Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
19. Kinh Đại Điển Tôn
(Mahàgovinda sutta)
1. Như vậy tôi nghe.
Một thời
Thế Tôn ở tại
Vương Xá, núi Linh Thứu. Khi đêm đã gần mãn, Pancasikha (
Ngũ Kế), thuộc giòng họ Càn-thát-bà (Gandhabba), với
dung mạo đoan chánh,
chói sáng toàn vùng núi Linh Thứu, đến tại chỗ
Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Pancasikha, thuộc giòng họ Càn-thát-bà bạch
Thế Tôn:
- Bạch
Thế Tôn, những điều con đã tự thân nghe và
chấp nhận trước mặt chư Thiên ở
Tam thập tam thiên, bạch
Thế Tôn con muốn bạch lại
Thế Tôn.
- Này Pancasikha, hãy nói cho ta nghe! -
Thế Tôn nói như vậy.
2. - Bạch
Thế Tôn, trong những
ngày xưa, những ngày xa xưa, nhân
đêm trăng rằm Bố-tát (Uposatha), trong tháng nhập cư mùa mưa,
toàn thể chư Thiên ở cõi
Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại
Thiện Pháp đường,
xung quanh có
Đại thiên chúng ngồi khắp mọi phía; tại bốn
phương hướng có bốn vị
đại vương ngồi.
Đại vương Dhatarattha (
Trì Quốc Thiên vương), vua ở phương Đông, ngồi xây mặt
hướng Tây,
trước mặt Thiên chúng.
Đại vương Virùlhaka (
Tăng Trưởng thiên vương), vua ở phương Nam, ngồi xây mặt hướng Bắc,
trước mặt Thiên chúng.
Đại vương Virùpakkha (
Quảng Mục Thiên vương), vua ở phương Tây, ngồi xây mặt hướng Đông,
trước mặt Thiên chúng.
Đại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn
Thiên vương), vua ở phương Bắc, ngồi xây mặt hướng Nam, trước mạt
Thiên chúng. Bạch
Thế Tôn, khi nào
toàn thể chư Thiên ở cõi
Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại
Thiện Pháp đường,
xung quanh có
Đại thiên chúng ngồi khắp mọi phía và tại bốn
phương hướng có bốn vị
đại vương ngồi, như vậy là thứ tự các chỗ ngồi của các vị này, rồi đến chỗ ngồi của chúng con. Bạch
Thế Tôn,
chư Thiên nào trước sống
phạm hạnh theo
Thế Tôn và nay mới sanh lên cõi
Tam thập tam thiên, những vị này thắng xa
chư Thiên khác về
thân sắc và
danh tiếng. Bạch
Thế Tôn,
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên đẹp lòng,
thoải mái,
hoan hỷ sanh:
Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị
hoại diệt.
3. Bạch
Thế Tôn, lại bây giờ
Thiên chủ Đế-thích (Sakka) thấy
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên hoan hỷ bèn
tùy hỷ nói lên
bài kệ như sau:
Chư
Tam thập tam thiên,
Cùng Đế-thích
hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc
Như Lai,
Cùng
Chánh pháp vi diệu.
Thấy
Thiên chúng tân sanh,
Quang sắc thật
thù thắng,
Các vị sống
phạm hạnh,
Nay sanh tại cõi này.
Họ thắng về quang sắc,
Thọ mạng và danh xưng.
Đệ tử bậc Đại Tuệ,
Thù thắng sanh cõi này.
Chư
Tam thập tam thiên,
Cùng Đế-thích
hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc
Như Lai,
Và
Chánh pháp vi diệu.
Bạch
Thế Tôn,
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên lại càng
đẹp lòng thoải mái hoan hỷ hơn nữa và nói:
"-
Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt".
4. Bạch
Thế Tôn,
Thiên chủ Đế-thích biết được
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên hoan hỷ, liền nói với
Chư Thiên ở
Tam thập tam thiên:
"- Các vị có muốn nghe
tám pháp như thật của
Thế Tôn không?
"-
Chúng tôi muốn nghe
tám pháp Như thật của Thế Tôn".
Bạch
Thế Tôn,
Thiên chủ Đế-thích ở
Tam thập tam thiên giải thích về
tám pháp Như thật của
Thế Tôn như sau:
5. "- Này chư
Thiện hữu ở
Tam thập tam thiên các vị nghĩ thế nào?
Như Lai dấn thân vì
hạnh phúc cho
chúng sanh, vì
an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
hạnh phúc vì
an lạc cho loài Trời và lời Người. Một vị
Đại sư dấn thân vì
hạnh phúc cho
chúng sanh, vì
an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
hạnh phúc vì
an lạc cho loài Trời và
loài Người như vậy, một vị
Đại sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy được trong
quá khứ cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
6. "Chánh pháp được
Thế Tôn khéo léo
thuyết giảng, một
Chánh pháp thiết thực hiện tại, vượt ngoài
thời gian, đến để mà thấy, luôn luôn
hướng thượng, chỉ người có trí tự mình giác hiểu. Một vị
Giảng sư thuyết pháp hướng thượng như vậy, một
vị Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy được trong
quá khứ cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
7. "Đây là thiện", "đây là bất thiện" đã được
Thế Tôn khéo
giải thích. "Đây có tội", "đây không tội", "đây
cần phải tuân theo", "đây
cần phải né tránh", "đây là hạ liệt", "đây là cao thượng", "đây là đen trắng đồng đẳng", được
Thế Tôn khéo
giải thích. Một vị khéo
giải thích các
pháp thiện,
bất thiện, có tội, không có tội,
cần phải thuận theo,
cần phải né tránh,
hạ liệt, cao thượng, đen trắng đồng đẳng, một vị
Đại sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy được trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
8. "Con đường đưa đến Niết-bàn cho các
đệ tử, Niết-bàn và
con đường phối hợp thành một, đã được
Thế Tôn khéo
giải thích như
nước sông Hằng phối hợp và cùng chảy với nước sông Yamuna (Diệm-mâu-na). Cũng vậy
con đường đưa đến Niết-bàn cho các
đệ tử, Niết-bàn và
con đường phối hợp thành một đã được
Thế Tôn khéo
giải thích. Một vị khéo
giải thích con đường hướng đến Niết-bàn như vậy, một
vị Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
9. "Thế Tôn cũng đã
đào tạo được chúng
thiện hữu Hữu học đang đi trên nẻo đạo và các vị
Lậu tận đã
hoàn tất Thánh đạo. Ngài không di tản chúng nhưng sống
cùng chung một niềm
hòa hợp lạc trú. Một vị sống
cùng chung một niềm
hòa hợp lạc trú, một
Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
10. - "Lợi dưỡng
cúng dường cho
Thế Tôn đã được an bài
chắc chắn,
danh tiếng cũng đã được an bài
chắc chắn, và con nghĩ rằng các vị Sát-đế-lỵ (Khattiyà) sống với gương mặt rất
quý mến Ngài. Nhưng
Thế Tôn sống thọ hưởng các
lợi dưỡng với
tâm không kiêu mạn. Một vị
sống thọ hưởng các
lợi dưỡng với
tâm không kiêu mạn như vậy, một
vị Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
11. "Thế Tôn nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy. Một vị nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy,
thành tựu các pháp và
tùy pháp như vậy, làm gì thời nói vậy,
thành tựu các pháp và túy
pháp như vậy. Một vị đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
12. "Thế Tôn đã vượt khỏi
nghi ngờ,
diệt trừ do dự, mọi suy tư được
thỏa mãn về
tâm nguyện và tối sơ
phạm hạnh. Một vị đã vượt khỏi
nghi ngờ,
diệt trừ do dự, mọi suy tư được
thỏa mãn về
tâm nguyện và tối sơ
phạm hạnh, một bậc
Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
13. "Bạch
Thế Tôn, rồi một số
chư Thiên nói như sau:
"- Chư
Thiện hữu, nếu có được bốn vị
Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng
Chánh pháp như
Thế Tôn. Như vậy mới đem lại
hạnh phúc cho
chúng sanh,
an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
hạnh phúc và
an lạc cho
loài Người và lời Trời".
"Một số
chư Thiên khác lại nói như sau:
"- Chư
Thiện hữu, cần gì có bốn vị
Chánh Đẳng Giác. Chư
Thiện hữu, nếu có được ba vị
Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng
Chánh pháp như
Thế Tôn. Như vậy mới đem lại
hạnh phúc cho
chúng sanh,
an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
hạnh phúc và
an lạc cho
loài Người và loài Trời.
"Một số
chư Thiên khác lại nói như sau:
"- Chư
Thiện hữu, cần gì có ba vị
Chánh Đẳng Giác. Chư
Thiện hữu, nếu có được hai vị
Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng
chánh pháp như
Thế Tôn. Như vậy mới đem lại
hạnh phúc cho
chúng sanh,
an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
hạnh phúc và
an lạc cho
loài Người và loài Trời.
14. "Bạch
Thế Tôn, khi được nói vậy,
Thiên chủ Đế-thích nói với
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên:
"- Chư
Thiện hữu, không một chỗ nào, không một
thời gian nào
cùng chung một thế giới mà có hai vị
Ứng Cúng,
Chánh Đẳng Giác đồng thời ra đời, không ra trước, không ra sau, không bao giờ
sự kiện như vậy có thể xảy ra. Chư
Thiện hữu, một bậc
Thế Tôn như vậy, không có tật bệnh, không có
đau khổ, sống như vậy
trong khoảng thời gian rất dài. Như vậy mới đem lại
hạnh phúc cho
chúng sanh,
an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
hạnh phúc và
an lạc cho
loài Người và loài Trời.
"Bạch
Thế Tôn, rồi với
mục đích gì
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại
Thiện Pháp đường, các vị này suy tư,
thảo luận về
mục đích ấy. Và
tùy thuộc về
mục đích ấy, bốn vị
đại vương được
thuyết giảng: Theo
mục đích ấy, bốn vị
đại vương được khuyến giáo, bốn vị này đều đứng một bên chỗ ngồi của mình.
Các
đại vương chấp nhận,
Lời giảng dạy khuyết giáo,
Thanh thoát và
an tịnh,
Đứng bên chỗ mình ngồi.
15. "Bạch
Thế Tôn, rồi từ phương Bắc, một ánh sáng
vi diệu khởi lên, một
hào quang hiện ra thắng xa oai lực của
chư Thiên. Bạch
Thế Tôn, rồi
Thiên chủ Sakka, nói với
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên:
"- Này các
Thiện hữu, theo các
hiện tượng được thấy, ánh
sáng khởi lên,
hào quang hiện ra. Như vậy là
báo hiệu Phạm thiên sẽ
xuất hiện. Vì
hiện tượng báo hiệu Phạm thiên xuất hiện là ánh
sáng khởi lên và
hào quang hiện ra.
Theo
hiện tượng được thấy,
Phạm thiên sẽ
xuất hiện,
Hiện tượng bậc
Phạm thiên,
Là
hào quang vi diệu.
"Bạch
Thế Tôn, rồi
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên, ngồi xuống trên ghế ngồi của mình và nói rằng:
"-
Chúng tôi sẽ
tìm hiểu kết quả của
hào quang này là thế nào, sau khi được biết,
chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy.
Cũng vậy bốn vị
đại vương ngồi xuống trên ghế của mình và nói rằng:
"-
Chúng tôi sẽ
tìm hiểu kết quả của
hào quang này là thế nào, sau khi được biết,
chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy.
"Sau khi nghe vậy,
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên đều đồng một lòng một ý: "Chúng ta sẽ
tìm hiểu kết quả của
hào quang này là thế nào, sau khi đã được biết,
chúng ta sẽ gặp vị ấy".
16. "Bạch
Thế Tôn, khi
Phạm thiên Sanamkumàra (Thường Đồng hình
Phạm thiên)
xuất hiện trước
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên, ngài
xuất hiện với một
hóa tướng thô xấu. Bạch
Thế Tôn, vì khi
Phạm thiên tự nhiên hiện hóa, các
tướng không đủ
thù thắng để
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên khâm phục. Bạch
Thế Tôn, khi
Phạm thiên Sanamkumàra
xuất hiện trước
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên vị này thắng xa
chư THiên khác về
sắc tướng và
danh tiếng. Bạch
Thế Tôn, như một
hình tượng bằng vàng
chói sáng hơn
thân hình con người, cũng vậy bạch
Thế Tôn khi
Phạm thiên Sanamkumàra
xuất hiện trước
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên, vị này thắng xa
chư Thiên khác về
sắc tướng và
danh tiếng. Bạch
Thế Tôn, khi
Phạm thiên Sanamkumàra
xuất hiện trước
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên, không một vị Thiên trong chúng này
đảnh lễ hoặc
đứng dậy mời
Phạm thiên ngồi. Tất cả đều yên lặng,
chắp tay, không ngồi trên chỗ ngồi của mình và nghĩ rằng: "Nếu nay
Phạm thiên Sanamkumàra muốn gì với vị Thiên nào, thì hãy ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên ấy sẽ
vô cùng sảng khoái, sẽ
vô cùng hoan hỷ. Bạch
Thế Tôn, như vị vua Sát-đế-lỵ vừa mới làm
lễ quán đảnh và lên vương vị, vị ấy sẽ
vô cùng sảng khoái, sẽ
vô cùng hoan hỷ. Cũng vậy, bạch
Thế Tôn,
Phạm thiên Sanamkumàra ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên nào, vị Thiên ấy sẽ
vô cùng sảng khoái, sẽ
vô cùng hoan hỷ.
17. "Bạch
Thế Tôn, rồi
Phạm thiên Sanamkumàra biết được sự
thoải mái hoan hỷ của
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên liền ân hình
tùy hỷ nói lên
bài kệ sau đây:
Chư
Tam thập tam thiên,
Cùng Đế-thích
hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc
Như Lai,
Và
Chánh pháp vi diệu.
Thấy
Thiên chúng tân sanh,
Quang sắc thật
thù thắng,
Các vị sống
phạm hạnh,
Nay sanh tại cõi này,
Thắng xa về quang sắc,
Thọ mạng và danh xưng,
Đệ tử bậc Đại Tuệ,
Thù thắng sanh
cõi nầy.
Chư
Tam thập tam thiên,
Cùng
Đế Thích hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc
Như Lai,
Và
Chánh pháp vi diệu.
18. "Bạch
Thế Tôn, đó là nội dung
lời nói của
Phạm Thiên Sanamkumàra. Bạch
Thế Tôn tiếng nói của
Phạm Thiên Sanamkumàra có tám
đặc điểm sau đây: Lưu loát,
dễ hiểu, dịu ngọt, nghe
rõ ràng,
sung mãn,
phân minh,
thâm sâu và vang động. Bạch
Thế Tôn, khi
Phạm thiên Sanamkumàra
giải thích cho
hội chúng với tiếng nói của mình, tiếng nói không vượt ra khỏi
đại chúng. Bạch
Thế Tôn một tiếng nói có tám
đặc điểm như vậy được gọi là
Phạm âm.
19. "Bạch
Thế Tôn,
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên nói với
Phạm thiên Sanamkumàra như sau:
"- Này
Phạm thiên,
chúng tôi thật sự
hoan hỷ với những điều
chúng tôi đã được chú ý. Hơn nữa
Thiên chủ Sakka đã nói đến
tám pháp như thật của
Thế Tôn; và
chúng tôi hoan hỷ với
tám pháp này.
"Bạch
Thế Tôn, rồi
Phạm thiên Sanamkumàra nói với
Thiên chủ Đế-thích:
"- Thật
lành thay,
Thiên chủ, nếu
chúng tôi được nghe
tám pháp như thật của
Thế Tôn.
"- Vâng,
Đại Phạm thiên.
Bạch
Thế Tôn,
Thiên chủ Đế-thích,
giải thích tám pháp như thật của
Thế Tôn cho
Phạm thiên Sanamkumàra:
20. "- Này
Thiện hữu Đại Phạm thiên, Ngài nghĩ thế nào?
Như Lai dấn thân vì
hạnh phúc cho
chúng sanh, vì
an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
hạnh phúc, vì
an lạc cho loài Trời,
loài Người. Một
vị Đạo sư dấn thân vì
hạnh phúc cho
chúng sanh, vì
an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
hạnh phúc, vì
an lạc cho loài Trời,
loài Người như vậy, một
vị Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy
chúng ta khó
tìm thấy được trong
quá khứ cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
21. "-
Chánh pháp được
Thế Tôn khéo léo
thuyết giảng, một
Chánh pháp thiết thực hiện tại, vượt ngoài
thời gian, đến để mà thấy, luôn luôn hướng thiện, chỉ người có trí tự mình giác hiệu. Một vị
Giảng sư thuyết pháp hướng thượng như vậy, một
vị Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy được trong
quá khứ cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
22. "Đây là thiện", "đây là bất thiện", đã được
Thế Tôn khéo
giải thích. "Đây là có tội", "đây là không tội", "Đây
cần phải tuân theo", "đây
cần phải né tránh", "đây là hạ liệt", "đây là cao thượng", "đây là đen trắng đồng đẳng", đã được
Thế Tôn khéo
giải thích. Một vị khéo
giải thích các
pháp thiện,
bất thiện, có tội, không có tội,
cần phải thuận theo,
cần phải né tránh,
hạ liệt, cao thượng, đen trắng đồng đẳng, một
vị Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy được trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
23. "Con đường đưa đến Niết-bàn cho các
đệ tử, Niết-bàn và
con đường phối hợp thành một, đã được
Thế Tôn khéo léo
giải thích. Như
nước sông Hằng phối hợp và cùng chảy với nước sông Yamunà, cũng vậy
con đường đưa đến Niết-bàn cho các
đệ tử, Niết-bàn và
con đường phối hợp thành một đã được
Thế Tôn khéo
giải thích. Một vị khéo
giải thích con đường hướng đến Niết-bàn như vậy, một
vị Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
24. "Thế Tôn cũng đã
đào tạo được chúng
thiện hữu Hữu học đang đi trên nẻo đạo và các vị
Lậu tận đã
hoàn tất Thánh đạo. Ngài không di tan chúng, nhưng sống
cùng chung một niềm
hòa hợp lạc trú. Một vị sống
cùng chung một niềm
hòa hợp lạc trú, một
Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
25. "Lợi dưỡng cũng dường cho
thế Tôn đã được an bài
chắc chắn,
danh tiếng cũng đã được an bài
chắc chắn, và con nghĩ rằng các vị Sát-đế-lỵ sống với diện mạo rất
quý mến Ngài. Nhưng
Thế Tôn sống thọ hưởng các
lợi dưỡng với
tâm không kiêu mạn. Một vị
sống thọ hưởng các lợi đường với
tâm không kiêu mạn như vậy, một
vị Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
26. "Thế Tôn nói gì thì làm vậy, làm gì thời nói vậy, một vị nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy,
thành tựu các pháp và
tùy pháp như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
27. "Thế Tôn đã vượt khỏi
nghi ngờ,
diệt trừ do dự, mọi suy
tư hoặc thỏa mãn về
tâm nguyện và tối sơ
phạm hạnh. Một vị đã vượt khỏi
nghi ngờ,
diệt trừ do dự, mọi suy tư được
thỏa mãn về
tâm nguyện và tối sơ
phạm hạnh, một bậc
Đạo sư đầy đủ đức tánh như vậy,
chúng ta thật khó
tìm thấy trong
quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ
Thế Tôn.
"Bạch
Thế Tôn,
Thiên chủ Sakka
giải thích tám pháp như thật của
Thế Tôn cho
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên. Bạch
Thế Tôn,
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên lại càng
hoan hỷ, lại càng
thích thú,
hỷ duyệt sung mãn khi được nghe
tám pháp như thật của
Thế Tôn.
28. "Bạch
Thế Tôn,
Phạm thiên Sanamkumàra
xuất hiện với
hình tướng thô xấu,
hiện thành một
đồng tử tên là Pancasikha (
Ngũ Kế)
trước mặt chư Thiên ở
Tam thập tam thiên, bay bổng lên trời, vị này, ngồi kiết-già giữa
hư không. Bạch
Thế Tôn, như một vị
lực sĩ ngồi kiết-già trên một chỗ ngồi được trải bằng phẳng trên một mặt đất thăng bằng, cũng vậy bạch
Thế Tôn,
Phạm thiên Sanamkumàra bay bổng
trên trời, ngồi kiết-già trên
hư không và nói với
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên:
29. "- Chư
thiện hữu ở
Tam thập tam thiên nghĩ thế nào?
Thế Tôn đã được
đại trí tuệ bao lâu rồi?
"Chư
Thiện hữu, thuở xưa có vị vua tên là Disampati (Thành Chủ). Vua Disampati có vị
quốc sư tên Govinda (Điển Tôn), và có vị hoàng tử tên là Renu (Lê-nô). Bà-la-môn Govinda có người con trai tên là Jotipàla (Hộ Minh
đồng tử). Hoàng tử Renu,
đồng tử Jotipàla cùng sáu người Sát-đế-lỵ nữa, tám người này là
thân hữu. Sau một
thời gian, Bà-la-môn Govinda
mệnh chung. Khi nghe Bà-la-môn Govinda
mệnh chung, vua Sisampati than khóc như sau:
"- Tiếc thay, khi
chúng ta giao mọi công việc cho Bà-la-môn Govinda để
chúng ta có thể được đầy đủ và
thọ hưởng năm món dục tăng thịnh chính khi ấy Bà-la-môn lại
mệnh chung.
"Nghe nói vậy, hoàng tử Renu tâu với vua Disampati:
"- Tâu
Đại vương, chớ có quá
sầu khổ than khóc vì Bà-la-môn Govinda từ trần. Tâu
Đại vương, con của Bà-la-môn Govinda, thanh niên Jotipàla còn
sáng suốt hơn
phụ thân, còn biết
kế hoạch sinh lợi hơn
phụ thân. Những
trách nhiệm gì
Đại vương giao cho
phụ thân, nay hãy giao cho thanh niên Jotipàla.
"- Như vậy là phải, Hoàng tử.
"- Xin vâng, tâu
Đại vương.
30. "Rồi vua Disampati cho gọi một người và bảo:
"- Khanh hãy đi đến thanh niên Jotipàla, và nói như sau: "Mong rằng mọi
tốt lành hãy đến với thanh niên Jotipàla! Vua Disampati có cho gọi thanh niên Jotipàla! Vua Disampati muốn được gặp thanh niên Jotipàla!".
"- Tâu
Đại vương, xin vâng!
"Người ấy
vâng lệnh vua Disampati, đến chỗ thanh niên Jotipàta ở, khi đến xong liền nói với thanh niên Jotipàla:
"- Mong rằng mọi
tốt lành hãy đến với thanh niên Jotipàla! Vua Disampati cho gọi thanh niên Jotipàla! Vua Disampati muốn được gặp thanh nhiên Jotipàla!
"- Xin vâng, nãy Thiện hữu!
"Thanh nhiên Jotipàla
vâng theo lời người ấy, đi đến chỗ vua Disampati ở, khi đến xong liền nói lên những lời viếng thăm, và những
lời khen tặng
xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Vua Disampati nói với thanh niên Jotipàla đang ngồi bên như sau:
"- Này thanh niên Jotipàla! Nay ta muốn khanh chấp chánh! Thanh niên Jotipàla, chớ có từ chối chấp chánh! Ta sẽ đặt Khanh trong đại vị của
phụ thân. Ta sẽ phong cho Khanh chức chưởng của Govinda!
"- Tâu
Đại vương, xin vâng!
"Thanh niên Jotipàla
vâng theo lời dạy của vua Disampati.
31. "Rồi vua Disampati phong cho thanh niên Jotipàla chức chưởng của Govinda và đặt vào
địa vị của
phụ thân. Thanh niên Jotipàla được phong chức chưởng của Govinda như vậy và được đặt vào
địa vị của
phụ thân như vậy, những phần việc gì
phụ thân điều hành, những phần việc ấy thanh niên Jotipàla
điều hành, những phần việc gì
phụ thân không
điều hành, những phần việc ấy thanh niên Jotipàla không
điều hành. Những công tác gì
phụ thân thực hiện, những công tác ấy thanh niên Jotipàla
thực hiện; những công tác gì
phụ thân không
thực hiện, những công tác ấy thanh niên Jotipàla không
thực hiện. Do vậy, dân chúng nói về Jotipàla:
"- Vị Bà-la-môn thật sự là Govinda! Vị Bà-la-môn thật sự là Mahà Govinda và được
danh tiếng là Mahà Govinda!
32. "Rồi Mahà Govinda đến tại chỗ
sáu vị Sát đế lỵ ở, khi đến xong, liền nói với
sáu vị đế lỵ như sau:
"-Vua Disampati nay đã già,
trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối
cuộc đời. Này
Thiện Hữu, ai có thể biết được
thọ mạng của vua? Sự việc này có thể xảy ra, nếu vua Disampati
mệnh chung, thời những vị có
trách nhiệm phong vua, hãy phong hoàng tử Renu lên vương vị. Chư
Thiện hữu, quí vị hãy đến chỗ hoàng tử Renu
an trú, khi đến xong hãy thưa với hoàng tử Renu:
"-
Chúng tôi là những bạn
hữu thân tình,
thân ái, tâm đầu ý hiệp với
Thiện hữu Renu!
Chúng tôi sung sướng khi
thiện hữu sung sướng,
chúng tôi đau khỗ khi
Thiện hữu đau khỗ. Nay vua Disampati đã già,
trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối
cuộc đời. Này
Thiện hữu, ai có thể biết
thọ mạng của vua. Sự việc này có thể xảy ra. Nếu vua Disampati
mệnh chung, thời những vị có
trách nhiệm phong vua, hãy phong hoàng tử Renu lên vương vị. Nếu
Thiện hữu Renu lên vương vị, hãy
chia xẻ vương vị với chúng tôi!
33. "-Xin vâng, Thiện hữu!
"Sáu vị Sát đế lỵ này,
vâng theo lời của
Bà la môn Mahà Govinda, đến tại chỗ của hoàng tử Renu, khi đến xong liền thưa với hoàng tử Renu:
-
Chúng tôi là những bạn
hữu thân tình,
thân ái, tâm đầu ý hợp với
Thiện hữu Renu,
chúng tôi sung sướng khi
Thiện hữu sung sướng,
chúng tôi đau khổ khi
thiện hữu đau khổ. Nay vua Disampati đã già,
trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối
cuộc đời. Này
Thiện hữu, ai có thể biết được
thọ mạng của vua. Sự việc này có thể xảy ra. Nếu vua Disampati
mệnh chung, thời những vị có
trách nhiệm phong vua, hãy phong hoàng tử Renu lên vương vị. Nếu
Thiện hữu Renu lên vương vị, hãy chia vương vị với chúng tôi!
- Chư
Thiện hữu, có ai khác có quyền hưởng
an lạc trong
quốc độ của tôi, ngoài Quý vị? Nếu tôi được lên vương vị, tôi sẽ
chia xẻ vương vị cho Quý vị.
34. "Chư
Thiện hữu, sau một
thời gian vua Disampati
mệnh chung. Khi vua Disampati
mệnh chung, những vị có
trách nhiệm phong vua, liền phong hoàng tử Renu lên vương vị. Khi được phong vương vị, hoàng tử Renu
sống đầy đủ và
thọ hưởng năm pháp dục tăng thịnh. Khi ấy
Bà la môn Mahà Govinda đi đến chỗ
sáu vị Sát đế lỵ ở, khi đến xong liền nói rằng:
"- Chư
Thiện hữu, vua Disampati đã
mệnh chung.
Thiện hữu Renu được phong vương vị lại
sống đầy đủ và
thọ hưởng năm pháp dục tăng thịnh. Chư
Thiện hữu, ai có thể biết được?
Dục vọng khiến
con người si loạn. Chư
Thiện hữu, hãy đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong, hãy nói với vua Renu như sau: "-
Thiện hữu, vua Disampati đã
mệnh chung.
Thiện hữu Renu được phong vương vị.
Thiện hữu có nhớ
lời hứa của mình không?"
"- Xin vâng, này
Thiện hữu.
"Sáu vị Sát đế lỵ này
vâng theo lời của
Bà la môn Mahà Govinda đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong, liền tâu vua Renu như sau:
"-
Thiện hữu, vua Disampati đã
mệnh chung,
Thiện hữu Renu đã được phong vương vị.
Thiện hữu có nhớ
lời hứa của mình không?
"- Chư
Thiện hữu, tôi có nhớ
lời hứa của tôi. Chư
Thiện hữu, ai có thể khéo
phân chia đại địa này thành bảy phần
đồng đều.
Đại địa này, phía Bắc thì rộng, phía Nam như bộ phận trước của cổ xe?
"- Này
Thiện hữu, ai có thể làm được, ngoại trừ
Bà la môn Mahà Govinda?
35. "Rồi vua Renu cho gọi một người và nói:
"- Này Khanh, Khanh hãy đi đến chỗ
Bà la môn Mahà Govinda, khi đến xong hãy nói với
Bà la môn Govinda: "Này
Thiện hữu, vua Renu cho gọi
Thiện hữu."
"- Xin vâng, tâu đại vương!
" Người ấy
vâng theo lời của vua Renu, đến tại chỗ của
Bà la môn Ma hà Govinda ở, khi đến xong liền nói với
Bà la môn Mahà Govinda::"-
Thiện hữu, vua Renu cho gọi
Thiện hữu.
"- Xin vâng, Thiện hữu!
"Bà-la-môn Mahà Govinda
vâng theo lời nói của người ấy, đến tại chỗ vua Renu ở, khi đến xong liền nói lên những lời
thăm viếng và những
lời khen tặng
xã giao với vua Renu rồi ngồi xuống một bên. Và vua Renu nói với Bà-la-môn Govinda đang ngồi xuống một bên như sau:
"- Này
Thiện hữu Govinda, hãy đến và
phân chia đại địa này thành bảy phần
đồng đều,
đại địa này phía Bắc thời rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe.
"Bà-la-môn Mahà Govinda
vâng theo lời nói của vua Renu
phân chia đại địa này thành bảy phần
đồng đều,
đại địa này phía Bắc rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe, tất cả phần như hình phần trước của cỗ xe.
36. "Và vua Ruenu giữ phần
quốc độ trung ương.
"Dantapura (Nại-đa-bố-la) cho dân Kàlingà (Ca-lăng-giới) và Potana (Bao-tĩnh-noa) cho dân Assaka (Ma-thấp-na-ka).
"Mahissati (ma-hê-sa-ma) cho dân Avanti (Ương-đế-na) và Roruka (Lao-lỗ-ca) cho dân Sovira (Tô-vĩ-la).
"Mithilà (Di-thế-la) cho dân Videhà (Vi-đề-hê) và Campà (Thiềm-ba) được tạo ra cho dân Anga (Ương-già),
"Bàrànasì (Ba-la-nại) cho dân Kàsi (Ca-thi).
"Tất cả đều do Govinda tạo lập.
"Và
sáu vị Sát-đế-lỵ này đều
hoan hỷ về khu phần của mình được và sự
thành tựu của điều
mong ước:
"- Những điều gì
chúng tôi muốn, những điều gì
chúng tôi ao ước, những điều gì
chúng tôi nhắm đến, những điều gì
chúng tôi hy vọng,
chúng tôi đều được hết.
"Sattabhù (Phá Oan vương) và Brahmadatta (Phạm Thọ vương), Vessabhũ (Thắng Tôn vương) và Bharata (Minh Ái vương), Renu (Lê-nô vương) và hai Dhataratthà (Trì
Quốc vương). Tất cả là bảy vị Bharata (Bà-la-đa vương).
37. "Rồi
sáu vị Sát-đế-lỵ ấy đến tại chỗ Bà-la-môn Màhà Govinda ở, khi đến xong liền nói với Bà-la-môn Mahà Govinda (
Đại Điển Tôn)
"- Như
thiện hữu Govinda là bạn
hữu thân tình,
thân ái, tâm đầu ý hiệp với vua Renu, cũng vậy
Thiện hữu Mahà Govinda và bạn
hữu thân tình,
thân ái, tâm đầu ý hiệp với
chúng tôi.
Thiện hữu Govinda hãy
giáo hóa chúng tôi,
Thiện hữu Govinda chớ có từ chối
giáo hóa.
"- Xin vâng, chư
Thiện hữu.
"Thiện hữu Mahà Govinda
trả lời cho
sáu vị Sát-đế-lỵ này. Rồi
Thiện hữu Mahà Govinda
giáo hóa về vương chánh cho bảy vị Sát-đế-lỵ đã được phong vua, và Mahà Govinda dạy các
chú thuật cho bảy vị triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị
tịnh hạnh.
38. "Sau một
thời gian,
danh tiếng tốt đẹp sau đây được
truyền tụng về Bà-la-môn Mahà Govinda:
"- Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy
Phạm thiên; Bà-la-môn Maha Govinda tự thân nói chuyện
thảo luận,
luận nghị với
Phạm thiên.
"Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda
suy nghĩ: "Danh
tiếng tốt đẹp sau đây được
truyền tụng về ta: Bà-la-môn Maha Govinda tự thân thấy
Phạm thiên; Bà-la-môn Maha Govinda tự thân nói chuyện,
thảo luận,
luận nghị với
Phạm thiên. Nhưng ta không thấy
Phạm thiên, ta không nói chuyện với
Phạm thiên, không
thảo luận với
Phạm thiên, không nghị luận với
Phạm thiên. Ta có nghe các vị Bà-la-môn
trưởng thượng lớn tuổi, cả
giáo thọ và
đệ tử nói rằng: Những ai sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa,
tu tập thiền định về
bi tâm, người ấy sẽ thấy
Phạm thiên, sẽ nói chuyện,
thảo luận và nghị luận với
Phạm thiên. Vậy ta hãy sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa và
tu tập thiền định về bi tâm".
39. "Rồi
Thiện hữu Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến vua Renu, khi đến xong liền tâu với vua Renu:
"Danh
tiếng tốt đẹp sau đây được
truyền tụng về Thần: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được
Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thao luận và
luận nghị với Phạm thiên". Nhưng Thần không thấy được
Phạm thiên, không nói chuyện được với
Phạm thiên, không
thảo luận được với
Phạm thiên, không
luận nghị được với
Phạm thiên. Thần có nghe các vị Bà-la-môn
trưởng thượng, lớn tuổi ai sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa,
tu tập thiền định về
bi tâm sẽ thấy được
Phạm thiên, sẽ nói chuyện,
thảo luận và
luận nghị với Phạm thiên". Nay Thần muốn sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa, và
tu tập thiền định về
bi tâm. Không một ai được đến gặp thần, trừ chỉ một người đem đồ ăn.
"- Này
Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì Khanh nghĩ là hợp thời.
40. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đến tại chỗ
sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong liền nói với
sáu vị Sát-đế-lỵ:
"-
Danh tiếng tốt đẹp sau đây được
truyền tụng về tôi: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được
Phạm thiên, tự thân nói chuyện,
thảo luận và
luận nghị với Phạm thiên". Tôi không được thấy
Phạm thiên, không nói chuyện,
thảo luận và
luận nghị với
Phạm Thiên. Nhưng tôi có nghe các vị Bà-la-môn
trưởng thượng lớn tuổi, cả
giáo thọ và
đệ tử nói rằng: "Những ai sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa,
tu tập thiền định về
bi tâm sẽ thấy được
Phạm thiên, sẽ nói chuyện,
thảo luận và nghị luận với Phạm thiên". Nay tôi muốn sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa,
tu tập thiền định về
bi tâm. Không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.
"- Này
Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì
Thiện hữu nghĩ là hợp thời.
41. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến chỗ bảy vị triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị
tịnh hạnh ở, khi đến xong liền nói với các vị này như sau:
"- Chư
Thiện hữu,
danh tiếng tốt đẹp sau đây được
truyền tụng về tôi: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được
Phạm thiên, tự thân nói chuyện,
thảo luận,
luận nghị với Phạm thiên". Nhưng tôi không thấy được
Phạm thiên, không nói chuyện,
thảo luận,
luận nghị với
Phạm thiên. Tôi có nghe các vị Bà-la-môn
trưởng thượng lớn tuổi, cả
giáo thọ và
đệ tử đều nói rằng: "Những ai sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa,
tu tập thiền định về
bi tâm, sẽ thấy được
Phạm thiên, sẽ nói chuyện,
thảo luận và
luận nghị với Phạm thiên". Nay tôi muốn sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa,
tu tập thiền định về
bi tâm, không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.
"- Này
Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì
Thiện hữu nghĩ là hợp thời.
42. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến bốn mươi vị
phu nhân đồng đẳng của mình, khi đến xong liền nói với bốn mươi vị
phu nhân đồng đẳng như sau:
"- Chư
Thiện hữu,
danh tiếng tốt đẹp sau đây được
truyền tụng về tôi: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được
Phạm thiên, tự thân nói chuyện,
thảo luận,
luận nghị với Phạm thiên". Nhưng tôi không được thấy
Phạm thiên, tôi không nói chuyện,
thảo luận,
luận nghị với
Phạm thiên. Tôi có nghe các vị Bà-la-môn
trưởng thượng, lớn tuổi, cả
giáo thọ và
đệ tử đều nói rằng: "Những ai sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa,
tu tập thiền định về
bi tâm sẽ thấy được
Phạm thiên, sẽ nói chuyện,
thảo luận và
luận nghị với Phạm thiên". Nay tôi muốn sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa,
tu tập thiền định về
bi tâm, không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.
"- Này
Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì
thiện hữu nghĩ là hợp thời.
43. "Rồi
Thiện hữu Mahà Govinda cho làm một hội đường mới về phương Đông kinh thành,
tịnh cư trong bốn tháng mưa và
tu tập thiền định về
bi tâm, không một ai đến gặp, trừ người đem đồ ăn. Sau bốn tháng, sự
thất vọng và
sợ hãi sau đây khởi lên cho Bà-la-môn Mahà Govinda: "Ta có nghe các vị Bà-la-môn
trưởng thượng, lớn tuổi, cả
giáo thọ và
đệ tử đều nói rằng: "Những ai sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa,
tu tập thiền định về
bi tâm, sẽ thấy được
Phạm thiên, sẽ nói chuyện,
thảo luận và nghị luận với
Phạm thiên. Nhưng nay ta không thấy
Phạm thiên, không nói chuyện với
Phạm thiên, không
thảo luận với
Phạm thiên, không nghị luận với Phạm thiên".
44. "Rồi
Phạm thiên Sanamkumàra với tâm của mình biết được tâm của Bà-la-môn Mahà Govinda, như một người
lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy
Phạm thiên biến mất ở
Phạm thiên giới và
hiện ra trước mặt Bà-la-môn Mahà Govinda. Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda hoảng hốt,
run sợ, lông tóc dựng ngược, thốt lên
bài kệ sau đây với
Phạm thiên Sanamkumàra (Thường Đồng hình
Phạm thiên):
Ôi đoan tướng
quang vinh,
Thiện hữu thật là ai?
Không biết nên hỏi Ngài.
Để
chúng tôi biết Ngài!
Phạm thiên giới biết ta,
Là
Đồng tử thường hằng!
Ta là bậc
thiên vương,
Hãy biết ta là vậy,
Hãy đem đến sàng tọa,
Nước rửa chân, thục mật.
Hiền giả muốn nhận gì,
Hãy cho
chúng tôi biết!
Ta
chấp nhận cúng vật,
Mà Ngươi vừa đề cập.
Vì
hạnh phúc hiện tại,
Vì
an lạc tương lai,
Dịp may nay đã đến,
Hãy hỏi điều Ngươi muốn.
45. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda
suy nghĩ: "Đây là
dịp may Phạm thiên Sanamkumàra dành cho ta. Ta nay hỏi
Phạm thiên Sanamkumàra điều gì đã được
ích lợi cho
hiện tại và tương lai?".
"Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda
suy nghĩ: "Ta rất giỏi về những
lợi ích hiện tại. Chính người khác cũng hỏi ta về những
lợi ích hiện tại. Vậy ta hãy hỏi
Phạm thiên Sanamkumàra
lợi ích tương lai".
"Rồi Ba-la-môn Mahà nói
bài kệ sau đây với
Phạm thiên Sanmakumàra:
Nay ta hỏi
Phạm thiên,
Sanamkumàra!
Ta hỏi điều
nghi ngờ,
Người khác đều muốn biết!
An trú tại chỗ nào,
Tu tập tại chỗ nào,
Để
chứng quả bất tử?
Chính tại
Phạm thiên giới:
Này Ngươi Bà-la-môn.
Ai bỏ ngã,
ngã sở,
Tâm
chuyên chú nhứt cảnh,
Tu tập đại bi tâm,
Thoát ly mọi
xú uế,
Lánh xa mọi
tà dục,
An trú ở nơi đây!
Để
chứng quả bất tử,
Chính tại
Phạm thiên giới.
46. "-
Từ bỏ ngã và ngã sở hữu, thưa
Tôn giả, câu ấy tôi hiểu.
Trong đời có người
từ bỏ tài sản nhỏ hay
từ bỏ tài sản lớn,
từ bỏ vòng
quyến thuộc nhỏ hay vòng
quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà sa,
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Thưa
Tôn giả, như vậy ta hiểu nghĩ
từ bỏ ngã và ngã sở hữu.
"Tâm
chuyên nhất cảnh, thưa
Tôn giả, câu ấy tôi hiểu.
Trong đời có người lựa một chỗ
an trú thanh vắng, một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một hang cốc, một bãi tha ma, một sơn lâm, giữa trời không, một đống rơm. Thưa,
Tôn giả, như vậy tôi hiểu
nghĩa tâm chuyên nhất cảnh.
"Tu tập
bi tâm, thưa
Tôn giả, câu ấy tôi hiểu.
Trong đời có người
an trú, biến mãn một phương với tâm
câu hữu với bi, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp
vô biên giới, vị ấy
an trú, biến mãn với tâm
câu hữu với bi
quảng đại vô biên, không hận, không sân. Thưa
Tôn giả, như vậy tôi hiểu nghĩa
tu tập bi tâm.
"Thưa
Tôn giả, riêng câu nói về
xú uế tôi không được hiểu.
"Này
Phạm thiên, trong
loài người cái gì là xú uế?
"Đó là điều ở nơi đây tôi không hiểu.
Tôn giả hãy nói đi!
-
Loài người bị gì che,
Bị
trói buộc cái gì,
Phải chịu sanh đọa xứ,
Bị
đóng cửa Phạm thiên?
Phẫn nộ và
vọng ngữ,
Gian manh và
lừa đảo,
Hà tiện và
quá mạn,
Tật đố và
dục cầu,
Nghi ngờ và hại người,
Tham, sân, si
kiêu mạn.
Những tánh này
trói buộc,
Khiến
con người xú uế,
Phải chịu sanh đọa xứ,
Bị
đóng cửa Phạm thiên.
"- Như tôi hiểu lời
Tôn giả giải thích về các
xú uế, chúng không dễ gì mà được
điều phục, nếu phải sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
"-
Hiền giả Govinda, hãy làm gì
Hiền giả xem là hợp thời.
47. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong liền tâu với vua Renu:
"- Này
Tôn giả, hãy tìm một
phụ tá khác, vị này sẽ điều khiển
quốc sự cho
Tôn giả. Tôi muốn
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích các
xú uế,
chúng tôi dễ gì mà được
điều phục, nếu phải sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
- Vua Renu quốc chủ,
Thần xin tâu Ngài rõ.
Hãy biết
quốc độ Ngài,
Thần không thiết chức vụ.
- Nếu Khanh thiếu
dục lạc,
Ta cho Khanh đầy đủ!
Nếu có ai hại Khanh,
Quốc chủ, ta ngăn chận.
Khanh là cha, ta con,
Khanh chớ
bỏ rơi ta.
- Thần không thiếu
dục lạcKhông có ai hại thần.
Vì nghe bậc
phi nhân,
Thần không thiết
gia đình.
-
Phi nhân ấy là ai,
Vị ấy đã nói gì,
Khanh nghe, bỏ
gia đình,
Bỏ ta, bỏ tất cả?
- Trước kia ở nơi đây,
Lòng thần chỉ nguyện cầu
Lo đốt nén lửa thiêng,
Và rải
cỏ cát tường.
Nay
Phạm thiên hiện ra,
Hiện từ
Phạm thiên giới,
Trả lời câu hỏi thần,
Nghe xong thần
bỏ nhà.
- Này Khanh Govinda,
Ta tin lời Khanh nói!
Được nghe bậc
phi nhân,
Làm sao làm khác được?
Ta sẽ theo gương Khanh,
Bậc thầy của
chúng ta.
Như hòn ngọc
lưu ly,
Không tỳ vết,
cấu uế,
Thật
trong sạch như vậy,
Ta theo
giáo lý Người!
"- Nếu
Thiện hữu Govinda
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, thời tôi cũng
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Chỗ nào
Thiện hữu đi, chỗ ấy
chúng tôi sẽ đi.
48. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến chỗ
sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong liền nói với
sáu vị ấy như sau:
"-
Chư Hiền giả, hãy tìm một vị
phụ tá khác. Vị này sẽ điều khiển
quốc sự cho quý vị
Hiền giả. Tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích về các
xú uế. Chúng không dễ gì được
điều phục, nếu phải sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
"Rồi
sáu vị Sát-đế-lỵ đi qua một bên và
thảo luận như sau:
"- Những người Bà-la-môn này rất
tham tài sản.
Chúng ta hãy lấy
tài sản để
dụ dỗ Bà-la-môn này.
"Các vị này đến tại chỗ của Bà-la-môn Mahà Govinda và nói:
"-
Thiện hữu,
tài sản trong bảy
quốc độ này rất là
phong phú,
Thiện hữu muốn bao nhiêu,
Thiện hữu cứ lấy bấy nhiêu.
"- Thôi thôi, chư Thiện hữu!
Tài sản của tôi rất là
phong phú, nhờ sự giúp đỡ
của quý vị. Nay tôi đã bỏ mọi
danh lợi ấy để
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích về các
xú uế, chúng không dễ gì được
điều phục, nếu phải sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
49. "Rồi
sáu vị Sát-đế-lỵ, đi qua một bên và
thảo luận như sau:
"Những người Bà-la-môn này rất tham đàn bà.
Chúng tôi hãy lấy đàn bà để
dụ dỗ Bà-la-môn này.
"Các vị này đến tại chỗ của Bà-la-môn Mahà Govinda và nói:
"-
Thiện hữu, đàn bà trong bảy
quốc độ này rất nhiều.
Thiện hữu muốn bao nhiêu,
Thiện hữu cứ lấy bấy nhiêu.
"- Thôi thôi, chư
Thiện hữu, tôi có đến bốn mươi vị
phu nhân, thảy đều đồng đẳng. Tôi nay muốn
từ bỏ tất cả các vị ấy để
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích về các
xú uế. Chúng không dễ gì được
điều phục, nếu sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
50. "- Nếu
Thiện hữu Govinda sẽ
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, thì
chúng tôi cũng sẽ
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Chỗ nào
thiện hữu đi, chỗ ấy
chúng tôi sẽ đi.
Nếu
từ bỏ dục vọng,
Mà kẻ phàm
say đắm.
Tinh cần và
cương quyết,
Vững chắc trong
nhẫn lực,
Đó là
con đường chánh,
Con đường hướng
vô thượng,
Được
Thiện nhân hộ trì,
Sanh lên cõi
Phạm thiên.
51. "Do vậy,
Thiện hữu Govinda hãy chờ bảy năm nữa, sau bảy năm
chúng tôi sẽ
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Chỗ nào
Thiện hữu đi, chỗ ấy
chúng tôi đi.
"- Chư
Thiện hữu, bảy năm quá
lâu dài. Tôi không thể chờ các
Hiền giả đến bảy năm. Ai có thể biết được về mạng sống?
Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai.
Chúng ta phải học nhờ
tuệ tri.
Việc thiện chúng ta cần phải làm.
Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai
tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích về các
xú uế. Chúng không gì được
điều phục nếu sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
52. "- Vậy
Thiện hữu Govinda, hãy chờ trong sáu năm nữa... hãy chờ trong năm năm nữa... hãy chờ trong bốn năm nữa... hãy chờ trong ba năm nữa... hãy chờ trong hai năm nữa... hãy chờ trong một năm nữa. Sau một năm
chúng tôi sẽ
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Chỗ nào
Thiện hữu đi, chỗ ấy
chúng tôi sẽ đi.
53. "- Chư
Thiện hữu, một năm quá
lâu dài. Tôi không thể chờ các
Hiền giả đến một năm. Ai có thể biết được về mạng sống?
Chúng ta phải bước đi hướng về tương lai.
Chúng ta phải học nhờ
tuệ tri.
Việc thiện chúng ta cần phải làm.
Phạm hạnh,
chúng ta cần phải thực hành. Không ai
tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích về các
xú uế. Chúng không dễ gì mà được
điều phục, nếu sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
"- Vậy
Thiện hữu Govinda, hãy chờ trong bảy tháng nữa. Sau bảy tháng
chúng tôi sẽ
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Chỗ nào
Thiện hữu đi, chỗ ấy
chúng tôi sẽ đi.
54. "- Chư
Thiện hữu, bảy tháng quá
lâu dài. Tôi không thể chờ các
Hiền giả đến bảy tháng. Ai có thể biết được về mạng sống?
Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai.
Chúng ta phải học nhờ
tuệ tri.
Việc thiện chúng ta cần phải làm.
Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai
tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích về các
xú uế. Chúng không dễ gì mà
điều phục, nếu sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
"- Vậy
Thiện hữu Govinda, hãy chờ sáu tháng nữa... hãy chờ năm tháng nữa... hãy chờ bốn tháng nữa... hãy chờ ba tháng nữa... hãy chờ hai tháng nữa... hãy chờ một tháng nữa... hãy chờ nửa tháng nữa. Sau nửa tháng,
chúng tôi sẽ
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, chỗ nào
Thiện hữu đi, chỗ ấy
chúng tôi sẽ đi.
55. "- Chư
Thiện hữu, nửa tháng quá
lâu dài, tôi không thể chờ các
Hiền giả đến nửa tháng. Ai có thể biết được về mạng sống?
Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai.
Chúng ta phải học nhờ
tuệ tri.
Việc thiện chúng ta cần phải làm.
Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai
tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích về các
xú uế. Chúng không dễ gì mà
điều phục, nếu sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
"- Vậy
Thiện hữu Govinda, hãy chờ cho bảy ngày
cho đến khi
chúng tôi giao
quốc độ cho các người con và người anh của
chúng tôi. Sau bảy ngày,
chúng tôi sẽ
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Chỗ nào
Thiện hữu đi, chỗ ấy
chúng tôi sẽ đi.
"- Chư
Thiện hữu, bảy ngày không lâu gì. Tôi sẽ chờ chư
Thiện hữu cho đến bảy ngày.
56. "Rồi Bà-la-môn Maha Govinda đi đến chỗ bảy triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị
tịnh hạnh ở, khi đến xong liền nói với bảy vị triệu phúc Bà-la-môn và bảy trăm vị
tịnh hạnh như sau:
"- Này các
Thiện hữu, hãy tìm một vị
giáo thọ khác, vị ấy sẽ dạy các
thần chú cho chư
Thiện hữu, nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích về các
xú uế. Chúng không dễ gì mà
điều phục, nếu sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
"-
Thiện hữu Bà-la-môn Govinda, chớ có
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Này
Thiện hữu,
xuất gia ít có
quyền thế, và ít có
lợi dưỡng. Làm người Bà-la-môn có nhiều
quyền thế và có nhiều
lợi dưỡng.
"- Chư
Thiện hữu chớ có nói như vậy: "Xuất gia ít có
quyền thế và ít có
lợi dưỡng. Làm người Bà-la-môn có nhiều
quyền thế và có nhiều lợi dưỡng". Chư
Thiện hữu, có ai nhiều
quyền thế và nhiều
lợi dưỡng hơn tôi. Tôi nay là vua các vị vua, là
Phạm thiên cho các vị Bà-la-môn, và là vị Trời cho các
Gia chủ, và tất cả điều này, tôi muốn vất bỏ,
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích về các
xú uế. Chúng không dễ gì mà
điều phục nếu sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia đình!
"- Nếu
Thiện hữu Govinda
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình,
chúng tôi cũng sẽ
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Chỗ nào
Thiện hữu đi, chỗ ấy
chúng tôi sẽ đi.
57. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến bốn mươi vị
phu nhân đồng đẳng, khi đến xong liền nói với bốn mươi vị
phu nhân đồng đẳng như sau:
"- Các
phu nhân, nếu muốn hãy
trở về gia đình của mình hay
gia đình quyến thuộc và tìm một người chồng khác. Tôi nay muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích về các
xú uế. Chúng không dễ gì mà được
điều phục, nếu sống
tại gia. Nay tôi muốn
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
"- Ngài là người
quyến thuộc của
chúng tôi, người
quyến thuộc mà
chúng tôi ao ước. Ngài là chồng của
chúng tôi, người chồng mà
chúng tôi ao ước. Nếu
Tôn giả Govinda
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình,
chúng tôi cũng sẽ
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Chỗ nào
Tôn giả đi, chỗ ấy
chúng tôi sẽ đi.
58. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda, sau bảy ngày liền cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà sa,
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Sau khi Bà-la-môn Mahà Govinda
xuất gia, bảy vị Sát-đế-lỵ được làm
lễ quán đảnh lên vương vị, bảy vị Bà-la-môn triệu phú, bảy trăm vị
tịnh hạnh, bốn mươi vị
phu nhân đồng đẳng, vài ngàn vị Sát-đế-lỵ, vài ngàn vị Bà-la-môn, vài ngàn
cư sĩ, và một số thiếu phụ trẻ từ các cư xá thiếu phụ, những vị này đều cạo bỏ râu tóc,
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình theo Bà-la-môn Mahà Govinda. Và được bao vây bởi
hội chúng như vậy, Bà-la-môn Mahà Govinda
du hành đi qua làng, qua quận, qua các
đô thị. Và đến tại làng nào, hay quận nào, hay
đô thị nào, Bà-la-môn Mahà Govinda được xem là vua các vị vua, là
Phạm thiên cho các Bà-la-môn, là vị Trời cho các
cư sĩ.
Trong thời gian ấy nếu có người nào nhảy mũi hay trượt chân, người ấy liền nói: "Đảnh lễ Bà-la-môn Mahà Govinda!
Đảnh lễ vị
phụ tá bảy quốc độ!"
59. "Bà-la-môn Mahà Govinda
an trú, biến mãn một phương với tâm
câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp
vô biên giới, vị ấy
an trú, biến mãn với tâm
câu hữu với từ,
quảng đại,
vô biên, không hận, không sân. Bà-la-môn Mahà Govinda, biến mãn một phương với tâm
câu hữu với bi... với tâm
câu hữu với hỷ... với tâm
câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp
vô biên giới, biến mãn với tâm câ hữu với xả,
quảng đại vô biên, không hận, không sân. Và vị ấy dạy cho các
đệ tử con đường đưa đến sự
thân hữu với
Phạm thiên giới.
60. "Và tất cả những vị nào, trong thời ấy là
đệ tử của Bà-la-môn Mahà Govinda đều hiểu được
toàn diện giáo lý của Bà-la-môn Mahà Govinda. Những vị này, khi thân hoại,
mạng chung đều được sanh lên
thiện thú,
Phạm thiên giới. Những vị nào không hiểu một cách
toàn diện tất cả
giáo lý, sau khi thân hoại,
mạng chung, một số được sanh làm
thân hữu với
chư Thiên ở
Tha Hóa Tự tại thiên, một số được sanh làm
thân hữu với
chư Thiên ở
Hóa Lạc thiên, một số được sanh làm
thân hữu với
chư Thiên ở Dạ-ma thiên, một số được sanh làm
thân hữu với
chư Thiên ở
Tam thập tam thiên, một số được sanh làm thâ hữu với
Tứ Thiên vương thiên.
Cho đến những vị phải
thành tựu các thân
thấp kém nhất, cũng được
thành tựu thân Càn-thát-bà.
Như vậy tất cả những
thiện nam tử đã
xuất gia không phải
vô hiệu, không phải trống không,
trái lại thật sự có
hiệu quả, có
tiến bộ.
61.
Thế Tôn có nhớ không?
- Này Pancasikha, Ta có nhớ. Ta
thuở ấy là Mahà Govinda. Ta dạy cho các
đệ tử của Ta
con đường đưa đến sự
thân hữu ở
Phạm thiên quốc. Nhưng này Pancasikha,
con đường phạm hạnh ấy không đưa đến yểm ly,
ly dục,
tịch diệt,
an tịnh, thắng trí,
giác ngộ và Niết-bàn.
Con đường ấy chỉ đưa sanh lên cõi
Phạm thiên. Này Pancasikha,
con đường phạm hạnh của Ta
hoàn toàn đưa đến yểm ly,
ly dục,
tịch diệt,
an tịnh, thắng trí,
giác ngộ và Niết-bàn. Đó là
con đường Thánh đạo tám ngành tức là Chánh
Tri kiến,
Chánh Tư duy,
Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp,
Chánh Mạng,
Chánh Tinh tấn,
Chánh Niệm,
Chánh Định. Này Pancasikha,
con đường phạm hạnh này
hoàn toàn đưa đến yểm ly,
ly dục,
tịch diệt,
an tịnh, thắng trí,
giác ngộ và Niết-bàn.
62. Này Pancasikha, những vị
đệ tử nào đã hiểu được
toàn diện tất cả
giáo lý của Ta, những vị ấy
trừ diệt các
lậu hoặc,
vô lậu, tự mình
hiện chứng thắng trí
giác ngộ, sống
an trú tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Trong những vị không hiểu được
toàn diện tất cả
giáo lý của Ta, một số những vị ấy,
diệt trừ năm hạ phần
kiết sử, được
hóa sanh (lên
Thiên giới) và ở tại chỗ ấy được nhập Niết-bàn, không phải sanh lại
thế giới này. Trong những vị không hiểu được
toàn diện tất cả
giáo lý của Ta, một trong những vị ấy
diệt trừ ba
kiết sử, làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành bậc
Nhất lai, chỉ phải sanh vào
thế giới này
một lần nữa rồi diệt
tận khổ đau. Trong những vị này không hiểu được
toàn diện tất cả
giáo lý của Ta, một số những vị ấy từ diệt ba
kiết sử, thành bậc
Dự lưu, không còn phải sanh vào đọa xứ,
nhất định chứng quả Bồ-đề. Này Pancasikha, như vậy tất cả những
thiện nam tử đã
xuất gia, không phải
vô hiệu, không phải trống không,
trái lại thật sự có
hiệu quả, có
tiến bộ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Pancasikha, con của Càn-thát-bà,
sung sướng,
hoan hỷ nghe lời dạy của
Thế Tôn,
đảnh lễ Ngài, thân phía hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt