- Lời Người Dịch
- Lời Dẫn Tựa Pháp Hoa Đề Cương
- Tựa Tổng Chỉ Đề Cương Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
- Tổng Chỉ Đề Cương Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
- Tổng Nêu Pháp Dụ Và Đề Mục Của Kinh
- Tổng Nêu Nhân Do Tôn Chỉ Khai Thị Ngộ Nhập
- Nêu Rõ Diệu Lý Theo Mỗi Phẩm Trong Kinh Phân Giải
- Phẩm Phương Tiện, Thí Dụ, Tín Giải Và Thọ Ký
- Phẩm Dược Thảo Dụ Và Hoá Thành Dụ
- Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký, Thọ Học Vô Học Nhân Ký Và Phẩm Pháp Sư
- Phẩm Hiện Bảo Tháp
- Phẩm Đề Bà Đạt Đa
- Phẩm Trì, Phẩm An Lạc Hạnh, Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất
- Phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phẩm Phân Biệt Công Đức, Tuỳ Hỷ Công Đức Và Pháp Sư Công Đức
- Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát, Phẩm Như Lai Thần Lực Và Phẩm Chúc Lụy Và Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bản Sự
- Phẩm Diệu Âm Bồ Tát, Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, Phẩm Đà La Ni
- Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự, Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát
- Bạt Dẫn Đề Mục Đàu Kinh
- Chỉ Thẳng Diệu Nghĩa Của 14 Chữ Toát Yếu
PHÁP HOA ĐỀ CƯƠNG
Hòa Thượng Thanh Đàm
Chùa Bích Động, Ninh Bình 1820
Việt Dịch: Thích Nhật Quang - Tu Viện Chân Không 1973
PHẨM DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BẢN SỰ
Phẩm
Diệu Trang Nghiêm Vương. Đây là dặn phải khéo
hộ trì tâm ấy, biện rành
tà chánh. Chớ cho được như thế là tự đủ, rồi sanh lười nhác. Hoặc bị
ấm ma hoặc loạn, hoặc bị
thiên ma nhiễu hại, hoặc lại giữa đường thành cuồng, hoặc lạc nơi đường tà, hoặc do đắm yêu chỗ tập từ trước ôm giữ trong lòng, mà sanh
tăng thượng mạn, hoặc là chìm không, hoặc lại kẹt tịch, dừng nghỉ ở
hóa thành, chẳng có thể lại tiến lên. Do các duyên này v.v... nên chẳng có thể tiến đến
Bảo sở.
Xét thấy vua Diệu
Trang Nghiêm là
tượng trưng cho người
tu hành, là
tâm vương của chính mình.
Phu nhân Tịnh Đức là
tượng trưng cho
chánh trí tuệ.
Tịnh Tạng là
tượng trưng cho chánh tri.
Tịnh Nhãn là
tượng trưng chánh kiến. Nghĩa là người
tu hành hay nương nơi
chánh trí tuệ, chánh tri,
chánh kiến, lấy đó làm
thiện tri thức căn bản. Do
thiện tri thức căn bản này, khéo
gìn giữ lòng mình. Trong khi
thiền định, phàm có thấy nghe
hiểu biết, tất cả
hiện tượng,
cảnh giới lành dữ, lòng chớ
tham trước, chớ khởi thánh giải,
cho đến cũng chớ sanh lo mừng cùng các tâm như đã nói trên.
Chỉ dùng
trí tuệ quán sát nơi
không tịch, thì tất cả
cảnh giới hiện ra đó, liền khi ấy
tự nhiên tiêu diệt. Khiến cho
hành giả chẳng
thoái chuyển nơi đạo
vô thượng chánh chân. Đây nhằm phá lớp
vọng tưởng võng tượng
hư vô điên đảo của
thức ấm thứ năm vậy.
Nên biết văn trong tiết này, đồng với
kinh Lăng Nghiêm phần nói về
năm ấm, năm
vọng tưởng,
xuất hiện năm mươi lớp
cảnh giới ma. Muốn biết việc ma thế nào, xin
đọc kinh Lăng Nghiêm quyển 9, quyển 10 thì rõ, đây chẳng thuật hết.
Kệ rằng:
Vô thủy luân hồi, ái là căn,
Đuổi theo tà ác, thọ
sanh thân,
Xoay về
tịnh tạng gieo lời thỉnh,
Khéo độ
trang nghiêm tin chánh nhân,
Chẳng lại tự theo tâm hạnh ác,
Từ nay nguyện thích Phật
năng nhân,
Đấy nêu gặp được
chân tri thức,
Hay chuyển Bồ-đề
bất thoái luân.
Vô thủy luân hồi ái dục căn,
Tùy tà trục ác thọ
sanh thân,
Hồi quang
tịnh tạng đầu thân thỉnh,
Thiện
hóa trang nghiêm tín chánh nhân,
Bất phục tự
tùy tâm hạnh ác,
Tùng kim nguyện nhạo Phật
năng nhân,
Thử
minh đắc ngộ
chân tri thức,
Năng chuyển Bồ-đề
bất thoái luân.
PHẨM PHỒ HIỀN BỔ TÁT KHUYẾN PHÁT
Phổ Hiền là tâm nghe thấu suốt khắp
mười phương, không chỗ nào mà chẳng đến. Đây là nhiếp phẩm Diệu
Trang Nghiêm ở trước, khi được vị
thiện tri thức căn bản nắm tay dắt đi, khiến chẳng lạc vào các nẻo tà hiểm mà được thấy Phật. Bởi
Phổ Hiền dùng tâm nghe mà được chứng, tức biểu trưng cho kinh
lúc đầu lấy
nhãn căn thấy tánh để khai thị, khiến
ngộ nhập bản tâm. Kế lại, từ tánh nghe của
nhĩ căn mà tu. Đến đây đã vào trong tánh nghe,
công năng rất là cùng cực, tự thấy tâm thể
trong sạch xưa nay của mình. Mới biết
chính thật là tâm nghe, chẳng phải tai nghe vậy.
Than ôi !
Chúng sanh vọng sanh
phân biệt, cho tánh nghe thuộc lỗ tai. Ngoài thì,
niệm niệm rong ruổi theo thinh trần, trong lại bời bời
phan duyên dấy khởi. Lẫn theo những
phải quấy của thinh tướng,
vọng tưởng phiền não loạn khởi. Chẳng biết tánh nghe ấy chính là tâm, sẵn có hạnh lớn
Phổ Hiền.
May mắn được khai thị, mới hay
ngộ nhập ý nghĩa tâm nghe
Phổ Hiền.Nói tâm nghe tức là
nhĩ thức,
nhĩ thức chính là
tâm linh,
diệu dụng khắp suốt
mười phương pháp giới. Tâm khắp
mười phương, thì nghe cũng khắp
mười phương. Nghe khắp
mười phương, thì biết cũng khắp
mười phương. Biết khắp
mười phương thì
tâm thức thấu suốt
pháp giới, thành Tạng
Đại Quang Minh vậy.
Nói
khuyến phát, nhằm bày tỏ chớ lấy trí nhỏ cho tự đủ, phải
phát khởi tiến lên,
cầu đạo Bồ-đề
vô thượng. Nghĩa là dù đã sạch hết
năm ấm, năm
vọng tưởng diệt, vượt ngoài năm trược,
thoát khỏi ba cõi,
thức tâm tròn sáng, hàm dung
pháp giới, mới có thể lãnh ngộ
yếu chỉ tâm nghe, nhưng vẫn chưa phải là tâm
rốt ráo tịch diệt Niết-bàn. Thế nên
cần phải khuyến phát tâm Bồ-đề,
tu hạnh Phổ Hiền, thẳng vào biển lớn Tỳ-lô
hoa tạng, soi thấy
đạo tràng trong sạch xưa nay, thân cận
bản tôn Quang Minh Biến Chiếu là
pháp thân thanh tịnh Như Lai Tỳ-lô Giá-na trọn thành
vô thượng Bồ-đề,
trở về chỗ không sở đắc. Đây mới
chính thật tỏ rõ tạng thức Đại Quang Minh vậy.
Hỏi:
Phát tâm Bồ-đề là thế nào ?Đáp: Bồ-đề có
vô lượng nghĩa. Tất cả ba tạng,
mười hai bộ kinh, đều là nghĩa của Bồ-đề, nên chẳng thể thuật hết. Nay xin lược lấy một vài lối
giải thích rất gần mà chỉ ra đó thôi.Bồ-đề, đây nói là tánh giác. Lại, bồ là chiếu, đề là kiến. Nói chung là tánh giác
chiếu kiến. Tánh giác
chiếu kiến này là
tri kiến Phật.Phát là mở ra, bày ra. Lúc còn mông muội mà phát minh ra.
Ví như các
cảnh giới thấy trong mộng, đều chẳng rời
giấc mộng. Lúc biết là cảnh mộng,
toàn thể đều là không. Biết
rõ ràng cảnh mộng đều không, đó là nghĩa phát giác.Lại như lúc còn mông muội chưa sáng, thì tánh giác bị
bóng dáng duyên theo
sáu trần làm mờ tối. Phàm đã thấy biết, đều như cảnh mộng, dù có
tri kiến ấy, đều là mông muội, đó chỉ cho
tri kiến của
chúng sanh. Nếu lúc ngộ, thì
bóng dáng duyên theo
sáu trần,
toàn thể đều không. Đã biết rõ trần ảnh đều không, thì
tri kiến đó là
tri kiến Phật, cũng gọi là
phát tâm Bồ-đề và là tâm phát giác vậy.
Lại
phát tâm Bồ-đề là biết rõ tất cả chư Phật, cùng các
chúng sanh, đồng một giác nguyên, mình người
một thể. Chỉ
chúng sanh bị
thức tâm vọng tưởng duyên theo
bóng dáng sáu trần làm
mê hoặc, nên chẳng hay biết. Ta đã
tự giác, lại hay
giác ngộ cho
chúng sanh, nguyện khắp
chúng sanh đều
thành chánh giác. Đấy gọi là
phát tâm giác cho tất cả vậy.
Nhưng
phát tâm Bồ-đề là chỉ cho người
tu hành, tâm
ban đầu được phát giác. Bởi ta cùng
chúng sanh từ
vô thủy đến giờ, trái giác hợp trần, chấp
bốn đại năm uẩn cho là
thân tâm.
Niệm niệm duyên theo
trần cảnh,
phân biệt các
ảnh sự, chưa từng có một niệm hồi quang, chẳng biết đến bao giờ tâm mới có thể phát giác !
Thế nên, tâm
ban đầu được phát giác này, là việc rất khó ! Người xưa trèo non vượt biển, chỉ vì cầu “Tâm
ban đầu phát giác” đó thôi.Nói phát giác tức là tự thấy
Phật tánh.
Phật tánh chính là tự
thể tánh giác. Có thể thấy được tự
thể tánh giác này, thì tất cả
việc làm đều là
Phật sự.
Cần thiết chớ
nhận lầm thức tâm vọng tưởng duyên trần cho là tự mình, thì
thức tâm như huyễn, việc
tu hành cũng đều
như huyễn.
Kinh nói: “Nhận giặc làm con” là đấy !Nhưng tâm
ban đầu phát giác đó, đã như ở trước, phần Tổng nêu
pháp dụ đề mục của kinh và trong phẩm Tựa có nói rồi. Đến sau phần Bạt dẫn
Tông chỉ, lại sẽ chỉ rõ hơn.
Hỏi: Làm thế nào
tu hạnh Phổ Hiền ?
Đáp: Hạnh đầy khắp
pháp giới, gọi là Phổ. Vị gần kề
Á thánh, ấy là Hiền. Hạnh thì như mười
đại nguyện vương trong
kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Bất Tư Nghì
Giải Thoát Cảnh Giới nói: Một sắc một hương đều khắp
pháp giới.
Nói
tóm lại là:Các đìều ác chớ làm,Vâng làm các
việc lành.Đấy gọi là hạnh
Phổ Hiền.Nhưng người
tu hành học theo hạnh
Phổ Hiền, tức là dùng
yếu chỉ lỗ tai nghe, từ
nhĩ thức mà vào. Chỉ dùng
nhĩ thức theo niệm
phân biệt, soi khắp quần cơ, lựa
hạnh lành của
Phổ Hiền kia mà tu, để tròn đầy tuệ
tự tại,
thành tựu trí
nhất thiết chủng.
Hỏi: Từ trước, quở chê
thức tâm, bảo là huyễn vọng. Đến đây, cớ sao lại nói
nhĩ thức là hạnh lớn
chân thật.
Thế ấy đâu khỏi trước sau có thủ xả ư ?
Đáp: Quở chê ở trước, đó là
thức tâm duyên trần. Nếu ngoài hiện
sáu trần, thì trong khởi
thức tâm, vọng sanh
phân biệt. Trần qua thì thức
phân biệt tự không, vì thế bảo rằng huyễn vọng
cần phải bỏ. Nay thức này là dụng của
nhĩ căn, đầy khắp
mười phương, tùy lúc nghe, tùy lúc
nhận thức, tùy lúc
phân biệt, nó
trạm nhiên thường trụ. Như ánh sáng của mặt gương, tức thức tánh trong
kinh Lăng Nghiêm, nói “Minh
tri giác minh,
chân thức diệu giác trạm nhiên,
biến chu pháp giới, dung nhập
Như Lai tạng tánh,
Diệu liên hoa tâm”. Thế nên, đáng phải giữ lấy mà tu.
Đức Di Lặc cũng do tròn thành Tam-muội
thức tâm này, mà tương lai sẽ
làm Phật.
Trong kinh
Phổ Hiền cũng nói: “Nếu có người
thọ trì đọc tụng hiểu
nghĩa thú kia, người đó lúc
mạng chung, được một ngàn vị Phật đưa tay xoa đầu. Khiến lòng không
sợ hãi, chẳng lạc vào nẻo ác, liền sanh lên
cung trời Đâu Suất, chỗ Bồ-tát
Di Lặc đang ở”.Đây cũng chính bày tỏ đã hội được
nhĩ thức kia, mà
trở về tánh thức
Như Lai tạng vậy.Lại, phẩm này cũng nói Đà-la-ni là
biểu lộ thể tâm nghe này,
tổng trì tất cả
công đức của
pháp thân chư Phật, hiện khắp tất cả đạo tràngBồ-đề của chư Phật, rộng làm việc Phật,
lợi ích chúng sanh, là con của
đấng pháp vương vậy.
Kệ rằng:
Đầu nói
Hoa Nghiêm, đây
Pháp Hoa,
Trước sau thuần một
Diệu Liên Hoa,
Văn Thù trí gốc, đơm
Phật tuệ,
Phổ Hiền tâm nghe, trổ
giác hoa,
Thâm ngộ Đà-la-ni
mật ý,
Trên gần
Di Lặc,
thức tâm hoa,
Tương lai đồng đến
Long Hoa hội,
Nhân quả hợp nhau, gốc
Pháp Hoa.
Sơ thuyết
Hoa Nghiêm thử
Pháp Hoa,
Thủy chung thuần nhất Diệu Liên Hoa,
Văn Thù bản trí khai
Phật tuệ,
Phổ Hiền tâm văn, phát
giác hoa,
Thâm ngộ Đà-la-ni
mật ý,
Thượng thân
Di Lặc thức tâm hoa,
Đương lai đồng đáo
Long Hoa hội,
Nhân quả tương phù bản
Pháp Hoa.
Nguyên lai kinh này là gồm chứa
hải tạng của
Hoa Nghiêm, nhiếp thu tông hiến của các kinh, tóm lãnh
nhân duyên xuất thế của chư Phật, bày tỏ
tri kiến Nhất thừa của
chúng sanh. Chỉ hơn sáu muôn lời, mà lý
hàm súc vô tận, có hai mươi tám phẩm, mà nghĩa sâu kín khôn lường.
Tôi dù làm Đề Cương này, như loài muỗi nhặng uống nước biển cả. Trí hẹp biết
lờ mờ chỉ thú, khác nào lấy ống tre dòm trời cao. Tuy chẳng suốt thấu
huyền vi, cũng chẳng dám trái thánh chỉ. Hoặc có kẻ lại bảo:
Văn từ này, chẳng thấy
hiện có trong kinh kia, nên nghi.Xin hãy
xem lại thật kỹ trong kinh, xét cho
chín chắn lời lẽ của mỗi phẩm. Nghĩa trong lời, lý trong nghĩa, uẩn trong lý, áo trong uẩn, khả dĩ
hội ý mới hiểu. Chớ đem
kiến giải ngoài da, mà
mờ mịt đối với cốt tủy trong kinh.
Kinh nói:
Tạng kinh Pháp Hoa này,
Sâu xa bền kín lắm,
Không người có thể đến...
Đã bảo rằng
sâu xa bền kín thì chẳng thể dùng văn nghĩa cạn cợt bên ngoài mà có thể tột cùng nguồn đáy kia. Nhưng người xưa có dạy: “Nói pháp chẳng lìa
tự tánh, lìa
tự tánh nói pháp tức thành ma nói.”Xin hiểu Đề Cương này của tôi, cũng là lời lời chỉ tánh, câu câu sáng tông, mà chẳng lìa nơi
tự tánh vậy. Hoặc có trái lầm, xin cho
sám hối. May được khai thị, để cứu lỗi kia. Nếu hợp lời kinh, mong đem
lưu thông rộng rãi hầu
ích lợi cho khắp
chúng sanh.