ĐIỀU TRỊ BỆNH TẬN GỐC
NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM BI MẪN
Lama Zopa Rinpoche
Nguyễn Văn Điều & Đỗ Thiết Lập dịch Việt
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội
PHẦN MỘT: TÂM LÝ ĐIỀU TRỊ BỆNH
6. NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM BI MẪN
Một người có
tâm từ bi có thể chữa lành cho người khác chỉ
đơn giản bằng sự có mặt của mình. Bất cứ nơi nào họ có mặt, họ đều đang chữa bệnh, vì người có
tâm từ bi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ người khác bằng thân, khẩu và ý của mình. Được ở gần người có
tâm bi mẫn sẽ giúp ta chữa bệnh vì ta sẽ có được sự
bình an và
hạnh phúc.
Chỉ nhìn thấy được gương mặt của một người tử tế, nhiệt tình cũng đã khiến ta
cảm thấy hạnh phúc. Ngay cả khi đang
lo lắng phiền muộn vì một
vấn đề nào đó nhưng chợt nhìn thấy được một người như thế cũng đủ làm cho ta
hạnh phúc và
bình an. Và
chúng ta muốn đến nói chuyện với họ, muốn giúp họ.
Chúng ta sẽ
sung sướng khi được một người có lòng nhiệt tình, có
tâm từ bi đến thăm
chúng ta, vì
con người đó mang niềm vui đến cho
mọi người.
Chúng ta vui khi thấy họ bước vào phòng. Thậm chí chỉ cần được nghe đến tên họ cũng đủ là ta
vui thích.
Mẹ tôi giờ đã mất, nhưng khi còn sống đã là một người rất
từ bi.
Mọi người đều yêu thích và
kính trọng bà, không phải vì bà là mẹ tôi, nhưng vì bà luôn
quan tâm đến người khác. Bất cứ khi nào tôi có cơ hội gặp và nói chuyện với bà thì bà luôn nói về các
vấn đề khó khăn của những người khác. Tôi hầu
như không thể nhớ ra là bà đã có bao giờ nêu ra các
vấn đề bất ổn
của riêng mình. Khi bị bệnh đục nhãn cầu mắt, có
một lần bà
yêu cầu tôi
trì chú và thổi vào mắt cho bà, nhưng thường thì bà chẳng bao giờ đề cập đến những nhu cầu
của riêng mình.
Mẹ tôi thường không bao giờ để cho bất cứ ai rời khỏi nhà bà mà không nhận được gì. Suốt ngày bà luôn biếu tặng cho
mọi người. Khi cùng ngồi trên xe với tôi trên đường, bà luôn tỏ vẻ
bối rối khi thấy những người đi chân trần dọc hai bên đường; bà rất
quan tâm đến việc họ không có giày dép để mang.
Có lần mẹ tôi được mời đến viếng thăm
Trung tâm Ẩn tu Tushita ở Dharamsala,
Ấn Độ. Ở đó, mỗi buổi sáng
chúng tôi dùng bữa bằng bánh kếp. Mẹ tôi chỉ ăn một ít, rồi gói phần còn lại bỏ vào túi.
Tu viện Tushita nằm trên núi cao, nhưng mỗi ngày bà luôn leo xuống để đến
đi nhiễu quanh nơi ở của đức Dalai Lama và ngôi đền gần đó, bà phân phát phần bánh kếp cho những người
hành khất bị bệnh cùi đang ngồi dọc theo lối đi.
Trên nhiều vùng thuộc
Hy Mã Lạp Sơn (Himalayas) ở Nepal, người ta phải đi bộ vì không có đường lớn, và các
gia đình thường ngừng lại trên lối đi để nhóm lửa nấu ăn. Khi mẹ tôi đi
hành hương với
gia đình, sau khi thổi cơm bà thường đem
thức ăn cho những người khác. Vì thế cả nhà chẳng còn gì để ăn, lại phải nấu nướng lần nữa.
Ở
tu viện Kopal, khi các
sư tăng trẻ mang
thức ăn đến cho, bà thường nói với họ: “Tôi không xứng đáng để được họ
phục vụ – vì dạ dày của tôi trống trơn.” Bà không có ý nói “dạ dày trống trơn” theo
nghĩa đen, bà muốn
ám chỉ rằng tâm bà chẳng có chút
chứng ngộ nào cả.
Bà luôn
quan tâm đến những người khác, nghĩ đến những khó khăn của họ, và không chỉ riêng cho những người trong
gia đình tôi. Nếu có ai đang giúp đỡ bà hay đang làm việc bên cạnh bà, bà luôn
hết lòng quan tâm đến việc họ phải làm việc
cực nhọc vì bà.
Vì mẹ tôi rất
từ bi nên
mọi người đều thấy
hạnh phúc khi được gặp gỡ,
trò chuyện với bà. Khi
chúng ta thấy một ai đó có tâm
rộng rãi, nhiệt tình thì dù không
quen biết,
chúng ta cũng muốn ngồi xuống bên cạnh và
trò chuyện cùng họ. Đây là sự
đáp ứng tự nhiên của
chúng ta đối với những người có
tâm bi mẫn, những người luôn
quan tâm đến người khác hơn chính
bản thân mình.
Trong kinh Phật có nhiều
câu chuyện kể về các vị
Bồ Tát (Bodhisattva) hay các bậc
thánh nhân, những vị luôn
hy sinh bản thân vì người khác. Theo
thuật ngữ Sanskrit, Bodhisattva có thể được dịch như là “vị
anh hùng giác ngộ”. Các vị
Bồ Tát tuy chưa
giác ngộ viên mãn, nhưng không hề
tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình mà chỉ nghĩ đến việc chăm lo những người khác và làm việc bằng cả thân, khẩu, ý của mình vì
lợi lạc cho
chúng sinh hữu tình. Các ngài không chỉ
mong ước người khác được
hạnh phúc mà còn tự mình nhận lấy
trách nhiệm giải thoát tất cả
chúng sinh khỏi khổ đau và mang
hạnh phúc đến cho họ. Các ngài
thệ nguyện làm việc này mà không cần biết nó khó khăn như thế nào hay bao lâu sẽ
hoàn thành. Với tâm
đại từ đại bi, các ngài nhận lấy
trách nhiệm tự mình và
duy nhất chỉ riêng mình sẽ
hoàn thành công việc. Đó là
tư tưởng hiến dâng
trọn vẹn với một trái tim
dũng mãnh cực độ. Bất kỳ
chúng sinh nào có được phẩm chất
dũng mãnh này đều là một vị
anh hùng đích thực.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trước khi đạt
giác ngộ viên mãn đã từng là một vị
Bồ Tát trong hàng trăm
đời sống,
trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp.
Tuy nhiên, không chỉ các vị Phật, các vị
Bồ Tát mới có được
tâm thanh tịnh này, các vị thánh trong
Thiên chúa giáo cũng có tâm như vậy, chẳng hạn như Thánh St. Francis ở Assisi, nước Ý, sống cùng thời với ngài Milarepa. Dù là thuộc
tôn giáo nào, Hindu,
Thiên chúa giáo hay
Phật giáo, hễ ai có tâm
quên mình để nghĩ đến việc
giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau và mang
hạnh phúc đến cho họ thì đều là
thánh nhân, là
chúng sinh thiêng liêng. Ngay cả loài vật nếu có
thái độ hoàn toàn vị tha như vậy cũng được xem là một
chúng sinh thiêng liêng.
Trong suốt thời gian còn là vị
Bồ Tát,
đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã hàng trăm lần
hy sinh thân
thiêng liêng của mình vì
chúng sinh hữu tình. Trong hàng trăm kiếp,
đức Phật đã dùng mắt của mình tặng cho những người mù, tặng cả tay chân cho những người cần đến. Có
một lần,
đức Phật đã để cho một
gia đình cọp sắp
chết đói ăn
thân thể của mình. Và Ngài đã
cầu nguyện rằng nhờ vào mối
nhân duyên được
ăn thịt thân Ngài mà các con cọp đó sẽ
tái sinh làm người và
trở thành đệ tử của Ngài. Ngài cũng
cầu nguyện sẽ khai mở cho họ
con đường đưa tới giác ngộ. Kết quả là, nhờ vào
nhân duyên kết nối đó, các con cọp sau này đã
tái sinh làm người, đã nghe
giáo lý trực tiếp từ
đức Phật và đã
thực chứng được
con đường giác ngộ.
Vào một kiếp khác trong
quá khứ, khi còn là
Bồ Tát,
đức Phật đã để cho năm quỷ dạ-xoa – loài
chúng sinh hút máu – hút máu của mình và cũng
cầu nguyện là sẽ ban
giáo lý giác ngộ cho họ trong các
kiếp sau. Kết quả là, sau này năm quỷ dạ-xoa được
tái sinh làm người và
trở thành năm đệ tử đầu tiên của đức Phật, đã được nghe
đức Phật giảng về
Tứ Diệu Đế ở Sarnath,
Ấn Độ.
Vào một kiếp khác nữa trong
quá khứ,
đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng với một
chúng sinh địa ngục kéo một chiếc xe chở các cai ngục đi trên một nền toàn bằng sắt nung chảy trong một
địa ngục nóng. Ngài
cảm thấy quá
xót thương cho
chúng sinh địa ngục đang cùng ngài kéo xe, đến nỗi Ngài
hy sinh bằng cách tự kéo xe
một mình. Ngài cũng
cầu nguyện rằng Ngài sẽ
chịu đựng sự
đau khổ thay
thế cho tất cả các
chúng sinh đang có cùng
nghiệp khổ như thế.
Khi Ngài
phát nguyện thay thế chịu nghiệp cho các
chúng sinh địa ngục, các cai ngục bảo Ngài là
điên khùng và lấy búa đánh lên đầu Ngài.
Lập tức Ngài
được giải thoát khỏi
địa ngục, và
tâm thức được chuyển lên
cõi trời Đâu-suất (Tushita).
Kinh điển nói rằng, đó là lần đầu tiên Ngài phát sinh tâm
đại bi.
Lại một kiếp khác nữa trong
quá khứ khi còn là
Bồ Tát,
đức Phật Thích-ca Mâu-ni là thuyền trưởng của một con thuyền chở năm trăm lái buôn. Các lái buôn này đi thuyền qua biển để tìm mua ngọc. Với tâm
sáng suốt, vị thuyền trưởng
Bồ Tát linh kiến biết có một người trên thuyền định mưu sát tất cả các người khác. Ngài quá đỗi
xót thương cho kẻ định gây
tội ác và nghĩ rằng: “Tôi phải giết người này – tôi bất chấp việc giết người sẽ đẩy tôi vào
địa ngục.” Với sự
hy sinh quên mình, Ngài chỉ nghĩ đến chuyện
ngăn cản người kia không tạo nghiệp cực ác giết các lái buôn và Ngài
chấp nhận tự mình vào
địa ngục thay cho người kia. Và vị thuyền trưởng
Bồ Tát đã làm như vậy với
lòng bi mẫn không gì
so sánh được.
Nói chung, hành động giết người là xấu ác, và quả là phải
tái sinh địa ngục.
Tuy nhiên, hành động giết người của vị thuyền trưởng
xuất phát từ tâm đại bi mãnh liệt
tột bực, nên thay vì
tái sinh địa ngục, Ngài đã được tẩy sạch nghiệp và
rút ngắn thời gian ở cõi
luân hồi một trăm ngàn kiếp. Nói cách khác, nhờ vào việc toàn tâm toàn ý
hy sinh quên mình cho
hạnh phúc của người khác, hành động giết người của Ngài đã mang Ngài
đến gần bến bờ
giác ngộ hơn.
Có một
câu chuyện về vị tăng trẻ tên là Tsembulwa, học trò của vị đại du-già Krishnacharya, người đã có những
chứng ngộ cao cấp. Ngài Krishnacharya đang trên đường đi đến Oddiyana, một trong hai mươi bốn nơi
linh thiêng của đức Vajrayogini (
Kim Cang Du già Thánh nữ) để
thực hiện một pháp
tu tập Tantra
đặc biệt trước khi
hoàn tất con đường tu
giác ngộ. Ngài đến bờ sông, và thấy một người đàn bà bị bệnh cùi
toàn thân thể đã
biến dạng. Bà ta trông rất
xấu xí, da thâm bầm, rỉ mủ. Người đàn bà
cầu xin ngài cõng qua sông và ngài từ chối.
Một lát sau, Tsembulwa cũng đến ngay chỗ bờ sông đó và người đàn bà bị cùi cũng
van xin Tsembulwa cõng qua sông. Lẽ ra theo
giới luật thì một vị tăng không thể chạm vào đàn bà, nhưng vì quá đỗi
xót thương tình cảnh người bị cùi, nên ông ta không
do dự hy sinh tư cách vị sư và bất chấp việc sợ lây bệnh cùi,
vội vàng cõng người đàn bà trên lưng và lội qua sông.
Tuy nhiên, khi đến giữa sông, người cùi bất ngờ
hóa thành đức Vajravarahi một
hóa thân của đức Vajrayogini. Vì Tsembulwa có được tâm
đại bi vô lượng và
hy sinh trọn vẹn khi giúp người bị cùi nên ngài Vajravarahi đã mang Tsembulwa trong dạng thân người lên
cõi Tịnh độ của đức Vajrayogini, ở đó ông ta có cơ hội
nghe Pháp và
hoàn tất con đường giác ngộ.
Điều
then chốt ở đây là, người bị cùi luôn luôn là Vajravarahi, nhưng Tsembulwa thấy ngài là người cùi vì các
chướng ngại của nghiệp đã che mắt ông ta. Chỉ sau khi phát sinh tâm
đại bi, toàn tâm toàn ý
hy sinh mình để giúp người cùi, ông ta mới có khả năng thấy được người đàn bà cùi là một
đấng giác ngộ. Các
nghiệp bất thiện đã khiến ông ta thấy người đàn bà ở
hình thức cùi lở, và ngăn không cho thấy được đó là một
đấng giác ngộ, nhưng sau khi phát sinh
tâm bi mẫn mãnh liệt,
xót thương tột độ, ông ta đã tịnh hóa
hoàn toàn các
nghiệp bất thiện đó.
Một điều
tương tự như vậy đã xảy ra cho ngài
Vô Trước (Asanga) vị
Thánh tăng vĩ đại và là một
đại sư truyền thừa của
truyền thống “Con đường từng bước đi tới giác ngộ”. Ngài
Vô Trước đã
nhập thất thiền định trong mười hai năm để linh kiến
đức Phật Di Lặc nhưng thất bại. Cứ sau mỗi ba năm, ngài
Vô Trước chán nản và muốn rời bỏ nơi ẩn tu. Nhưng rồi, luôn có điều gì đó xảy ra để
thôi thúc ngài
trở lại thiền định tiếp ba năm nữa. Ngài đã làm như vậy ba lần và sau mười hai năm ngài vẫn không thấy được
đức Phật Di Lặc.
Cuối cùng, ngài
từ bỏ hẳn và
đi xuống núi. Khi đang đi, bất chợt Ngài trông thấy một con chó
bị thương toàn thân lở loét, nhung nhúc những con dòi. Thấy con chó như thế, ngài
Vô Trước phát sinh
lòng bi mẫn tột độ và muốn cứu nó mà chẳng
quan tâm đếm xỉa gì đến mình. Nghĩ rằng các con dòi sẽ cần
thức ăn để sống khi bị
lấy ra khỏi con chó, ngài cắt thịt ở đùi và rải chung quanh đất. Sau đó ngài bắt đầu lấy các con dòi ra nhưng không dùng các ngón tay vì sợ làm cho các con dòi bị chết dẹp. Ngài cúi người xuống, nhắm mắt, dùng đầu lưỡi lùa các con dòi, nhưng
đột nhiên thấy đầu lưỡi của mình chẳng chạm vào cái gì cả, như thể chẳng có gì ở đó. Ngài
mở mắt ra và bất ngờ thấy được
đức Phật Di Lặc.
Rồi ngài
Vô Trước than phiền với
Đức Phật Di Lặc: “Tại sao phải mất rất nhiều
thời gian Ngài mới hiện ra? Con đã
thiền định về Ngài rất nhiều năm!”
Đức Phật Di Lặc trả lời: “Không phải Ta không
hiện ra. Ta luôn
hiện ra trước mặt con, nhưng con không thấy Ta.”
Ngài
Vô Trước có
thói quen khạc nhổ trong chỗ ẩn tu, và
Đức Phật Di Lặc chỉ cho ngài
Vô Trước thấy những vết bẩn của nước bọt còn dính trên áo của Ngài để
chứng minh rằng Ngài đã luôn ở bên cạnh ngài
Vô Trước. Rồi
đức Phật Di Lặc nói: “Ta đã luôn ở đây nhưng con không thấy Ta vì những
nghiệp chướng của con đã che mắt con. Những
nghiệp chướng này giờ đây đã được tịnh hóa nhờ vào tâm
đại bi của con. Do đó bây giờ con mới thấy được Ta.”
Giây phút ngài
Vô Trước phát sinh tâm
đại bi cực kỳ mãnh liệt khi thấy con chó
bị thương lở lói đã tịnh hóa
hoàn toàn các
nghiệp bất thiện của ngài, và ngài đã thấy được
đức Phật Di Lặc; một sự
chứng ngộ mà ngài đã không
đạt được trong ròng rã mười hai năm
thiền định ẩn tu.
Quên mình,
hy sinh mình
vì lợi ích của một
chúng sinh khác – một con chó
bị thương, như trong
trường hợp của ngài
Vô Trước – đã tạo nên một sự khác biệt lớn lao.
Thương yêu chăm sóc dù chỉ một
chúng sinh, bất kể là
con người hay con vật,
hy sinh mình để chăm sóc họ, như vậy sẽ mang lại sự tịnh hóa mãnh liệt, tẩy sạch mọi
nghiệp bất thiện của
chúng ta, nhân của bệnh tật và tất cả các
vấn đề khác nữa. Điều đó chữa lành thân và tâm ta.
Hy sinh chính mình vì
lợi lạc dù chỉ của một
chúng sinh thôi cũng đã
tích lũy công đức vô lượng.
Như tôi đã
giải thích trước,
chúng ta phải
chịu đựng các bệnh tật cùng với các
vấn đề lặp đi lặp lại nhiều lần
cho đến khi nào
chúng ta giải thoát được khỏi [thân năm] uẩn này, vốn có
bản chất là khổ đau. Dù gì
chúng ta cũng phải
trải qua các
vấn đề, vậy tại sao
chúng ta không làm cho chúng
trở thành những điều có lợi? Tại sao
chúng ta không noi gương các
thánh nhân, các bậc
giác ngộ,
buông bỏ bản thân mình để chăm lo cho
chúng sinh mà thôi?
Hành vi tích cực này đã kết quả nơi các bậc
giác ngộ là họ đã nhanh chóng
giải thoát khỏi mọi
vấn đề và nhân của
vấn đề, đã
thành tựu giác ngộ viên mãn, và
tiếp theo là họ
giác ngộ cho
vô lượng chúng sinh. Tại sao
chúng ta không
sử dụng các
vấn đề của
chúng ta theo cách như thế?
Số lượng
công đức chúng ta tích tụ được từ việc
chịu đựng bệnh tật và các
vấn đề vì lợi ích của các
chúng sinh khác sẽ
tùy thuộc sức mạnh hay mức độ
lòng từ bi mà
chúng ta cảm thấy được, phát sinh được. Nó
tùy thuộc vào việc
chúng ta chăm sóc người khác như thế nào,
tùy thuộc vào việc
chúng ta ước muốn
hy sinh mình đến mức nào để trải nghiệm
đau khổ của họ. Vì
vô lượng chúng sinh có cùng những
vấn đề như
chúng ta đang có, nên
chúng ta cần phải nhận về mình tất cả các
vấn đề này, và
chúng ta cần phải trải nghiệm,
chịu đựng các
vấn đề đó
vì lợi ích của
chúng sinh. Vị thuyền trưởng
Bồ Tát, vị sư trẻ Tsembulwa và ngài
Vô Trước đã
hy sinh mình để giúp đỡ dù chỉ một
chúng sinh. Cũng vậy,
chúng ta có
thể đạt được sự
thành tựu vĩ đại nhất bằng cách phát sinh
tâm bi mẫn
xót thương cùng cực,
đồng thời hy sinh mình cho
lợi ích dù chỉ là của một
chúng sinh.