Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
5. Kinh Kùtadanta (Cứu-la-đàn-đầu)
(Kùtadanta sutta)
1.
Như vầy tôi nghe. Một thời
đức Thế Tôn đang
du hành trong xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) cùng với
đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị và đến tại một làng Bà-la-môn ở Magadha tên là Khànumata (Khứ--nậu-bà-đế). Và tại đây,
đức Thế Tôn trú tại vườn Ambalatthikà ở Khànumata. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kùtadanta ở tại Khànumata, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, lúa gạo phì nhiêu, một vương địa do vua Bimbisàra (Tần-bà-ta-la) vua nước Magadha cấp, một ân tứ của vua, một tịnh ấp. Lúc bấy giờ, một đàn tế lớn đang được
thiết lập cho Bà-la-môn Kùtadanta, bảy trăm con trâu đực, bảy trăm con nghé đực lớn, và bảy trăm con nghé cái lớn, bảy trăm con dê và bảy trăm con cừu đã được dắt đến trụ tế lễ, cho đàn tế.
2. Bà-la-môn và
gia chủ ở Khànumata được nghe: "Sa-môn Gotama,
dòng họ Thích-ca,
xuất gia từ gia tộc Thích-ca, đang
du hành trong nước Magadha với
đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, đã đến tại Khànumata và trú tại vườn Ambalatthikà ở Khànumata.
Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về
Thế Tôn Gotama: "Đây là
đức Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư,... Khi đã
chứng ngộ, Ngài còn
tuyên bố sự
chứng ngộ ấy cho người khác. Ngài
thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa
cụ túc, và
giới thiệu đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ
trong sạch.
Tốt đẹp thay, sự
chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy". Rồi các Bà-la-môn và
gia chủ ở Khànumata, từng đoàn, từng đoàn,
lũ lượt đi ra khỏi Khànumata và đến tại Ambalatthikà.
3. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Kùtadanta
đi lên trên lầu để nghỉ trưa. Bà-la-môn Kùtadanta thấy các Bà-la-môn và
gia chủ ở Khànumata từng đoàn, từng đoàn,
lũ lượt đi ra khỏi Khànumata và đến tại Ambalatthikà. Thấy vậy (Bà-la-môn Kùtadanta) liền gọi người gác cửa:
- Này người gác cửa, vì sao các Bà-la-môn và
gia chủ ở Khànumata, từng đoàn, từng đoàn,
lũ lượt đi ra khỏi Khànumata và đến tại Ambalatthikà?
-
Tôn giả, có Sa-môn Gotama,
dòng họ Thích-ca,
xuất gia từ gia tộc Thích-ca, đang
du hành trong nước Magadha với
đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, đến tại Khànumata, và tại đấy trú ở Ambalatthikà.
Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về
Thế Tôn Gotama: "Đây là
đức Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Nay những người ấy đi đến
yết kiến Tôn giả Gotama.
4. Bà-la-môn Kùtadanta liền
suy nghĩ như sau: "Ta nghe nói: "Sa-môn Gotama
am hiểu ba cách thức tế tự và mười sáu tế pháp". Ta không biết ba cách thức tế tự và mười sáu pháp, và ta muốn
cử hành lễ đại tế. Vậy ta hãy đến hỏi Sa-môn Gotama ba cách thức tế tự và mười sáu tế pháp".
Rồi Bà-la-môn Kùtadanta gọi người giữ cửa kia:
- Này người giữ cửa, hãy đi đến các Bà-la-môn và
gia chủ ở Khànumata, khi đến nơi, hãy nói với những Bà-la-môn và
gia chủ ở Khànumata như sau: "Bà-la-môn Kùtadanta có nói: "Này các
Hiền giả, hãy chờ đợi, Bà-la-môn Kùtadanta sẽ
thân hành đến
yết kiến Sa-môn Gotama".
- Dạ vâng.
Người gác cửa ấy
vâng theo lời bảo của Bà-la-môn Kùtadanta, đi đến các Bà-la-môn và
gia chủ ở Khànumata, khi đến xong liền nói với Bà-la-môn và
gia chủ ở Khànumata: "Bà-la-môn Kùtadanta có nói
như vầy: "Này các
Hiền giả, hãy chờ đợi Bà-la-môn Kùtadanta sẽ tự
thân hành đến
yết kiến Sa-môn Gotama".
5. Lúc bấy giờ có khoảng vài trăm Bà-la-môn ở Khànumata với
ý định: "Chúng tôi sẽ dự lễ Đại
tế đàn của Bà-la-môn Kùtadanta". Khi các vị Bà-la-môn này nghe: "Bà-la-môn Kùtadanta sẽ đến
yết kiến Sa-môn Gotama", những Bà-la-môn này đến Bà-la-môn Kùtadanta, khi đến nơi liền nói với Bà-la-môn Kùtadanta:
- Có phải
Tôn giả Kùtadanta sẽ đến
yết kiến Sa-môn Gotama?
- Này các
Hiền Giả, đó là
ý định của ta, ta sẽ đến
yết kiến Sa-môn Gotama.
6. -
Tôn giả Kùtadanta chớ có đến
yết kiến Sa-môn Gotama.
Thật không xứng đáng cho
Tôn giả Kùtadanta đến
yết kiến Sa-môn Gotama. Nếu
Tôn giả Kùtadanta đến
yết kiến Sa-môn Gotama, thì
danh tiếng của
Tôn giả Kùtadanta bị
hao tổn,
danh tiếng của Sa-môn Gotama được
tăng trưởng. Vì
danh tiếng của
Tôn giả Kùtadanta bị
hao tổn và
danh tiếng của Sa-môn Gotama được
tăng trưởng, do điểm này
thật không xứng đáng cho
Tôn giả Kùtadanta đến
yết kiến Sa-môn Gotama.
Trái lại thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến
yết kiến Tôn giả Kùtadanta.
- Lại
Tôn giả Kùtadanta
thiện sanh cả
từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống
thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không bị một
vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về
vấn đề huyết thống thọ sanh. Vì
Tôn giả Kùtadanta
thiện sanh cả
từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống
thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không bị một
vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về
vấn đề huyết thống thọ sinh; do điểm này,
thật không xứng đáng cho
Tôn giả Kùtadanta đến
yết kiến Sa-môn Gotama,
trái lại thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến
yết kiến Tôn giả Kùtadanta.
Lại
Tôn giả Kùtadanta là nhà
giàu có,
đại phú,
sung túc...
Lại
Tôn giả Kùtadanta là nhà
phúng tụng, là nhà
trì chú,
thông hiểu ba tập Vedà với
danh nghĩa,
lễ nghi, ngữ nguyên,
chú giải và
lịch sử truyền thống là thứ năm,
thông hiểu ngữ pháp và
văn phạm,
biệt tài về
Thuận thế (
tự nhiên học) và tướng của vị
đại nhân.
Lại
Tôn giả Kùtadanta đẹp trai, khả ái, làm
đẹp lòng mọi người, với màu da
thù thắng, khôi ngô,
tuấn tú,
cử chỉ trang nhã,
dáng điệu cao thượng.
Lại
Tôn giả Kùtadanta có
đức hạnh,
đức độ cao dày, đầy đủ
giới hạnh cao dày.
Lại
Tôn giả Kùtadanta
thiện ngôn, dùng lời
thiện ngôn, nói lời tao nhã,
ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ phều phào,
giải thích nghĩa lý minh xác.
Lại
Tôn giả Kùtadanta là bậc
tôn sư trong các hàng
tôn sư của nhiều người, dạy ba trăm thanh niên Bà-la-môn tụng đọc
chú thuật, thanh niên Bà-la-môn từ nhiều phương, từ nhiều nước, thiết tha với
chú thuật, đến với
Tôn giả Kùtadanta để
học thuộc lòng các
chú thuật.
Tôn giả Kùtadanta niên cao lạp lớn, bậc lão thành, đến tuổi
trưởng thượng, còn Sa-môn Gotama thì trẻ tuổi,
xuất gia chưa được nhiều năm.
Tôn giả Kùtadanta được vua Seniya Bimbisàra (
Tần bà ta la) xứ Mangadha (
Ma kiệt đà)
kính trọng,
tôn sùng,
chiêm ngưỡng,
kính lễ,
trọng vọng.
Tôn giả Kùtadanta được Bà-la-môn Pokkhatasàdi
kính trọng,
tôn sùng,
chiêm ngưỡng,
kính lễ,
trọng vọng.
Tôn giả Kùtadanta sống ở Khànumata, một địa phương dân chúng đông đúc, cỏ cây, ao nước phì nhiêu, lúa gạo
sung túc, một vương lãnh địa, một
tịnh thí địa, một ân tứ của vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha. Vì
Tôn giả Kùtadanta sống ở Khànumata, một địa phương dân chúng đông đúc, cỏ cây, ao nước phì nhiêu, lúa gạo
sung túc, một vương lãnh địa, một
tịnh thí địa, một ân tứ của vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha, do điểm này
thật không xứng đáng cho
Tôn giả Kùtadanta đến
yết kiến Sa-môn Gotama,
trái lại thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến
yết kiến Tôn giả Kùtadanta.
7. Nghe nói vậy, Bà-la-môn Kùtadanta nói với những vị Bà-la-môn ấy:
- Các
Hiền giả, hãy nghe ta
giải thích vì sao thật xứng đáng cho
chúng ta đến
yết kiến Sa-môn Gotama,
trái lại thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến
yết kiến chúng ta. Này các
Hiền giả, thật vậy Sa-môn Gotama
thiện sanh cả
từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống
thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không bị một
vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về
vấn đề huyết thống thọ sanh. Này các
Hiền giả, vì Sa-môn Gotama
thiện sanh cả
từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống
thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không bị một
vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về
vấn đề huyết thống thọ sanh. Vì điểm này,
thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến
yết kiến chúng ta,
trái lại thật xứng đáng cho
chúng ta đến
yết kiến Sa-môn Gotama.
Này các
Hiền giả, Sa-môn Gotama
xuất gia từ bỏ rất nhiều
vàng bạc cả loại đang chôn
dưới đất lẫn loại trên mặt đất.
Này các
Hiền giả, Sa-môn Gotama trong tuổi thanh niên tóc còn đen nhánh, trong
tuổi trẻ đẹp của thời niên thiếu, đã
xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama, dầu
song thân không
đồng ý, khóc than nước mắt thấm ướt cả mặt, vẫn cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa,
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đẹp trai, khả ái, làm
đẹp lòng mọi người, với màu da
thù thắng, khôi ngô
tuấn tú,
cử chỉ trang nhã,
dáng điệu cao thượng.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có
đức hạnh,
gìn giữ giới của bậc thánh, có
thiện đức, dạy đủ
thiện đức.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama
thiện ngôn, dùng lời
thiện ngôn, nói lời tao nhã,
ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ phều phào,
giải thích nghĩa lý minh xác.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama là bậc
tôn sư các hàng
tôn sư của nhiều người.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã
diệt trừ tham dục, đã dứt bỏ mọi
xao động của tâm.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama chủ trương về nghiệp, chủ trương về hành động, đặt
trọng tâm vào chí thiện khi
thuyết pháp với chúng Bà-la-môn.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama
xuất gia từ
chủng tộc cao quý, từ
dòng họ Sát-đế-lỵ
thanh tịnh.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama
xuất gia từ
chủng tộc khá giả,
đại phú,
tài sản sung mãn.
Này các
Hiền giả, thật vậy, dân chúng băng ngàn vượt biển (băng qua nhiều địa phương, băng qua nhiều
quốc độ) đến
hỏi đạo Sa-môn Gotama.
Này các
Hiền giả, thật vậy, có hàng ngàn
thiên nhân đến
quy y Sa-môn Gotama.
Này các
Hiền giả, thật vậy,
tiếng đồn tốt đẹp sau đây được
truyền bá đi về Sa-môn Gotama: "Ngài là bậc
Thế Tôn, A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có đầy đủ
ba mươi hai tướng tốt của bậc
đại nhân.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama nói lời chào đón,
thân thiện, tao nhã, trang trọng,
chân thực,
thẳng thắn,
lời nói có
dẫn chứng.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được
bốn chúng kính trọng tôn sùng,
chiêm ngưỡng,
kính lễ trọng vọng.
Này các
Hiền giả, rất nhiều
thiên nhân tín ngưỡng Sa-môn Gotama.
Này các
Hiền giả, thật vậy ở tại làng nào, thôn ấp nào, Sa-môn Gotama cư trú, tại làng ấy, tại thôn ấp ấy, các loài
phi nhân không làm hại
loài người.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama là
giáo hội chủ,
giáo phái chủ,
giáo phái sư, được tôn là
tối thượng trong các
giáo tổ.
Này các
Hiền giả,
danh tiếng của một số Sa-môn, Bà-la-môn
dựa trên những bằng
chứng không đâu,
danh tiếng của Sa-môn Gotama
dựa trên trí đức vô thượng của Ngài.
Này các
Hiền giả, thật vậy, vua Seniya Bimbisàra nước Magadha, cùng với vương tử,
cung phi, thị tùng, đại thần đều
quy y Sa-môn Gotama.
Này các
Hiền giả, thật vậy, vua Pasenadi nước Kosala cùng với vương tử,
cung phi, thị tùng, cận thần đều
quy y Sa-môn Gotama.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Bà-la-môn Pokkharasàdi cùng với vương tử,
cung phi, thị tùng, cận thần đều
quy y Sa-môn Gotama.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được vua Seniya Bimbisàra nước Magadha
kính trọng,
tôn sùng,
chiêm ngưỡng,
kính lễ,
trọng vọng.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được vua Pasenadi nước Kosala
kính trọng,
tôn sùng,
chiêm ngưỡng,
kính lễ,
trọng vọng.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được Bà-la-môn Pokkharasàdi
kính trọng,
tôn sùng,
chiêm ngưỡng,
kính lễ trọng vọng.
Này các
Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã đến Khànumata và đang ở tại Ambalatthikà. Những Sa-môn, những Bà-la-môn nào dến ruộng làng
chúng ta đều là khách của
chúng ta. Đối với khách,
chúng ta phải
kính trọng,
tôn sùng,
chiêm ngưỡng,
kính lễ,
trọng vọng.
Này các
Hiền giả, nay Gotama đã đến Khànumata đang ở tại Ambalatthikà, như vậy Sa-môn Gotama là khách của
chúng ta. Và đã là khách,
chúng ta phải
kính trọng,
tôn sùng,
chiêm ngưỡng,
kính lễ,
trọng vọng. Do điểm này,
thật không xứng đáng cho
Tôn giả Gotama đến
yết kiến chúng ta, thật xứng đáng cho
chúng ta đến
yết kiến Sa-môn Gotama. Này các
Hiền giả, đó là những
ưu điểm, mà ta được biết về
Tôn giả Gotama.
Tôn giả Gotama không phải có chừng ấy
ưu điểm mà thôi.
Tôn giả Gotama có đến
vô lượng ưu điểm.
8. Khi nghe nói vậy, các Bà-la-môn ấy nói với Bà-la-môn Kùtadanta:
-
Tôn giả Kùtadanta đã
tán thán Sa-môn Gotama như vậy, dầu cho ai ở xa
Tôn giả Gotama đến một trăm
do tuần cũng đủ cho người ấy cùng
gia tộc đi đến
yết kiến Sa-môn Gotama, dầu phải
đem theo lương thực.
Vì vậy tất cả
chúng tôi sẽ đi đến
yết kiến Sa-môn Gotama.
Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kùtadanta cùng với
đại chúng Bà-la-môn đi đến Ambalatthikà, đến tại chỗ
đức Thế Tôn ở, khi đi đến, liền nói lời
thân ái, chào đón,
chúc tụng rồi ngồi xuống một bên. Các Bà-la-môn và
gia chủ ở Khànumata, có người
đảnh lễ Sa-môn Gotama rồi ngồi xuống một bên, có người nói lời
thân ái chào đón,
chúc tụng với Sa-môn Gotama, rồi ngồi xuống một bên, có người
chấp tay vái chào Sa-môn Gotama rồi ngồi xuống một bên, có người nói tên và
dòng họ rồi ngồi xuống một bên, có người yên lặng ngồi xuống một bên.
9. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Kùtadanta
bạch đức Thế Tôn:
-
Tôn giả Gotama, tôi được nghe như sau: "Sa-môn
am hiểu ba cách thức tế tự và mười sáu tế vật". Tôi không biết đến ba tế tự và mười sáu tế vật và tôi muốn
cử hành đại tế tự.
Tốt đẹp thay nếu
Tôn giả Gotama giảng cho tôi ba cách thức tế tự và mười sáu tế vật.
- Này Bà-la-môn, vậy người hãy nghe và
suy nghĩ kỹ, ta sẽ nói:
- Dạ vâng.
Bà-la-môn Kùtadanta
trả lời đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn thuyết như sau:
10. - Này Bà-la-môn, thuở xưa có vị vua tên là Mahàvijita,
giàu có,
đại phú,
tài sản sung mãn, có nhiều
vàng bạc, có nhiều
vật dụng, có nhiều tài vật
ngũ cốc, kho tàng
sung mãn. Này Bà-la-môn, một hôm trong khi vua Mahàvijita đang
ngồi yên lặng tại một tịnh xứ, sự suy tư sau đây được khởi lên: "Ta nay đặng
vô lượng tài sản thuộc
nhân gian,
chinh phục đại địa cầu và sống
an trú như vậy. Ta hãy tổ chức đại
tế đàn, và nhờ vậy ta sẽ hưởng được
hạnh phúc an lạc lâu ngày". Này Bà-la-môn, vua Mahàvijita liền cho mời vị Bà-la-môn chủ tế và nói: "Này Bà-la-môn, trong khi ta đang
ngồi yên lặng tại một tinh xứ, sự suy tư sau đây khởi lên: "Ta nay đặng
vô lượng tài bảo thuộc
nhân gian,
chinh phục đại địa cầu và sống
an trú như vậy. Ta hãy tổ chức đại
tế đàn, và nhờ vậy ta sẽ được hưởng
hạnh phúc an lạc lâu ngày". Này Bà-la-môn, ta muốn tổ chức đại
tế đàn, khanh hãy khuyên ta như thế nào để ta được hưởng
hạnh phúc an lạc lâu ngày?"
11. Này Bà-la-môn, khi nghe nói vậy, vị Bà-la-môn chủ tế tâu với vua Mahàvijita như sau: "Đại vương, vương quốc (này) chịu
tai ương, chịu ách nạn, đầy rẫy bọn cướp làng, đầy rẫy bọn cướp ấp, đầy rẫy bọn cướp
đô thị, đầy rẫy bọn cướp đường. Trong
quốc độ chịu
tai ương, chịu ách nạn như vậy, nếu Tôn vương đánh thuế má mới, như vậy Tôn vương có
ý nghĩ: "Ta hãy
trừ diệt bọn giặc cỏ này, hoặc bằng tử hình, hoặc bằng cấm cố, hoặc bằng phạt vạ, hoặc bằng khiển trách, hoặc bằng tẩn xuất". Nhưng bọn giặc cỏ này sẽ không được
trừ diệt một cách
hoàn toàn. Những bọn còn lại không bị hình phạt sau lại
tiếp tục hoành hành vương quốc này. Nhưng nếu theo
phương pháp sau đây bọn giặc cỏ ấy sẽ được
trừ diệt một cách
hoàn toàn: những vị nào trong
quốc độ nhà vua
nỗ lực về nông nghiệp và
mục súc, Tôn vương hãy
cấp cho những vị ấy hột giống và
thực vật; những vị nào trong
quốc độ nhà vua
nỗ lực về thương nghiệp, Tôn vương hãy
cấp cho những vị ấy vốn đầu tư; những vị nào trong
quốc độ nhà vua
nỗ lực về quan chức, Tôn vương hãy
cấp cho những vị ấy vật thực và lương bổng. Và những người này
chuyên tâm vào nghề riêng của mình sẽ không nhiễu hại
quốc độ nhà vua. Và ngân quỹ nhà vua sẽ được
dồi dào,
quốc độ sẽ được
an cư lạc nghiệp, không có
tai ương, ách nạn và dân chúng
hoan hỷ vui vẻ, cho con nhảy trên ngực, sống chẳng khác gì với nhà cửa mở rộng". - "Vâng, Tôn giả".
- Này Bà-la-môn, vua Mahàvijita
vâng theo lời khuyên của vị Bà-la-môn chủ tế: những vị nào trong
quốc độ nhà vua
nỗ lực về nông nghiệp và
mục súc, Tôn vương Mahàvijita
cấp cho những vị ấy hột giống và
thực vật; những vị nào trong
quốc độ nhà vua
nỗ lực về thương nghiệp, Tôn vương Mahàvijita
cấp cho những vị ấy vốn đầu tư; những vị nào trong
quốc độ nhà vua
nỗ lực về quan chức, Tôn vương Mahàvijita
cấp cho những vị ấy vật thực và lương bổng. Và những người này
chuyên tâm về nghề của mình không còn nhiễu hại
quốc độ nhà vua; ngân quỹ nhà vua được
dồi dào,
quốc độ được
an cư lạc nghiệp không có
tai ương ách nạn và dân chúng
hoan hỷ vui vẻ, cho con nhảy trên ngực, sống chẳng khác gì với nhà cửa
mở rộng.
12. Rồi này Bà-la-môn, vua Mahàvijita cho mời vị Bà-la-môn chủ tế và nói: "Này khanh, ta đã
trừ diệt bọn giặc cỏ nhờ
áp dụng phương pháp này, ngân quỹ của ta được
dồi dào,
quốc độ được
an cư lạc nghiệp, không có
tai ương ách nạn, và dân chúng
hoan hỷ,
vui vẻ, cho con nhảy trên ngực, sống chẳng khác gì với nhà cửa
mở rộng. Này Bà-la-môn, ta muốn tổ chức đại
tế đàn, khanh hãy khuyên ta như thế nào để ta được hưởng
hạnh phúc an lạc lâu ngày?" - "Vậy Tôn vương hãy cho mời tất cả những vị Sát-đế-lỵ trong
quốc độ nhà vua cùng với các chư hầu cả tại tỉnh thành và ngoài tỉnh thành và nói: "Này các khanh, ta muốn tổ chức đại
tế đàn. Các khanh hãy tán thành để ta được hưởng
hạnh phúc an lạc lâu ngày". Đối với tất cả những đại thần trong
quốc độ nhà vua, cùng với
quyến thuộc cả tại tỉnh thành và ngoài tỉnh thành... tất cả những
gia chủ phú hào cả tại tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, Tôn vương hãy mời những vị ấy và nói: "Này các khanh, Ta muốn tổ chức đại
tế đàn. Các khanh hãy tán thành để ta được hưởng
an lạc hạnh phúc lâu dài".
Này Bà-la-môn, vua Mahàvijita nghe theo vị Bà-la-môn chủ tế cho mời tất cả những vị Sát-đế-lỵ trong
quốc độ nhà vua cùng với các chư hầu cả tại tỉnh thành và ngoài tỉnh thành và nói: "Này các khanh, ta muốn tổ chức đại
tế đàn. Các khanh hãy tán thành để ta được hưởng
hạnh phúc an lạc lâu ngày". - "Tôn vương hãy tổ chức
tế đàn.
Đại vương,
tế đàn này là hợp thời".
Đối với tất cả những đại thần trong
quốc độ nhà vua cùng với
quyến thuộc cả tại tỉnh thành và ngoài tỉnh thành... tất cả những vị Bà-la-môn và đại
gia chủ cả tại tỉnh thành và ngoài tỉnh thành... tất cả những
gia chủ phú hào cả tại tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, vua Mahàvijita mời những vị ấy và nói: "Này các khanh ta muốn tổ chức đại
tế đàn. Các khanh hãy tán thành để ta được hưởng
hạnh phúc an lạc lâu ngày". - "Đại vương hãy tổ chức
tế đàn,
Đại vương,
tế đàn này là hợp thời".
Như vậy
bốn đại chúng đã
thừa nhận tế đàn trở thành những yếu kiện cho
lễ tế đàn này.
13. Vua Mahàvijita có tám đức tánh sau đây:
Thiện sanh cả
từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống
thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một
vết nhơ nào, một dèm pha nào về
vấn đề huyết thống thọ sanh. Đẹp trai, khả ái, làm
đẹp lòng mọi người, với màu da
thù thắng, khôi ngô
tuấn tú,
cử chỉ trang nhã,
dáng điệu cao thượng. Là nhà
giàu có,
đại phú,
sung túc tài sản, đầy rẫy vàng và bạc, đầy rẫy tài bảo, đầy rẫy sản nghiệp,
ngũ cốc, thương khố
sung mãn. Có
uy lực, đầy đủ
bốn loại quân chủng,
chinh phục địch
quân như với
oai danh (của mình). Một vị có
tín tâm, có
từ tâm, một
thí chủ, cửa nhà
mở rộng, một giếng khơi cho Sa-môn, Bà-la-môn bần cùng
nghèo khó,
khất sĩ, một vị làm các
công đức. Một vị
bác học trong mọi
vấn đề.
Thông hiểu ý nghĩa của
lời nói: "Đây là
ý nghĩa của
lời nói này, đây là
ý nghĩ của
lời nói này". Một nhà
bác học,
tinh luyện,
sáng suốt và có thể suy tư về những
vấn đề quá khứ,
vị lai,
hiện tại. Vua Mahàvijita có đầy đủ tám đặc tánh này. Chính tám đặc tánh này làm những yếu kiện cho
tế đàn ấy.
14. Vị Bà-la-môn chủ tế có đầy đủ bốn đức tánh:
Thiện sanh cả
từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống
thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không bị một
vết nhơ nào, một dèm pha nào, về
vấn đề huyết thống thọ sanh - là nhà
phúng tụng, là nhà
trì chú,
thông hiểu ba tập Vedà với
danh nghĩa,
lễ nghi, ngữ nguyên,
chú giải và
lịch sử truyền thống là thứ năm,
thông hiểu ngữ pháp và
văn phạm,
biệt tài về
Thuận thế (
tự nhiên học) và tướng của vị
đại nhân, có
đức hạnh,
đức độ cao dày, đầy đủ
giới hạnh cao dày - một vị
bác học,
tinh luyện,
sáng suốt, là nhà cầm muỗng thứ nhất hay thứ hai. Vị Bà-la-môn chủ tế có đầy đủ bốn đức tánh này, chính bốn đức tánh này làm những yếu kiện cho
tế đàn ấy.
15. Này Bà-la-môn, vị Bà-la-môn chủ tế trước khi lễ đàn có giảng ba pháp cho vua Mahàvijita: "Trước khi muốn làm lễ đại
tế đàn, nếu Tôn vương có sự
hối tiếc: "Thật vậy, một phần lớn
tài sản của ta sẽ bị tiêu hao", Tôn vương không nên có sự
hối tiếc này. Trong khi đang làm lễ đại
tế đàn, nếu Tôn vương có sự
hối tiếc: "Thật vậy, một phần lớn
tài sản của ta bị tiêu hao". Tôn vương không nên có sự
hối tiếc này. Khi đã làm lễ đại
tế đàn, nếu Tôn vương có sự
hối tiếc: "Thật vậy, một phần lớn
tài sản của Ta bị tiêu hao". Tôn vương không nên có sự
hối tiếc này".
Này Bà-la-môn, vị Bà-la-môn chủ tế trước khi lễ đàn có giảng ba pháp cho vua Mahàvijita.
16. Này Bà-la-môn, vị Bà-la-môn chủ tế trước
lễ tế đàn để ngăn chặn sự
hối tiếc theo mười cách có thể khởi lên đối với người
tham dự (
lễ tế đàn) đã nói với vua Mahàvijita: "Tôn vương, có những người
sát sanh đến tại
lễ tế đàn và có những người không
sát sanh. Ở đây, đối với những người
sát sanh, hãy để cho chúng yên. Ở đây, đối với những người không
sát sanh, hãy tổ chức
tế đàn một cách khiến
nội tâm của chúng được an vui
hoan hỷ. Tôn vương, có những người lấy của không
cho đến tại
lễ tế đàn và có những người không lấy của không cho... có những người
tà dâm và có những người không
tà dâm, có những người nói láo và có những người không nói láo, có những người nói hai lưỡi, và có những người không nói hai lưỡi, có những người nói lời
độc ác và có những người không nói lời
độc ác, có những người nói lời
phù phiếm và có những người không nói lời
phù phiếm, có những người có lòng tham và có những người không có lòng tham, có những người có lòng sân và có những người không có lòng sân, có những người có
tà kiến và có những người có
chánh kiến. Ở đây, đối với những người có
tà kiến hãy để chúng yên. Đối với những người có
chánh kiến, hãy tổ chức
tế đàn một cách khiến
nội tâm của chúng được an vui, hoan hỷ".
Này Bà-la-môn, vị Bà-la-môn chủ tế trước
lễ tế đàn đã ngăn chận sự
hối tiếc theo mười cách có thể khởi lên đối với những người
tham dự (
lễ tế đàn).
17. Này Bà-la-môn, vị Bà-la-môn chủ tế khi vua đang làm
lễ tế đàn, đã khuyên giáo, tưởng lệ,...
kích thích và làm tâm (của vua)
hoan hỷ với mười sáu
phương pháp: "Trong khi Tôn vương đang tổ chức đại
tế đàn, nếu có người nói: "Vua Mahàvijita tổ chức đại
tế đàn nhưng không mời các vị Sát-đế-lỵ
thân tộc ở tỉnh thành và ở ngoài tỉnh thành; Tôn vương tổ chức lễ đại
tế đàn như vậy".
Lời nói về Tôn vương như vậy không đúng
sự thật; Tôn vương đã có mời các vị Sát-đế-lỵ
thân tộc ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành. Do vậy, Tôn vương nên biết: "Hãy tổ chức
tế đàn một cách khiến
nội tâm được an vui hoan hỷ". Trong khi Tôn vương đang tổ chức đại
tế đàn, nếu có người nói: "Vua Mahàvijita tổ chức đại
tế đàn, nhưng không mời các vị đại thần
quyến thuộc ở tỉnh thành và ở ngoài tỉnh thành... Bà-la-môn đại gia ở tỉnh thành và ở ngoài tỉnh thành...
cư sĩ phú hào ở tỉnh thành và ở ngoài tỉnh thành. Tôn vương tổ chức lễ đại
tế đàn như vậy".
Lời nói về Tôn vương như vậy không đúng
sự thật; Tôn vương đã có mời các
vị cư sĩ
phú hào ở tỉnh thành và ở ngoài tỉnh thành; Do vậy Tôn vương nên biết: "Hãy tổ chức
lễ tế đàn một cách khiến
nội tâm được an vui, hoan hỷ". Trong khi Tôn vương đang tổ chức đại
tế đàn, nếu có người nói: "Vua Mahàvijita tổ chức đại
tế đàn, nhưng không
thiện sanh cả
từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống
thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không bị một
vết nhơ nào, một dèm pha nào về
vấn đề huyết thống thọ sanh". Do vậy Tôn vương nên biết: "Hãy tổ chức
tế đàn một cách khiến
nội tâm được an vui, hoan hỷ". Trong khi Tôn vương đang tổ chức đại
tế đàn nếu có người nói: "Vua Mahàvijita tổ chức đại
tế đàn, nhưng không
thiện sanh cả
từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống
thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không bị một
vết nhơ nào, một dèm pha nào về
vấn đề huyết thống thọ sanh". Do vậy Tôn vương nên biết: "Hãy tổ chức
tế đàn một cách khiến
nội tâm được an vui, hoan hỷ". Trong khi Tôn vương đang tổ chức đại
tế đàn, nếu có người nói: "Vua Mahàvijita tổ chức đại
tế đàn nhưng không đẹp trai khả ái, làm
đẹp lòng mọi người, với màu da
thù thắng, khôi ngô,
tuấn tú,
cử chỉ trang nhã,
dáng điệu cao thượng... không phải là nhà
giàu có,
đại phú,
sung túc tài sản, đầy rẫy vàng và bạc, đầy rẫy tài bảo, đầy rẫy sản nghiệp
ngũ cốc, thương khố
sung mãn... không có
uy lực, đầy đủ
bốn loại quân chủng,
chinh phục địch
quân như với
oai danh của mình... không có
tín tâm, không có
từ tâm, không phải một
thí chủ, cửa nhà
mở rộng, một giếng khơi cho Sa-môn, Bà-la-môn, bần cùng,
nghèo khó,
khất sĩ, một vị làm các
công đức... không phải là vị
bác học trong mọi
vấn đề... không
thông hiểu ý nghĩa của
lời nói: "Đây là
ý nghĩa của
lời nói này, đây là
ý nghĩa của
lời nói này... không phải là nhà
bác học tinh luyện,
sáng suốt và có thể suy tư về những
vấn đề quá khứ,
vị lai,
hiện tại... Tôn vương tổ chức lễ đại
tế đàn như vậy".
Lời nói về Tôn vương như vậy không đúng
sự thật. Tôn vương là nhà
bác học,
tinh luyện,
sáng suốt, và có thể suy tư về
vấn đề quá khứ,
vị lai,
hiện tại... Do vậy, Tôn vương nên biết: "Hãy tổ chức
tế đàn một cách khiến
nội tâm được an vui, hoan hỷ". Trong khi Tôn vương đang tổ chức đại
tế đàn, nếu có người nói: "Vua Mahàvijita tổ chức đại
tế đàn, nhưng vị Bà-la-môn chủ tế của vua không
thiện sanh cả
từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống
thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không bị một
vết nhơ nào, một dèm pha nào về
vấn đề huyết thống thọ sanh. Tôn vương tổ chức lễ đại
tế đàn như vậy. "Lời nói về Tôn vương như vậy không đúng
sự thật. Vị Bà-la-môn chủ tế của vua
thiện sanh cả
từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống
thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không bị một
vết nhơ nào, một dèm pha nào về
vấn đề huyết thống thọ sanh". Do vậy, Tôn vương nên biết: "Hãy tổ chức
tế đàn một cách khiến
nội tâm được an vui, hoan hỷ"... Trong khi Tôn vương đang tổ chức đại
tế đàn... Nhưng vị Bà-la-môn chủ tế của vua không phải là nhà
phúng tụng, là nhà
trì chú,
thông hiểu ba tập Vedà với
danh nghĩa,
lễ nghi, ngữ nguyên,
chú giải và
lịch sử truyền thống là thứ năm,
thông hiểu ngữ pháp và
văn phạm,
biệt tài về
Thuận thế (
tự nhiên học) và tướng của vị
đại nhân... Nhưng vị Bà-la-môn chủ tế của vua không có
đức hạnh, không có
đức độ cao dày, đầy đủ
giới hạnh cao dày... Nhưng vị Bà-la-môn chủ tế của vua không phải vị
bác học,
tinh luyện,
sáng suốt, là nhà cầm muỗng thứ nhất hay thứ hai, Tôn vương tổ chức lễ đại
tế đàn như vậy".
Lời nói về Tôn vương như vậy không đúng
sự thật. Vị Bà-la-môn chủ tế của vua là nhà
bác học,
tinh luyện,
sáng suốt, là nhà cầm muỗng thứ nhất hay thứ hai. Do vậy Tôn vương nên biết: "Hãy tổ chức
tế đàn một cách khiến
nội tâm được an vui hoan hỷ".
Này Bà-la-môn, vị Bà-la-môn chủ tế, khi vua đang làm
lễ tế đàn đã khuyến giáo, tưởng lệ,
kích thích và làm tâm (của vua) được
hoan hỷ bằng mười sáu
phương pháp.
18. Này Bà-la-môn, trong
lễ tế đàn này, không có trâu bò
bị giết, không có dê cừu
bị giết, không có gà heo
bị giết, không có
các loại sinh vật nào khác vị sát thương, không có cây cối bị chặt để làm trụ cột tế lễ, không có loại cỏ dabbha (
cỏ cát tường) bị cắt để rải
xung quanh đàn tế. Và những người
gia bộc hay... người đem tin hay những người làm thuê không bị dọa nạt bởi hình phạt, không bị dọa nạt bởi
sợ hãi và không làm việc trong than khóc với nước mắt tràn đầy mặt mày. Chúng muốn thì chúng làm, chúng làm những gì chúng muốn.
Tế đàn nay được
hoàn tất chỉ với dầu, sanh tô, thục tô, mật và đường miếng.
19. Này Bà-la-môn, các Sát-đế-lỵ
thân tộc ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, các đại thần
quyến thuộc ở tỉnh thành và ở ngoài tỉnh thành, các Bà-la-môn đại gia ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, các
cư sĩ phú hào ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành
đem theo nhiều tiền bạc
của cải đến Mahàvijita và thưa: "Đại vương, tiền bạc
của cải rất nhiều này được đem đến để
Đại vương dùng,
Đại vương hãy lấy dùng". - "Này các khanh, tiền bạc
của cải rất nhiều được
súc tích một cách
chính đáng này đối với ta đã
vừa đủ. Các khanh hãy giữ các
của cải ấy cho các khanh; các khanh có thể
đem theo nhiều hơn thế nữa !".
Các vị bị vua từ khước như vậy đứng qua một bên và
bàn luận như sau: "Tài sản này của
chúng ta, nếu
chúng ta đem về nhà lại,
thật không phải. Vua Mahàvijita tổ chức đại
tế đàn.
Chúng ta hãy tổ chức một
hậu tế đàn".
20. Này Bà-la-môn, khi các vị Sát-đế-lỵ
thân tộc ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành đặt các thí vật phía Đông hố
tế đàn; các đại thần
quyến thuộc ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành đặt các thí vật phía Nam hố
tế đàn; các Bà-la-môn đại gia ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành đặt các thí vật phía Tây hố
tế đàn; các
cư sĩ phú hào ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành đặt các thí vật phía Bắc hố
tế đàn. Này Bà-la-môn, trong
tế đàn của những vị này cũng vậy, không có trâu bò
bị giết, không có dê cừu
bị giết, không có loại sinh vật nào khác bị sát thương, không có cây cối bị chặt để làm cột trụ tế lễ, không có loại cỏ dabbha (
cỏ cát tường) bị cắt để rải
xung quanh đàn tế. Và những người
gia bộc hay những người
đưa tin, hay những người làm thuê không bị dọa nạt bởi hình phạt, không bị dọa nạt bởi
sợ hãi và không làm việc trong than khóc với nước mắt tràn đầy mặt mày. Chúng muốn thì chúng làm, chúng không muốn thì chúng không làm, chúng làm những gì chúng muốn, chúng không làm những gì chúng không muốn. Những
tế đàn này được
hoàn tất chỉ với dầu, sanh tô, thục tô, mật và đường miếng.
Như vậy là bốn sự
chấp thuận, vua Mahàvijita
thành tựu tám pháp, Bà-la-môn chủ tế
thành tựu bốn pháp và cả ba tế pháp. Này Bà-la-môn như vậy gọi là ba tế pháp và mười sáu tế vật.
21. Khi nghe nói như vậy những Bà-la-môn ấy la to hét lớn: "Cao quý thay
lễ tế đàn,
vẻ vang thay sự
thành tựu của
lễ tế đàn!". Nhưng Bà-la-môn Kùtadanta
ngồi yên lặng. Các vị Bà-la-môn ấy hỏi Bà-la-môn Kùtadanta: "Vì sao
Tôn giả Kùtadanta không
tán thánh là thiện thuyết lời thiện thuyết của Sa-môn Gotama?" - "Không phải ta không
tán thán là thiện thuyết lời thiện thuyết của Sa-môn Gotama. Nếu ai không
tán thán là thiện thuyết lời thiện thuyết của Sa-môn Gotama thì đầu người ấy sẽ bị tan nát. Nhưng ta hiện đang
suy nghĩ: Sa-môn Gotama không nói: "Như vậy ta nghe" hay "Như vậy đáng phải là thế". Nhưng ngài chỉ nói: "Khi sự việc xảy ra như vậy?". "Khi ấy sự việc xảy ra như thế". Và ta nghĩ:
Chắc chắn lúc bấy giờ, Sa-môn Gotama là vua Mahàvijita chủ nhân của
lễ tế đàn, hay là vị Bà-la-môn chủ tế
lễ tế đàn".
Tôn giả Gotama có
công nhận là mình đứng ra tổ chức
lễ tế đàn hay khiến người tổ chức
lễ tế đàn và sau khi thân hoại
mạng chung được sanh ở
thiện thú cõi trời, ở đời này?"
Này Bà-la-môn, ta
công nhận tự mình đứng ra tổ chức
lễ tế đàn hay khiến người tổ chức
lễ tế đàn, và sau khi thân hoại
mạng chung được sanh ở
thiện thú,
cõi trời ở đời này. Lúc bấy giờ ta là vị Bà-la-môn chủ tế đã đứng ra
chủ lễ tế đàn này.
22. - Này
Tôn giả Gotama, có
tế đàn nào khác ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều
quả báo hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp và mười sáu tế vật này?
- Này Bà-la-môn, có một
tế đàn khác ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều
quả báo hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp và mười sáu tế vật này.
-
Tôn giả Gotama,
tế đàn khác ấy là gì mà ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều
quả báo, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp và mười sáu tế vật này?
- Này Bà-la-môn, chính là những
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi,
cúng dường cho những vị
xuất gia có
giới đức.
Tế đàn ấy, này Bà-la-môn ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp và mười sáu tế vật này.
23.
Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì mà những
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi cúng dường cho những vị
xuất gia có
giới đức,
tế đàn ấy lại ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn,
tế đàn với ba tế pháp và mười sáu tế vật này?
- Này Bà-la-môn, các vị A-la-hán hay những vị đã bước vào
con đường A-la-hán không đi đến
tế đàn như vậy. Vì cớ sao?
Này Bà-la-môn, vì tại đấy có thấy những sự đánh đập bằng roi gậy, có những sự túm cổ lôi kéo. Do vậy các vị A-la-hán hay những vị đã bước vào
con đường A-la-hán không đi đến
tế đàn như vậy. Những
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi,
cúng dường cho những vị
xuất gia có
giới đức, này Bà-la-môn, các vị A-la-hán hay những vị đã bước vào
con đường A-la-hán đi đến những
tế đàn như vậy. Vì cớ sao? Này Bà-la-môn vì tại đấy không thấy những sự đánh đập bằng roi gậy, không có những sự
tóm cổ lôi kéo. Do vậy các vị A-la-hán hay những vị đã bước vào
con đường A-la-hán đi đến
tế đàn như vậy. Này Bà-la-môn, do nhân ấy, do duyên ấy, những
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi cúng dường cho những vị
xuất gia có
giới đức,
tế đàn ấy ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp và mười sáu tế vật này.
24. -
Tôn giả Gotama, có
tế đàn nào khác ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật và những
bố thí thường xuyên những
tế đàn thuận lợi này?
- Này Bà-la-môn có một
tế đàn khác, ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật và những
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi này.
- Này
Tôn giả Gotama,
tế đàn khác ấy là gì, mà ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật và những
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi này?
- Này Bà-la-môn, chính là sự
xây dựng tinh xá cho bốn phương Tăng.
Tế đàn ấy ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, và những
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi này.
25.
Tôn giả Gotama, có
tế đàn nào khác, ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp mười sáu tế vật, những
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi và sự
cúng dường tinh xá này?
- Này Bà-la-môn, có một
tế đàn khác, ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, những
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi và sự
cúng dường tinh xá này.
-
Tôn giả Gotama,
tế đàn khác ấy là gì, mà ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều
quả báo hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, những
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi và sự
cúng dường tinh xá này?
- Này Bà-la-môn, một ai với
tâm thành quy y Phật,
quy y Pháp,
quy y Tăng, này Bà-la-môn,
tế đàn ấy ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều
quả báo hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, sự
bố thí thường xuyên,
đàn thí thuận lợi và sự
cúng dường tinh xá này.
26.
Tôn giả Gotama, có
tế đàn nào khác, ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, sự
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi, sự
cúng dường tinh xá và những sự
quy y này?
- Này Bà-la-môn, có một
tế đàn khác, ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, sự
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi, sự
cúng dường tinh xá và những sự
quy y này.
-
Tôn giả Gotama,
tế đàn khác ấy là gì, mà ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều
quả báo hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật ấy, sự
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi, sự
cúng dường tinh xá và những sự
quy y ấy?
- Này Bà-la-môn, một ai với
tâm thành thọ trì những
giới luật không
sát sanh, không
thâu đạo, không
tà dâm, không
vọng ngữ, không uống rượu.
Này Bà-la-môn
tế đàn ấy ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, sự
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi, sự
cúng dường tinh xá và những sự
quy y này.
27. - Này
Tôn giả Gotama, có
tế đàn nào khác, ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, sự
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi, sự
cúng dường tinh xá, những sự
quy y và những
giới luật này?
- Này Bà-la-môn, có một
tế đàn khác ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, sự
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi, sự
cúng dường tinh xá, những sự
quy y, những
giới luật này.
-
Tôn giả Gotama,
tế đàn ấy là gì mà ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn
tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vạt, sự
bố thí thường xuyên, những
tế đàn thuận lợi, sự
cúng dường tinh xá, những sự
quy y và những
giới luật này?
- Này Bà-la-môn, ở đây
đức Như Lai sanh ra đời, ?ng Cúng,
Chánh Đẳng Giác... [
tương tự như kinh "Sa-môn quả", đoạn kinh 40-98]. Như vậy, này Bà-la-môn vị Tỷ-kheo
thành tựu giới hạnh.
... chứng và
an trú sơ thiền. Này Bà-la-môn
tế đàn này ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn những
tế đàn trước.
...
nhị thiền...
tam thiền... chứng và
an trú tứ thiền. Này Bà-la-môn,
tế đàn này ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn những
tế đàn trước... . không còn
một đời sống khác. Vị ấy biết như vậy. Này Bà-la-môn,
tế đàn này ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại, nhiều kết quả hơn, nhiều
lợi ích hơn những
tế đàn trước. Này Bà-la-môn, không có một
lễ tế đàn nào khác cao thượng hơn,
thù thắng hơn
lễ tế đàn này.
28. Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Kùtadanta thưa với
đức Thế Tôn:
- Thật
vi diệu thay
Tôn giả Gotama! Thật
vi diệu thay
Tôn giả Gotama!
Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng
ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín,
chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy
chánh pháp đã được
Tôn giả Gotama dùng
phương tiện trình bày
giải thích. Vậy nay con xin
quy y Thế Tôn Gotama,
quy y Pháp và
quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong
Tôn Giả Gotama nhận con làm
đệ tử, từ nay trở đi
cho đến mạng chung, con
trọn đời quy ngưỡng Tôn giả Gotama, con xin trả
tự do và sự sống cho bảy trăm con bò đực, bảy trăm con bò cái, bảy trăm con dê và bảy trăm con cừu. Mong chúng được ăn cỏ xanh và uống nước mát, mong chúng được hưởng gió mát.
29. Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn liền thứ lớp
giảng pháp cho Bà-la-môn Kùtadanta như là thuyết về
bố thí, thuyết về
trì giới, thuyết về các
cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự
hạ liệt, sự
nhiễm ô của
dục lạc và sự
lợi ích của
xuất ly. Khi
đức Thế Tôn biết tâm của Bà-la-môn Kùtadanda đã sẵn sàng, đã nhu thuận, không còn
chướng ngại, được phấn khởi, được tín thành, liền
thuyết pháp mà chư Phật đã
chứng ngộ, tức là khổ, tập, diệt, đạo. Cũng như tấm vải thuần bạch, được
gột rửa các vết đen sẽ rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy chính chỗ ngồi này
pháp nhãn xa trần
ly cấu khởi lên trong tâm Bà-la-môn Kùtadanta: "Phàm pháp gì được
tập khởi lên đều bị tiêu diệt".
30. Khi ấy Bà-la-môn Kùtadanta thấy pháp,
chứng pháp, ngộ pháp,
thể nhập vào pháp,
nghi ngờ tiêu trừ,
do dự diệt tận, chứng được
tự tín, không
y cứ nơi người đối với
đạo pháp của
đức Bổn Sư, liền
bạch đức Thế Tôn: "Mong
Tôn giả Gotama ngày mai cùng chúng Tỷ-kheo nhận
lời mời đến dùng cơm do con mời".
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kùtadanta được biết
đức Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy,
đảnh lễ đức Thế Tôn, thân phía hữu hướng về
đức Phật và từ biệt... Rồi Bà-la-môn Kùtadanta khi đêm vừa tàn, liền làm cho sẵn sàng tại nhà các món
thượng vị loại cứng và loại mềm, rồi báo
thì giờ cho
đức Thế Tôn: "Giờ đã đến,
Tôn giả Gotama, cơm đã sẵn sàng".
Khi ấy
đức Thế Tôn buổi sáng
đắp y,
đem theo y bát và cùng với chúng Tỷ-kheo đi đến cư xá của Bà-la-môn Kùtadanta, khi đi đến liền ngồi trên chỗ đã được soạn sẵn. Bà-la-môn Kùtadanta tự tay làm cho chúng Tỷ-kheo với
đức Phật là vị cầm đầu,
thỏa mãn với những món
thượng vị, loại cứng và loại mềm. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kùtadanta, sau khi được biết
đức Thế Tôn dùng cơm đã xong, đã rửa tay và bát, liền lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên. Sau khi Bà-la-môn Kùtadanta ngồi xuống một bên,
đức Thế Tôn với một thời
thuyết pháp giảng dạy, khích lệ,
kích thích và làm cho Bà-la-môn Kùtadanta
hoan hỷ rồi từ chỗ ngồi
đứng dậy và từ biệt.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt