ĐIỀU TRỊ BỆNH TẬN GỐC
NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM BI MẪN
Lama Zopa Rinpoche
Nguyễn Văn Điều & Đỗ Thiết Lập dịch Việt
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội
PHẦN MỘT: TÂM LÝ ĐIỀU TRỊ BỆNH
5. BẢN CHẤT CỦA TÂM BI MẪN
Tâm bi là nguồn gốc của hạnh phúc trong cuộc sống. Nó là phương tiện thiết yếu đảm bảo cho hạnh phúc của riêng ta cũng như hạnh phúc của xã hội. Nếu không có tâm từ và tâm bi thì sẽ không có được sự bình yên và hạnh phúc trong gia đình, xã hội, quốc gia hay cả thế giới. Tâm bi cũng là nguồn gốc của một tinh thần minh mẫn và một thân thể tráng kiện. Phát triển tâm bi là phương pháp mạnh mẽ nhất để chữa lành bệnh cho chính mình và các chúng sinh hữu tình khác.
Tâm bi mẫn hết sức quan trọng, vì nó là nhân của hạnh phúc, thành công, mãn nguyện và an vui trong cuộc sống. Thực hành tâm bi có nghĩa là không làm tổn hại mà chỉ luôn giúp đỡ người khác, và việc giúp người là nhân đưa đến sự thành công của chúng ta. Khi ta sống với tâm từ bi, ta mang hạnh phúc đến cho người khác, như vậy sẽ khiến cho cuộc sống của ta có ý nghĩa. Chúng ta sẽ hạnh phúc khi thấy mình đang làm cho người khác vui sướng. Đức Dalai Lama thường nói rằng, nếu muốn chăm lo cho bản thân, chúng ta nên hành xử với một thái độ khôn ngoan và chăm lo cho bản thân một cách khôn ngoan bằng việc chăm lo cho người khác, cho chúng sinh hữu tình khác. Và dù chẳng mong cầu gì cho mình, nhưng bằng cách mang hạnh phúc và thành công đến cho người khác, tự nhiên ta có được kết quả là hạnh phúc và thành công sẽ đến với ta.
Tâm bi sẽ khiến cho người khác trở thành bạn bè ta. Khi ta có tâm từ bi, ta xem mọi người đều như anh em bạn bè của mình, ta cảm thấy gần gũi họ, mặc dù trên thực tế họ ở xa chúng ta. Nếu ta không có tâm từ bi, ta không cảm thấy gần gũi mọi người cho dù họ đang sống trong cùng căn hộ với ta. Nếu ta thiếu tâm bi thì sẽ thấy khó kết bạn, và khi ta cố gắng tìm một người bạn, không chóng thì chầy họ cũng sẽ trở thành kẻ thù của ta. Ngay cả bà con họ hàng cũng có thể trở thành kẻ thù của chúng ta.
Cuộc sống mà không có tâm bi thì thật sự khốn khổ. Những người cả ngày chỉ biết quan tâm đến mình, trong lòng trống vắng sự yêu thương xót xa trước khổ đau của người khác, sẽ không có được sự bình yên và hạnh phúc đích thực. Nếu không có tâm từ bi thì dù cho giàu có bao nhiêu, có quyền lực hay học thức bao nhiêu, có bạn bè nhiều bao nhiêu, chúng ta cũng không thể có bình yên và hạnh phúc, chúng ta không thể hưởng thụ được cuộc sống. Thiếu tâm từ bi, ta sẽ phải trải qua sự cô đơn, chán nản, và chịu đựng nhiều vấn đề khác nữa.
Trong một cuộc phỏng vấn, khi được hỏi về bệnh trầm cảm, đức Dalai Lama trả lời rằng, bệnh trầm cảm về cơ bản xuất phát từ sự không yêu thương người khác. Nhận xét này thật có ý nghĩa, vì thái độ chỉ biết quan tâm đến riêng bản thân mình sẽ mang lại sự lo âu và sợ hãi.
Nếu chúng ta không có tâm bi, cho dù có bao nhiêu bạn bè, cho dù giàu có bao nhiêu, chúng ta cũng không thể có sự bình yên và toại nguyện thực sự trong cuộc sống. Cho dù chúng ta là người giàu nhất trên thế giới, tiền bạc sẽ không mang đến cho chúng ta bất kỳ sự thỏa mãn nào nếu ta thiếu mất các phẩm tính quí giá của con người là tâm từ và tâm bi. Chúng ta sẽ không thể tận hưởng cuộc sống, lòng ta sẽ như một sa mạc nóng bỏng và khô cằn. Nếu chúng ta thiếu các phẩm tính quí báu này, và với thái độ sống ích kỷ, sự giàu có sẽ đưa tới cho chúng ta rất nhiều lo âu, sợ hãi và thất vọng. Điều này đặc biệt đúng nếu chúng ta thành công trong việc có được tất cả những tiện nghi vật chất sung túc mà ta mong muốn, vì khi ấy ta vẫn không bao giờ có thể tìm thấy sự thỏa mãn, toại nguyện. Chúng ta sẽ lo sợ đối thủ cạnh tranh trở nên giàu có hơn ta. Tài sản tiền bạc thậm chí còn tạo ra các vấn đề bất ổn trong cuộc sống, mang đến với ta những kẻ thù và làm cuộc sống ta bị đe dọa.
Việc ôm lòng vị kỷ và không có tâm từ bi sẽ làm cho cuộc sống của những người giàu trở nên bất hạnh, bất toại nguyện. Họ còn bất hạnh hơn cả những người hành khất đi xin ăn từng bữa, vì mặc dù họ có mọi thứ tiện nghi vật chất nhưng họ vẫn không thấy thỏa mãn. Điều này làm cho các vấn đề tinh thần trở nên trầm trọng hơn và họ phải chịu đựng nhiều thất vọng, nhiều sự bất mãn trong cuộc sống.
Ngược lại, nhiều người sống trong những điều kiện sơ khai thiếu thốn tiện nghi vật chất, nhưng nhờ có tâm bi mẫn, có lòng thương người nên họ sống rất hạnh phúc và toại nguyện. Lấy ví dụ về dân làng Solu Khumbu vùng Hy Mã Lạp Sơn nơi tôi đã sinh ra. Nếu so sánh với những người phương Tây thì dân làng tôi chẳng có gì cả; họ sống trong những căn nhà đá trơ trọi, có một hay hai bộ quần áo để thay, vài cái nồi nhỏ và thực phẩm thì chỉ đủ để sống qua ngày. Tuy nhiên, bất chấp các điều kiện sống giản dị và sơ khai, những người dân này luôn rất hạnh phúc và an vui nhờ vào tấm lòng ấm áp tử tế của họ.
Thêm nữa, cho dù tri thức và học vấn nhiều đến bao nhiêu, chúng ta cũng không thể có sự bình yên trong lòng nếu ta thiếu tâm từ bi. Ngay cả khi dành hết cả cuộc đời để học hỏi nghiên cứu, thì vốn kiến thức đó cũng chỉ tạo ra các vấn đề bất ổn nếu ta bị thúc đẩy bởi tâm ích kỷ chỉ biết chăm lo cho bản thân mình. Đáng lẽ ra học vấn sẽ mang đến hạnh phúc và toại nguyện, đằng này ngược lại, nó tạo ra nhân của kiêu căng, sân hận và làm cho những tư tưởng bất tịnh khác nữa nổi lên. Chúng ta sẽ không tận hưởng được cuộc sống, ta sẽ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Nếu ta không có tâm từ bi thì có nguy cơ là ta sẽ dùng kiến thức và học vấn để làm tổn hại người khác, thậm chí tự hủy hoại mình và hủy hoại cả thế giới. Thí dụ, bom nguyên tử có thể bị sử dụng với tính cách hủy hoại nếu thiếu động lực từ bi. Nhưng với tâm từ bi, chúng ta sẽ dùng kiến thức và học vấn để mang hạnh phúc đến cho người khác, đây đích thị là cách tốt nhất để tìm thấy hạnh phúc cho chính bản thân mình.
Vì sao người khác cần đến tâm bi của chúng ta
Tâm bi mẫn của
chúng ta là cội nguồn của
bình an và
hạnh phúc trong cuộc sống
bản thân và cuộc sống của những người khác. Nó là nguồn
hạnh phúc cho bất kỳ
chúng sinh hữu tình nào, bắt đầu từ những người và
động vật quanh ta.
Chúng ta có thể hiểu được điều này bằng cách quán xét xem
hạnh phúc của ta
phụ thuộc như thế nào vào những người và cả những
động vật quanh ta trong cuộc sống
hằng ngày.
Chúng ta chịu
ảnh hưởng bởi cách thức, mức độ mà những người khác
suy nghĩ về ta,
cư xử với ta. Những điều đó có thể làm cho ta
vui sướng hoặc
thất vọng.
Chúng ta hoan hỉ khi một ai đó, thậm chí là một người
xa lạ,
mỉm cười với ta một cách
trìu mến hay
cư xử tử tế với ta. Ngược lại, ta
cảm thấy không vui khi một ai đó khó chịu hay
cư xử tệ bạc với ta. Thậm chí một người
hoàn toàn xa lạ đang đi trên đường
mải miết suy tư về
bản thân và về các
vấn đề bất ổn,
hình ảnh đó cũng sẽ làm
chạnh lòng ta. Tâm họ quá ư bận rộn
miên man và
toàn bộ cơ thể họ
căng thẳng.
Tương tự như vậy, cách thức mà
chúng ta suy nghĩ và
cư xử sẽ gây
ảnh hưởng đến những người và
động vật quanh ta. Người và
động vật quanh ta sẽ
cảm thấy thoải mái khi biết rằng ta không có
ý định gây
tổn hại. Ngay cả loài chuột cũng cảm nhận được sự tử tế
tốt bụng. Lần đầu tiên khi con chuột thấy ta, nó
do dự không biết có nên tin ta hay không, nhưng sau khi nó
nhận biết rằng ta không có
ý định hại nó, nó
tỏ ra yên tâm,
thư thả đi lại quanh ta. Thậm chí ta có thể thấy được một ít thay đổi nơi vẻ ngoài của nó, trông
thoải mái điềm tĩnh.
Tôi có nhiều
duyên nghiệp với loài chuột. Ngay cả nếu một nơi nào trước đó không có chuột nhưng khi tôi đến ở thì chúng
xuất hiện. Khi tôi đang
nhập thất ẩn tu ở Adelaide, Úc châu, nhiều con chuột đã
xuất hiện vào lúc nửa khuya. Chúng leo lên gần tôi trên giường, chúng khum người xuống sau chiếc gối như thể chúng muốn làm tổ ở chỗ ấm áp đó. Vào một đêm, một con chuột sau nhiều lần thất bại
cuối cùng leo được lên bàn tôi chỉ
một lần.
Dĩ nhiên, con chuột trèo lên không phải vì tôi tử tế với nó, nhưng vì nó cảm nhận được rằng tôi không có
ý định quấy rối nó. Con chuột nhỏ nhắn đó ngồi xuống, ngước lên nhìn vào mặt tôi, gương mặt của nó trông rất
thoải mái và có vẻ
hạnh phúc. Sau một lúc nó bỏ đi.
Mặc dầu con chuột đó đã không thể trèo được lên
bàn thờ trong phòng
nhập thất của tôi, nhưng nó trèo lên được
bàn thờ trong phòng kế cận. Nó đã trèo lên khoảng vài lần, uống nước trong các chén nước cúng và gặm một ít bánh cúng. Tôi đã lấy một cái chén, đổ đầy hạt đậu và tsampa vào đó, rồi để cạnh chỗ con chuột trèo lên, ấy thế mà nó lại không ăn nhiều – có lẽ tôi không đủ phước. Nó chỉ ăn một ít rồi bỏ đi.
Có một đêm,
toàn bộ những khối tsa-tsa bằng thạch cao trên
bàn thờ bị đổ sụp xuống, lật ngược ra phía sau. Tôi đoán chừng con chuột có thể bị kẹt giữa hai khối tsa-tsa lớn khi rơi xuống. Nó phải loay hoay một lúc mới thoát ra được; trông bộ dạng của nó, tôi đoán nó phát sợ,
thất vọng, như thể bị đánh đau lắm. Khi tôi làm một
tiếng động nhỏ, nó liền nhảy xuống sàn và chạy đi mất. Từ đó về sau, nó không bao giờ
trở lại chỗ
bàn thờ nữa.
Điều mà tôi
cố gắng nêu ra ở đây là,
hạnh phúc của những người và
động vật ở quanh ta
tùy thuộc vào
chúng ta,
tùy thuộc việc
chúng ta suy nghĩ và
cư xử như thế nào với họ. Mỗi người trong
chúng ta đều có
trách nhiệm đối với
hạnh phúc không chỉ riêng của tất cả những người quanh ta
hằng ngày, mà còn là của
vô số chúng sinh hữu tình;
hạnh phúc đó
tùy thuộc vào tấm lòng ta,
tùy thuộc vào
tâm từ bi của ta.
Hạnh phúc này
hoàn toàn ở trong tầm tay.
Chúng ta có mang bình yên và
hạnh phúc đến cho người khác hay không là
tùy thuộc việc
chúng ta làm được gì với tâm ta.
Chúng ta hoàn toàn chịu
trách nhiệm về điều đó.
Nếu
chúng ta không
tu tập tâm từ bi thì với
tư tưởng vị kỷ cùng với các
vọng tưởng khác nữa,
chúng ta sẽ làm hại
vô số chúng sinh hữu tình một cách trực tiếp hay
gián tiếp, đời này
tiếp nối đời khác. Và vì
đời sống cùng với
hạnh phúc hay khổ đau của những người khác đều
tùy thuộc vào
chúng ta, nên
chúng ta có thể gây nguy hại cho
chúng sinh hữu tình.
Nếu không có
tâm từ bi, một người có thể
sử dụng năng lực và
ảnh hưởng của mình để gây nguy hại cho cả
thế giới.
Lịch sử thế giới đã cho thấy nhiều lần, trong
quá khứ xa xưa và ngay cả mới
gần đây, hàng triệu người – và cả
động vật, sâu bọ – đã bị
sát hại chỉ vì một người có
quyền lực đã không hành động
từ bi. Nếu người nắm giữ
quyền lực đó có
tâm bi mẫn thì hàng triệu người đã không bị
hành hạ và giết hại, cũng như
vô số động vật và sâu bọ đã không phải
chịu đựng khổ đau. Trong một cuộc chiến tranh hay trong một vụ nổ bom nguyên tử, người ta chỉ thống kê số người chết, còn
động vật và sâu bọ thì không được
đếm xỉa tới. Người nắm giữ
quyền lực đó không
cần phải làm gì
đặc biệt để giúp người khác mà chỉ cần đừng ra lệnh giết hại thì tất cả
vô số chúng sinh ấy đã được sống, được
hạnh phúc bình yên. Nhưng thay vì như vậy, họ đã bị hãm hại thật
đáng sợ; và thậm chí nhiều năm sau đó nỗi
kinh hoàng vẫn còn trong lòng họ.
Ngược lại, nhờ có
lòng bi mẫn, những người như đức Dalai Lama và Mahatma Gandhi đã là suối nguồn
chính yếu của hòa bình
thế giới. Các sách vở và những bài nói chuyện trước
công chúng của đức Dalai Lama đã mang lại sự bình yên cho hàng triệu người qua việc giảng dạy cho họ về
từ bi và
trí tuệ. Nếu những người có
quyền lực có
tâm từ bi, họ sẽ
sử dụng quyền lực để mang
hạnh phúc đến cho hàng triệu người; nhưng nếu thiếu
tâm từ bi, họ có thể dùng
quyền lực đó để gây nguy hại cho cả
thế giới...
... ... Một người có
tâm bi mẫn thì dù có bao nhiêu vũ khí cũng không là
mối nguy hại cho người khác. Ngược lại, một người không có
tâm bi có thể gây nguy hại cho người khác ngay cả khi họ không có vũ khí; vì họ luôn
tìm cách để làm hại người khác bằng thân, khẩu và ý của họ.
Như trên vừa nêu,
chúng ta đã thấy được rằng một người có
quyền lực có thể gánh
trách nhiệm lớn lao đối với cuộc sống của nhiều
chúng sinh hữu tình; bình yên và
hạnh phúc của hàng triệu
chúng sinh có thể
tùy thuộc vào tâm và mức độ bi mẫn của chỉ một
con người này. Và
cá nhân mỗi
chúng ta cũng
giống hệt như vậy. Từng thành viên
chúng ta đều có
trách nhiệm đối với
hạnh phúc của mỗi
chúng sinh hữu tình khác, cho dù mắt ta có trông thấy
chúng sinh đó hay không.
Chúng ta có
trách nhiệm đối với
hạnh phúc của từng
con người, từng con vật, từng côn trùng bé nhỏ, từng
sinh linh... Bất kỳ
chúng sinh nào cũng giống nhau ở một điểm là mong muốn được
hạnh phúc sung sướng và không muốn chịu
đau khổ, và
chúng ta có
trách nhiệm đối với bất kỳ
chúng sinh nào, không chỉ là bạn bè
thân quyến, mà kể cả những người
xa lạ và
kẻ thù ta nữa.
Khi ta
thực hành tâm từ bi, việc trước nhất là ta ngưng làm hại các
chúng sinh, bắt đầu từ những người và
động vật quanh ta. Khi ta làm như vậy, các
chúng sinh đó nhận được sự bình yên từ
chúng ta. Không gây hại tức là tạo ra sự bình yên. Ví dụ, hôm qua
chúng ta bị đau đầu, hôm nay tuy rằng cơn đau đầu chưa biến mất nhưng đã bớt nhiều,
chúng ta nói với người khác “Hôm nay tôi
cảm thấy khỏe hơn!”
Chúng ta thấy
vui sướng vì cơn đau
gia tăng như hôm qua đã không còn, và
vì vậy chúng ta tự cho là “khỏe hơn”.
Một ví dụ khác, có người
đe dọa bắn chết ta. Nhờ vào sự
thuyết phục có lý có tình, ta đã khiến họ thay
đổi ý định và không bắn ta. Như vậy họ đã mang bình yên và
hạnh phúc đến cho
chúng ta. Bằng sự thay
đổi ý định, họ đã
giải thoát cho ta khỏi sự
sợ hãi và sự hiểm nguy bị bắn, và họ đã cho ta được sống lâu hơn.
Thực tế là, người đó đã giúp
chúng ta vì họ đã tự
kiềm chế, ngưng làm hại
chúng ta.
Tương tự như vậy, khi
chúng ta thực hành tâm từ bi,
chúng ta giúp người khác khi ta tự
kiềm chế việc gây hại. Khi
chúng ta không gây hại như vậy,
vô số chúng sinh khác nhận được sự bình yên và
hạnh phúc từ
chúng ta.
Nhưng trên hết, khi
chúng ta có
tâm bi mẫn,
chúng ta cảm thấy có sự cởi
mở rộng lượng, sự
cảm thông với người khác, nên
chúng ta cố gắng giúp họ. Khi
chúng ta có
tâm bi mẫn mãnh liệt đối với một
chúng sinh, chẳng hạn một
con người hay một
động vật,
chúng ta không
chỉ không hãm hại mà còn giúp đỡ
chúng sinh đó.
Phản ứng tự nhiên là
chúng ta đáp ứng yêu cầu giúp đỡ của người đang bị đau ốm, người
nghèo khổ, cho dù đó là người
xa lạ, hoặc một con vật đang
bị thương.
Chúng ta sẽ giúp đỡ
tùy theo khả năng của ta và cũng
tùy theo việc ta
nhận biết tình huống như thế nào. Việc không làm hại
chúng sinh, và hơn thế nữa,
mang đến lợi lạc cho mọi
chúng sinh, chính là đã
bao gồm được
toàn bộ giáo lý của
đạo Phật.
Chúng sinh được giúp đỡ hay bị hãm hại là
tùy thuộc việc
chúng ta có
tâm từ bi hay không.
Rõ ràng, một khi
chúng ta có
tâm từ bi,
chúng ta sẽ giúp đỡ người khác;
nếu không giúp được thì
ít nhất chúng ta cũng không làm hại họ.
Tâm từ bi càng mãnh liệt,
chúng ta càng hiến dâng
cuộc đời nhiều hơn cho
việc làm lợi ích chúng sinh. Và rồi tất cả
chúng sinh sẽ nhận được sự bình yên và
hạnh phúc từ
chúng ta, trực tiếp hoặc
gián tiếp. Các
chúng sinh khác có nhận được
lợi lạc từ
chúng ta hay không là
tùy thuộc việc ta có
thực hành tâm từ bi hay không. Mỗi một
chúng ta có
trách nhiệm đối với
hạnh phúc và sự bình yên của từng
chúng sinh hữu tình là như thế đó.
Hạnh phúc của tất cả
chúng sinh tùy thuộc vào tâm
của riêng ta,
tùy thuộc việc ta có phát triển
tâm bi mẫn hay không.
Nếu ta
không sinh khởi tâm từ bi, nếu ta sống với
tư tưởng chỉ biết
quan tâm bản thân, thì sự
tham lam,
sân hận, ganh tị và các
vọng tưởng khác nữa sẽ nổi lên nhanh chóng và quyết liệt. Các
tư tưởng bất thiện này sẽ khiến
chúng ta gây hại các
chúng sinh khác, trực tiếp hay
gián tiếp, đời này nối tiếp đời khác. Thiếu vắng
tâm từ bi sẽ
mang đến rất nhiều
bất hạnh, rất nhiều
vấn đề bất ổn cho cuộc sống của ta và của cả những
chúng sinh khác.
Bạn chỉ là một con người
Chẳng có gì đáng nói nếu có ai đó tỏ vẻ
thông cảm,
thương xót bạn. Thậm chí, nếu có ai đó không thích bạn, hoặc hơn thế nữa, chưởi mắng hay làm
tổn thương bạn thì cũng chẳng có gì đáng phải
buồn phiền, vì bạn chỉ là một người. Sự việc chẳng có gì đáng phải hoảng sợ, vì chỉ có một
chúng sinh liên quan và
chúng sinh đó chỉ là riêng bạn. Nếu bạn phải sinh vào
địa ngục thì cũng chẳng có gì đáng
tuyệt vọng, vì bạn chỉ là một
chúng sinh. Và nếu bạn đạt
giác ngộ thì cũng chẳng có gì quá phấn khởi, vì bạn cũng chỉ là một người.
Tuy nhiên, nếu một
chúng sinh hữu tình như bạn không
thực hành tâm từ bi, thì có nguy cơ là bạn có thể gây hại cho tất cả
chúng sinh khác, trực tiếp hoặc
gián tiếp, đời này sang đời khác. Như tôi đã nêu ra, ngay cả trong
một đời này bạn cũng có khả năng gây hại đến hàng triệu người. Vì
lý do này, việc
phát khởi tâm từ bi phải là
ưu tiên hàng đầu. Đó phải là việc đầu tiên mà bạn nghĩ tới và
cố gắng thực hiện.
Vô số chúng sinh hữu tình mong muốn bạn
khởi tâm từ bi đối với họ, giúp đỡ họ và đừng làm hại họ. Dù cho
bản thân bạn cũng muốn
mọi người yêu thương và giúp đỡ, nhưng vì bạn chỉ có
một mình, bạn
hoàn toàn không
đáng kể khi
so sánh với
vô số chúng sinh mà
hạnh phúc của họ
tùy thuộc vào
tâm từ bi của bạn.
Nếu
so sánh với việc những người khác tỏ
lòng từ bi đối với bạn, một
cá nhân mà thôi, thì việc bạn tỏ
lòng từ bi đối với
vô số chúng sinh khác là quan trọng hơn. Vì
lý do này, bạn phải chủ động
thực hành tâm từ bi, dù những người khác có
cư xử tốt, có
thương mến bạn hay không. Vì nếu bạn
thực hành tâm từ bi, bạn sẽ đem
lợi lạc đến cho
vô số chúng sinh; và nếu bạn không
thực hành tâm từ bi, bạn sẽ gây hại cho
vô số chúng sinh. Và vì
lý do đó, bạn vẫn nên
thực hành tâm từ bi dù những người khác có
thực hành tâm từ bi hay không.
Chúng ta thường nghĩ rằng: “Tại sao tôi phải
thực hành tâm từ bi nếu những người khác không [
thực hành tâm từ bi đối với tôi]?” Nhưng
lập luận này
xuất phát từ tâm vị kỷ chứ không phải
từ trí tuệ.
Lập luận này không
dựa trên sự
suy nghĩ thấu đáo, vì nó
không tính đến ngay cả sự bình yên và
hạnh phúc trong tâm ta. Tâm
vị kỷ tranh biện theo cách này vì mong muốn được
lợi lạc, nhưng trên
thực tế nó chỉ
đưa tới sự mất mát, vì
nhận thức của nó về
lợi lạc là không đúng.
Cách mà tâm
vị kỷ nhận thức về
lợi lạc là làm cho người khác bị
thua thiệt và giành lấy phần lợi về cho mình; người khác phải bị
thiệt thòi để cho mình được có lợi, được
sung sướng. Ngược lại,
trí tuệ theo
Chánh pháp hiểu được tiến trình đích thực của
hạnh phúc và
đau khổ, biết rằng cả
hạnh phúc lẫn khổ đau đều đến
từ tâm ta.
Thái độ và hành động hiền thiện sẽ mang lại
hạnh phúc;
thái độ và hành động
bất thiện mang lại khổ đau.
Trí tuệ cũng biết rằng việc đánh bại người khác để giành lấy chiến thắng về mình trên
thực tế chỉ đưa đến sự
thiệt hại, mất mát, vì
chúng ta đang tạo ra nhân để rồi sẽ phải chịu sự
thiệt hại, mất mát
trong đời này và có thể nối tiếp trong hàng ngàn
đời sau.
Khi hãm hại người khác,
chúng ta tạo ra những
vấn đề bất ổn cho chính ta, dù ta có
nhận biết điều đó hay không.
Hạnh phúc và các
vấn đề bất ổn đều có sự phát triển
tự nhiên của chúng. Cũng giống như cây thuốc mọc lên từ
hạt giống của cây thuốc, và cây có độc mọc lên từ
hạt giống của cây có độc.
Hạt giống của một cây thuốc không thể phát triển thành cây có độc, hay
hạt giống cây có
độc không thể mọc lên thành cây thuốc. Việc hãm hại người khác sẽ tạo ra nhân của các
vấn đề bất ổn mà chính
bản thân ta phải hứng chịu, và không làm hại người sẽ tạo ra nhân của
hạnh phúc mà cũng chính ta sẽ được hưởng.
Tâm
vị kỷ là tâm
chỉ quan tâm đến
hạnh phúc tức thời của mình, nhưng các
phương pháp mà tâm này
sử dụng để mang lại
hạnh phúc là không khéo léo, không
thiện xảo. Đánh bại người khác và giành lấy
vinh quang lợi lộc cho mình là một điều thực sự ngây ngô, vì kết quả của nó sẽ ngược lại với
mục đích. Cũng giống như
chúng ta có
ý muốn uống thuốc chữa bệnh nhưng hóa ra ta đang uống thuốc độc.
Khi
chúng ta hành động với
trí tuệ theo
Chánh pháp,
chúng ta nhường phần thắng cho người khác và nhận lấy phần
thua thiệt về mình.
Tuy nhiên, sự
thua thiệt, mất mát chỉ là phần
hiện ra bên ngoài, mà
thực ra chúng ta được
lợi lạc vô song từ hành động hiền thiện này, vì trong nhiều ngàn năm sau
chúng ta vẫn có thể được tận hưởng
vinh quang thắng lợi. Đó là
lý do tại sao
chúng ta nên tự mình
thực hành tâm từ bi, bất kể là người khác có
thực hành tâm từ bi hay không.
Vì sao chúng ta có thể phát sinh tâm bi mẫn
Tất cả
chúng ta đều sẵn có ít nhiều
tâm bi.
Chúng ta có thể chưa
xót thương bi mẫn đối với hết thảy
chúng sinh hữu tình, nhưng
chúng ta hẳn phải thật có
tâm bi đối với
ít nhất là một số người trong đó. Có những người khác có
tâm từ bi rộng lớn hơn
chúng ta. Thậm chí trên
thế giới có những người có tâm
xót thương bi mẫn với rất nhiều
chúng sinh đang khổ đau. Và cứ
lần theo dòng
lập luận như vậy,
chúng ta biết chắc là phải có những người mà
tâm bi mẫn được phát triển
trọn vẹn, bao trùm hết thảy mọi
chúng sinh khổ đau.
Điều chủ yếu khiến ta có thể phát sinh
tâm bi mẫn là
bản chất của tâm ta. Như tôi đã
giải thích trước đây,
bản chất đích thực của tâm
chúng ta là
sáng suốt,
thanh tịnh; nó không đồng nhất và cũng không pha trộn với các
lỗi lầm của tâm. Vì
bản chất đích thực của tâm là không đồng nhất với những
vọng tưởng phiền não và những che chướng, nên một số người thậm chí gọi
bản chất này của tâm là “Phật” và cho đó là
giác ngộ viên mãn.
Bản chất thanh tịnh sáng suốt của tâm được gọi là tánh Phật, đã cho
chúng ta khả năng phát triển tâm theo cách mà ta muốn;
cho phép ta có khả năng làm
sinh khởi và
mở rộng tâm bi mẫn.
Chúng ta có thể
tu luyện tâm và phát triển
trọn vẹn lòng bi mẫn xót thương đến tất cả
chúng sinh hữu tình.
Tâm bi mẫn không phải là một
hiện tượng độc lập. Nó không tự mình
hiện hữu; không có
tự tánh tự tồn. Những
tư tưởng hiền thiện và an hòa, mong muốn mọi
chúng sinh khác
thoát khỏi khổ đau, được tâm
chúng ta gán cho tên gọi là “tâm bi mẫn”. Nói cách khác,
tâm bi mẫn là một cái gì đó mà
chúng ta dùng tâm mình tạo ra.
Tâm bi là một
hiện tượng duyên khởi; nó
sinh khởi tùy thuộc vào các
nguyên nhân và
điều kiện. Ví dụ,
tâm bi mẫn khởi lên trong sự
tùy thuộc vào
điều kiện chúng ta nhìn thấy sự
đau khổ của một
chúng sinh khác, như một em bé Ethiopia đói khổ hay một con thú
bị thương, và mong muốn
chúng sinh đó thoát được khổ đau. Chính
bản chất của tâm đã giúp ta có thể
sinh khởi và phát triển
tâm bi.
Tâm thức tự nó cũng là sự
sinh khởi tương thuộc, nó
hiện hữu trong sự
phụ thuộc vào các
nguyên nhân và
điều kiện.
Dựa vào kinh nghiệm chúng ta biết rằng, khi ta
cảm thấy dù chỉ đôi chút
xót thương một người nào đó, ta cũng
tự nhiên ước muốn cho người đó
thoát khỏi những bất ổn, và ta sẽ làm những gì có thể được để giúp người đó. Khi
tâm bi của ta mãnh liệt hơn, ta sẽ nhận lấy
trách nhiệm cứu giúp ngày càng nhiều hơn những
chúng sinh hữu tình để họ
thoát khỏi khổ đau. Khi
chúng ta phát triển
trọn vẹn tâm bi,
chúng ta sẽ hiến dâng cuộc sống của mình cho tất cả
chúng sinh hữu tình.
Chúng ta sống chỉ để
giải thoát cho mỗi một
chúng sinh khỏi khổ đau và nhân của khổ đau cũng như để mang
hạnh phúc đến cho họ. Khi ấy,
chúng ta đã không ngừng
tích tụ công đức – là nhân của
hạnh phúc và
thành công – nhiều
như không gian
vô biên.
Làm sao phát khởi tâm bi mẫn?
Giờ đây,
chúng ta thấy được rằng việc
phát khởi tâm bi là điều quan trọng nhất đối với
chúng ta và
đặc biệt là cho tất cả
chúng sinh hữu tình.
Chúng ta cần phát triển
tâm bi đối với từng
chúng sinh hữu tình,
giải phóng họ khỏi khổ đau và
nguyên nhân khổ đau, dẫn dắt họ tới không chỉ
hạnh phúc tạm thời mà còn là
hạnh phúc vĩnh cửu của sự
giác ngộ viên mãn.
Tuy nhiên,
tâm từ bi không thể từ
trên trời rơi xuống một cách thần kỳ hoặc chỉ
đơn giản có được bằng cách lặp đi lặp lại rằng: “Tôi cần
tâm bi, tôi cần
tâm bi...” Cũng giống như ở trường học,
chúng ta học
từ môn học này
sang môn học khác và tiến dần qua các lớp,
chúng ta phải phát triển
tâm bi từng
bước một, bắt đầu với những
đề mục thiền định sơ đẳng.
Nếu không làm như thế,
tâm bi của ta sẽ không ổn định.
Chúng ta có thể
xót thương một người bạn đang
hoạn nạn hay một con vật
bị thương, nhưng sau vài ngày thì
tâm bi của
chúng ta sẽ biến mất.
Chúng ta cần phát triển
tâm bi một cách
trọn vẹn, tức là có tâm
xót thương bi mẫn đối với từng
chúng sinh hữu tình như người mẹ
xót thương khi đứa con
thân yêu đang bị nguy hiểm. Nếu đứa con bị rơi vào lửa, người mẹ chỉ có một
suy nghĩ duy nhất là nhảy vào lửa để cứu con.
Suy nghĩ của người mẹ nổi lên một cách mãnh liệt và
tự nhiên, người mẹ
lập tức ngừng ngay công việc đang làm và chạy đến cứu con. Khi
chúng ta phát triển
tâm bi trọn vẹn,
chúng ta cảm thấy hoàn toàn giống như người mẹ này đối với nỗi
đau khổ của từng
chúng sinh hữu tình, bất kể là bạn bè,
kẻ thù hay người
xa lạ.
Với một
tâm bi mẫn vĩ đại,
chúng ta không chỉ mong muốn từng
chúng sinh thoát khỏi khổ đau, mà
chúng ta còn tự mình hành động để
giải thoát họ khỏi
đau khổ. Đây gọi là tâm
đại bi, vì
chúng ta tự mình nhận lấy
trách nhiệm giải thoát họ. Khi
chúng ta có được tâm
đại bi,
chúng ta mang
hạnh phúc và
an lạc đến không chỉ cho
bản thân mình mà còn là cho từng
chúng sinh hữu tình. Điều đó làm cho
cuộc đời ta có
ý nghĩa sâu sắc.
Chúng ta cần phát triển
tâm bi này với tất cả
chúng sinh hữu tình – mỗi một
chúng sinh trong số đó đều chỉ muốn được
sung sướng và không muốn khổ đau.
Chúng ta cần có
tâm bi không chỉ với những người đau ốm,
hoạn nạn, mà còn cả với những người đang
giàu sang, khỏe mạnh...
Để phát sinh
tâm bi đối với từng
chúng sinh hữu tình,
chúng ta cần sự
hiểu biết sâu sắc về tất cả
các loại vấn đề bất ổn mà
chúng sinh chịu đựng. Mỗi một
vấn đề thuộc về
cá nhân hay
quốc gia, hay cả
thế giới, đều là
lý do khiến
chúng ta phát sinh
tâm bi. Mỗi người, mỗi
động vật mà
chúng ta nhìn thấy đang bị khổ đau, dù là thấy trên tivi, đều là
lý do để
chúng ta phát sinh
tâm bi. Mỗi
chúng sinh khổ đau đang khẩn cầu
chúng ta phát sinh
tâm bi.
Chúng ta thấy các loài vật đang chịu khổ đau không thể tưởng tượng được, tràn ngập sự
sợ hãi, sự tức giận,
tham lam,
vô minh. Chúng tấn công lẫn nhau mà không biết rằng, khi gây hại kẻ khác, chúng đang tạo ra nhân để nhận lại sự hãm hại cho chính mình về sau.
Nhiều
động vật,
đặc biệt là loài chim, không thể
thoải mái được một giây phút nào, vì chúng sống trong nỗi
sợ hãi triền miên. Khi chúng ăn, chúng không thể ăn trong tư thế
thoải mái, vì chúng phải
liên tục lắng nghe động tĩnh chung quanh và phải
quan sát canh chừng mọi hướng. Cuộc sống không ổn định, không
chắc chắn. Mọi con chim đều có
kẻ thù có thể giết chúng bất kỳ lúc nào. Chúng luôn luôn sợ sệt, dù khi chúng đậu trên mặt đất hay khi bay trên bầu trời. Ngược lại
chúng ta đã quen với sự
an toàn đến nỗi
chúng ta không
ý thức về nó; và
chúng ta được sống một cách
thanh thản,
thoải mái,
tiện nghi. Khi rời nhà đi ra ngoài,
chúng ta tin rằng chẳng có ai muốn hãm hại hay
đe dọa giết
chúng ta.
Tuy nhiên,
thực ra thì sự nguy hiểm có thể xảy ra một giây sau đó. Sự việc
đơn giản tùy thuộc vào sự thay đổi
thái độ của chỉ một
con người. Chỉ cần có một người trở nên
thô bạo là cuộc sống của
chúng ta lập tức rơi vào nguy hiểm ngay. Như vậy,
chúng ta thấy rằng ta
tùy thuộc vào người khác như thế nào.
Ba loại khổ đau
Để có
tâm bi mẫn với các
chúng sinh hữu tình một cách
trọn vẹn,
chúng ta phải biết được
ba loại khổ đau mà
chúng sinh đang
trải qua:
khổ khổ,
hoại khổ và
hành khổ. Và để
hiểu rõ khổ đau của
chúng sinh,
chúng ta trước hết phải biết rõ khổ đau của chính
bản thân mình.
Chúng ta phải nhận rõ rằng
chúng ta đang phải
trải qua ba loại khổ đau, từ đó có
quyết tâm tự
giải thoát mình ra khỏi
khổ khổ,
hoại khổ và
hành khổ.
Ngược lại, nếu
bản thân ta không
nhận ra được tất cả khổ đau của mình,
chúng ta sẽ không có khả năng
nhận ra được các khổ đau của những người khác. Và khi
hiểu biết của
chúng ta về khổ đau bị
giới hạn thì sự phát triển
tâm từ bi của
chúng ta cũng sẽ bị
giới hạn. Lúc đó,
chúng ta sẽ chỉ có
tâm từ bi với những ai có khổ đau giống như khổ đau của chính ta. Ví dụ,
chúng ta có thể chỉ nghĩ về khổ đau của một loại bệnh [ta đang mắc phải] mà thôi.
Nếu
hiểu biết về khổ đau của
chúng ta bị
giới hạn thì
ý tưởng giải thoát cũng bị
giới hạn.
Tuy nhiên, nếu
chúng ta hiểu biết được
rõ ràng về ba mức độ khổ đau,
chúng ta sẽ có khả năng
phát khởi tâm bi rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, vì lúc đó
tâm bi bao trùm tất cả mọi loài
chúng sinh. Ngược lại,
nếu không có được một sự
hiểu biết tốt,
tâm bi của ta chỉ
giới hạn với những ai đang bị
đau đớn.
Loại khổ thứ nhất là “khổ khổ”, rất dễ
nhận diện. Nó
liên quan đến sinh, lão, bệnh, tử và tất cả các
vấn đề khác thuộc cơ thể và
tinh thần. Giống như một nguyên tử đơn lẻ
so sánh với tất cả nguyên tử có trên
thế giới, bệnh tật chỉ là một trong hàng ngàn
vấn đề thuộc loại
khổ khổ.
Loại khổ thứ hai là “hoại khổ”, khó
nhận biết hơn.
Chúng ta chỉ có thể hiểu được loại khổ này qua
sự lý luận phân tích. Sự khổ vì
biến hoại,
ám chỉ đến những niềm
vui thích giả tạm mà
chúng ta đang có, những
vui thích này
không tồn tại lâu, và khi
chúng ta cố làm cho chúng được
tồn tại lâu dài thì chúng chuyển thành [những khổ đau thuộc
phạm trù]
khổ khổ.
Với những
vui thích tạm bợ mà
chúng ta đang
thụ hưởng,
chúng ta gán tên gọi “vui thích” cho một
cảm giác vốn thật sự là khổ đau. Vì
bản chất khổ đau của
cảm giác này không dễ
nhận biết như những khổ đau dạng thô [thuộc
phạm trù khổ khổ], nên
chúng ta gán cho nó cái tên gọi là “vui thích” và nó liền
xuất hiện trước mắt ta như thể là
vui thích.
Tuy nhiên, khi sự
vui thích giảm xuống thì sự khổ đau
tiềm ẩn bắt đầu
hiển lộ. Sự
tiếp tục một hành động – cho dù đó là
ăn uống, đi lại, nằm ngồi hay ngủ nghỉ – chỉ càng làm tăng thêm nỗi khó chịu. Sự khổ đau càng trở nên dễ
nhận biết hơn và ta cảm nhận ít hơn những gì ta đã gọi tên là “vui thích”. Sự
vui thích không hề tự có, chỉ có những gì mà ta đã
gán cho tên gọi là “vui thích”.
Chúng ta đặt tên “sự vui thích” trên một nền tảng không
thuần túy vui thích mà
thực chất chỉ là sự khổ đau không được
nhận biết.
Ví dụ, khi
chúng ta bị đau, nếu hôm nay ta ít đau hơn hôm qua, ta nói rằng
cảm thấy khỏe hơn, nhưng không có nghĩa là ta
hoàn toàn không còn đau. Chỉ là
cảm giác đau được
giảm bớt.
Chúng ta gán đặt tên gọi “hạnh phúc” cho
cảm giác khó chịu đang được
giảm bớt của bất kỳ
vấn đề nào mà
chúng ta đang phải đương đầu, nhưng nền tảng mà
chúng ta dựa vào để gán đặt tên gọi “hạnh phúc” không phải
hoàn toàn không có
vấn đề.
Chúng ta vẫn còn có bất ổn, nhưng đã
giảm bớt đi. Những niềm
vui thích giả tạm trong cõi
luân hồi cũng
giống hệt như vậy.
Khi ta ngồi, nếu ngồi càng lâu ta sẽ càng
cảm thấy khó chịu hơn,
mệt mỏi hơn. Sự khó chịu đó không bao lâu sẽ trở nên dễ dàng
nhận biết, và đến khi nó trở nên không thể
chịu đựng được nữa, ta
đứng dậy. Vào lúc này, sự khó chịu không thể kham nổi vì ngồi lâu đó
chấm dứt, vì hành động ngồi lâu gây ra nó đã
chấm dứt. Nhưng ngay khi ta vừa đứng lên, hành động đứng cũng
lập tức khởi sinh sự khó chịu của việc đứng. Mặc dù sự khó chịu của
hành vi đứng đã bắt đầu ngay tức thì, nhưng ta không
nhận thấy được vì nó còn quá nhỏ nhặt; nhưng khi ta
tiếp tục đứng, sự khó chịu
dần dần tăng lên. Sau một
thời gian, sự khó chịu trở nên
hiển nhiên,
rõ ràng thì
chúng ta bắt đầu
nhận biết được nó. Vào lúc đó nó
trở thành [sự khổ thuộc
phạm trù]
khổ khổ. Như vậy, khi vừa đứng lên
chúng ta đã gán tên gọi “dễ chịu” lên một
cảm giác khó chịu quá
yếu ớt đến nỗi ta không
nhận biết là khó chịu, và ta
tiếp tục gọi nó là “dễ chịu”
cho đến khi sự khó chịu ấy trở nên
hiển nhiên rõ ràng.
Khi một
cảm giác khổ đau dễ
nhận biết trước đây vừa
chấm dứt,
chúng ta nói rằng ta đang
kinh nghiệm sự
dễ chịu, nhưng đó không phải là niềm
hạnh phúc hoàn toàn hay
rốt ráo. Ngay khi
chúng ta nói là
cảm thấy khỏe hơn khi bớt đau, chính là ta đang gán đặt tên gọi “vui thích” lên một cơ sở mà
thực chất là
đau khổ. Và nó có vẻ như một sự
vui thích chỉ vì ta đã gán đặt tên gọi “vui thích” lên nó, nhưng
thực chất nó không phải là
hạnh phúc đích thực.
Chúng ta chỉ có thể gán tên “hạnh phúc đích thật” lên một cái gì
thoát khỏi được
toàn bộ ba loại khổ đau, không phải chỉ là
khổ khổ và
hoại khổ,
mà cả hành khổ nữa.
Loại khổ thứ ba,
hành khổ, là loại khổ
vi tế nhất và quan trọng nhất
cần phải hiểu rõ. Nó là loại khổ đau cơ bản, vì
nếu không có nó thì
chúng ta sẽ không phải
trải qua khổ khổ và
hoại khổ.
Chúng ta cần có một
quyết tâm mạnh mẽ để
thoát khỏi loại khổ này.
Vậy
hành khổ là gì? Đó chính là cõi
luân hồi này, là sự
kết hợp của thân và tâm này, vốn bị khống chế bởi
nghiệp lực và những
vọng tưởng phiền não, và bị
ô nhiễm bởi những
chủng tử của
vọng tưởng phiền não. Tất cả
chúng sinh trong
Ba cõi –
Dục giới,
Sắc giới và
Vô sắc giới – đều phải
trải qua loại khổ thứ ba này. Tất cả
chúng sinh ở
địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sinh,
cõi người và
chư thiên thuộc
Dục giới đều phải
trải qua cả
ba loại khổ.
Chư thiên ở
Sắc giới không
trải qua khổ khổ nhưng phải chịu
hoại khổ và
hành khổ.
Chư thiên ở
Vô sắc giới chỉ có
tâm thức mà không có thân vật thể, không
trải qua hoại khổ cũng như
khổ khổ, nhưng vẫn phải chịu
hành khổ, vì họ vẫn bị
chi phối bởi
nghiệp lực và
vọng tưởng.
Vì những
hạt giống vọng tưởng phiền não làm
ô nhiễm trong
tâm thức ta, nên ta phát sinh
vọng tưởng phiền não khi
tiếp xúc các đối tượng đẹp, xấu hay không đẹp không xấu. Các
vọng tưởng phiền não này kích hoạt nghiệp, vốn đã để lại
các chủng tử trong
tâm thức, và sau đó chính
các chủng tử này
trở thành nhân của kiếp sống tương lai trong
luân hồi, sự
kết hợp thân và tâm trong kiếp sống tương lai của
chúng ta –
tái diễn sự
trải qua đau khổ.
Mỗi một
hành vi bị
thúc đẩy bởi một
vọng tưởng phiền não đều để lại
chủng tử bất thiện trong
tâm thức, và rồi giống như chồi mầm nảy sinh từ
hạt giống,
chủng tử đó sẽ
hiển lộ thành các hợp thể (uẩn) cùng loại trong tương lai, có nghĩa là cùng thuộc về
bản chất đau khổ. Như một cây bắp
không sinh ra lần nữa, nhưng cây bắp non
tương tự như nó sẽ mọc lên từ hạt của nó, các hợp thể (uẩn) cùng loại sẽ khởi sinh từ
chủng tử, có nghĩa là các hợp thể (uẩn) mới cũng không
thoát khỏi đau khổ. Mặc dù thân
chúng ta không chuyển tiếp sang
kiếp sau, nhưng
tâm thức thì có. Nó
kết hợp với một
thân thể khác để
trở thành các uẩn của kiếp sống tương lai, hay
luân hồi. Các uẩn
đời sau của
chúng ta là sự
tiếp nối của các uẩn đời này, đó là
lý do vì sao
chúng ta gọi là vòng
luân hồi.
Loại khổ thứ ba này được gọi là “bao trùm” vì sự
kết hợp thân và tâm bị
chi phối cũng như vây phủ bởi
nghiệp lực và
vọng tưởng phiền não, và “cấu thành” vì
chủng tử [trong
tâm thức] tạo thành các uẩn thuộc loại
tương tự. Các uẩn
hiện tại của ta cấu thành các uẩn tương lai thuộc loại
tương tự,
tái diễn sự
trải qua ba loại khổ đau. Nói cách khác, các uẩn này cấu thành một hợp thể các uẩn khác, các uẩn của
đời sống tương lai, vốn có cùng
bản chất khổ đau, bằng sự cấu thành từ nhân của chúng, hay
chủng tử. Đó là
lý do vì sao các uẩn này được gọi là
hành khổ.
Nếu
chúng ta loại bỏ các
hạt giống của
vọng tưởng phiền não ra khỏi dòng
tương tục tâm thức thì các
vọng tưởng phiền não không thể khởi sinh, và không có
vọng tưởng thì không có gì tạo ra các
hành vi bất thiện, vốn là
nguyên nhân để lại
các chủng tử trong tâm ta và tạo ra sự
luân hồi trong tương lai – cũng giống
như không gì có thể mọc lên trên một thửa ruộng khi không có
hạt giống được gieo xuống. Không có nhân sẽ không có quả. Đó là cách thức giúp ta có thể
giải thoát hoàn toàn khỏi
luân hồi.
Bằng sự
chuyển hóa tâm qua việc
tu tập thiền định,
chúng ta có thể tịnh hóa chính mình, không còn các
hạt giống của
vọng tưởng phiền não và
giải thoát hoàn toàn bản thân ta khỏi các
nguyên nhân của
đau khổ, và do đó
giải thoát khỏi
đau khổ. Khi đó
chúng ta được giải thoát vĩnh viễn khỏi
sinh tử và các
vấn đề bất ổn trong cuộc
sinh tử đó. Một khi tịnh hóa được tất cả các
hạt giống vọng tưởng trong tâm,
chúng ta sẽ
vĩnh viễn thoát khỏi đau khổ. Đây là cách thức giúp
chúng ta có thể tự mình
hoàn toàn thoát khỏi loại khổ cơ bản thứ ba này:
hành khổ.
Khi
chúng ta tự mình
giải thoát khỏi các uẩn –
hay nói cách khác là
thoát khỏi hành khổ –
chúng ta cũng tự mình
giải thoát khỏi
khổ khổ và
hoại khổ.
Sự giải thoát rốt ráo là
giải thoát hoàn toàn khỏi tất cả
ba loại khổ đau. Vào lúc đó
chúng ta không còn
tái sinh với các uẩn
đau khổ như vậy nữa.
Hạnh phúc của
giải thoát sẽ được
vĩnh viễn bởi vì
chúng ta sẽ không thể nào phải
trải qua đau khổ lần nữa. Đây là
sự giải thoát rốt ráo.