ĐIỀU TRỊ BỆNH TẬN GỐC
NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM BI MẪN
Lama Zopa Rinpoche
Nguyễn Văn Điều & Đỗ Thiết Lập dịch Việt
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội
PHẦN HAI: THỰC HÀNH ĐIỀU TRỊ BỆNH
17. GIỚI THIỆU VỀ PHÓNG SINH
Phóng sinh là một phương pháp rất thực tiễn và có năng lực giúp kéo dài mạng sống khi một người chưa già nhưng đang trong tình trạng nguy hiểm có thể chết bất kỳ lúc nào. Việc thực hành [các pháp] về Tara Trắng, Namgyalma hay về một đấng giác ngộ nào khác dĩ nhiên cũng cần được thực hiện để cầu nguyện kéo dài tuổi thọ. Bệnh nhân cần nhận lễ quán đảnh về một vị Bổn tôn trường thọ (long-life deity) từ một vị Lama đạo hạnh, và sau đó chuyên tâm thiền định và trì tụng các mật chú phối hợp với vị Bổn tôn này. Để bảo đảm được kéo dài thọ mạng, người ta cũng thường làm các tsa-tsa để tịnh hóa nghiệp chướng.
Những cái chết được gọi là “oan uổng” khi người ta bất thình lình bị chết ngay cả khi họ còn đủ phước đức để sống lâu hơn nữa. Họ đã làm những thiện hạnh trong quá khứ nhờ đó đã tạo được nhân để lẽ ra được sống lâu hơn, nhưng đồng thời họ đã làm một hành vi bất thiện nặng nề do tâm vị kỷ thúc đẩy hay vì một trong những mê lầm khác nào đó thúc đẩy, và như vậy họ tạo nên chướng ngại cho cuộc sống, khiến phải chịu đựng cái chết. Một cái chết oan uổng có thể xảy ra do bệnh tật, tai nạn xe hơi hay một nguyên nhân nào khác.
Để phóng sinh, bạn hãy mua các con vật đang còn sống tại những nơi chúng chắc chắn sẽ bị giết hoặc bán cho người ta giết thịt, rồi mang các con vật đó đến thả ở một nơi càng an toàn càng tốt, một nơi để chúng có thể được sống lâu hơn.
Điểm mấu chốt của phóng sinh là thông qua việc cứu các con vật khỏi bị giết, bạn kéo dài sự sống cho chúng và đương nhiên là cuộc sống của bạn sẽ được kéo dài thêm. Gieo nhân nào thì gặt quả đó. Nếu bạn trồng khoai tây thì mọc lên khoai tây; nếu bạn trồng ớt thì mọc lên cây ớt. Cây nào mọc lên tất nhiên là tùy thuộc vào loại giống mà bạn gieo trồng xuống. Tương tự như vậy, một thiện hạnh bạn đã làm để kéo dài cuộc sống cho các con vật, đương nhiên thiện hạnh đó cũng sẽ kéo dài cuộc sống cho bạn.
Vì phóng sinh là cách thức để ngăn ngừa sự chết oan uổng và kéo dài cuộc sống, nên cách thức này thường rất có lợi khi áp dụng cho trường hợp bệnh nan y, đặc biệt là ung thư. Nhiều người đã áp dụng cách thức này và đã phục hồi bệnh ung thư giai đoạn cuối. Ở chương hai, tôi đã đề cập trường hợp cô Alice bị ung thư và đã phóng sinh hàng ngàn con vật; đó là một trong những cách thức giúp kéo dài cuộc sống của cô.
Nói chung, nếu chúng ta muốn khỏe mạnh và sống lâu trong kiếp này cũng như nhiều kiếp sau, chúng ta nên phát nguyện không giết hại các chúng sinh khác. Những cách thực hành khác nữa để kéo dài cuộc sống có thể kể đến như nguyện giữ Tám Giới Đại Thừa và trì tụng một số mật chú có năng lực mãnh liệt. Việc phóng sinh cơ bản là để kéo dài cuộc sống, và việc trì tụng mật chú có tác dụng nhiều hơn trong việc chữa lành bệnh hay để che chở bệnh nhân khỏi bị ám hại bởi ma quỉ, vì trong một vài trường hợp, ma quỉ ám trở thành điều kiện (duyên) của bệnh. Phóng sinh cũng giống như việc ăn uống theo chế độ đặc biệt để tăng cường sức khỏe, trong khi trì tụng mật chú giống như uống thuốc để diệt vi trùng gây bệnh.
Mặc dù nghi lễ puja hay các pháp khác có thể áp dụng để kéo dài cuộc sống, nhưng phóng sinh là một pháp thực hành đặc biệt hữu hiệu. Việc phụng sự chúng sinh cũng là một cách hữu hiệu. Việc giúp đỡ bệnh nhân bằng cách cung cấp thức ăn uống, quần áo, chỗ ở hay thuốc men cũng tạo nhân kéo dài cuộc sống, cũng giống như việc cho người đang bị đói ăn.
Cách tốt nhất để cứu sống một con vật là bạn có thể tự mình chăm sóc nó. Bằng cách cho các con vật ăn hằng ngày, bạn thực hành Pháp bố thí và tạo ra nhiều thiện nghiệp, nhân của hạnh phúc. Bạn không chỉ mang hạnh phúc đến cho con vật mà còn liên tục tạo nhân cho hạnh phúc của chính mình trong tương lai. Hơn nữa, nếu con vật đó là loài ăn thịt, bạn sẽ giúp ngăn cản việc nó giết hại các con vật khác.
Phóng sinh không chỉ thực hiện vì lợi ích cho bản thân mình. Bạn cũng có thể hồi hướng công đức cho những người trong gia đình hay những người khác. Thực ra, bạn có thể hồi hướng cho tất cả chúng sinh hữu tình. Nếu bạn không có nhiều tiền, cách dễ làm nhất và rẻ nhất là bạn mua giun và phóng sinh chúng. Nếu bạn phóng sinh cá ở sông hồ, có thể chúng sẽ bị cá lớn ăn thịt, trong khi đó, như tôi đã nói, những con giun được thả ra sẽ biến ngay vào lòng đất. Việc phóng sinh cá thường là rất khó trừ phi bạn có thể thả chúng vào những ao hồ đặc biệt không có những kẻ thù trong thiên nhiên làm hại chúng.
Phóng sinh là cách thực hành rất phổ biến trong giới Phật tử người Hoa và thường được tiến hành tại các chùa, đền Trung Hoa. Các ngôi đền ở Singapore, Đài Loan, Hồng Kông thường có hồ lớn đặc biệt được bảo vệ để nuôi rùa. Khi người ta phóng sinh rùa, họ mang rùa đến chùa và thả vào các hồ đó. Du khách đến viếng chùa thường mang cho thực phẩm hoặc chỉ đơn giản là dạo chơi và ném bánh mì hay các loại thức ăn khác cho rùa.
Thực hành phóng sinh với sáu pháp ba-la-mật
Khi việc
phóng sinh được
thực hiện một cách
hoàn hảo thì nó
bao gồm cả sáu pháp ba-la-mật:
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định và
trí tuệ.
Việc
thực hành cúng dường hay
bố thí có bốn loại:
từ ái thí (
bố thí tình thương),
vô úy thí (giúp
chúng sinh khỏi sự
sợ hãi),
Pháp thí (
giảng Pháp), và
tài thí (cho tặng tiền bạc hay
vật chất).
[Khi
thực hành phóng sinh]
chúng ta tu tập từ ái thí, vì
chúng ta không chỉ mong muốn cho các con vật có được
hạnh phúc mà còn thực sự đem
hạnh phúc đến cho chúng bằng việc
cứu thoát chúng.
[Khi
thực hành phóng sinh]
chúng ta thực hành vô úy thí, vì
chúng ta ngay tức thì
giải thoát chúng khỏi sự
sợ hãi bị giết hay bị hãm hại. Vì
nghi thức phóng sinh cũng tịnh hóa nghiệp cho các con vật được
phóng sinh, nên ta cũng giúp
giải thoát chúng khỏi các
cảnh giới thấp.
[Khi
thực hành phóng sinh]
chúng ta cũng
thực hành Pháp thí khi trì tụng các
mật chú có
năng lực mãnh liệt để
chú nguyện vào nước và sau đó rưới lên các con vật; việc này sẽ đem
lợi lạc cho chúng vì tịnh hóa được các
nghiệp bất thiện và giúp chúng có sự
tái sinh tốt đẹp như ở
cõi người,
cõi trời hay
cõi Tịnh Độ.
Khi
chúng ta cho các con vật được
phóng sinh ăn, đó là
hình thức bố thí thứ tư,
tài thí, tức
bố thí vật chất.
[Khi
thực hành phóng sinh]
chúng ta tu tập trì giới vì tránh không làm hại các
chúng sinh khác.
[Khi
thực hành phóng sinh,
chúng ta]
tu tập nhẫn nhục theo ba
ý nghĩa: sự
nhẫn nhục tuyệt đối chỉ nghĩ đến
Chánh pháp, sự
nhẫn nhục tự nguyện gánh chịu khổ đau [thay cho
chúng sinh] và sự
nhẫn nhục không
giận dữ với người khác hay sinh vật khác vào lúc
phóng sinh.
Còn việc
kiên trì chịu đựng khó nhọc khi
phóng sinh, như đi mua các con vật
phóng sinh rồi chuyên chở
tới nơi thả chúng, những hành động này thuộc về hạnh
tinh tấn.
[Khi
thực hành phóng sinh,
chúng ta]
tu tập thiền định vì khi
duy trì sự
tỉnh thức về động cơ làm việc
phóng sinh sao cho
chúng ta không ngừng có những
suy nghĩ hiền thiện
trong suốt quá trình
phóng sinh.
Còn sự
tu tập trí tuệ là thấy biết
bản thân chúng ta, hành động
phóng sinh và các con vật được
phóng sinh, tất cả
chỉ hoàn toàn là do tâm gán đặt tên gọi.
Những lợi lạc của pháp thí
Điều
hết sức quan trọng là
chúng ta phải
thực hiện việc
phóng sinh theo cách thức hữu hiệu nhất – không chỉ là để cho
bản thân ta hay một người nào khác sẽ sống lâu hơn, mà là để việc
phóng sinh này sẽ thực sự làm
lợi lạc cho các con vật. Theo
ý nghĩa này thì việc
thực hành Pháp thí là cực kỳ quan trọng. Nếu
chúng ta chỉ mua các con vật từ nơi chúng sắp
bị giết rồi đem thả ở nơi mà sự sống của chúng không còn bị
đe dọa, thì
chúng ta không
mang đến cho chúng được nhiều
lợi lạc. Vì không có cơ hội
nghe Pháp nên
sau khi chết đa số chúng sẽ
tái sinh làm
súc vật trở lại hay rơi vào các
cảnh giới thấp hơn.
Dĩ nhiên,
việc làm của ta cũng mang một phần
lợi lạc cho chúng vì giúp chúng kéo dài sự sống, nhưng
lợi lạc lớn nhất là giúp chúng được nghe trì tụng
mật chú và những
giáo pháp của
đức Phật. Việc tụng đọc các
giáo pháp về
tánh Không,
Bồ-đề tâm và
mật chú sẽ để lại
chủng tử trong tâm các con vật và
bảo đảm rằng trong tương lai chúng sẽ được thân người, sẽ được
nghe Pháp và
tu tập Pháp, và sẽ
thực hành con đường tu tập hướng tới
giác ngộ. Việc tụng đọc
giáo pháp của
Đức Phật cho chúng nghe sẽ không chỉ giúp
chấm dứt khổ đau của chúng trong
luân hồi, mà còn làm cho chúng có khả năng đạt tới
giác ngộ viên mãn. Như vậy
chúng ta mang đến cho các con vật điều
lợi lạc tối thượng, cứu giúp chúng
hoàn toàn thoát khỏi sự khổ đau trong
luân hồi cùng với nhân của khổ đau đó. Chính điều này khiến cho việc
phóng sinh của
chúng ta cực kỳ quý giá, cực kỳ
thú vị.
Có rất nhiều
câu chuyện cho thấy rõ những
lợi lạc từ việc
Pháp thí theo cách này. Chẳng hạn, sau khi
Đức Phật Bổn Sư
Thích-ca Mâu-ni giảng Pháp cho 500 con
thiên nga thì đến
kiếp sau tất cả đều
trở thành các vị tăng sĩ và A-la-hán. Nói cách khác, chúng
hoàn toàn chấm dứt kiếp luân hồi. Một con chim
bồ câu đã từng nghe
Tôn giả Long Thọ (Ngrjuna)
tụng kinh và sau
tái sinh làm người,
trở thành một vị sư rồi thành một
Tôn giả.
Tương tự,
Tôn giả Thế Thân (Vasubandhu) nuôi một con chim
bồ câu, từng được nghe
Tôn giả tụng kinh. Và trong
kiếp sau, con chim
bồ câu đó
tái sinh làm người,
trở thành một
nhà sư và đã viết bốn luận giảng về các
giáo pháp đã được nghe khi còn là con chim
bồ câu trong
kiếp trước.
Có một
câu chuyện về các
thương gia Ấn Độ đang bị nguy khi chiếc tàu của họ sắp bị một con cá mập rất lớn nuốt chửng. Khi các
thương gia lớn tiếng tụng
bài kệ qui y, con cá liền
ngậm miệng lại rồi chết. Sau đó nó
tái sinh thành người tên là Shrijata, rồi
trở thành nhà sư và
tu tập chứng quả A-la-hán. Cũng chính con cá này trong kiếp
quá khứ vốn là một con ruồi đã từng đậu trên một đống phân [trôi] nhiễu quanh
bảo tháp, nhờ
thiện nghiệp này mà
kiếp sau nó
tái sinh được vào chùa và
trở thành một
nhà sư.
Câu chuyện Shrijata: Những lợi lạc khi đi nhiễu quanh bảo tháp
Mãi đến lúc đã già, ông Shrijata mới bắt đầu
tu tập Pháp, nhưng ông
trở thành vị A-la-hán chỉ trong
một đời. Khi tám mươi tuổi, ông Shrijata vẫn còn
tại gia, nhưng ông chán nản vì
gia đình đối xử không tốt. Các đứa trẻ luôn trêu chọc ông. Vào một ngày, ông
cảm thấy hoàn toàn thất vọng vì bị trêu chọc
quá đáng, nên ông ta nghĩ rằng “Cuộc sống sẽ rất
bình an nếu mình rời nhà vào sống trong
tu viện.”
Và Shrijata
bỏ nhà ra đi xin vào sống trong một
tu viện gần nhà, vị
Tu viện trưởng là Ngài
Xá Lợi Phất, một
đệ tử lớn của
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Ngài
Xá Lợi Phất, bậc
trí tuệ siêu việt, muốn biết xem ông lão có
căn duyên trở thành nhà sư hay không, nhưng Ngài không thể
quán sát thấy được gì cả. Ngài
Xá Lợi Phất liền bảo với ông già: “Thông thường ở trong
tu viện, các sư đều phải học,
nếu không thể học được thì phải quét dọn hay
phục vụ các sư khác. Ông thì quá già không học được, cũng không
phục vụ người khác được.” Rồi Ngài
Xá Lợi Phất từ chối việc xuống tóc
xuất gia cho ông lão.
Shrijata rất bức xúc vì bị từ chối. Ông khóc, khóc mãi và đập đầu vào cổng
tu viện. Sau một lúc, ông bỏ đi ra đến một công viên gần đó và
tiếp tục khóc. Vào lúc này,
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang ở
Ấn Độ. Tâm
toàn giác của
Đức Phật luôn luôn thấy biết mọi
chúng sinh trong bất kỳ lúc nào, nên khi một
chúng sinh có nghiệp
đúng lúc cần sự dẫn dắt của Ngài thì Ngài
lập tức xuất hiện trước mặt với bất kỳ
hình tướng nào
thích hợp với
tâm thức họ, để dẫn dắt họ.
Theo con mắt người thường thì
Đức Phật đang ở xa Shrijata, nhưng Ngài
lập tức hiện ra trước mặt ông lão và hỏi xem ông ta
phiền muộn điều gì. Ông lão kể lại
rõ ràng mọi sự, kể cả việc Ngài
Xá Lợi Phất đã từ chối không cho ông vào
tu viện.
Đức Phật bảo rằng ông lão quả có
căn duyên xuất gia.
Đức Phật dạy: “Xá Lợi Phất chưa
tích lũy đủ hai loại
công đức là
trí tuệ và
phương tiện.
Tuy nhiên, Ta có đầy đủ hai loại
công đức đó và đã
thành tựu giác ngộ viên mãn, nên Ta thấy biết ông
quả thật có
thiện nghiệp trở thành người
xuất gia.”
Lời dạy của
Đức Phật có nghĩa rằng, dù Ngài
Xá Lợi Phất đã là một vị A-la-hán nhưng vẫn còn bị che chướng nên không thể thấy biết được hết các
hiện tượng vi tế. Theo
nghĩa đen, A-la-hán có nghĩa là “bậc chiến thắng kẻ thù”. Đây không nói đến
kẻ thù bên ngoài, mà nói đến đến
kẻ thù bên trong, tức các
vọng tưởng mê lầm (
vô minh) và nhân của chúng, từ đó phát sinh tất cả khổ đau. Khi đã
hoàn toàn trừ dứt
kẻ thù bên trong, các vị A-la-hán
thành tựu hạnh phúc giải thoát tối thượng vĩnh viễn, nhưng vì chưa
hoàn tất sự tích lũy hai loại
công đức, các Ngài vẫn còn những che chướng
vi tế. Mặc dù các Ngài
đạt được những
chứng ngộ và
thần thông không thể nghĩ bàn, nhưng các Ngài không thấy biết hết các
hiện tượng vi tế.
Ngược lại,
Đức Phật đã
hoàn tất hai loại
công đức, có nghĩa là
Đức Phật đã tịnh hóa hết hai loại che chướng,
thành tựu tâm
toàn giác, do đó thấy biết hết mọi nghiệp
vi tế. Nói cách khác,
thiện nghiệp trở thành người
xuất gia của ông lão là một
thiện nghiệp vi tế mà chỉ có
Đức Phật mới thấy biết được.
Đức Phật thấy rằng Shrijata đã tạo được nghiệp
trở thành người
xuất gia, dù
thiện hạnh đó đã được làm ở một nơi xa xôi và vào một
thời gian rất lâu trong
quá khứ không thể tưởng tượng được.
Đức Phật dạy rằng, trong một kiếp
quá khứ rất lâu xa, Shrijata là một con ruồi bay quanh cái tháp. Có một
giải thích khác là con ruồi đậu trên đống phân bò và đống phân ấy nổi trên mặt nước chảy quanh cái tháp. Lại một
giải thích khác nữa là con ruồi bay theo mùi phân bò nằm rải rác chung quanh cái tháp và vì thế đã
may mắn hoàn tất được một vòng nhiễu quanh cái tháp.
Cho dù con ruồi chẳng hề biết cái tháp là vật
thiêng liêng, hay việc bay quanh cái tháp sẽ là nhân cho
sự giải thoát, nhưng việc bay quanh tháp một cách
vô ý thức đó đã tịnh hóa được nghiệp và
tích lũy công đức, và như vậy đã
trở thành nhân cho
hạnh phúc. Con ruồi đã hành động
hoàn toàn vì
tham luyến mùi phân bò. Động cơ của nó
hoàn toàn là không
phước đức.
Tuy nhiên, nhờ
năng lực của thánh vật (
bảo tháp) nên việc bay vòng quanh
bảo tháp trở nên có
phước đức.
Đức Phật dạy rằng,
thiện hạnh nhỏ của việc bay quanh tháp đã tạo ra nhân khiến Shrijata
trở thành người
xuất gia.
Khi
Đức Phật quán xét xem ai có mối quan
hệ nghiệp với ông lão để có thể chăm sóc
dạy bảo ông ta, Ngài biết rằng
Mục Kiền Liên, vị A-la-hán
thần thông bậc nhất sẽ là thầy của Shrijata. Trong số hai
đệ tử lớn của
Đức Phật,
Xá Lợi Phất có
trí tuệ bậc nhất và
Mục Kiền Liên có
thần thông bậc nhất. Để có khả năng dẫn dắt, vị thầy cần có mối
liên hệ nghiệp với người học trò.
Nếu không có mối
liên hệ nghiệp, vị thầy không thể thực sự làm
lợi lạc cho học trò được. Và
Đức Phật gửi Shrijata đến Ngài
Mục Kiền Liên, lúc đó cũng là
Tu viện trưởng ở một
tu viện khác.
Sau khi Shrijata
xuất gia, các tăng sĩ trẻ trong
tu viện này lại trêu chọc ông lão, biến ông thành
trò cười. Vào một ngày, ông lão bức xúc tột cùng vì bị trêu chọc nên bỏ
tu viện ra đi. Ông
quyết định nhảy sông tự tử. Ngay lúc đó, Ngài
Mục Kiền Liên đi tìm ông lão. Vì không thấy ông trong
tu viện, Ngài dùng
thần thông quán xét xem ông ta đang ở đâu và thấy được ông lão nhảy sông tự tử. Ngài
Mục Kiền Liên sử dụng thần thông xuất hiện tại chỗ và kéo ông lên. Shrijata
rất đỗi ngạc nhiên vì ông không hề
báo trước cho thầy của mình về
ý định tự tử. Ông đã không nói nên lời. Ngài
Mục Kiền Liên hỏi
lý do thì ông lão đứng lặng thinh, miệng há hốc vì quá
kinh ngạc.
Cuối cùng, ông lão
hoàn hồn và nói ra
lý do thì Ngài
Mục Kiền Liên dạy rằng: “Lý do mà ông bỏ
tu viện đi tự tử là vì ông chưa có sự chán bỏ
luân hồi.” Rồi Ngài
Mục Kiền Liên bảo ông lão nắm chéo áo của Ngài, và Ngài cùng với ông lão bay lên bầu trời.
Họ bay qua nhiều biển rộng
cho đến khi tới một ngọn núi lớn bằng xương. Họ đáp xuống ngọn núi bằng xương đó và ông lão hỏi thầy: “Những xương này là của ai?” Ngài
Mục Kiền Liên trả lời: “Ồ! Những xương này đều là của ông
trong đời quá khứ.” Ông lão trước đây từng sinh ra làm một con cá mập [khổng lồ]. Ngay khi nghe thầy nói như vậy, lông trên người Shrijata dựng đứng lên và
lập tức phát sinh tâm
buông bỏ luân hồi.
Nhận thức được rằng
luân hồi có
bản chất đau khổ, mọi sự đều
vô thường, ông lão phát sinh một
quyết tâm dũng mãnh thoát khỏi luân hồi,
thoát khỏi khổ đau và nhân của khổ đau.
Và vì thế, Shrijata
đi vào con đường tu tập và
trở thành A-la-hán ngay
trong đời đó. Mặc dù sau tám mươi tuổi mới bắt đầu
tu tập Pháp, nhưng Shrijata không những
trở thành tăng sĩ mà còn
đạt được quả vị A-la-hán, vượt khỏi vòng
sinh diệt,
hoàn toàn tự
giải thoát mình khỏi khổ đau của
luân hồi. Vị A-la-hán đạt
sự giải thoát trọn vẹn,
thoát khỏi mọi khổ đau và nhân khổ đau,
bao gồm cả
hạt giống của
vọng tưởng mê lầm. Vị A-la-hán an trụ trong
trạng thái như vậy nhiều kiếp,
cho đến khi
Đức Phật thấy đã đến lúc dẫn dắt tâm của vị đó vào
con đường Đại thừa. Rồi
Đức Phật chiếu các chùm
tia sáng từ bàn tay và đọc một câu kệ nào đó cho vị A-la-hán, và như vậy vị A-la-hán
đi vào con đường Đại thừa và
tu tập để
hiện thực hóa
con đường Đại thừa, từng bước
chấm dứt các
ô nhiễm vi tế. Khi tất cả các
ô nhiễm vi tế đã
hoàn toàn trừ dứt, vị đó
thành tựu con đường tu tập và trở nên
giác ngộ; và rồi vị đó có thể
giác ngộ cho
vô số chúng sinh hữu tình khác.
Ông lão này có được khả năng
giác ngộ vô số chúng sinh hữu tình là nhờ vào sự
giác ngộ của ông ta; sự
giác ngộ của ông ta đến từ việc
đi vào con đường Đại thừa; việc ông ta
đi vào con đường Đại thừa đến từ việc
đi vào con đường giải thoát và
trở thành một vị A-la-hán, và
quả vị A-la-hán đến từ việc ông
xuất gia. Và ông ta đã có khả năng
trở thành một người
xuất gia là nhờ vào
nghiệp quả rất
vi tế khi còn là con ruồi đã nhiễu quanh cái tháp. Con ruồi không hề biết cái tháp là một thánh vật có khả năng tịnh
hóa tâm chúng sinh, nó chỉ vì tham đắm mùi phân bò mà đã bay vòng quanh cái tháp và
hoàn tất sự bay nhiễu quanh thánh vật. Tất cả mọi sự phát xuất
từ thiện hạnh rất nhỏ do đã bay quanh cái tháp. Mọi sự – mọi
thực chứng của năm
con đường nối
tiếp dẫn đến
giải thoát và mọi
thực chứng của
con đường Đại thừa đưa đến
giác ngộ – đều bắt đầu
từ thiện nghiệp rất nhỏ mà con ruồi đã tạo ra. Điều này cho thấy
bảo tháp, tranh tượng, các
bản kinh văn và các thánh vật khác nữa đều có
năng lực mang đến những
chứng ngộ. Tất cả các thánh vật đều rất
lợi lạc trong việc tịnh
hóa tâm,
mang đến mọi thứ
hạnh phúc và
cuối cùng dẫn đến
giác ngộ.
Bảo tháp là thánh vật có
năng lực mãnh liệt đến nỗi ngay cả một sự đi nhiễu không
cố ý quanh đó cũng giúp cho
chúng sinh tịnh hóa các
nghiệp bất thiện và
tích lũy công đức.
Từ đó có thể suy ra rằng, một khi có
dụng tâm đi nhiễu quanh bảo tháp với một
thái độ tích cực mong muốn làm
lợi lạc cho
chúng sinh hữu tình thì
thiện hạnh đó sẽ có
năng lực tích cực rất mãnh liệt. Việc
chúng ta đi nhiễu quanh bảo tháp sẽ có được kết quả
tốt đẹp lớn lao và nhanh chóng hơn so với việc con ruồi nhiễu quanh tháp
hoàn toàn không
hiểu biết, không
dụng ý tích cực. Mỗi lần nhiễu quanh tháp sẽ
mang đến những kết quả không thể nghĩ bàn. Nó không chỉ chữa lành bệnh tật mà còn giúp
chúng ta tịnh hóa được các
nghiệp chướng trong
quá khứ, vốn là nhân của bệnh tật. Ngoài việc giúp
chúng ta chữa bệnh một cách
triệt để,
đi nhiễu quanh tháp còn là nhân cho sự
hiện thực hóa
toàn bộ con đường tu tập đưa tới hạnh phúc vô song của
giác ngộ viên mãn.
Do vậy, một
phương pháp thực tiễn để giúp
giải thoát các con vật là mang chúng
đi nhiễu quanh các thánh vật. Chẳng hạn, bạn mang một thùng chứa một trăm con giun
đi nhiễu quanh tháp hay quanh một thánh vật nào khác, cứ đi một vòng thì bạn đã
ban tặng món quà lớn nhất là sự
giác ngộ đến cho một trăm con giun đó. Nếu bạn mang một ngàn con giun, thì cứ mỗi lần
đi vòng quanh bạn mang sự
giác ngộ đến cho một ngàn
chúng sinh hữu tình từng là mẹ của bạn. Bạn cũng đang giúp
giải thoát các
chúng sinh này khỏi
luân hồi; bạn đang giúp
chấm dứt khổ đau
luân hồi của họ, một dòng
tương tục từ vô thỉ
đến nay – điều
đáng sợ nhất của khổ đau
luân hồi là nó không có điểm khởi đầu. Bạn đang giúp một ngàn
chúng sinh hữu tình từng là mẹ của bạn
thoát khỏi cõi
luân hồi từ vô thỉ này. Bạn cũng đang giúp họ có một
tái sinh tốt; bạn đang mang lại sự
tái sinh tốt cho hàng trăm hay hàng ngàn đời cho một ngàn
chúng sinh hữu tình từng là mẹ của bạn.
Chỉ
một lần đi nhiễu quanh các thánh vật có thể tạo ra nhân để có hàng trăm hay hàng ngàn
tái sinh tốt, vì nghiệp có tính phát triển – sức phát triển của nghiệp mạnh hơn nhiều so với các
hiện tượng vật chất bên ngoài tâm. Một
hạt giống nhỏ có thể mọc lên thành một cây to với hàng chục ngàn cành lá,
hoa quả, nhưng nghiệp
gia tăng thậm chí còn nhiều hơn thế.
Trong
nghi thức phóng sinh, việc giúp tịnh hóa [nghiệp của] các con vật bằng cách dùng nước đã
chú nguyện là rất tốt, nhưng cũng rất tốt [
nếu có thể] mang các con vật
đi nhiễu quanh những thánh vật. Bằng cách này, bạn không chỉ
giải thoát các con vật khỏi
những cảnh giới thấp mà còn mang chúng đến với sự
giác ngộ bằng cách giúp chúng tạo ra nhân cho sự
giác ngộ.
Lợi ích của mật chú được trì tụng trong lễ phóng sinh
Cho dù những
câu chuyện tôi vừa kể về kết quả của
các chủng tử có được nhờ việc lắng nghe
giáo lý Đức Phật là khó tin đối với đầu óc những người
bình thường như
chúng ta, nhưng việc trì
tụng kinh điển,
cầu nguyện và trì tụng
mật chú quả thật lợi lạc ngoài sức tưởng tượng. Nếu
chúng ta trì tụng các
mật chú có
năng lực mạnh để tịnh hóa nghiệp xấu thì các con vật được nghe các
mật chú đó sẽ không
tái sinh vào các
cảnh giới thấp nữa.
Chẳng hạn, bất kỳ người hay con vật nào
nghe được hồng danh Đức Phật Rinchen Tsug-tor Chen thì sẽ không
tái sinh ở các
cảnh giới thấp. Nếu người đang hấp hối vẫn còn có khả năng nghe và không bị
mất trí, bạn có thể trì tụng lời
cầu nguyện đảnh lễ Đức Phật Rinchen Tsug-tor Chen vào tai họ. Nếu họ không còn
nghe được nữa, thì bạn có thể
xưng tán hồng danh Đức Phật này, hay trì tụng bất kỳ
mật chú nào được nêu trong phần
thực hành phóng sinh (Chương 18) rồi thổi vào thân họ sau khi tụng xong. Hay bạn có thể thổi vào nước hay vào bột đá có pha dầu thơm rồi rắc nước, rải bột đó lên
thân thể họ để tịnh hóa
nghiệp bất thiện. Bằng cách này, họ sẽ không
tái sinh vào các
cảnh giới thấp và có cơ may
tái sinh vào
cõi tịnh độ của một vị Phật.
Một trong những cách tốt nhất để làm
lợi lạc các con vật trong lễ
phóng sinh là làm phép
chú nguyện (thổi vào nước, bột, nhang, dầu thơm...) sau khi trì tụng các
mật chú hiệu lực mạnh như chú
Quán Thế Âm, Namgyalma, Luân Xa
Như Ý (Wish-granting Wheel) và các
mật chú chư Phật khác, xong rảy nước vào các con vật để tịnh hóa nghiệp cho chúng. Các
mật chú này có
hiệu lực rất mạnh, cho dù
bản thân bạn chưa có
thực chứng về
Bồ-đề tâm,
tánh Không,
vân vân... hãy trì tụng với
niềm tin trọn vẹn và hãy nghĩ rằng bạn đã tịnh hóa được
nghiệp bất thiện cho các con vật. Đây là một
phương pháp rất
cụ thể để giúp
giải thoát các con vật khỏi sự khổ đau của các
cảnh giới thấp. Một khi
nghiệp bất thiện được tịnh hóa, các con vật sẽ không còn bị rơi vào các
cảnh giới thấp.
Có vẻ như việc tịnh hóa
nghiệp bất thiện của một
chúng sinh và làm thay đổi sự
tái sinh của họ thật quá dễ dàng! Nhưng trên
thực tế, việc này không phải
hoàn toàn đơn giản và không phải
chúng sinh nào cũng có kết quả tốt.
Chúng sinh đó
cần phải có nghiệp [
tương ứng] đã tới lúc chín mùi để việc này xảy ra và kết quả cũng
tùy thuộc vào
niềm tin của
chúng ta vào
mật chú.
Pháp thực hành này có
năng lực vì
kinh điển của
Đức Phật là
chân đế và
tâm bi mẫn của
Đức Phật đối với
chúng sinh là không thể nghĩ bàn, nhưng pháp này chỉ có
tác dụng nếu
chúng sinh đó có được
duyên nghiệp thích hợp để nó phát huy
tác dụng. Không phải bất kỳ
chúng sinh nào khi sắp chết cũng đều có
duyên nghiệp với một
hành giả chân tu có thể cứu họ
thoát khỏi tái sinh vào các
cảnh giới thấp hay
chuyển di tâm thức vào
cõi tịnh độ. Điều này chỉ xảy ra với một số
chúng sinh mà thôi.
Lợi lạc của mật chú Quán Thế Âm
Những
lợi lạc của việc
trì chú Quán Thế Âm,
OM MANI PADME HUM, là lớn lao
như không gian
vô tận. Trong
kinh điển có nói rằng việc
Đức Phật giảng nói về
lợi lạc của
mật chú này sẽ không bao giờ có thể
cùng tận.
Dĩ nhiên, những
lợi lạc mà bạn nhận được còn
tùy thuộc vào mức độ
hoàn hảo khi bạn
trì chú, và điều này được xác định bởi động cơ [của việc
trì chú] cũng như phẩm chất của tâm bạn.
Có mười lăm
lợi lạc chính của việc trì
tụng chú Quán Thế Âm,
áp dụng cho cả bản ngắn và bản dài của
mật chú. Ngoài hai
lợi lạc chính là chữa lành bệnh và
che chở chống lại các
tác hại khác nhau, việc
trì chú Quán Thế Âm còn có các
lợi lạc chính khác như sau:
Trong tất cả mọi kiếp tái sinh, bạn sẽ được gặp các vị vua đức hạnh và thành tín.
Bạn sẽ tái sinh vào nơi thiện đức, có Pháp tu tập.
Bạn sẽ hưởng được các duyên lành cho việc tu tập Pháp.
Bạn sẽ luôn gặp được các vị thầy tâm linh.
Bạn sẽ luôn có được thân người hoàn chỉnh.
Tâm bạn sẽ luôn quen thuộc và hòa hợp với con đường tu giác ngộ.
Bạn sẽ không thối chuyển các thệ nguyện của bạn.
Những người chung quanh bạn sẽ hòa hợp với bạn
Bạn sẽ luôn được giàu có.
Bạn sẽ luôn được che chở và được phục vụ.
Tiền bạc tài sản của bạn sẽ không bị mất cắp.
Bạn sẽ đạt được tất cả những gì mong ước.
Bạn sẽ luôn được các vị chư thiên và thiện long thần che chở.
Trong tất cả mọi kiếp tái sinh, bạn sẽ được gặp Phật, nghe Pháp.
Nhờ vào việc nghe Pháp thanh tịnh, bạn sẽ hiện thực hóa tánh Không, ý nghĩa sâu sắc của Pháp.
Kinh điển có nói rằng, bất kỳ ai trì tụng mật chú Quán Thế Âm với tâm bi mẫn đều sẽ nhận được mười lăm lợi lạc này.
Lợi lạc của mật chú Namgyalma
Mật chú Phật Namgyalma, một vị Phật mẫu giúp sống lâu và giúp tịnh hóa, có vô lượng lợi lạc. Mật chú này có năng lực mãnh liệt đến mức bất kỳ ai nghe được cũng sẽ không bao giờ phải tái sinh vào các cảnh giới thấp nữa.
Có một câu chuyện liên quan đến xuất xứ của mật chú Namgyalma này. Có người con trai tên là Cực Kỳ An Trụ (Extremely Stable One) của một thiên thần nọ thấy biết được rằng sáu kiếp tái sinh sắp tới của ông ta sẽ rơi vào cõi súc sinh thành chó, khỉ, vân vân... Khi sắp chết, các thiên thần có khả năng nhớ được các kiếp quá khứ và thấy được các kiếp tương lai. Trong cõi trời, các thiên nhân có cuộc sống tràn ngập lạc thú và chịu đựng khổ đau vật chất rất ít; tuy nhiên, khi thấy biết rằng sắp phải tái sinh vào các cảnh giới thấp, tinh thần của họ sẽ đau khổ không thể tưởng tượng được.
Khi thần Cực Kỳ An Trụ thấy mình sắp bị tái sinh lần lượt thành sáu loài súc vật khác nhau, ông rất bức xúc và đến gặp thiên vương Đế Thích để hỏi xem mình phải làm gì. Thiên vương Đế Thích khuyên ông nên đến tham vấn Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Khi ông ta đến, Đức Phật hóa hiện thành hình Bổn tôn Namgyalma và ban mật chú Namgyalma cho ông ta. Thần Cực Kỳ An Trụ trì tụng mỗi ngày sáu lần, và sau bảy ngày ông đã tịnh hóa được tất cả nhân phải tái sinh thành sáu con vật. Mật chú này đã mang lại sự tịnh hóa rất mãnh liệt.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni Phật vì lòng từ bi đã dạy cho bốn vị [Thiên vương] Hộ Pháp các lợi lạc sau đây của việc trì chú Namgyalma.
Nếu bạn tắm rửa và thay y phục sạch sẽ, thọ trì tám giới rồi trì tụng mật chú này một ngàn biến, thì dù đang bị nguy hiểm sắp chết, thọ mạng sắp cạn kiệt, bạn vẫn có thể kéo dài mạng sống thêm nữa, các che chướng của bạn có thể được tịnh hóa, và bạn có thể thoát khỏi bệnh tật.
Nếu bạn trì chú vào tai của những con vật, điều này sẽ bảo đảm những con vật đó không còn tái sinh lại cõi súc sinh nữa. Nếu có người nào bị đau rất nặng, bác sĩ không chẩn đoán được bệnh, thì việc trì mật chú Namgyalma như đã mô tả trên đây sẽ làm cho họ khỏi bệnh và sẽ không tái sinh vào các cảnh giới thấp. Sau khi chết họ sẽ vãng sinh Tịnh độ. Đối với loài người, [ai trì chú này] sẽ không bao giờ còn phải tái sinh từ bào thai (thai sinh).
Nếu bạn trì mật chú Namgyalma hai mươi mốt biến rồi thổi vào hạt mù-tạt, xong rải hột mù-tạt lên da hay xương của một chúng sinh đã tạo nhiều ác nghiệp nặng nề và đã chết, chúng sinh đó sẽ lập tức thoát khỏi các cảnh giới thấp và sẽ tái sinh vào cõi cao hơn. Và dù họ đang ở các cảnh giới thấp, tâm thức họ cũng sẽ được tịnh hóa và họ sẽ được tái sinh lên các cõi trời...
Nếu chúng ta đặt mật chú này vào trong một bảo tháp hay treo cùng với các lá phướn treo trong nhà hay trên nóc nhà, thì nếu có ai đứng dưới bóng râm của tháp hay dưới các lá phướn đó cũng sẽ không tái sinh vào các cảnh giới thấp. Và khi gió thổi qua tháp, qua các lá phướn hay qua tượng có chứa mật chú Namgyalma rồi tiếp tục thổi qua thân các chúng sinh, thì các nghiệp dữ sẽ bị đọa vào ác đạo của các chúng sinh đó sẽ được tịnh hóa. Do đó, chắc chắn là việc trì mật chú Namgyalma hay gìn giữ chú trong người bạn sẽ có được sự tịnh hóa rất mạnh mẽ.
Lợi lạc của mật chú Luân Xa Như Ý (Wish-Granting Wheel Mantra).
Mật chú Luân Xa Như Ý “OM PADMO USHNISHA VIMALE HUM PHAT” có những lợi lạc không thể nghĩ bàn. Nếu bạn trì tụng mật chú Luân Xa Như Ý bảy biến mỗi ngày, bạn sẽ vãng sinh về một cõi tịnh độ. Việc trì tụng mật chú này rồi thổi lên vải hay lên cây nhang có thể tịnh hóa bạn và các chúng sinh khác. [Cách làm là] trì tụng mật chú, thổi lên cây nhang rồi đốt, khói nhang đó sẽ tịnh hóa được các chúng sinh khác.
Một khi mật chú này được treo ở cửa ra vào thì những ai đi qua bên dưới sẽ được tịnh hóa nghiệp và không bị tái sinh vào các cảnh giới thấp. Ở Tây Tạng, khi có người chết, người ta đặt tờ giấy ghi mật chú này lên xác người chết, như vậy sẽ giúp tịnh hóa nghiệp và ngăn họ khỏi rơi vào các cảnh giới thấp.
Chỉ cần nhớ mật chú này một lần cũng đủ tịnh hóa được ngay cả năm nghiệp vô gián. Mật chú này giúp ngăn chặn không rơi vào địa ngục A-tỳ – đây là địa ngục có sự đau khổ nặng nề nhất. Bạn sẽ tịnh hóa được tất cả nghiệp bất thiện cùng với các che chướng và sẽ không bao giờ còn rơi vào các cảnh giới thấp. Mật chú cũng giúp bạn nhớ lại các kiếp trước và thấy được các kiếp tương lai. Trì tụng mật chú này bảy lần mỗi ngày sẽ tích lũy công đức nhiều bằng cúng dường chư Phật nhiều như số cát sông Hằng. Và kiếp sau bạn sẽ vãng sinh về một cõi tịnh độ, có thể thành tựu hàng trăm mức định.
Nếu bạn trì tụng mật chú này rồi thổi vào cát và rải cát lên xác chết, thì chúng sinh đó dù đã phá bỏ thệ nguyện và đã rơi vào các cảnh giới thấp cũng sẽ được tái sinh vào cảnh giới cao hơn. Nếu bạn trì tụng mật chú này rồi thổi vào cây nhang hay nước hoa và xức lên người bạn thì ai ngửi được mùi nước hoa hay mùi khói nhang đó sẽ được tịnh hóa nghiệp và có thể trị được bệnh lây nhiễm. Mật chú này cũng có thể giúp bạn đạt được các phẩm tính hoàn hảo của một vị Phật.
Các lợi lạc của mật chú Mitukpa
Bất kỳ ai nghe được mật chú Mitukpa sẽ không bị tái sinh vào các cảnh giới thấp. Nếu bạn trì tụng mật chú Mitukpa một trăm ngàn lần rồi thổi vào cát, nước hay hạt mù tạt, sau đó đem rải chúng lên thân người hay con vật đã chết, thì nếu người hay vật đó đã bị tái sinh vào các cảnh giới thấp cũng lập tức được giải thoát. Ngay cả nếu như tâm thức sau khi chết đã rời khỏi xác và lạc hẳn đến một nơi nào đó, nhưng vì mối quan hệ trước đây với cái xác nên tâm thức đó cũng được tác động. Tất cả việc cần làm là làm sao cho chất liệu đã được chú nguyện chạm vào thân xác. Được như vậy, tâm thức của chúng sinh đã chết đó sẽ được tịnh hóa, thoát khỏi những cảnh giới thấp và tái sinh vào cảnh giới cao hơn.
Nghe được mật chú Mitukpa hay trì tụng mật chú có thể tịnh hóa cho người bị nghiệp nặng, thậm chí tịnh hóa được cho người phạm năm tội vô gián. Đơn giản là chỉ cần thấy được mật chú này cũng có thể tịnh hóa được tất cả các nghiệp bất thiện. Nếu bạn viết mật chú Mitukpa lên trên giấy rồi đưa cho người hấp hối xem, như vậy cũng giúp tịnh hóa được tất cả các nghiệp bất thiện của họ.
Lợi lạc của mật chú Kunrig
Kunrig là một Bổn tôn khác nữa cho sự tịnh hóa. Việc nghe hay trì tụng mật chú Kunrig đều cũng sẽ giúp ngăn chặn tái sinh vào các cảnh giới thấp. Ngài Kirti Tsenshab Rinpoche nói rằng ở vùng Amdo (Tây Tạng) dân chúng có thói quen thực hiện đại lễ quán đảnh Kunrig để chuẩn bị cho người hấp hối, nhằm tịnh hóa tất cả nghiệp bất thiện mà người đó đã tạo ra trong suốt cuộc đời.
Lợi lạc của mật chú Bổn tôn Tia Sáng Vô Nhiễm
Trong bản luận về mật chú Bổn Tôn Tia Sáng Vô Nhiễm nói rằng nếu bạn trì tụng mật chú này hai mươi mốt biến rồi thổi vào cát và rải cát lên mộ, người có xương được cát chạm vào nếu đã tái sinh vào các cõi địa ngục sẽ hoàn toàn được giải thoát khỏi địa ngục đó và tái sinh ở cảnh giới cao hơn. Nếu họ được tái sinh cảnh giới cao hơn, họ sẽ đón nhận một trận mưa hoa.
Lợi lạc của mật chú Milarepa
Mật chú Milarepa “OM AH GURU HASA VAJRA SARVA SIDDHI PHALA HUM” có những lợi lạc tương tự như các mật chú trên. Khi trì tụng mật chú này hằng ngày, bạn sẽ được vãng sinh vào cõi tịnh độ của Ngài Milarepa và có khả năng gặp Ngài Milarepa như Ngài đã hứa. Nếu bạn trì tụng mật chú này rồi thổi lên xương hay thịt của chúng sinh mà tâm thức đã tái sinh ở cảnh giới thấp thì họ sẽ được tịnh hóa hết các nghiệp bất thiện và sẽ tái sinh vào một cõi tịnh độ.