Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
6. Kinh Mahàli
(Mahàli sutta)
1. Như vậy tôi nghe. Một thời
đức Thế Tôn trú tại Vesali (Tỳ-xá-ly) ở
giảng đường Trùng Các, rừng
Đại Lâm. Lúc bấy giờ, một số đông
sứ giả Bà-la-môn nước Kosala (Câu-tất-la) và nước Magadha (Ma-kiệt-đà), đang ở tại Vesali vì một vài công việc. Những vị
sứ giả ấy được nghe như sau: "Này các
Tôn giả, Sa-môn Gotama là
Thích tử,
xuất gia từ
dòng họ Thích-ca hiện nay đang trú tại Vesali, ở
giảng đường Trùng Các, rừng
Đại Lâm.
Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn Gotama: "Ngài là bậc
Thế Tôn, A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn. Ngài đã
tự chứng ngộ
thế giới này với
Thiên giới,
Ma giới,
Phạm thiên giới, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên và
loài Người,
tự chứng ngộ rồi
hiển thị cho mọi loài được biết. Ngài
thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày
phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh". Nếu được
yết kiến một vị A-la-hán như
vậy thì rất quý".
2. Những vị
sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và ở Magadha ấy đi đến
giảng đường tại rừng
Đại Lâm. Lúc bấy giờ,
đại đức Nàgita là
thị giả đức Thế Tôn. Những vị
sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và ở Magadha ấy đi đến chỗ
đại đức Nàgita ở và thưa:
-
Tôn giả Nàgita, hiện nay
Tôn giả Gotama ở tại đâu,
chúng tôi muốn
yết kiến Tôn giả Gotama.
- Các
Hiền giả, nay không phải thời
yết kiến đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn đang
chỉ tịnh. Những
sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha liền ngồi xuống tại một bên và nói: "Sau khi được
yết kiến Tôn giả Gotama,
chúng tôi mới đi".
3. Otthadda (Môi thỏ) người Licchavi cùng với một số đông dân chúng Licchavi cũng đi đến
Trùng Các giảng đường, rừng
Đại Lâm gặp
đại đức Nàgita,
đảnh lễ vị này rồi đứng một bên. Otthadda người Licchavi thưa với
đại đức Nàgita:
- Hiện nay
đức Thế Tôn, A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác ở tại đâu, chúng con muốn
yết kiến đức Thế Tôn, A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác.
- Màhàli, nay không phải thời
yết kiến đức Thế Tôn,
Đức Thế Tôn đang
chỉ tịnh.
Otthadda người Licchavi liền ngồi xuống một bên tại chỗ ấy và nói:
- Sau khi được
yết kiến đức Thế Tôn, A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác con mới đi.
4. Khi ấy Sa-di Sìha đến
đại đức Nàgita,
đảnh lễ đại đức và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Sa-di Sìha nói với
đại đức Nàgita:
- Bạch
Đại đức Kassapa (Ca-diếp) một số đông
sứ giả Bà-La-môn ở Kosala và Magadha đã đến đây để
yết kiến đức Thế Tôn; Otthada người Licchavi cũng đến đây với số đông dân chúng Licchavi để
yết kiến đức Thế Tôn.
Đại đức Kassapa,
lành thay, nếu những vị này được
yết kiến đức Thế Tôn.
- Vậy Sìha hãy thưa với
đức Thế Tôn.
- Thưa vâng, bạch Đại đức!
Sa-di Sìha
vâng theo lời dạy của
đại đức Nàgita, đến tại chỗ
đức Thế Tôn,
đảnh lễ Ngài rồi đứng một bên. Sa-di Sìha sau khi đứng một bên liền
bạch đức Thế Tôn:
-
Bạch đức Thế Tôn, một số đông
sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha đến đây để
yết kiến đức Thế Tôn. Otthadda, người Licchavi cùng một số đông dân chúng Licchavi đã đến đây để
yết kiến đức Thế Tôn.
Lành thay nếu những vị này được
yết kiến đức Thế Tôn!
- Nay Sìha, hãy dọn chỗ ngồi trong bóng mát,
trước mặt ngôi
tịnh xá.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Sa-di Sìha
vâng theo lời dạy
đức Thế Tôn,
sắp đặt một chỗ ngồi trong bóng mát
trước mặt ngôi
tịnh xá, và
đức Thế Tôn đi ra khỏi
tịnh xá và ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn trong bóng mát,
trước mặt ngôi
tịnh xá.
5. Rồi các
sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha đến tại chỗ
đức Phật, nói lên những lời
chúc tụng thân hữu và
xã giao với
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Otthadda người Licchavi cùng với một số lớn dân Licchavi cũng đến tại chỗ
đức Phật,
đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Otthadda người Licchavi thưa với
Thế Tôn:
- Bạch
Đại đức, hai ba ngày về trước, Sunakkhatta,
dòng họ Licchavi đến chỗ con ở và nói với con: "Này Mahàli, từ khi tôi sống gần
đức Phật, không lâu quá ba năm, tôi được thấy những thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi nhưng không được nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi". Bạch
Thế Tôn, những thiên âm mà Sunakkhatta
dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, không hiểu những thiên âm ấy có thật hay không có thật?
- Này Mahàli những thiên âm mà Sunakkhatta
dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, những thiên âm ấy có thật, không phải không có.
6. - Bạch
Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, những thiên âm mà Sunakkhatta,
dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, những thiên âm ấy có thật, không phải là không có.
- Này Mahàli, có Tỷ-kheo tu định
nhất hướng, hướng về phía Đông với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nhưng không với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vì vị này tu định nhứt hướng, hướng về phía Đông với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nhưng không với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nên vị này thấy được về phía Đông các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nhưng không nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Đông, chỉ với
mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi nhưng không với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi.
7. Lại nữa, này Mahàli, có vị Tỷ-kheo tu định nhứt hướng, hướng về phía Nam... về phía Tây... về phía Bắc... phía Trên, Dưới, Ngang, với
mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nhưng không với
mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vị này tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang, với
mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nhưng không với
mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nên vị này thấy được về phía Trên, Dưới, Ngang, các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nhưng không nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang, chỉ với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi nhưng không với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi.
8. Này Mahàli, có vị Tỷ-kheo tu định
nhất hướng, hướng về phía Đông với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi nhưng không với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vì vị này tu định
nhất hướng, hướng về phía Đông với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nhưng không với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nên vị này
nghe được về phía Đông các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì vị Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Đông, chỉ với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi nhưng không với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi.
9. Lại nữa, này Mahàli, có Tỷ-kheo tu định nhứt hướng, hướng về phía Nam... hướng về phía Tây... hướng về phía Bắc... phía Trên, Dưới, Ngang với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú phấn khởi. Vì vị này tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nhưng không với
mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nên vị này
nghe được, phía Trên, Dưới, Ngang, các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nhưng không thấy được các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang chỉ với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi nhưng không với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi.
10. Này Mahàli, có Tỷ-kheo tu định nhị hướng, hướng về phía Đông với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi và với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vì vị tu định nhị hướng, hướng về phía Đông với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi và với
mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi nên vị này hướng về phía Đông thấy được các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi và
nghe được các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhị hướng, hướng về phía Đông với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi và với
mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi.
11. Này Mahàli, có vị Tỷ-kheo tu định nhị hướng, hướng về phía Nam...
hướng Tây... hướng về phía Bắc... về phía Trên, Dưới, Ngang, với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi và với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vì vị này tu định nhị hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi và với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi nên vị này hướng về phía Trên, Dưới, Ngang, thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi và nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vì cớ sao? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhị hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, và với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Này Mahàli, do nhân này, do duyên này, những thiên âm ấy có thật, không phải là không có.
12. - Bạch
Thế Tôn, như vậy có phải muốn chứng được các
pháp định thiền định ấy mà các Tỷ-kheo sống đời
phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
- Này Mahàli, không phải muốn chứng được các pháp
thiền định ấy mà các Tỷ-kheo sống đời
phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Ta. Này Mahàli, có những pháp khác cao thượng hơn,
thù thắng hơn. Vì muốn chứng được những pháp ấy, các vị Tỷ-kheo sống đời
phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Ta.
13. - Bạch
Thế Tôn, những pháp ấy, cao thượng hơn,
thù thắng hơn là gì mà các vị Tỷ-kheo vì muốn chứng được những pháp ấy sống đời
phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
- Này Mahàli, ở đây Tỷ-kheo đoạn dứt ba
kiết sử, thành bậc
Dự lưu, không đọa
ác thú,
chắc chắn đạt quả Bồ-đề. Này Mahàli, pháp này cao thượng và
thù thắng hơn, vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống
phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Ta.
Lại nữa, này Mahàli, Tỷ-kheo đoạn dứt ba
kiết sử làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành bậc
Nhứt lai, còn phải sanh lại
trong đời này
một lần nữa trước khi diệt hẳn khổ đau. Này Mahàli, pháp này cao thượng hơn và
thù thắng hơn. Vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống
phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Ta.
Lại nữa, này Mahàli, vị Tỷ-kheo đã đoạn dứt năm hạ phần
kiết sử, thành vị
hóa sanh, nhập Niết-bàn tại đây, không còn phải
trở lại thế giới này nữa. Này Mahàli, pháp này cao thượng và
thù thắng hơn. Vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống
phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Ta.
Này Mahàli, những pháp cao thượng và
thù thắng này, vì muốn chứng được pháp ấy, các Tỷ-kheo sống
phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Ta.
14. - Bạch
Thế Tôn, có
con đường nào, có đạo lộ nào đưa đến sự
chứng ngộ những pháp ấy?
- Này Mahàli, có
con đường, có đạo lộ đưa đến sự
chứng ngộ những pháp ấy.
- Bạch
Thế Tôn, có
con đường nào, có đạo lộ nào đưa đến sự
chứng ngộ những pháp ấy?
- Đó là
con đường Thánh có tám ngành: Chánh
tri kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng,
chánh tinh tấn,
chánh niệm,
chánh định. Này Mahàli,
con đường này, đạo lộ này đưa đến sự
chứng ngộ những pháp ấy.
15. Này Mahàli, một thời Ta ở Kosambi vườn Ghositàràma. Lúc bấy giờ có hai người
xuất gia. Mandissa một vị du sĩ và Jàliya
đệ tử của Dàrupattika, đến tại chỗ Ta ở, nói lên những lời
chúc tụng thân hữu và
xã giao với Ta rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, hai vị
xuất gia nói với Ta như sau:
- Này
Hiền giả,
mạng căn và
thân thể là một hay là khác?
- Này
Hiền giả, hãy nghe và khéo
tác ý, Ta sẽ nói.
- Vâng, Hiền giả!
Hai vị
xuất gia trả lời Ta như thế và Ta nói như sau:
16. - Này
Hiền giả, ở đây
Như Lai sanh ra đời, vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác ... (
tương tự như kinh "Sa-môn quả", đoạn kinh 41-82) ... Này
Hiền giả, như vậy vị Tỷ-kheo
thành tựu giới hạnh... chứng và
an trú Sơ thiền. Này
Hiền giả, khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến
vấn đề "Mạng căn và
thân thể là một hay khác" không?
Này
Hiền giả, Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến
vấn đề "Mạng căn và
thân thể là một hay là khác".
Này
Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, nhưng Ta không nói: "Mạng căn và
thân thể là một hay là khác".
17. Chứng và
an trú đệ nhị thiền...
đệ tam thiền...
đệ tứ thiền. Này
Hiền giả, khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến
vấn đề "Mạng căn và
thân thể là một hay khác" không?
Này
Hiền giả, Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy vị ấy sẵn sàng đề cập đến
vấn đề "Mạng căn và
thân thể là một hay là khác".
Này
Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói "Mạng căn và
thân thể là một hay là khác".
18. Vị Tỷ-kheo ấy hướng tâm, dẫn tâm đến
tri kiến. Này
Hiền giả, khi vị Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến
vấn đề: "Mạng căn và
thân thể là một hay là khác" không?
Này
Hiền giả, vị Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến
vấn đề: "Mạng căn và
thân thể là một hay là khác".
Này
Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói "Mạng căn và
thân thể là một hay là khác".
19. Vị ấy biết: "Sau đời này sẽ không có đời khác nữa". Này
Hiền giả, khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến
vấn đề "Mạng căn và
thân thể là một hay là khác" không?
Này
Hiền giả, vị Tỷ-kheo biết như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến
vấn đề "Mạng căn và
thân thể là một hay là khác". Này
Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói "Mạng căn và
thân thể là một hay là khác".
Đức Thế Tôn thuyết như vậy. Otthadda người Licchavi
hoan hỷ tín họ lời
Thế Tôn dạy.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt