Tương ưng bộ (
Saṃyutta Nikāya)
là
bộ kinh thứ ba trong năm bộ
Nikāya của
Phật giáo Thượng Tọa bộ (Theravāda). Theo
tác phẩm Diệu pháp yếu lược (
Saddhammasaṅgaha) của Ngài Dhammakitti Mahāsāmi, việc
giữ gìn và
truyền tụng Tương ưng bộ do
Tôn giả Mahākassapa và nhóm
đệ tử của Ngài
thực hiện.
[1]1. Cấu trúc, những điểm đặc thù và vấn đề truyền bảnTheo
Chú giải Tương ưng bộ của
Luận sư Buddhaghosa trong
tác phẩm Sāratthappakāsinī: “Ở đây,
Tương ưng bộ được xác định có năm thiên:
Thiên Có kệ,
Thiên Nhân duyên,
Thiên Uẩn,
Thiên Sáu xứ,
Thiên Đại. Số lượng kinh
gồm có 7.762
bài kinh. Những
bài kinh đó được
kết tập vào từng nhóm
tương ưng với nhau.”
[2] Cũng theo Ngài Buddhaghosa,
sở dĩ được gọi là “
Tương ưng” (
Saṃyutta), vì: “Gồm nhiều nhóm tương đồng và
liên hệ với nhau, là
Tương ưng bộ tôn quý, do
đức Phật tự giác ngộ và
giảng thuyết, được sinh ra từ Tuệ phân tích.”
[3] Trước hết, về hình thức trình bày. Theo
truyền thống Phật giáo Theravāda,
Tương ưng bộ được sắp xếp và trình bày theo
hình thức năm tập hay còn gọi là năm thiên (
pañcavagga). Đây là cấu trúc mang tính cội nguồn vì chúng từng
xuất hiện trong
Chú giải của
Luận sư Buddhaghosa. Mặc dù
hình thức của
bộ kinh có sự thay đổi trong những ấn bản về sau, nhưng cách thức
phân chia bộ kinh thành năm phần vẫn được giữ lại bằng những ghi chú
cụ thể trong nội dung,
tuân thủ theo
truyền thống kết tập và san định thuở
ban đầu. Ấn bản
Tương ưng bộ với nguyên tác Pāli được chuyển thể sang mẫu tự La-tinh (
Roman Script), do Hội
Thánh điển Pāli (PTS)
ấn hành từ năm 1884 đến 1898, đã
tuân theo hình thức năm thiên này.
Thứ hai, về số lượng kinh và sự phân chia các nhóm Tương ưng (Saṃyutta). Theo
ghi nhận của Ngài Buddhaghosa,
Tương ưng bộ có 7.762 kinh. Theo sự kiểm đếm của
tác giả Léon Feer (1830-1902) trong ấn bản Pāli do PTS
ấn hành thì có 2.889 kinh. Theo sự
đối chiếu và tính toán của Bhikkhu Bodhi trong ấn bản năm 2000 thì có 2.904 kinh.
[4] Trong bản dịch tiếng Việt
Tương ưng bộ lần này, số lượng và
trật tự kinh được sắp xếp lại
tương ứng với bản Pāli của VRI, hay còn gọi là ấn bản của kỳ
kiết tập kinh điển lần thứ 6 là 2.854 kinh.
[5] Như vậy,
phải chăng ấn bản
Tương ưng bộ hiện đang
lưu hành đã bị sót mất nhiều kinh so với nguyên bản có từ thời Ngài Buddhaghosa? Từ sự đối khảo từng đoạn
Tương ưng bộ xuất hiện trong bản
Chú giải của Ngài Buddhaghosa, Bhikkhu Bodhi đã xác quyết rằng, ấn bản hiện đang
lưu hành không bị sót mất.
[6] Sự sai sót về số lượng kinh theo Bhikkhu Bodhi có thể là do cách tính toán,
liên quan đến cách
mở rộng hoặc sự tách biệt giữa các
bản kinh.
Cụ thể như, trên những
bản kinh chép bằng lá cọ Ola (
Palm Leaf Manuscripts), không có các dấu hiệu
phân biệt giữa
bản kinh này với
bản kinh khác.
[7] Ngay như số lượng các nhóm
Tương ưng giữa các truyền bản Pāli cũng có sự khác biệt.
Tương ưng bộ theo ấn bản
ngôn ngữ Miến Điện (
Burmese) có 56 nhóm, thế nhưng ở ấn bản
ngôn ngữ Tích Lan (
Sinhala) chỉ có 54 nhóm.
Sở dĩ có sự sai khác đó là vì trong ấn bản
ngôn ngữ Tích Lan, nhóm
Tương ưng Minh kiến (
Abhisamayasaṃyutta) là phần phụ của nhóm
Tương ưng Nhân duyên (
Nidānasaṃyutta) và nhóm
Tương ưng Thọ (
Vedanāsaṃyutta) là phần phụ của nhóm
Tương ưng Sáu xứ (
Saḷāyatanasaṃyutta).
8Thứ ba, về vai trò và vị trí.
Tương ưng bộ có một
vị trí quan trọng và đặc thù trong năm bộ
Nikāya. Vì lẽ,
dựa trên tiêu chí
tương ưng nên tập hợp được nhiều
bản kinh có cùng nội dung,
tính chất và cùng mối
liên hệ vào một nhóm. Nhờ vậy, nội dung chứa đựng trong từng nhóm
Tương ưng rất
phong phú và
sinh động so với những
bản kinh khác.
Cụ thể như, khi đề cập đến hành hoạt của Vua Pasenadi nước Kosala,
Tương ưng Kosala (
Kosalasaṃyutta) đã đề cập những nét chính, cô đọng,
liên quan đến cuộc đời của vị vua này với nhiều
bài kinh ngắn.
Tương tự như vậy khi đề cập đến các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni hay
chư thiên, ma quỷ… Nhờ tính tập hợp đó nên
bộ kinh đã
cung cấp rất nhiều tư liệu
rõ ràng,
chi tiết, khó có thể
tìm thấy trong bốn bộ
Nikāya còn lại.
Ngoài ra,
Tương ưng bộ còn chuyên chở những tư liệu
liên quan đến những tín niệm,
quan điểm triết học cổ xưa của
Ấn Độ,
xuất hiện trong các chương như
Tương ưng Chư thiên (
Devatāsaṃyutta),
Tương ưng Sakka (
Sakkasaṃyutta),
Tương ưngThần mây (
Valāhakasaṃyutta),
Tương ưng Kiến (
Diṭṭhisaṃyutta),
Tương ưng Nữ nhân (
Mātugāmasaṃyutta),
Tương ưng Thôn trưởng (
Gāmaṇisaṃyutta). Điều
đặc biệt đáng
lưu tâm trong
Tương ưng Nữ nhân (
Mātugāmasaṃyutta), có đề cập đến những bổn phận cơ bản của người
phụ nữ (
Strīdharma)
trong
xã hội Ấn Độ cổ đại; và trong số những bổn phận đó, có những bổn phận vốn không thuộc về
quan điểm của
Phật giáo.
Cụ thể như
bản kinh khá ngắn với
tiêu đề là
Một (
Ekasutta -
S. IV. 246), đề cập đến mối quan hệ giữa nam và nữ,
chi tiết gần
tương tự với
Luật Manu (
The Manusmṛiti - V. 148).
[8]Thứ tư, về truyền bản.
Tương ưng bộ trong nguyên tác Pāli có hai truyền bản quan trọng, thứ nhất là bản
ngôn ngữ Miến Điện (
Burmese) và thứ hai là bản
ngôn ngữ Tích Lan (
Sinhala). Theo đối khảo của
học giả người Đức Oskar von Hinüber, hai truyền bản này
tương đối độc lập, vì dường như đã có một số
bài kinh được
tiếp nhận từ hai nguồn khác nhau.
[9] Từ hai truyền bản Pāli này, PTS mà
cụ thể là Léon Feer (1830-1902) đã
biên tập và chuyển thể sang
ngôn ngữ La-tinh.
Tính
đến nay,
Tương ưng bộ đã được nhiều
tác giả dịch trực tiếp từ Pāli sang Anh ngữ. Bản dịch
Tương ưng bộ bằng Anh ngữ đầu tiên với tên gọi:
The Book of the Kindred Sayings do Rhys Davids dịch tập I (1917), tập II (1922), và F. L Woodward dịch tập III (1925), tập IV (1927), tập V (1930).
Ngoài ra,
Tương ưng bộ cũng được nhiều
tác giả như Bhikkhu Ñāṇamoli
phiên dịch một số
bài kinh chủ yếu, hoặc Bhikkhu Sujato đã dịch nguyên cả
bộ kinh. Trong số những dịch phẩm về Anh ngữ của
Tương ưng bộ, có thể nói rằng, bản dịch
Tương ưng bộ từ Pāli sang Anh ngữ với tên gọi
The Connected Discourses of the Buddha: A Translation of the Saṃyutta Nikāya của Bhikkhu Bodhi do Wisdom Publications
ấn hành vào năm 2000,
là một trong những bản dịch được
giới học giả
ghi nhận và
đánh giá cao.
Ngoài ra, trên trang nhà http://www.suttacentral.net/ hiện đang
giới thiệu nhiều
bài kinh thuộc
Tương ưng bộ đã được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên
thế giới như Pháp, Đức, Ý, Na Uy, Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha, Hungary, Ba Lan, Nga, Nhật, Hoa, Thái Lan, Indonesia… và gồm cả tiếng Việt.
Bản dịch tiếng Việt
Tương ưng bộ do
Trưởng lão Hòa thượng Thích
Minh Châu phiên dịch,
dựa trên nguyên tác Pāli và ấn bản tiếng Anh của PTS, được
ấn hành lần đầu tiên vào năm 1982. Sau đó,
bộ kinh này đã được Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam tái bản vào những năm 1993 và 2013.
2. Tóm tắt về nội dung2.1 Thiên Có kệ (Sagāthāvagga)Thiên này có 11
Tương ưng. Trong đó,
Tương ưng Chư thiên (
Devatāsaṃyutta) và
Tương ưng Thiên tử (
Devaputtasaṃyutta) là hai
Tương ưng đề cập về từng vị
thiên tử hoặc nhiều vị
thiên tử đã đến thỉnh
đức Phật giảng pháp, hoặc nhờ
đức Phật xác chứng về
kiến thức Phật pháp của họ. Có những
bài kinh ngắn trong hai
Tương ưng này (
S. I. 36, 39) đề cập đến những
chân lý phổ quát của
xã hội, không
thuần túy Phật pháp.
Thứ ba,
Tương ưng Kosala (
Kosalasaṃyutta) đề cập đến những tâm tư,
suy nghĩ, hành hoạt của vị
Hoàng đế có những
liên hệ mật thiết đến
đức Phật và
Tăng đoàn. Vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) là một vị vua có những
nỗ lực rất lớn trong việc
ứng dụng pháp Phật vào các mối quan hệ
gia đình cũng như đường hướng trị nước, an dân.
Thứ tư,
Tương ưng Ác ma (
Mārasaṃyutta) và thứ năm
Tương ưng Tỷ-kheo-ni (
Bhikkhunīsaṃyutta) cùng đề cập đến một đối tượng biểu trưng cho
năng lượng tiêu cực, đó là
Ác ma. Theo
Tương ưng Ác ma, ngay từ khi vừa mới
giác ngộ,
Ác ma đã theo
đức Phật. Thậm chí có những giai
đoạn Ác ma theo Ngài ròng rã đến bảy năm (
S. I. 124) và đã dùng nhiều
phương cách phá hoại nhưng không làm
đức Phật lay động. Đối với các vị Tỷ-kheo-ni trong
Tương ưng Tỷ-kheo-ni,
Ác ma đã dùng nhiều cách thức, từ khuyến dụ, rủ rê, đến dọa nạt nhưng vẫn không làm cho các Tỷ-kheo-ni
sợ hãi hay
kinh hoàng.
Thứ sáu,
Tương ưng Phạm thiên (
Brahmasaṃyutta),
Phạm thiên Sahampati
xuất hiện đầu tiên sau khi
đức Phật vừa mới
thành đạo và cũng có mặt trong đêm
đức Phật nhập Niết-bàn. Có lần,
Phạm thiên đã
thuyết pháp cho mẹ của một vị Tỷ-kheo, khuyên bà đừng
cúng dường Phạm thiên Sahampati ở trên cao kia, tức là Ngài, mà hãy phụng kính vị
Phạm thiên trước mặt, chính là Tỷ-kheo Brahmadeva đã
chứng quả A-la-hán, vốn là con trai của bà (
S. I. 141).
Thứ bảy,
Tương ưng Bà-la-môn (
Brāhmaṇasaṃyutta) đề cập đến những trở ngại, khó khăn trên bước đường
hóa đạo của
đức Phật khi gặp phải sự chống đối của
giai cấp Bà-la-môn. Cũng trong
Tương ưng này,
đức Phật đã tái định nghĩa thế nào là sự thanh tẩy (
S. I. 182), thế nào gọi là
khất sĩ (
S. I. 182), thế nào gọi là cày ruộng (
S. I. 172), thế nào gọi là người
hiền lành (
S. I. 154)… Trong số những Bà-la-môn chống đối đó, có nhiều người sau khi nghe
đức Phật thuyết pháp, đã tỏ ngộ,
phát nguyện xuất gia và
chứng đắc Thánh quả.
Thứ tám,
Tương ưng Trưởng lão Vaṅgīsa (
Vaṅgīsasaṃyutta) đề cập đến khả năng thi phú của vị Tỷ-kheo cùng tên rất mực
tài hoa. Tuy
tài hoa là vậy nhưng Tỷ-kheo Vaṅgīsa vẫn bị
vô số khổ đau do chưa
hàng phục được
vọng tâm. Từ khi gặp
đức Phật và
nỗ lực tu tập, Vaṅgīsa đã
chuyển hóa tâm mình,
chứng đắc Thánh quả và dùng khả năng riêng có để
ca ngợi đức Phật và các vị
Thánh Tăng bằng những vần kệ
đi vào lòng người.
Thứ chín,
Tương ưng Rừng (
Vanasaṃyutta) và thứ mười là
Tương ưng Dạ-xoa (
Yakkhasaṃyutta) đề cập đến hai loại
chúng sanh bậc cao là
chư thiên (
devatā) sống trong rừng và các loài dạ-xoa (
yakkha) trong sự
liên hệ với chúng Tỷ-kheo nói chung.
Cụ thể như, có vị Tỷ-kheo thích ngửi hương sen nên thường đến bên bờ hồ để ngửi
hoa sen. Khi ấy, có vị thiên trú ở rừng, ở cây đã khuyên Tỷ-kheo này bằng cách chỉ ra rằng, ngửi hương cũng là
hình thức của
trộm cắp (
S. I. 204).
Tương tự như vậy, dạ-xoa Sīvaka đã trấn
an cư sĩ
Cấp Cô Độc khi vị này lần đầu tiên đến
Trúc Lâm để
diện kiến đức Phật và
chúng Tăng (
S. I. 210). Bên cạnh đó, còn có những dạ-xoa
bạo ác, không những hù dọa các vị Thánh
đệ tử mà còn nhiều lần sách nhiễu
đức Thế Tôn (
S. I. 218).
Tương ưng thứ mười một
là
Tương ưng Sakka (
Sakkasaṃyutta).
Tương ưng này đề cập đến cuộc chiến
dai dẳng giữa
chư thiên và a-tu-la. Trong cuộc chiến này, có khi
chư thiên thắng và ngược lại,
tuy nhiên điều đáng
ghi nhận là phẩm hạnh của
chư thiên luôn được đề cao. Ngay như
Thiên chủ Sakka, trong khi lui binh trốn chạy
kẻ thù nhưng vẫn sợ xe của mình cán phải tổ chim non nên bảo người đánh xe né tránh (
S. I. 224). Thậm chí đối với
kẻ thù,
Thiên chủ Sakka cũng không hề có sự
gian trá (
S. I. 225).
2.2 Thiên Nhân duyên (Nidānavagga)
Thiên này có 10
Tương ưng với khởi đầu là
Tương ưng Nhân duyên (
Nidānasaṃyutta).
Tương ưng Nhân duyên trình bày các
phương diện, các khía cạnh đặc thù của 12
nhân duyên. Bên cạnh việc trình bày về
lý thuyết Duyên khởi (
S. II. 25),
Tương ưng này cũng đề cập đến những nội dung quan
trọng như bốn loại
thức ăn (
S. II. 11-12),
mười lực (
S. II. 27), bốn
vô sở úy (
S. II. 28), cùng các khái niệm quan trọng về tâm, ý, thức (
S. II. 94-95).
Liên quan đến quan điểm của
Phật giáo về
vấn đề ăn uống,
Tương ưng này cũng đưa ra ví dụ về việc
ăn thịt đứa con rất
sống động (
S. II. 97).
Thứ hai,
Tương ưng Minh kiến (
Abhisamayasaṃyutta) chỉ cho sự thấy biết
rõ ràng và đầy đủ về
giáo pháp (
dhammābhisamaya), có
ý nghĩa to lớn như là
chứng đắc Pháp nhãn (
S. II. 133), và một khi
thành tựu minh
kiến
sẽ đoạn
tận khổ đau. Những
ẩn dụ như đất trên móng tay và quả đất (
S. II. 133), hòn sỏi và ngọn núi (
S. II. 139)… là những
so sánh sinh động nhằm làm
sáng tỏ ý nghĩa sâu rộng của minh kiến.
Thứ ba,
Tương ưng Giới (
Dhātusaṃyutta) đề cập đến
cảnh giới,
phạm vi,
yếu tố,
tính chất, chủng loại của nhiều sự vật,
hiện tượng và kể cả
con người cùng những thuộc tính của chúng. Đơn cử: “
Này các Tỷ-kheo,
tùy thuộc theo giới,
các chúng sanh cùng hòa hợp,
cùng đi với nhau. Chúng sanh liệt ý chí cùng hòa hợp,
cùng đi với chúng sanh liệt ý chí. Chúng sanh thiện ý chí cùng hòa hợp,
cùng đi với chúng sanh thiện ý chí” (
S. II. 154).
Thứ tư,
Tương ưng Vô thỉ (
Anamataggasaṃyutta) đề cập
đến sự
luân hồi không có đầu mối của
chúng sanh (
S. II. 178). Trong mênh mang
luân hồi đó, khó có thể
tìm thấy một ai chưa từng là người
thân thuộc của mỗi
chúng sanh (
S. II. 189-90). Ngay như ngọn núi Vepulla (Tỳ-phú-la) ở Rājagaha (
Vương Xá)
này, ngoài tên gọi như đã biết thì còn có sáu tên gọi khác ở trong
quá khứ xa xưa (
S. II. 190).
Thứ năm,
Tương ưng Kassapa (
Kassapasaṃyutta) và thứ bảy
là
Tương ưng Rāhula (
Rāhulasaṃyutta) đề cập về
công hạnh riêng biệt của hai vị
Thánh Tăng này. Với Kassapa, vị
Thánh Tăng luôn biết đủ và kham khổ trong
tứ sự cần dùng (
S. II. 194).
Đặc biệt,
đức Phật đã từng ban y
phấn tảo cho
Tôn giả Kassapa và
Tôn giả đã
vô cùng quý trọng đặc ân này (
S. II. 217). Với
Tôn giả Rāhula, việc
cần cầu học hỏi chính là
mong mỏi thường trực của
Tôn giả. Nhờ
nhận thức và
thực tập: “
Cái này không phải của tôi,
cái này không phải là tôi,
cái này không phải tự ngã của tôi”,
nên
Tôn giả Rāhula đã
thành tựu quả vị giải thoát (
S. II. 253).
Thứ sáu,
Tương ưng Lợi đắc,
cung kính (
Lābhasakkārasaṃyutta) trình bày những đớn đau, khổ lụy do bị
chi phối bởi lợi đắc,
cung kính,
danh vọng (
S. II. 225).
Ẩn dụ trùng ăn phân là một
ẩn dụ có khả năng
chấn động tâm thức (
S. II. 228). Theo lời
đức Phật, có kẻ không hề nói láo dù bị mua chuộc từ một đồng Nikkha
cho đến một trăm đồng Nikkha, nhưng sẽ nói láo khi bị lợi đắc,
cung kính,
danh vọng chi phối.
Hình ảnh cây chuối, cây tre, cây lau, con lừa sau khi sanh sản đều bị
diệt vong là những ví dụ
sinh động chỉ cho những
chúng sanh bị cột trói bởi lợi đắc,
cung kính và
danh vọng (
S. II. 241). Những ví dụ này cũng có mặt trong
Luật tạng Pāli, chương bảy,
Cullavagga.
Thứ tám,
Tương ưng Lakkhaṇa (
Lakkhaṇasaṃyutta) thuật lại những bài
pháp thoại của
Tôn giả Mahāmoggallāna (Đại Mục-kiền-liên) với
Tôn giả Lakkhaṇa. Nội dung chính của những
bài kinh này
liên quan đến cảnh giới khổ đau của loài
ngạ quỷ và
Tôn giả Mahāmoggallāna đã chỉ ra do
nguyên nhân gì phải thọ nhận khổ đau như vậy. Theo thống kê, có tất cả 21 loài khổ quỷ do
Tôn giả Mahāmoggallāna trông thấy và đã kể lại với
Tôn giả Lakkhaṇa.
Thứ chín,
Tương ưng Thí dụ (
Opammasaṃyutta) đề cập đến những ví dụ
sinh động như ngôi nhà có nóc nhọn với hạnh không
phóng dật (
S. II. 262).
Tương ưng này cũng
ghi nhận về
câu chuyện cái chốt trống Ānaka và sự pha trộn những
yếu tố ngoại lai vào
giáo pháp Phật (
S. II. 266). Thậm chí
hình ảnh con
dã can còn được dùng làm ví dụ để chỉ cho vị Tỷ-kheo
mê ngủ (
S. II. 271).
Đức Phật dạy rằng: “
Đây là sự chết,
này các Tỷ-kheo,
trong giới luật của bậc Thánh,
tức là sự từ bỏ học giới và hoàn tục” (
S. II. 270).
Thứ mười,
Tương ưng Tỷ-kheo (
Bhikkhusaṃyutta)
là
Tương ưng cuối cùng trong
Thiên Nhân duyên (
Nidānavagga). Ở
Tương ưng này, một vài
hành trạng của các vị
đệ tử như Kolita (Mahāmoggallāna), Upatissa (Sāriputta), Nanda… đã được đề cập với nhiều
chi tiết đặc thù. Đơn cử như: “
Đối với Tôn giả Sāriputta,
dầu cho bậc Đạo sư có biến hoại,
trạng huống có đổi khác,
cũng không khởi lên sầu,
bi,
khổ,
ưu,
não” (
S. II. 274).
2.3 Thiên Uẩn (Khandhavagga)
Thiên này có 13
Tương ưng, khởi đầu là
Tương ưng Uẩn (
Khandhasaṃyutta), là một trong những
Tương ưng dài nhất của
Tương ưng bộ.
Tương ưng Uẩn chủ yếu đề cập đến
năm uẩn và những
liên hệ xung quanh năm uẩn này. Theo
đức Phật, thân
ngũ uẩn là
gánh nặng (
S. III. 25), là bất toàn, là
khổ não: “
Ai mang cái thân này,
lại tự cho là không bệnh,
dầu chỉ trong một giây phút,
người ấy phải là người ngu” (
S. III. 1). “
Năm thủ uẩn này lấy dục làm căn bản” (
S. III. 100).
Vì vậy, không có gì
tốt đẹp khi cố níu kéo, chấp giữ thân
năm uẩn này: “
Ai chấp trước,
này Tỷ-kheo,
người ấy bị ma trói buộc,
ai không chấp trước,
người ấy được giải thoát khỏi Ác ma” (
S. III. 73).
Thứ hai,
Tương ưng Rādha (
Rādhasaṃyutta). Trong
Tương ưng này,
đức Phật đã dùng nhiều
phương cách, nhiều ví dụ để dạy cho
Tôn giả Rādha đi từ chánh quán
cho đến Niết-bàn (
S. III. 188).
Tương ưng này nêu dẫn định nghĩa về
chúng sanh (
S. III. 189) cũng như về sợi dây
tái sanh (
bhavanetti) (
S. III. 190). Các
pháp như vô thường, khổ, vô ngã… cũng được
đức Phật tuần tự giảng cho
Tôn giả Rādha.
Thứ ba,
Tương ưng Kiến (
Diṭṭhisaṃyutta) đề cập đến
các loại kiến chấp của
ngoại đạo. Điều
đặc biệt nhất trong
Tương ưng này là đã nêu dẫn
quan điểm triết học về bảy thân (
sattime kāyā) của Pakudha Kaccāyana (Bà-phù-đà Ca-chiên-diên), vị
giáo chủ của một trong sáu trường phái
triết học ở thời
đức Phật (
S. III. 211).
Thứ tư,
Tương ưng Nhập (
Okkantasaṃyutta). Nhập ở đây mang nghĩa là
đi vào, được sanh vào. Ở đây, những ai có
lòng tin, có
tín giải, biết chắc rằng sáu căn đều
vô thường,
biến hoại thì “
Vị ấy được gọi là tùy tín hành,
đã nhập chánh tánh,
đã nhập chân nhân địa,
đã vượt phàm phu địa.
Vị ấy không có thể làm những hành động gì,
do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục,
bàng sanh,
ngạ quỷ;
một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu” (
S. III. 225). Các kinh trong
Tương ưng này chỉ là sự
mở rộng về
sáu trần, sáu thức,
sáu xúc, sáu thọ…
Thứ năm,
Tương ưng Sanh (
Uppādasaṃyutta). Sanh (
uppāda) nghĩa là sự sanh, sự trú, sự thành, sự
xuất hiện... được trình bày theo nguyên tắc
duyên sanh.
Cụ thể như: “
Này các Tỷ-kheo,
sự sanh,
sự trú,
sự thành,
sự xuất hiện của mắt là sự sanh của khổ,
sự trú của bệnh hoạn,
sự xuất hiện của già chết” (
S. III. 228). Sự
sanh khởi của các căn còn lại cũng
tương tự như vậy.
Thứ sáu,
Tương ưng Phiền não (
Kilesasaṃyutta).
Tương ưng này
định danh tùy phiền não và các
phương diện khác của
tùy phiền não (
S. III. 232).
Thứ bảy,
Tương ưng Sāriputta (
Sāriputtasaṃyutta)
mô tả quá trình
tuần tự nhập và xuất chín định
thứ đệ, từ
Sơ thiền cho đến Diệt thọ tưởng định của
Tôn giả Sāriputta (
S. III. 235-238). Cũng trong
Tương ưng này, nữ du sĩ Sūcimukhī đã
cật vấn Tôn giả Sāriputta về mười cách ăn và được
Tôn giả giải thích đầy đủ (
S. III. 238).
Bốn
Tương ưng như
Tương ưng Loài rồng (
Nāgasaṃyutta),
Tương ưng Kim Sí điểu (
Supaṇṇasaṃyutta),
Tương ưng Càn-thát-bà (
Gandhabbakāyasaṃyutta) và
Tương ưng Thần mây (
Valāhakasaṃyutta) trình bày về những
cách sinh ra, sự khác biệt giữa các
chúng sanh đặc thù này, cũng như do
nhân duyên gì để sanh về các loài ấy. Trong những
Tương ưng này, bên cạnh lời dạy của
đức Phật còn chuyên chở những thông tin thuộc tín niệm
văn hóa,
triết học của
xã hội Ấn Độ cổ đại.
Thứ mười hai,
Tương ưng Vacchagotta (
Vacchagottasaṃyutta) nêu dẫn các
kiến chấp về
thế giới và
con người của du sĩ
ngoại đạo Vacchagotta với những câu hỏi như: “
Thế giới là thường còn” hay “
Thế giới là không thường còn”; “
Thế giới hữu biên” hay “
Thế giới vô biên”; “
Sinh mạng và thân thể là một” hay “
Sinh mạng và thân thể là khác”; “
Như Lai có tồn tại sau khi chết” hay “
Như Lai không tồn tại sau khi chết”; “
Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết”
hay
“
Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết” (
S. III. 257). Thật ra,
Tương ưng Vacchagotta có nhiều điểm tương đồng với
Tương ưng Không thuyết (
Abyākatasaṃyutta) ở
Thiên Sáu xứ (
Saḷāyatanavagga).
Tương ưng cuối cùng của
Thiên Uẩn là
Tương ưng Thiền (
Jhānasaṃyutta). Trong
Tương ưng này đã khéo
phân biệt giữa
thiền định và
thiền chứng (
samādhimūlakasamāpatti) thông qua bốn hạng người
tu tập (
S. III. 265).
Đồng thời,
Tương ưng Thiền cũng chỉ rõ thế nào là
thiện xảo về
chỉ trú trong
thiền định (
samādhimūlakaṭhiti),
thiện xảo về xuất khởi trong
thiền định (
samādhimūlakavuṭṭhāna),
thiện xảo về sự
thuần thục trong
thiền định (
samādhimūlakakallita).
2.4 Thiên Sáu xứ (Saḷāyatanavagga)
Thiên này có 10
Tương ưng với
Tương ưng đầu tiên là
Tương ưng Sáu xứ (
Saḷāyatanasaṃyutta).
Đây là
Tương ưng dài thứ hai trong
Tương ưng bộ. Nội dung của
Tương ưng này đề cập đến
tính chất vô thường, khổ,
vô ngã trong mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Đức Phật nói rằng: “
Ai ưa thích mắt,
này các Tỷ-kheo,
người ấy ưa thích khổ.
Ai ưa thích khổ,
Ta nói người ấy không thoát khỏi khổ” (
S. IV. 13). “
Do duyên mắt và các sắc khởi lên nhãn thức” (
S. IV. 67). Chính
vì vậy,
cần phải hộ trì các căn,
tiết độ trong ăn uống và
chú tâm cảnh giác, ngay trong
hiện tại sống được
an lạc,
hoan hỷ và tạo
nguyên nhân bắt đầu đoạn tận các
lậu hoặc (
S. IV. 175).
Hình ảnh khúc gỗ trôi sông, nếu
như không tấp vào bờ này hay bờ kia, không bị
mục nát, không bị
phi nhân nhặt lấy… tất sẽ trôi ra biển lớn. Cũng vậy, vị Tỷ-kheo không bị dính mắc bởi sáu nội xứ và sáu ngoại xứ,
tâm không chấp thủ… sẽ xuôi về Niết-bàn (
S. IV. 179).
Thứ hai,
Tương ưng Thọ (
Vedanāsaṃyutta) đề cập đến ba thọ, gồm
lạc thọ,
khổ thọ và bất khổ
bất lạc thọ. “
Ba thọ này,
do xúc sanh,
lấy xúc làm căn bản,
lấy xúc làm nhân duyên,
lấy xúc làm trợ duyên” (
S. IV. 215).
Đức Phật khẳng định rằng: “
Phàm cái gì được cảm thọ,
cái ấy nằm trong đau khổ” (
S. IV. 216).
Thứ ba,
Tương ưng Nữ nhân (
Mātugāmasaṃyutta) đề cập đến những đức tánh
khả ý và không
khả ý của người
phụ nữ (
S. IV. 238), những điểm đặc thù chỉ riêng có ở
phụ nữ (
S. IV. 239) và cả những tật xấu của
phụ nữ như
phẫn nộ,
sân hận, tật đố,
xan tham, biếng nhác…
Ngoài ra,
Tương ưng này cũng đề cập đến những
tăng trưởng tốt đẹp dành cho
phụ nữ (
S. IV. 250).
Tương ưng Nữ nhân đã chuyên chở một vài
chi tiết không phải
lời Phật dạy mà là những
quan niệm, những
định kiến của
xã hội Ấn Độ cổ đại đối với
phụ nữ.
Thứ tư,
Tương ưng Jambukhādaka (
Jambukhādakasaṃyutta) và thứ năm,
Tương ưng Sāmaṇḍaka (
Sāmaṇḍakasaṃyutta) ghi lại những lời dạy của
Tôn giả Sāriputta với du sĩ
ngoại đạo Jambukhādaka và Sāmaṇḍaka về những
vấn đề như Niết-bàn và
con đường dẫn đến Niết-bàn (
S. IV. 251); thế nào là vị A-la-hán và
con đường dẫn đến
quả vị A-la-hán (
S. IV. 251);
phương cách điều hòa
hơi thở và
đạt đến điều hòa
hơi thở tối thượng (
S. IV. 254); thế nào là thọ (
S. IV. 255); thế nào là
lậu hoặc,
vô minh,
khát ái,
bộc lưu,
chấp thủ (
S. IV. 256-58)… đã được
Tôn giả Sāriputta
giảng giải thỏa đáng.
Thứ sáu,
Tương ưng Moggallāna (
Moggallānasaṃyutta) đề cập đến
tứ thiền và
tứ vô sắc định do
Tôn giả Mahāmoggallāna
giảng thuyết cho chúng Tỷ-kheo (
S. IV. 262-68).
Ngoài ra,
Tương ưng này cũng
ghi nhận sự kiện Tôn giả Mahāmoggallāna lên
cõi trời Tāvatiṃsa (
Tam Thập Tam thiên)
thuyết pháp cho
chư thiên (
S. IV. 269-80).
Thứ bảy,
Tương ưng Citta (
Cittasaṃyutta). Citta (Tâm)
là tên riêng của một
vị cư sĩ
tại gia của
đức Phật, có nhiều điều đặc dị,
phi phàm.
Vị cư sĩ này có những nét tương đồng với
cư sĩ Duy-ma-cật trong kinh văn Hán tạng. Trước hết, sau khi
đảnh lễ chư Tăng,
cư sĩ Citta đã
thuyết pháp cho chúng Tỷ-kheo (
S. IV. 281). Có
trường hợp,
cư sĩ Citta đã
giải thích bài kệ cho
Trưởng lão Kāmabhu (
S. IV. 291). Trong
trường hợp khác,
cư sĩ Citta đã luận biện với các vị Nigaṇṭha (
S. IV. 297). Ở đây,
sở dĩ có khả năng như thế vì
cư sĩ Citta đã
chứng đắc Tứ thiền (
S. IV. 300). Ngay cả trong lúc
lâm chung,
vị cư sĩ này còn
an ủi ngược lại những người thăm bệnh mà trong số đó có cả
chư thiên ở rừng, ở cây và khiến cho tất cả
thính chúng được giải thoát (
S. IV. 302).
Tương ưng này cũng
ghi nhận về
năng lực thuyết giảng và
sức mạnh thần thông của hai vị Tỷ-kheo trẻ mới tu. Vị thứ nhất tên là Isidatta có khả
năng thuyết pháp cho các vị Tỷ-kheo
trưởng lão (
S. IV. 285)
và vị thứ hai là Tỷ-kheo Mahaka đã
thực hành thần thông, khiến mưa rơi xuống để
cúng dường sự
mát mẻ đến các bậc
Trưởng lão (
S. IV. 288).
Thứ tám,
Tương ưng Thôn trưởng (
Gāmaṇisaṃyutta). Trong
Tương ưng này,
đức Phật hóa giải những
định kiến sai lầm cho các vị thôn trưởng về các
quan niệm như tàn bạo và
hiền lành (
S. IV. 305). Người làm kẻ khác
loạn tâm,
đam mê chơi bời sẽ bị đọa vào
địa ngục Hý Tiếu (Pahāsa) (
S. IV. 306).
Đặc biệt,
Tương ưng này nêu rõ sự khác biệt giữa cầu siêu theo
quan điểm của Bà-la-môn và cầu siêu theo
quan điểm của
Phật giáo (
S. IV. 311).
Thứ chín,
Tương ưng Vô vi (
Asaṅkhatasaṃyutta) định nghĩa thế nào là
vô vi và
con đường dẫn đến
vô vi (
S. IV. 360).
Tương ưng này cũng
liệt kê những tên khác nhau chỉ cho
vô lậu (
S. IV. 370).
Tương ưng thứ mười của
Thiên Sáu xứ là
Tương ưng Không thuyết (
Abyākatasaṃyutta).
Tương ưng này đề cập đến những câu hỏi mà không được
Như Lai trả lời vì chúng không
thiết thực với
đương cơ của người hỏi (
S. IV. 388). Điểm đặc thù trong
Tương ưng này
ghi nhận về
trường hợp Tỷ-kheo-ni Khema
thuyết pháp cho Vua Pasenadi (
S. IV. 374).
Vị trí của
bài kinh này nên được xếp vào trong
Tương ưng Kosala hoặc
Tương ưng Tỷ-kheo-ni thì
thích hợp hơn.
2.5 Thiên Đại (Mahāvagga)
Thiên Đại (
Mahāvagga) có 12
Tương ưng với
Tương ưng Đạo (
Maggasaṃyutta) là
Tương ưng đầu tiên. Ở
Tương ưng này,
đức Phật giải thích một nửa
Phạm hạnh và
toàn bộ Phạm hạnh cho
Tôn giả Ānanda (
S. V. 1). Những
bài kinh kế tiếp,
đức Phật trình bày,
giải thích những
phương diện khác nhau của
Thánh đạo tám ngành, từ
chánh kiến cho đến chánh định. “
Cái gì là giá chống đỡ cho tâm?
Chính là Thánh đạo tám ngành” (
S. V. 20).
Thứ hai,
Tương ưng Giác chi (
Bojjhaṅgasaṃyutta). “
Cho đến như thế nào,
bạch Thế Tôn,
được gọi là giác chi?
” “
Vì chúng đưa đến giác ngộ,
này các Tỷ-kheo, do vậy nên chúng được gọi là giác chi” (
S. V. 72). Nếu
hành giả tu tập thuần thục theo
bảy giác chi thì có thể đoạn trừ bệnh tật (
S. V. 79-81). Vì sao vậy, vì
bảy giác chi có khả năng đoạn trừ những
cấu uế trong tâm cũng như muốn có vàng
tinh luyện thì phải trừ sạch những
cấu uế của vàng (
S. V. 92). Như vậy: “
Này các Tỷ-kheo,
với mục đích thắng tri,
liễu tri,
đoạn diệt,
đoạn tận năm thượng phần kiết sử,
bảy giác chi cần phải tu tập” (
S. V. 139).
Thứ ba,
Tương ưng Niệm xứ (
Satipaṭṭhānasaṃyutta).
Tương ưng này đề cập đến pháp tu
bốn niệm xứ gồm thân, thọ, tâm, pháp.
Pháp môn bốn niệm xứ được
đức Phật khẳng định rằng: “
Có con đường độc nhất này,
này các Tỷ-kheo,
khiến cho các loài hữu tình được thanh tịnh,
vượt qua được sầu bi,
chấm dứt khổ ưu,
chứng đạt chánh lý,
chứng ngộ Niết-bàn” (
S. V. 141).
Bốn niệm xứ cũng là nội dung
tu tập được
đức Phật huấn thị trong kỳ
an cư cuối cùng tại làng Beluva thuộc thành Vesāli (
S. V. 152). Theo
đức Phật,
bốn niệm xứ được
tu tập là
điều kiện cơ bản để
Chánh pháp được
tồn tại lâu dài (
S. V. 172).
Thứ tư,
Tương ưng Căn (
Indriyasaṃyutta). “
Này các Tỷ-kheo,
có năm căn này.
Thế nào là năm?
Tín căn,
tấn căn,
niệm căn,
định căn,
tuệ căn.
Này các Tỷ-kheo những pháp này là năm căn” (
S. V. 193).
Hành giả khi
tu tập, cần quán
tín căn trong bốn
chánh tín,
tấn căn trong
bốn chánh cần,
niệm căn trong
bốn niệm xứ,
định căn trong
bốn thiền,
tuệ căn trong
bốn Thánh đế (
S. V. 196). Giữa căn và lực có mối
liên hệ chặt chẽ
với nhau. “
Cái gì là tín căn,
này các Tỷ-kheo,
cái ấy là tín lực.
Cái gì là tín lực,
cái ấy là tín căn…
Cái gì là tuệ căn,
cái ấy là tuệ lực.
Cái gì là tuệ lực,
cái ấy là tuệ căn”
(
S. V. 219).
Thứ năm,
Tương ưng Chánh cần (
Sammappadhānasaṃyutta),
gồm có bốn: “
Ở đây,
này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đối với các ác,
bất thiện pháp chưa sanh,
khởi lên ý muốn không cho sanh khởi,
tinh cần,
tinh tấn,
quyết tâm,
cố gắng.
Đối với các ác,
bất thiện pháp đã sanh,
khởi lên ý muốn đoạn tận,
tinh cần,
tinh tấn,
quyết tâm,
cố gắng.
Đối với các thiện pháp chưa sanh,
khởi lên ý muốn làm cho sanh khởi,
tinh cần,
tinh tấn,
quyết tâm,
cố gắng.
Đối với các thiện pháp đã sanh,
khởi lên ý muốn làm cho an trú,
không cho vong thất,
làm cho tăng trưởng,
làm cho quảng đại,
tu tập,
làm cho viên mãn,
tinh cần,
tinh tấn,
quyết tâm,
cố gắng.
Những pháp này,
này các Tỷ-kheo,
là bốn chánh cần.”
Như vậy,
này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo tu tập bốn chánh cần,
làm cho sung mãn bốn chánh cần” (
S. V. 224). Như vậy: “
Để thắng tri,
liễu tri,
đoạn diệt,
đoạn tận năm thượng phần kiết sử,
bốn chánh cần này cần phải tu tập” (
S. V. 247).
Thứ sáu,
Tương ưng Lực (
Balasaṃyutta). “
Có năm lực này,
này các Tỷkheo.
Thế nào là năm?
Tín lực,
tấn lực,
niệm lực,
định lực,
tuệ lực.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là năm lực” (
S. V. 249). Nhờ
tu tập năm lực này đến mức
thuần thục sẽ hướng
hành giả xuôi về Niết-bàn.
Thứ bảy,
Tương ưng Như ý túc (
Iddhipādasaṃyutta). “
Ở đây,
này các Tỷkheo,
Tỷ-kheo tu tập như ý túc câu hữu với dục định tinh cần hành;
tu tập như ý túc câu hữu với tinh tấn định tinh cần hành;
tu tập như ý túc câu hữu với tâm định tinh cần hành;
tu tập như ý túc câu hữu với tư duy định tinh cần hành.
Những pháp này,
này các Tỷ-kheo,
là bốn như ý túc,
được tu tập,
được làm cho sung mãn,
đưa từ bờ bên này đến bờ bên kia” (
S. V. 254). “
Và do tu tập,
do làm cho sung mãn bốn như ý túc này,
Như Lai được gọi là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác” (
S. V. 257).
Thứ tám,
Tương ưng Anuruddha (
Anuruddhasaṃyutta).
Tương ưng này đề cập đến
tư duy, sự
thực hành và
giảng thuyết của
Tôn giả Anuruddha đối với
bốn niệm xứ. Thậm chí gặp lúc bệnh tật, nhờ quán
bốn niệm xứ nên
khổ thọ về thân có khởi lên cũng không
ảnh hưởng đến tâm (
S. V. 302).
Thứ chín,
Tương ưng Thiền (
Jhānasaṃyutta).
Tương ưng này đề cập về
tứ thiền và những ví dụ
liên quan nhằm làm
sáng tỏ tứ thiền. Nhờ
tu tập thuần thục và
thành tựu tứ thiền nên năm thượng phần
kiết sử được thắng tri,
liễu tri,
đoạn diệt, đoạn tận (
S. V. 309).
Thứ mười,
Tương ưng Hơi thở vô,
hơi thở ra (
Ānāpānasaṃyutta).
Đây là pháp
thiền tập với nhiều
diệu dụng vì “
ngay trong hiện tại có thể chứng đắc Chánh trí,
nếu còn dư y thì chứng quả Bất lai” (
S. V. 313).
Duyên khởi pháp hành này bắt nguồn từ nhiều vị Tỷ-kheo sau khi
tu pháp quán bất tịnh, đã nảy sinh sự
chán ghét thân mình cùng cực nên có 30 vị Tỷ-kheo đã
tự sát trong một ngày (
S. V. 320). Từ
thực tế đó,
đức Phật đã dạy
pháp hành này với sự khẳng định
chắc chắn: “
Này các Tỷ-kheo,
định niệm hơi thở vô,
hơi thở ra này được tu tập,
được làm cho sung mãn là tịch tịnh,
thù diệu,
thuần nhất,
lạc trú,
làm cho các ác,
bất thiện pháp đã sanh biến mất,
tịnh chỉ lập tức” (
S. V. 320). Không những vậy, trong một
trường hợp khác,
đức Phật tái khẳng định: “
Này các Tỷkheo,
ai muốn nói một cách chơn chánh,
đây là Thánh trú,
đây là Phạm trú,
đây là Như Lai trú,
người ấy nói một cách chơn chánh,
phải nói định niệm hơi thở vô,
hơi thở ra là Thánh trú,
là Phạm trú,
là Như Lai trú” (
S. V. 325).
Thứ mười một,
Tương ưng Dự lưu (
Sotāpattisaṃyutta). Khi một
hành giả thành tựu niềm
tịnh tín bất động đối với Phật, Pháp, Tăng và giới,
hành giả đó
thành tựu quả vị Dự lưu (
S. V. 342).
Dự lưu là
Thánh vị đầu tiên trong bốn
Thánh quả.
Đạt được quả vị này,
hành giả có thể tự
tuyên bố về mình: “
Ta đã đoạn tận địa ngục,
ta đã đoạn tận loài bàng sanh,
ta đã đoạn tận cõi ngạ quỷ,
ta đã đoạn tận ác xứ,
ác thú,
đọa xứ.
Ta là bậc Dự Lưu,
không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ” (
S. V. 358). Cũng trong
Tương ưng này,
đức Phật đưa ra định nghĩa thế nào là người
cư sĩ: “
Ai quy y Phật,
này Mahānāma,
quy y Pháp,
quy y chúng Tăng.
Cho đến như vậy,
này Mahānāma,
là người cư sĩ” (
S. V. 395).
Thứ mười hai
là
Tương ưng Sự thật (
Saccasaṃyutta).
Tương ưng này lược thuyết, quảng thuyết các
phương diện khác nhau của bốn
chân lý cao thượng,
bao gồm cả bài pháp quan trọng đầu tiên gọi là
Kinh Chuyển pháp luân (
Dhammacakkappavattanasutta) (
S. V. 420).
3. Kết luận
Để
giữ gìn sự
toàn vẹn kho tàng
Chánh pháp, các bậc Thánh
đệ tử của
đức Phật đã vận dụng nhiều
phương cách khác nhau. Một trong những
phương cách tối ưu nhằm bổ trợ cho sự ghi nhớ, đó là việc sắp xếp các kinh theo
các chủ đề, sự vật,
hiện tượng, con người… chung một mối
liên hệ với một
trật tự nhất định. Nhờ vậy, người
tu học sẽ dễ dàng lưu giữ nhiều
vấn đề do tính
liên hệ gợi mở của chúng, vì đây là một trong những
quy luật cơ bản của
tư duy. Việc tổ chức, sắp xếp những
bài kinh có những thuộc tính giống nhau vào thành từng nhóm như trong
Tương ưng bộ là
việc làm có khoa học mà
Phật giáo đã
thực hiện từ rất sớm.
Nhờ
tính chất đặc thù đó nên đã có những nội dung
liên hệ đến
giáo pháp, đến
đức Phật được
ghi nhận đầy đủ và trình bày
hết sức phong phú, khó có thể
tìm thấy trong bốn bộ
Nikāya còn lại. Không những vậy,
Tương ưng bộ này còn
giữ gìn được những tư liệu cổ xưa
liên quan đến phong tục tập quán và
quan điểm triết học trong
xã hội Ấn Độ cổ đại. Qua đó
gián tiếp khẳng định rằng, có những tư liệu, những lời dạy của
đức Phật mang tính cổ xưa hoặc gần với
nguyên thủy đã có mặt trong
Tương ưng bộ này. Bên cạnh đó, sự tương đồng về những
bài kệ giữa
Tương ưng bộ và
Kinh Tập cũng như hai
tác phẩm thuộc
Luật tạng Pāli là
Mahāvagga và
Cullavagga, đã góp phần bổ sung tính
chân thực và tương đồng về
phương diện văn bản.
Dịch phẩm
Tương ưng bộ của cố
Trưởng lão Hòa thượng Thích
Minh Châu đã
trải qua ba lần tái bản. Trong ấn bản lần này,
bộ kinh được bổ sung một số
tiêu đề tương ứng với nguyên tác Pāli, một số phụ chú, trích dẫn
tham chiếu Pāli, Hán văn, Anh văn và một vài nhuận sắc
cần thiết, do các thành viên của Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam được phân công
thực hiện.
Chúng tôi tin tưởng rằng, đây là một dịch phẩm tiếng Việt
Tương ưng bộ khá
hoàn thiện tính đến thời điểm hiện nay.
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, ngày 19-9-2019
Cẩn chí
TT.TS. THÍCH MINH THÀNH
(Đồng Tổng Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam)
[1] Dhammakitti Mahāsāmi.
Saddhammasaṅgaha (
Diệu pháp yếu lược), tr. by Bhikkhu Indacanda, (Colombo: Sri Jayawardhanaramaya, 2003), tr. 19.
[2] Sāratthappakāsinī, Devatāsaṃyuttaṃ: Tattha saṃyuttāgamo
nāma sagāthāvaggo, nidānavaggo, khandhakavaggo, saḷāyatanavaggo, mahāvaggoti pañcavaggo hoti. Suttato - ‘‘Satta suttasahassāni, satta suttasatāni ca dvāsaṭṭhi ceva suttāni, eso saṃyuttasaṅgaho.’’
[3] Sāratthappakāsinī, Ganthārambhakathā: Saṃyuttavaggapaṭimaṇḍitassa, saṃyuttaāgamavarassa; Buddhānubuddhasaṃvaṇṇitassa, ñāṇappabhedajananassa.
[4] The Connected Discourses of the Buddha,
A Translation of the Saṃyutta Nikāya, tr. by Bhikkhu Bodhi (Massachusetts: Wisdom Publications, 2000), p. 23f.
[5] https://www.tipitaka.org/. Phiên bản điện tử Pāḷi Tipiṭaka do Vipassana Research Institute (
Ấn Độ)
thực hiện được
chúng tôi khảo cứu và trên cơ sở đó đánh số trong bản tiếng Việt.
[6] The Connected Discourses of the Buddha,
A Translation of the Saṃyutta Nikāya, tr. by Bhikkhu Bodhi (Massachusetts: Wisdom Publications, 2000), p. 26. Cf. For the
Sāratthappakāsinī, the
Saṃyutta Nikāya Commentary, itself provides us with a check on the contents of the collection at our disposal, and from this it is evident that there are no suttas commented on by Buddhaghosa that are missing from the
Saṃyutta Nikāya we currently possess.
[7] The Connected Discourses of the Buddha,
A Translation of the Saṃyutta Nikāya, tr. by Bhikkhu Bodhi (Massachusetts: Wisdom Publications, 2000), p. 23.
8 Ibid., p. 54.
[8] Sacred Books of the East, vol. 25, tr. by George Bühler (Oxford: Oxford University Press, 1886), p. 195. Cf
. In childhood a female must be subject to her father, in youth to her husband, when her lord is dead to her sons; a woman must never be independent
. Xem thêm
Tương ưng bộ (
S. V. 246): “Do đầy đủ một
sức mạnh, này các Tỷ-kheo, người đàn ông
tiếp tục chinh phục người đàn bà. Thế nào là một sức mạnh?
Sức mạnh của người làm chủ (
issariyabalena). Người đàn bà đã bị
chinh phục bởi
sức mạnh của người làm chủ, này các Tỷ-kheo, thời
sức mạnh nhan sắc không
che chở được,
sức mạnh tài sản không
che chở được,
sức mạnh bà con không
che chở được,
sức mạnh con trai không
che chở được,
sức mạnh giới hạnh không
che chở được” (HT. Thích
Minh Châu dịch).
[9] Oskar von Hinüber,
Handbook of Pāli Literature (Berlin: Walter de Gruyter, 1996), p. 36. Cf. According to
S. V, p. vi, the Sinhalese and the Burmese manuscripts of Saṃyutta Nikāya
almost look like copies of two different texts.