền, sợi dây thắng trong
giới luật của bậc Thánh. Thế nào là năm? Những
sắc pháp do mắt cảm nhận khả ái, mỹ miều,
thích thú,
hấp dẫn,
câu hữu với dục,
ái lạc; những tiếng do tại cảm nhận... những hương do mũi cảm nhận... những vị do lưỡi cảm nhận.. những xúc do thân cảm nhận khả ái, mỹ miều,
thích thú,
hấp dẫn,
câu hữu với
dục lạc. Này Vàsettha, năm pháp khiến
dục lạc tăng thịnh ấy, được xem là sợi dây chuyền, sợi dây thắng trong
giới luật của bậc Thánh. Này Vàsettha, năm pháp khiến
dục lạc tăng thịnh ấy, các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà
chấp trước, mê đắm, bị
trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không
nhận thức sự không
thoát ly của chúng, đã tận hưởng năm pháp ấy.
28. - Này Vàsettha, những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà,
loại bỏ những pháp
tác thành người Bà-la-môn,
tuân theo những
pháp không tác thành người Bà-la-môn,
chấp trước, mê đắm, bị
trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không
nhận thức sự không
thoát ly của chúng, tận hưởng chúng, bị
trói buộc bởi sự
trói buộc của
dục lạc, sau khi thân hoại
mạng chung sẽ cộng trú với
Phạm thiên,
thật không có
sự kiện ấy.
29. - Này Vàsettha, như sông Acivarati này, đầy tràn
cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến, có sự việc bên
bờ bên kia, tìm
đến bờ bên kia, hướng
đến bờ bên kia và muốn lội qua
bờ bên kia. Người này ở bên bờ này trùm đầu và
nằm ngủ. Này Vàsettha, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Người ấy có thể từ bên này của sông Aciravati
đến bờ bên kia không?
-
Tôn giả Gotama, không có thể được.
30. - Cũng vậy, này Vàsettha, có năm
triền cái được gọi là
chướng ngại, cũng được gọi là
triền cái, cũng được gọi là
màn che, cũng được gọi là
triền phược trong
giới luật của bậc Thánh. Thế nào là năm? Dục cái, sân cái,
hôn trầm thụy miên cái,
trạo hối cái,
nghi cái. Này Vàsettha, năm
triền cái này được gọi là
chướng ngại, cũng được gọi là
triền cái, cũng được gọi là
màn che, cũng được gọi là
triền phược. Này Vàsettha, các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà, bị
chướng ngại, bị
triền phược, bị
che đậy, bị
trói buộc bởi năm
triền cái này, Này Vàsettha, thật vậy, những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà,
loại bỏ những pháp
tác thành người Bà-la-môn,
tuân theo những
pháp không tác thành người Bà-la-môn, bị
chướng ngại, bị
triền phược, bị
che đậy, bị
trói buộc bởi năm
triền cái, sau khi thân hoại
mạng chung, sẽ cộng trú với
Phạm thiên -
Thật không thể có
sự kiện ấy.
31. Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Ngươi có nghe những Bà-la-môn niên cao lạp trưởng,
tôn sư và đại
tôn sư cùng nhau nói chuyện không?
Phạm thiên có
dục ái hay không dục ái?
-
Tôn giả Gotama, không có
dục ái.
- Có hận tâm hay không hận tâm?
-
Tôn giả Gotama, không có hận tâm.
- Có
sân tâm hay không sân tâm?
-
Tôn giả Gotama, không có
sân tâm.
- Có
nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?
-
Tôn giả Gotama, không có
nhiễm tâm.
- Có
tự tại hay không có tự tại?
-
Tôn giả Gotama, có
tự tại.
32. - Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà có
dục ái hay không dục ái?
-
Tôn giả Gotama, có
dục ái.
- Có hận tâm hay không hận tâm?
-
Tôn giả Gotama, có hận tâm.
- Có
sân tâm hay không có sân tâm?
-
Tôn giả Gotama, có
sân tâm.
- Có
nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?
-
Tôn giả Gotama, có
nhiễm tâm.
- Có
tự tại hay không có tự tại?
-
Tôn giả Gotama, không có
tự tại.
33. - Này Vàsettha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là có
tham ái,
Phạm thiên không có
tham ái. Giữa các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là có
tham ái với
Phạm thiên không có
tham ái, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
-
Tôn giả Gotama, không thể có được.
34. -
Lành thay, Vàsettha. Này Vàsettha, những Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà có
dục ái ấy sau khi thân hoại
mạng chung sẽ cộng trú với
Phạm thiên -
Thật không thể có
sự kiện ấy.
35. - Này Vàsettha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà có hận tâm,
Phạm thiên không có hận tâm... các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là có
sân tâm,
Phạm thiên không có
sân tâm... các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà là có
nhiễm tâm,
Phạm thiên không có
nhiễm tâm... các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà không có
tự tại,
Phạm thiên có
tự tại.
Giữa các Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà, không có
tự tại với
Phạm thiên có
tự tại có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
-
Tôn giả Gotama, không thể có được.
36. -
Lành thay, Vàsettha. Này Vàsettha, những vị Bà-la-môn
tinh thông ba tập Vedà sau khi thân hoại
mạng chung sẽ cộng trú với
Phạm thiên -
Thật không thể có
sự kiện ấy.
Này Vàsettha, ở đời các Bà-la-môn dầu có
tinh thông ba tập Vedà, khi các vị này ngồi (với sự
tự tín), thật sự đang chìm (trong
bùn lầy), và khi đang chìm (trong
bùn lầy) phải sống trong
thất vọng, lầm tưởng rằng đã đến
cảnh giới an lạc hơn. Do vậy đối với những Bà-la-môn
tinh thông Vedà sự
tinh thông ấy được gọi là bãi sa mạc không có nước, sự
tinh thông ấy cũng được gọi là rừng rậm không có đường lối, sự
tinh thông ấy cũng được gọi là sự
bất hạnh.
37. Khi nghe vậy, thanh niên Bà-la-môn Vàsettha bạch
Thế Tôn:
-
Tôn giả Gotama, tôi có nghe nói Sa-môn Gotama biết
con đường đưa đến cộng trú với
Phạm thiên.
- Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Ở đây có người
sinh trưởng ở Manasàkata, nhưng
chưa bao giờ rời khỏi chỗ này. Có người hỏi
con đường đưa đến Manasàkata. Này Vàsettha, đối với người ấy đã
sinh trưởng ở Manasàkata, chắc không có gì
nghi ngờ hay khó khăn thì phải?
-
Tôn giả Gotama,
thật không có gì
nghi ngờ hay khó khăn. Vì cớ sao?
Tôn giả Gotama, người ấy
sinh trưởng ở Manasàkata đều biết rõ tất cả
con đường đưa đến Manasàkata.
38. - Này Vàsettha, đối với người ấy đã
sinh trưởng Manasàkata, còn có thể
nghi ngờ và có khó khăn hỏi đến
con đường đưa đến Manasàkata nhưng đối với
Như Lai thì không có
nghi ngờ hay khó khăn gì khi hỏi đến
Phạm thiên giới hay
con đường đưa đến
Phạm thiên giới! Này Vàsettha, Ta biết đến
Phạm thiên,
Phạm thiên giới và
con đường đưa đến
Phạm thiên giới.
39. Khi nghe nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Vàsettha bạch
Thế Tôn:
-
Tôn giả Gotama, tôi đã nghe: "Sa-môn Gotama, giảng dạy
con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên".
Lành thay, nếu Sa-môn Gotama thuyết dạy
con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên! Mong
Tôn giả Gotama
tế độ chúng Bà-la-môn!
- Này Vàsettha, vậy hãy lóng nghe và khéo
tác ý kỹ? Ta sẽ nói:
40. Này Vàsettha, nay ở đời
đức Như Lai xuất hiện, là bậc A-la-hán,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn.
Đức Như Lai sau khi tự mình
chứng ngộ với thượng trí,
thế giới này với
Thiên giới,
Ma giới,
Phạm thiên giới, gồm cả
thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người lại
tuyên thuyết điều Ngài đã
chứng ngộ. Ngài
thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy
phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ
thanh tịnh.
41. Người gia trưởng hay con vị gia trưởng, hay một người sinh ở
giai cấp (hạ tiện) nào
nghe pháp ấy. Sau khi
nghe pháp, người ấy sanh lòng
tín ngưỡng Như Lai. Khi có
lòng tin ngưỡng ấy, vị này
suy nghĩ: "Đời sống
gia đình đầy những
triền phược,
con đường đầy những bụi đời.
Đời sống xuất gia phóng khoáng như
hư không. Thật rất khó cho một người sống ở
gia đình có thể sống theo
phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ,
hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà sa,
xuất gia,
từ bỏ gia đình". Một
thời gian sau, người ấy bỏ
tài sản nhỏ hay bỏ
tài sản lớn, bỏ
bà con quyến thuộc nhỏ hay
bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà sa, và
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
42. Khi đã
xuất gia như vậy, vị ấy sống
chế ngự với sự
chế ngự của
giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ
oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt,
thọ lãnh và
tu học trong
giới pháp,
thân nghiệp,
ngữ nghiệp,
thanh tịnh. Mạng sống
trong sạch,
giới hạnh đầy đủ,
thủ hộ các căn,
chánh niệm,
tỉnh giác và biết
tri túc.
43. Này Vàsettha, thế nào là Tỷ-kheo
giới hạnh cụ túc?
Ở đây, này Vàsettha, Tỷ-kheo
từ bỏ sát sinh, tránh xa
sát sinh... do
lạc thọ, tâm được định tĩnh... chứng và trú thiền thứ nhất, ... (như kinh
Sa-môn quả, đoạn kinh số 43-75).
76. Vị ấy
an trú, biến mãn một phương với tâm
câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp
vô biên giới, vị ấy
an trú biến mãn với tâm
câu hữu với từ,
quảng đại,
vô biên, không hận, không sân.
77. Này Vàsettha, như người
lực sĩ thổi tù và khiến tiếng được nghe khắp bốn phương, không có gì khó khăn, cũng vậy này Vàsettha, đối với mọi
hình thức của sự sống, không có ai là vị ấy bỏ qua hay
bỏ sót mà không biến mãn với
tâm giải thoát,
câu hữu với từ. Này Vàsettha, đó là
con đường đưa đến cộng trú với
Phạm thiên.
78. Lại nữa, này Vàsettha, vị Tỷ-kheo
an trú, biến mãn một phương với tâm
câu hữu với bi... với tâm
câu hữu với hỷ... biến mãn một phương với tâm
câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang hết thảy phương xứ, cùng khắp
vô biên giới, vị ấy
an trú biến mãn với tâm
câu hữu với xả,
quảng đại,
vô biên, không hận, không sân.
79. Này Vàsettha, như người
lực sĩ thổi tù và khiến tiếng được nghe khắp bốn phương, không có gì khó khăn, cũng vậy này Vàsettha, đối với mọi
hình thức của sự sống, không có ai là vị ấy bỏ qua hay
bỏ sót mà không biến mãn với
tâm giải thoát, cùng khởi với xả. Này Vàsettha, đó là
con đường đưa đến cộng trú với
Phạm thiên.
80. Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Tỷ-kheo
an trú như vậy là có
dục ái hay không dục ái?
-
Tôn giả Gotama, không có
dục ái.
- Có hận tâm hay không có hận tâm?
-
Tôn giả Gotama, không có hận tâm.
- Có
sân tâm hay không có sân tâm?
-
Tôn giả Gotama, không có
sân tâm.
- Có
nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?
-
Tôn giả Gotama, không có
nhiễm tâm.
- Có
tự tại hay không có tự tại?
-
Tôn giả Gomata, có
tự tại.
81. Này Vàsettha, Ngươi nói Tỷ-kheo không có
dục ái,
Phạm thiên không có
dục ái. Giữa Tỷ-kheo không có
dục ái với
Phạm thiên không có
dục ái, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
-
Tôn giả Gotama, có thể có được.
-
Lành thay, Vàsettha. Này Vàsettha, Tỷ-kheo sau khi tâm thân hoại
mạng chung sẽ cọng trú với
Phạm thiên. Thật có thể có
sự kiện ấy.
Này Vàsettha, Ngươi nói Tỷ-kheo không có hận tâm,
Phạm thiên không có hận tâm... Tỷ-kheo không có
nhiễm tâm,
Phạm thiên không có
nhiễm tâm. Tỷ-kheo có
tự tại,
Phạm Thiên có
tự tại. Giữa Tỷ-kheo có
tự tại với
Phạm thiên có
tự tại, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
-
Tôn giả Gotama, có thể có được.
-
Lành thay, Vàsettha. Này Vàsettha, Tỷ-kheo sau khi thân hoại
mạng chung sẽ cọng trú với
Phạm thiên.
Sự kiện ấy thật có thể có.
82. Khi nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vàsettha và Bharadvàja bạch
Thế Tôn:
- Thật
vi diệu thay,
Tôn giả Gotama! Thật
vi diệu thay,
Tôn giả Gotama!
Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng
ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín,
chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy
Chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều
phương tiện trình bày.
Và nay chúng con xin
quy y Tôn giả Gotama,
quy y Pháp và
quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong
Tôn giả Gotama nhận chúng con làm
đệ tử; từ này trở đi
cho đến mạng chung, chúng con
trọn đời quy ngưỡng.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt