KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XXI
PHÁP HỘI
THỌ KÝ ẢO SƯ BẠT ĐÀ LA
THỨ HAI MƯƠI MỐT
Hán dịch: Đường, Pháp Sư Bồ đề Lưu Chí
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy tôi nghe một lúc
đức Phật ở
núi Kỳ Xà Quật tại thành
Vương Xá tại cùng chúng
đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội, đều là bực
A La Hán mọi người quen biết.
Đại Bồ Tát năm ngàn người đủ đại
thần thông biến hiện tự tại chứng
vô sanh nhẫn và
đà la ni. Các ngài
danh hiệu là
Sư Tử Bồ Tát,
Sư Tử Huệ
Bồ Tát, Diệu
Chiên Đàn Bồ Tát,
Điều Ngự Bồ Tát, Đại
Điều Ngự Bồ Tát,
Quang Thắng Bồ Tát, Quang Hiện
Bồ Tát, Quang Oai
Bồ Tát,
Quang Nghiêm Bồ Tát,
Minh Giác Bồ Tát, Chúng Thượng
Bồ Tát,
Điều Ngự Chúng Sanh Bồ Tát, và tất cả chư
Bồ Tát trong
Hiền kiếp,
Di Lặc đại Bồ Tát,
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử làm
Thượng Thủ.
Lại có
Bốn Đại Thiên Vương,
Ta Bà Thế Giới Chủ Phạm Thiên Vương,
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn,
Ta bà thế giới chủ Đại Phạm Thiên Vương, vùng
vô lượng Thiên, Long,
Dạ Xoa,
A Tu La,
Càn Thát Bà,
Khẩn Na La,
Ma Hầu La Già v.v…
Đại chúng vây quanh
đức Như Lai Thế Tôn, vì danh xưng lớn nên nghe khắp
thế gian, đó là mười
đức hiệu lớn :
Như Lai Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn. Là đấng nhứt thiết tri nhứt thiết kiến,
thành tựu thập lực,
tứ vô úy,
tứ vô ngại,
thập bát bất cộng,
đại từ đại bi, đủ
ngũ nhãn thần biến thọ ký,
thần biến thần thông, tất cả đều
viên mãn, có thể đem
tam Đại thiên
thế giới đại địa thành ấp cỏ cây rừng rậm
núi Tu Di đại hải núi sông và cung điện
chư Thiên để tại đầu sợi lông khiến dừng ở
hư không hoặc một kiếp hoặc hơn một kiếp
tùy ý muốn mà vẫn chẳng nghiêng động.
Bấy giờ trong thành
Vương Xá,
Quốc Vương, Đại thần,
Bà La Môn,
Cư Sĩ, tất cả nhơn dân đều rất
tôn trọng đức Như Lai, họ đem những vật
cúng dường tối thượng như
ẩm thực,
y phục,
ngọa cụ, y dược
cung kính dâng lên.
Trong thành
Vương Xá có một
Ảo sư tên
Bạt Đà La giỏi dị luận công xảo
chú thuật, là
thượng thủ nhứt trong hàng
Ảo sư.
Cả nước
Ma Kiệt Đề, chỉ trừ người thấy đế lý và các hàng
chánh tín Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di,
ngoài ra những kẻ
ngu muội đều bị
ảo hoặc mà qui tín với
Ảo sư Bạt Đà La ấy.
Bấy giờ
Ảo sư ấy nghe
đức Như Lai công đức danh xưng bèn nghĩ rằng : Nay
mọi người trong thành này đều
tôn trọng ta chỉ có
Sa Môn Cù Đàm còn chưa
tín phục, ta nên qua đua sức nếu
Sa Môn ấy
quy phục ta thì người nước
Ma Kiệt Đề sẽ
kính trọng ta gấp bội.
Ảo sư ấy đời trước đã trồng duyên lành
thời kỳ thành thục đã đến và do sức
oai thần của Phật, nên
ảo sư ấy từ thành
Vương Xá qua đến núi Kỳ Đà Quật thấy ánh sáng của
đức Phật tỏa ra hơn trăm ngàn mặt nhựt, mặt Phật
nghiêm trang tốt đẹp như trăng tròn, thân Phật
viên mãn như thân cây
ni câu đà,
bạch hào thanh tịnh như
châu ma ni chiếu sáng, mắt Phật sắc biếc như
hoa sen xanh,
cho đến Phạm Thiên Vương cũng chẳng thấy được đỉnh Phật, dùng sáu mươi thứ
âm thanh vi diệu thanh tịnh mà
thuyết pháp cho
chúng sanh.
Dầu thấy
oai đức đặc tôn của
đức Như Lai, nhưng
Ảo sư Bạt Đà La vẫn còn
tà mạn mà nghĩ rằng nay ta nên thí nghiệm
Sa Môn ấy, nếu thiệt là đấng Nhứt thiết
tri kiến thì sẽ biết ý của ta. Nghĩ xong,
Ảo sư ấy đến lạy chưn Phật mà bạch rằng : “Xin sáng mai
thọ sự cúng mọn của tôi”.
Đức Phật quan sát Ảo sư ấy và người thành
Vương Xá đã đến
thời kỳ căn khí thành thục, vì muốn
thành thục họ nên
đức Phật yên lặng thọ thỉnh.
Ảo sư ấy thấy
đức Phật thọ thỉnh rồi thì nghĩ rằng nay
Sa Môn Cù Đàm này chẳng rõ ý ta, chắc chẳng phải bực
Nhứt thiết trí, liền từ giã làm lễ
lui về.
Tôn giả Đại
Mục Liên đang ở tại hội thấy sự ấy liền đến bạch rằng: “Bạch
đức Thế Tôn !
Ảo sư Bạt Đà La ấy muốn khi dối Phật và
Tỳ Kheo Tăng, xin
đức Thế Tôn chớ thọ thỉnh”.
Đức Phật bảo Đại
Mục Liên : “Chớ có
quan niệm như vậy. Nhưng
tham sân si có thể làm sự khi dối. Nơi các sự ấy từ lâu ta đã dứt hết, vì ta chứng được các
pháp bổn vô sanh. Từ nhiều kiếp ta an trụ
chánh hạnh, nào có ai khi dối được ta.
Ông phải biết chỗ làm của
Bạt Đà La chẳng phải chơn thiệt
ảo hóa. Chỗ làm của
Như Lai mới là chơn thiệt
ảo hóa. Tại sao ? Vì
Phật hiện chứng các pháp đều
như ảo hóa.
Giả sử tất cả mọi loài
chúng sanh đều giỏi
ảo thuật như
Bạt Đà La đem
so sánh với
Như Lai thì chẳng bằng một phần trăm một phần ngàn,
cho đến toán số
thí dụ phần đều chẳng bằng.
Này Đại
Mục Liên !
Ảo sư ấy có thể biến hiện
Tam thiên Đại thiên thế giới này thành
trang nghiêm chăng ?”.
“Bạch
đức Thế Tôn ! Không thể được.
Này Đại
Mục Liên ! Nay ông nên biết
đức Như Lai có thể ở trong đầu một sợi lông biến hiện
trang nghiêm hằng sa thế giới mà còn chưa
hết sức thần của
Như Lai.
Này Đại
Mục Liên ! Có
đại phong luân tên là Toái Hoại, nó có thể làm nát
Tam thiên Đại thiên thế giới. Lại có
phong luân tên
Tỳ Lam Bà hay làm hư hoại
thế giới rồi lại hay làm thành. Lại có
phong luân tên
Cổ Động nó hay làm xoay lăn
thế giới. Lại có
phong luân tên An Trụ nó hay thổi đến trời Hữu Đảnh. Lại có
phong luân tên Phiêu Tán nó hay thổi tan
núi Tu Di và
Hắc Sơn v.v… Lại có
phong luân tên Mãnh Diệm lúc
kiếp hỏa nó hay thổi ngọn lửa mạnh lên đến
Phạm Thiên. Lại có
phong luân tên
Chỉ Tức lúc
kiếp hỏa nó hay làm tắt
kiếp hỏa. Lại có
phong luân tên
Thanh Lương hay khiến một cụm mây
trùm khắp Tam thiên Đại thiên thế giới. Lại có
phong luân tên Biến Chú lúc
kiếp hỏa hay khiến khắp
thế giới tuôn mưa lớn. Lại có
phong luân tên Càn Kiệt lúc
kiếp thủy ngập tràn hay làm cho nước ấy khô cạn. Các
phong luân như vậy nếu ta kể đủ thì cùng kiếp chẳng hết.
-Này Đại
Mục Liên !
Ảo sư ấy có thể tạm dùng được các
phong luân như vậy chăng ?
-Không thể được,
bạch đức Thế Tôn .
-Này Đại
Mục Liên !
Đức Như Lai ở nơi các
phong luân như
vậy mà đi đứng ngồi nằm không hề bị
dao động. Phật lại có thể đem các
phong luân như vậy nạp vào trong hột cải hiện các sự làm của
phong luân mà hột cải vẫn chẳng tăng giảm, các
phong luân ấy cũng chẳng phòng ngại nhau.
-Này Đại
Mục Liên !
Đức Như Lai thành tựu pháp
ảo thuật không có cùng cực không có biên hạn”.
Tôn giả Đại
Mục Liên cùng các
đại chúng nghe
đức Như Lai nói như vậy đều sanh lòng
hi hữu liền
đảnh lễ chưn Phật
đồng thanh xướng rằng ngày nay
chúng ta gặp bực
Đạo Sư đại oai đức thần thông được
lợi ích rất lớn. Nếu ai nghe
oai đức thần th6ong của Phật, họ quyết sẽ được thiện lợi lớn
phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Ảo sư Bạt Đà La trở về thành
Vương Xá trong đêm ấy, ở chỗ rất xấu kém dơ dáy mà
biến hóa làm
đạo tràng rộng rãi bằng phẳng các thứ
trang nghiêm phan lọng lụa là rải các hoa hương giăng các màn báu, lại
hóa hiện tám ngàn hàng cây báu, dưới mỗi cây đều có tòa
sư tử trải
vô lượng thảm
xinh đẹp. Vì muốn
cúng dường chư
Tỳ Kheo Tăng nên lại
hóa hiện trăm
thức uống ăn,
hóa hiện năm trăm người hầu mặc y trắng đeo đồ
nghiêm sức.
Hóa hiện như vậy xong,
Tứ Đại Thiên Vương đến bảo
Ảo sư ấy rằng : “Sáng mai ông vì
cúng dường Như Lai mà
hóa hiện vô lượng đồ
trang nghiêm như vậy, ông sẽ được
công đức rất lớn.
Chúng tôi cũng muốn giúp ông
cúng dường Như Lai mà
hóa hiện đạo tràng thứ hai tại đây, ông có
cho phép chăng ?”.
Ảo sư ấy nghe
Tứ Đại Thiên Vương nói rất lấy làm kỳ lạ liền
ưng thuận.
Tứ Đại Thiên Vương biến hiện
vô lượng đồ
trang nghiêm đẹp lạ gấp bội
Ảo sư.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn đem ba vạn
Thiên Tử đến bảo
Ảo sư : “Nay ta nhơn ông
cúng dường Phật nên cũng muốn
trang nghiêm đạo tràng để cúng dường”.
Ảo sư kinh sợ liền
ưng thuận.
Vì
đức Như Lai nên
Thiên Đế hóa hiện điện đường như điện
thù thắng của
trời Đao Lợi, lại
hóa hiện những hàng cây
ba lợi chất đa la cao đẹp
cõi trời.
Thấy sự việc ấy
Ảo sư trầm trồ kinh sợ
ăn năn muốn nhiếp sự
biến hóa của mình tận lực
chú thuật mà sự
ảo hóa ấy vẫn y nhiên như cũ.
Ảo sư tự nghĩ
quái lạ từ xưa sự
biến hóa của ta ẩn hiện
tùy ý, mà nay nhiếp ẩn không được, đây chắc do
đức Như Lai ấy mà ra.
Biết
tâm niệm của
Ảo sư,
Thiên Đế bảo rằng : “Nay ông vì
đức Như Lai mà
trang nghiêm đạo tràng thì không thể làm ẩn mất được. Do đó mà biết rằng có ai ở nơi
đức Như Lai cho đến chỉ
phát tâm chừng một niệm, do gốc lành ấy
cứu cánh hay làm nhơn
chứng nhập Niết bàn”.
Ảo sư nghe
Thiên Đế nói rất
vui mừng. Sáng ngày
Ảo sư đến chỗ Phật bạch rằng : “Nay tôi sắm sửa đã xong xin
đức Thế Tôn thương xót”.
Đức Thế Tôn mặc y cầm bát cùng
Tỳ Kheo Tăng cung kính vây quanh vào thành
Vương Xá đến chỗ
đạo tràng của
Ảo sư Bạt Đà La.
Trong nước
Ma Kiệt Đà, các nhà
ngoại đạo Phạm Chí Bà La Môn đều muốn
đức Phật bị
ảo hoặc bởi
ảo thuật của
Ảo sư ấy nên họ đều
vân tập đến xem.
Chư
Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni,
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di muốn thấy nghe
thần biến và
sư tử hống của Phật nên đều câu hội.
Dùng
thần lực,
đức Phật biến Ảo sư, Tứ Vương và
Thiên Đế đều riêng thấy
đức Như Lai ngự tại
đạo tràng của mình.
Thấy sự ấy,
Ảo sư Bạt Đà La bỏ
kiêu mạn đến lạy
chơn Phật bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Nay tôi đối
Như Lai ăn năn lỗi lầm phát lồ tội mình, trước tôi vọng sanh khi dối đối với
đức Thế Tôn mà
ảo hóa các sự
trang nghiêm, sau dầu
ăn năn mà không thể thâu nhiếp cho ẩn mất được”.
Đức Phật bảo : “Nầy
Ảo sư, tất cả
chúng sanh và các
vật dụng đều là
ảo hóa cả, đó là do nghiệp
ảo hóa ra. Chúng
Tỳ Kheo cũng là
ảo hóa, đó là do pháp nó
ảo hóa ra. Thân Phật cũng là ảo, vì do
trí huệ ảo hóa ra.
Đại Thiên thế giới cũng là ảo, vì do các
chúng sanh chung
ảo hóa ra. Phàm là pháp thì
không pháp nào chẳng là ảo, do
nhơn duyên hòa hiệp mà
ảo hóa vậy.
Nay ông nên đem đồ
ăn uống ảo hóa theo thứ tự mà sớt dưng”.
Bấy giờ
Ảo sư, Tứ Vương và
Thiên Đế cùng các người hầu
ảo hóa các
quyến thuộc đều mang đồ
ăn uống dưng lên Phật và
chư Tăng. Tất cả
đại chúng đồng hội đều đầy đủ cả.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp nói kệ rằng :
“Vật thực là
ảo hóaNgười ăn cũng như vậy
Lúc hiểu
bình đẳng này
Mới gọi cúng
thanh tịnh.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói :
Biết tạo là
ảo hóaNgười ngồi cũng như vậy
Lúc hiểu
bình đẳng này
Mới gọi cúng
thanh tịnh.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói :
Kể hầu là
ảo hóaNgười nhận tâm cũng vậy
Người cúng được như vậy
Mới gọi cúng
thanh tịnh.
Tôn giả Tu Bồ Đề nói :
Chớ nói cúng là cúng
Chớ nói nhận là nhận
Người cúng được như vậy
Mới gọi cúng
thanh tịnh.
Tôn giả An
Nan Đà nói :
Vật cúng như
hư khôngNgười nhận
bất khả đắcXa lìa thân và tâm
Bố thí tối
thanh tịnh.
Bồ Tát Quang Tràng nói kệ :
Như Ảo sư
Bạt ĐàẢo hóa sự
trang nghiêmCác pháp đều như vậy
Người ngu chẳng hay biết.
Bồ Tát Quang Nghiêm nói kệ :
Tòa ngồi cùng hàng cây
Do tâm
ảo hóa ra
Tâm ảo với
hư khôngCó chút
sai biệt gì.
Bồ Tát Sư Tử nói kệ :
Dã can chưa từng nghe
Tiếng rống của
sư tửLòng nó không e sợ
Kêu la trong rừng cây
Chợt nghe sư tử rống
Không chỗ để chui trốn
Ảo sư cũng như vậy
Chẳng đứng trước
Như LaiThường ở trong
ngoại đạoTự khoe giỏi hơn Phật
Ảo sư dầu
biến hóaẢo thuật có
giới hạnChỗ
thành tựu của Phật
Ảo thuật vô cùng tậnTất cả hàng
thiên maChẳng biết được ngằn mé.
Bồ Tát Sư Tử Huệ nói kệ :
Biết rõ người hầu hạ
Ẩm thực và người ăn
Tất cả đều
ảo hóaThiện khí không gì hơn.
Bồ Tát Di Lặc nói kệ :
Như lửa được dầu tô
Càng lúc càng thêm mạnh
Thế Tôn đối
ảo sưẢo hóa cũng như vậy.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói kệ :
Những
thiện sự hội này
Như trước chưa từng làm
Tất cả pháp đều vậy
Thường đồng với thuở trước”.
Bấy giờ
đức Phật muốn
thành thục Ảo sư Bạt Đà La nên
hóa hiện một
Trưởng giả vào trong hội bảo
Ảo sư ấy rằng : “Nay Ngài muốn làm gì ở đây ?”.
Ảo sư ấy đáp : “Tôi sắm đồ
ăn uống dưng cúng
Sa Môn Cù Đàm”.
Trưởng giả ấy nói : “Ngài chớ nói như vậy. Hiện nay
đức Phật cùng chư
Tỳ Kheo ở tại cung
vua A Xà Thế đang được dâng cúng mà ăn”.
Do
thần lực của
đức Phật làm cho
Ảo sư ấy thấy
Như Lai cùng chư
Tỳ Kheo đang ăn tại cung vua.
Đức Phật lại
hóa hiện Trưởng giả thứ hai vào hội bảo
Ảo sư rằng : “Nay ngài làm gì ở đây ?”.
Ảo sư đáp rằng : “Tôi
cúng dường Sa Môn Cù Đàm”.
Trưởng giả nói : “Ngài chớ nói như vậy. Hiện nay
đức Phật cùng chư
Tỳ Kheo đang đi
khất thực trong đường xóm
phạm chí.
Do
thần lực của
đức Phật làm cho
Ảo sư thấy Phật và chư
Thánh Tăng đang đi
khất thực trong đường xóm .
Đức Phật lại
hóa hiện Trưởng giả thứ ba vào hội bảo
Ảo sư rằng : “Đức
Như Lai hiện nay ở tại vườn nhà
Y Vương Kỳ Bà thuyết pháp cho hành tứ chúng”.
Do
thần lực của Phật làm cho
Ảo sư thấy như vậy.
Đức Phật lại
hóa hiện Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn đến bảo
Ảo sư rằng : “Hiện nay
đức Như Lai đang
thuyết pháp cho
chư Thiên tại cung trời Đao Lợi”.
Do
thần lực của Phật làm cho
Ảo sư thấy
đức Phật đang
thuyết pháp tại
Thiên cung.
Đồng thời Ảo sư Bạt Đà La lại ở nơi
trong khoảng bông lá cây rừng, trên tất cả các tòa
sư tử, ở các nhà cửa
điện đường xóm ngõ của thành
Vương Xá và tất cả chỗ tốt đều thấy có
đức Như Lai đầy đủ
tướng hảo, trước tất cả chỗ
đức Như Lai ngự đều thấy có thân mình đang qùy lạy
ăn năn phát lồ tội lỗi.
Ảo sư ấy chỉ thấy có thân
đức Phật ở khắp
mọi nơi ngoài ra không thấy gì khác, lòng rất
vui mừng hớn hở mà chứng được
niệm Phật tam muội.
Sau khi
xuất định,
Ảo sư Bạt Đà La chắp tay hướng lên
đức Phật mà nói kệ rằng :
“Xưa tôi ở
Diêm PhùẢo hóa không ai hơn
Nay so
Phật thần thôngChẳng bằng một phần ít
Do đây mới biết rằng
Phật
thần lực khó lường
Tùy tâm hay biến hiện
Hóa Phật như
hằng saNhững
Như Lai được thấy
Đều đủ các
tướng hảoXin
Thế Tôn chỉ rõ
Thân nào là
chơn PhậtNơi chư
Như Lai đây
Tôi muốn dâng
cúng dườngXin Phật dạy cho tôi
Gì là quả
thù thắngNếu người đối với Phật
Chẳng sanh lòng
tôn trọngCác
phàm phu như vậy
Thối thất sự
an lạcNay tôi ở trước Phật
Phát lồ tội phạm trước
Tôi vọng muốn thử Phật
Nguyện dứt hẳn không thừa
Thích Phạm và
Đại chúngXin chứng biết cho tôi
Vì độ các
quần sanhNay tôi phát
đại tâmDùng ánh
sáng trí huệ
Giác ngộ các
quần sanhBan cho pháp
cam lộCho họ đều
sung mãnNếu người ở nơi Phật
Thấy
thần biến như vậy
Và
nghe lời vui đẹp
Thắng hạnh vô ngại tríNào có người
trí huệChẳng
phát tâm Bồ đềXin dạy đạo
Bồ đềVà
công hạnh thanh tịnhNhững pháp nào
tu hànhNhị thừa chẳng vào được
Chỗ sở hành thế nào
Tôn trọng mà
cúng dườngThế nào đủ
oai nghiVà lìa các
nghi hốiThế nào nơi
đa vănKhông nhàm tu
vững chắcThế nào vì người nói
Cho thích ưa
chánh phápKhông lòng mong
lợi dưỡngVà
biết ơn báo tốt
Thế nào với
chúng sanhThường làm bạn
bất hoạiThế nào gần
thiện hữuBỏ lìa
ác tri thứcThế nào gặp chư Phật
Cúng dường lòng chẳng mỏi
Thế nào là
học xứTôn trọng và
thanh tịnhThế nào định
chủng tánhThành tựu tâm đúng lý
Và bỏ bất như lý
Đầy đủ
chánh tư duyThế nào không khiếp nhược
Chẳng bị ma nó nhiếp
Tư duy nơi
nghĩa lýChẳng bỏ các
chúng sanhThế nào chẳng nên bỏ
Chẳng lấy mà nhiếp lấy
Được vào nơi
chánh hạnhĐầy đủ thiện
phương tiệnThế nào tu
từ biThành tựu các
thần thôngChứng nơi
vô ngại biện
Và được
đà la niThế nào được
pháp nhẫnThanh tịnh và
biện tàiNên bỏ pháp đáng bỏ
Được vào nghĩa
thậm thâmThế nào nơi thiện nguyện
Tất cả đều
viên mãnNơi các
Ba la mậtMà được
bất thối chuyểnTôi ở
pháp như vậy
Sẽ nguyện siêng
tu hànhNgưỡng mong đấng
Đại BiVì tôi rộng giảng dạy”.
Đức Phật nói kệ đáp
Bạt Đà La :
“Nếu rõ tất cả pháp
Đều đồng với
ảo hóaNgười này thì hay hiện
Trăm ức thân chư Phật
Xưa ở
câu chi cõi
Độ thoát các
chúng sanhVí như Bạt Đà LaKhông sắc hiện các sắc
Bất sanh cũng
bất diệtKhông trụ không khứ lai
Thế Tôn biến hóa thânVà cùng chúng
Tỳ KheoCũng không có
sanh diệtCho đến đại Niết bànĐây đều là
thần biếnBất tư nghị của Phật
Cũng như người
ảo hóaHiện tượng mã quân trận
Mê hoặc các
chúng sanhVọng thấy là chơn thiệt
Tượng mã
quân như vậy
Không tánh cũng không sanh
Chư Phật
không sắc tướng
Không khứ cũng không lai
Người
chấp kiến ngã nhơn
Vọng sanh
ý tưởng Phật
Chẳng nên lấy
sắc tướngChủng tộc và sanh xứ
Cho đến phạm âm thanh
Mà muốn quán
Như LaiCũng khó dùng
tâm thứcPhân biệt nơi chư Phật
Chư
Phật pháp tánh thân
Siêu quá cả
tam thếTự tánh lìa các tướng
Chẳng sa vào
pháp sốChư
Như Lai được hiện
Tự tánh không sanh khởiCũng không
uẩn xứ giớiTrụ ở
vô sở y
Pháp thân Phật như vậy
Ngũ nhãn chẳng thấy được
Nếu nói tôi thấy Phật
Đó là chẳng thấy được
Lấy không thấy làm thấy
Như dấu chim
hư khôngNhư Phật được ông thấy
Và những Phật chưa thấy
Bình đẳng như
hư khôngMột
tướng không sai biệtGiới định huệ giải thoátVà
giải thoát tri kiếnTất cả chư
Như LaiCông đức không
sai biệtĐều an trụ
tánh khôngKhông chấp trước các pháp
Tất cả đều
ảo hóaKhông tánh cũng không sanh
Cúng dường một
đức PhậtLà cúng tất cả Phật
Pháp thân của chư Phật
Bình đẳng vô sai biệtChư
Như Lai như vậy
Đều hay sanh phước lợi
Cúng khắp chư
Như LaiĐều được
quả báo lớn
Đồng chứng nơi
bình đẳngThanh tịnh pháp tánh vậy
Vì thế nên
Như LaiKhông các thứ
sai biệtNhư ông vừa mới hỏi
Ai là Phật chơn thiệt
Phải bỏ
tâm tán loạnLắng nghe ta tuyên nói
Phải trụ
chánh niệm huệ
Quan sát nơi các pháp
Tất cả đều
vô sanhVọng thấy là chơn thiệt
Sắc tướng nếu có sanh
Thì lẽ ra có diệt
Thế nên chư
Như LaiCứu cánh không có sanh
Cũng không có tán diệt
Do đây quán
Như LaiDùng không thấy làm thấy
Như Phật mà ông thấy
Chẳng
y chỉ phương sởTất cả các
phàm phuĐều
y chỉ ngũ uẩnPhải ở nơi uẩn ấy
Mà
quan sát như Phật
Chư Phật và các pháp
Cho đến các
chúng sanhLấy
vô tướng làm tướng
Không có ai
y chỉNếu
quan sát như vậy
Mau chứng được
Bồ đềChư pháp đều chẳng có
Do vọng
phân biệt sanh
Nhơn duyên thể tánh không
Vì lìa tánh
tác giảHay
liễu đạt như vậy
Nhơn duyên tác giả không
Người nầy hay biết rõ
Pháp lìa nhiễm
thanh tịnhDùng
pháp nhãn thanh tịnhĐược thấy chư Như Lai”.
Ảo sư Bạt Đà La nghe
đức Phật nói kệ xong chứng được thuận
pháp nhẫn, năm ngàn
chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, hai trăm
Bồ Tát chứng
vô sanh nhẫn.
Thọ trai xong
đức Thế Tôn muốn
viên mãn sở nguyện cúng dường của
Ảo sư nên lại nói kệ :
“Nơi ngưòi
cúng vật cúng
Người thọ
nếu có thểTâm đều
vô phân biệtĐây là cúng viên mãn”.
Tôn giả A Nan bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn !
Chúng tôi mong
đức Như Lai dùng
thần lực gia trì cho
Ảo sư khiến sự thi thiết
trang nghiêm này trong bảy ngày chẳng ẩn mất”.
Vì
đại chúng thỉnh cầu nên
đức Như Lai khiến
đạo tràng của
Ảo sư biến hóa ấy mãn bảy ngày
trang nghiêm như cũ.
Bấy giờ
đức Như Lai cùng chư
Tỳ Kheo và
đại Bồ Tát, Thiên, Long,
Dạ Xoa,
Càn Thát Bà v.v…
cung kính vây quanh
trở về núi Kỳ Xà Quật để
thuyết pháp cho
đại chúng.
Ảo sư Bạt Đà La lại đền
đảnh lễ chưn Phật,
hữu nhiễu ba vòng đứng qua một bên mà bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Xin
đức Phật vì tôi mà dạy các đạo
Bồ Tát mà người siêng
tu hành mau được đến
đạo tràng Bồ đề”.
Đức Phật dạy : “Ông phải lắng nghe khéo
suy nghĩ nhớ hiểu,
Như Lai sẽ nói cho ông.
Nầy
Bạt Đà La ! Có bốn pháp là đạo
Bồ Tát, nếu hay
tu hành thì mau sẽ đến
đạo tràng Bồ đề :
Một là nơi tâm
Bồ đề chẳng thối thất.
Hai là nơi các
chúng sanh thường chẳng rời bỏ.
Ba là nơi tất cả
thiện căn cầu không nhàm đủ.
Bốn là
hộ trì chánh pháp khởi đại
tinh tấn.
Nầy
Bạt Đà La !
Bồ Tát lại có bốn
pháp hạnh khắp
thanh tịnh : Một là
luật nghi thanh tịnh, hai là lạc
ý thanh tịnh, ba là
trí huệ thanh tịnh, bốn là thọ sanh
thanh tịnh.
Lại có bốn
pháp chỉ riêng
Bồ Tát thật hành, hàng
nhị thừa chẳng vào được :
Một là
tu tập thiền định mà chẳng tùy sanh.
Hai là nơi nghĩa
thậm thâm hay suy hiểu.
Ba là nơi các
chúng sanh khởi tâm đại bi.
Bốn là các thứ
biện tài thuyết pháp vô tận.
Lại có bốn pháp là nơi chỗ sở hành :
Một là
ưa thích nhàn tịnh.
Hai là nhàm nơi ồn náo.
Ba là nơi các
chúng sanh khởi tâm đại bi.
Bốn là hay rõ các
hành không có khứ lai.
Lại có bốn
pháp tôn trọng
cúng dường :
Một là chẳng tiếc
thân mạng, hai là lòng thường
hoan hỷ, ba là bỏ rời
kiêu mạn, bốn là
tu hành như lời.
Lại có bốn pháp
oai nghi đầy đủ : Một là biết thời, hai là biết xứ, ba là
tịch tịnh, bốn là chơn thiệt.
Lại có bốn pháp hay lìa
nghi hối : Một là nơi sự
ác tác phải
dự phòng giữ gìn, hai là nơi người trí phải thích thân cận, ba là nơi nghĩa được nghe thường khéo
suy nghĩ, bốn là chẳng do
từ tâm thì chẳng cử tội người.
Lại có bốn pháp
đa văn không chán : Một là vì
tăng trưởng chánh trí huệ cho mình và người, hai là vì có thể dứt
trừ nghi hoặc của người, ba là vì hay
nhiếp thọ chánh pháp của Phật, bốn là vì nơi chư
Như Lai tán thán vô tận vậy.
Lại có bốn pháp
đa văn vững thiệt : Một là nghe
chánh pháp rồi hay khéo
hiểu rõ, hai là nghe
chánh pháp rồi chẳng làm các điều ác, ba là nghe
chánh pháp rồi khai thị cho người, bốn là nghe
chánh pháp rồi
hồi hướng Bồ đề.
Lại có bốn pháp
thuyết pháp lợi ích : Một là thường nhận nơi người các uống ăn thơm ngon, hai là hằng nhận
y phục các thứ cúngdường, ba là khiến
quyến thuộc ma thế suy lực yếu, bốn là
chư Thiên hộ trì ma chẳng hại được.
Lại có bốn pháp khiến người tin ưa pháp đã nói : Một là vì tâm
thiểu dục, hai là thường
tri túc, ba là
lời nói dịu dàng, bốn là thân
thuận theo pháp vậy.
Lại có bốn pháp hay diễn nói
chánh pháp khôngcó mong cầu : Một là ở trong
sanh tử lòng luôn lo sợ, hai là chẳng cầu
thế gian lợi dưỡng thân hữu, ba là nơi các
chúng sanh thường có lòng
ủng hộ, bốn là nơi các
thánh chủng có thể
tu tập.
Lại có bốn pháp
biết ơn báo ơn : Một là vì khuyên
chúng sanh xu hướng Bồ đề, hai là biết
nghiệp lành được làm chẳng hư mất, ba là thương
chúng sanh như thân mình, bốn là hay khéo
tu hành Bồ Tát như vậy.
Lại có bốn pháp nơi các
chúng sanh làm bạn
bất hoại : Một là hay mặc giáp trụ đại
nhẫn nhục, hai là phước lợi
chúng sanh chẳng cầu báo, ba là nơi tâm
đại bi thường chẳng thối thất, bốn là dầu bị nhiều
não hại cũng chẳng bỏ
chúng sanh vậy.
Lại có bốn pháp nơi các
thiện hữu phải nên thân cận : Một là
thành tựu thiện xảo phương tiện, hai là
thành tựu thù thắng ý lạc, ba là
thành tựu Bồ Tát chánh hạnh, bốn là
thành tựu khuyến tán
Bồ đề.
Lại có bốn pháp nơi các
ác hữu phải nên bỏ lìa : Một là khen nói
Nhị thừa, hai là khiến thối thất
Bồ đề, ba là thêm lớn pháp ác, bốn là tổn hư pháp lành.
Lại có bốn pháp được gặp chư Phật : Một là vì luôn dùng
nhứt tâm chuyên niệm chư Phật, hai là vì khen ngợi
công đức chư Phật, ba là
luật nghi được thọ khắp
thanh tịnh, bốn là dùng
ý lạc thù thắng phát hoằng nguyện vậy.
Lại có bốn
pháp cúng dường chư Phật lòng không lười mỏi : Một là phải tự
vui sướng nay tôi
cúng dường phước điền tối thượng, hai là do tôi
cúng dường nên tất cả
chúng sanh cũng
cúng dường, ba là nhơn
cúng dường rồi nên tâm
Bồ đề sẽ được
bền vững, bốn là do thấy ba mươi hai
tướng hảo của
Như Lai mà
thiện căn tăng trưởng.
Lại có bốn pháp ở nơi các
học xứ sanh lòng
tôn trọng : Một là vượt khỏi
ác đạo, hai là được sanh
thiện đạo, ba là
tôn trọng Như Lai, bốn là
viên mãn các nguyện.
Lại có bốn pháp
học xứ phải học : Một là nơi tâm
Bồ đề thường chẳng rời bỏ, hai là nơi các
chúng sanh tâm hành bình đẳng, ba là nơi các
Ba la mật tinh tấn tu hành, bốn là nghe
vô lượng pháp chẳng kinh sợ.
Lại có bốn pháp
học xứ thanh tịnh : Một là chẳng làm điều ác, hai là sâu hiểu
tánh không, ba là chẳng hủy báng chư Phật, bốn là dứt trừ các
kiến chấp.
Lại có bốn pháp
tam muội chủng tánh : Một là vì rời ồn náo, hai là ưa
tịch tịnh, ba là
tâm không tán loạn, bốn là căn lành
tăng trưởng vậy.
Lại có bốn pháp tâm như lý phải nên
thành tựu : Một là pháp lành được tu phải
hồi hướng Bồ đề, hai là lòng thường yên lặng không có
chấp trước, ba là nơi các môn
giải thoát thường siêng
tu tập, bốn là chưa hề cầu chứng
Niết bàn Nhị thừa.
Lại có bốn pháp tâm bất như lý phải nên rời bỏ : Một là nơi các
sanh tử mà có kinh sợ, hai là nơi chỗ
tu hành mà chẳng tin nhận, ba là nơi
giáo pháp bí mật chẳng cầu
thắng giải, bốn là nơi các
thiện căn chẳng siêng
tu tập.
Lại có bốn pháp tâm
chánh tư duy phải khéo
tu học : Một là
Bồ Tát vì
chúng sanh cho đến chỉ vì một
chúng sanh mà trong
vô lượng kiếp thọ khổ
sanh tử, hai là phải trước biết rõ
căn tánh của
chúng sanh rồi mới
thuyết pháp cho họ trừ bỏ
phiền não, ba là phải dứt tất cả ác, tu tất cả thiện,
hàng phục quân ma chứng
Vô thượng Bồ đề, bốn là phải vì
chúng sanh trong
Tam thiên Đại thiên thế giới dùng một
phạm âm diễn nói
pháp yếu.
Lại có bốn
pháp không lòng khiếp nhược mà chẳng gì hại được : Một là quán tất cả
pháp như ảo hóa, hai là thường
tương ưng với chánh với
chánh trí như lý, ba là nơi các
pháp không có
phân biệt, bốn là nơi tất cả
tướng không có
chấp trước.
Lại có bốn pháp
tư duy nơi nghĩa : Một là biết tất cả pháp theo
nhơn duyên sanh, hai là biết không có chút pháp nào gọi là
sanh khởi, ba là biết
pháp duyên sanh ấy chính là không
sanh khởi, bốn là biết pháp
vô sanh cũng không
hoại diệt.
Lại có bốn pháp chẳng bỏ
chúng sanh : Một là chẳng bỏ hoằng nghiệp, hai là
chịu đựng khổ nhọc, ba là chẳng tiếc
thân mạng, bốn là hằng tu bốn nhiếp pháp.
Lại có bốn pháp chẳng nên bỏ rời : Một là nơi các sự
bố thí chẳng bỏ rời, hai là
thành thục chúng sanh chẳng bỏ rời, ba là thường
tự giác sát chẳng bỏ rời, bốn là
tăng trưởng lợi lành cho người chẳng bỏ rời.
Lại có bốn
pháp thường phải
nhiếp thọ : Một là
thiện căn ít nhỏ cũng phải
tu tập, hai là
tăng trưởng lợi lành cho người lòng
không giải đãi, ba là nghe nói
bố thí trì giới liền
hay tin nhận, bốn là chẳng cầu tất cả
lợi dưỡng danh dự.
Lại có bốn
pháp nhập chánh hạnh : Một là
thành tựu thông trí, hai là trụ đại
tam muội, ba là
tu tập không tánh, bốn là không chỗ
chấp trước.
Lại có bốn
pháp thiện xảo
phương tiện : Một là
Bồ Tát ở nơi
phát tâm lấy tâm
Bồ đề làm
thượng thủ nhẫn đến
phiền não còn khiến thuận đến
Vô thượng Bồ đề huống là các
thiện tâm, hai là
quan sát các
chúng sanh nhẫn đến kẻ
tà kiến đều thấy là
pháp khí, ba là biết rõ các
pháp không có
tự tánh, bốn là
tu tập giải thoát nơi các môn
tam muội không có
ý tưởng chấp trước.
Lại có bốn pháp
tu tâm đại từ : Một là
tu tâm đại từ cứu hộ chúng sanh, hai là
tu tâm đại từ độ thoát chúng sanh, ba là
tu tâm đại từ giác ngộ chúng sanh, bốn là
tu tâm đại từ để khiến
chúng sanh nhập Niết bàn.
Lại có bốn pháp
tu tâm đại bi : Một là
tu tâm đại bi để khiến
chúng sanh lìa
ác đạo ở
thiện đạo, hai là
tu tâm đại bi để khiến
chúng sanh bỏ
ác hạnh tập làm pháp lành, ba là
tu tâm đại bi để khiến
chúng sanh lìa rời
Tiểu thừa vào
Đại thừa, bốn là
tu tâm đại bi để khiến
chúng sanh lìa
sanh tử được
Niết bàn.
Lại có bốn
pháp thành tựu thần thông: Một là chẳng tiếc
thân mạng vì không
ái luyến, hai là rõ tất cả
pháp như ảo hóa, ba là với các
chúng sanh có lòng
tôn trọng, bốn là tu
xa ma tha không
tán loạn.
Lại có bốn pháp được
vô ngại biện : Một là
tùy thuận nghĩa chẳng
tùy thuận văn, hai là
tùy thuận pháp chẳng
tùy thuận ngưòi, ba là
liễu đạt các pháp rời lìa
văn tự, bốn là y
văn tự liễu nghĩa diễn thuyết vô tận.
Lại có bốn pháp được
đà la ni : Một là nơi các
đa văn không có chán đủ, hai là nơi người
đa văn cung kính cúng dường, ba là dùng các thứ danh từ diễn nói
nghĩa chơn thiệt, bốn là tùy có
giáo pháp bí mật liền chánh xu nhập.
Lại có bốn pháp hay được
pháp nhẫn : Một là nhiều tu
thắng giải, hai là không có
thối chuyển, ba là
tư lương viên mãn, bốn là siêng tu không mỏi.
Lại có bốn pháp được tịnh
biện tài : Một là nơi người
thuyết pháp không có chống nghịch, hai là
tôn trọng pháp sư cung kính nghe nhận, ba là chẳng lấy
đa văn mà tự
kiêu mạn, bốn là nơi người ít học chẳng sanh lòng khinh tiện.
Lại có bốn pháp phải xả ly : Một là nơi
tham sân si phải xả ly, hai là nơi
Thanh Văn thừa phải xả ly, ba là nơi
Duyên Giác thừa phải xả ly, bốn là nơi
ý tưởng thiện pháp phải xả ly.
Lại có bốn
pháp nhập nghĩa
thậm thâm : Một là nơi
pháp hữu vi sâu đạt duyên khỏi, hai là nơi nghĩa
bí mật hay chánh
liễu tri, ba là nơi các
pháp tánh sâu sanh chánh giải, bốn là nơi tất cả pháp
liễu đạt nghĩa không.
Lại có bốn pháp làm cho
sở nguyện viên mãn : Một là
thi la thanh tịnh, hai là trừ sạch
ác nghiệp, ba là không có siểm cuống, bốn là
tăng trưởng thiện căn.
Lại có bốn pháp nơi các
Ba la mật được chẳng
thối chuyển : Một là do
thiện xảo phương tiện nên nơi một
Ba la mật hay
thông đạt khắp các
Ba la mật, hai là do
thiện xảo phương tiện tùy rõ một
chúng sanh thì rõ khắp tất cả
chúng sanh, ba là do
thiện xảo phương tiện chứng một
pháp thanh tịnh thì khắp chứng tất cả
pháp thanh tịnh, bốn là do
thiện xảo phương tiện biết một
đức Phật thì biết rõ khắp tất cả chư Phật. Tại sao ? Vì nơi
pháp tánh vô sai biệt vậy”.
Lúc
đức Thế Tôn nói
Bồ Tát tứ pháp môn như vậy,
Ảo sư Bạt Đà La chứng
vô sanh nhẫn lòng
vui mừng liền bay lên
hư không cách đất bảy
cây đa la.
Bấy giờ
đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười, từ
diện môn của Phật phóng ra
vô lượng tia sáng chiếu khắp
thế giới chư Phật rồi
trở lại thâu vào đảnh Phật.
Tôn giả A Nan nghĩ rằng
đức Như Lai hiện
mỉm cười chẳng phải
vô cớ. Liền
đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất
chắp tay hướng lên
đức Phật mà nói kệ bạch hỏi :
“Đấng
Biến Tri ba cõi đều biết
Đấng
oai đức trí huệ khó lường
Đã thấu
Bồ đề bờ
công đứcNay hiện
mỉm cười có cớ gì
Năm loài
chúng sanh ở
mười phươngTâm hành chủng tánh thượng trung hạ
Với họ
Như Lai đều biết rõ
Nay hiện
mỉm cười có cớ gì
Nhơn Thiên
Bát Bộ các
đại chúngPhát ra nhiều thứ
âm thanh diệu
Sánh với
Như Lai âm thanh tịnh
Cho đến chẳng bằng phần
ca laThế Tôn ánh sáng khắp
mười phươngChiếu suốt
vô lượng các
cõi PhậtÁnh sáng nhựt nguyệt trời
ma niKhông gì sánh được sáng của Phật
Đã rõ
tánh không pháp
thậm thâmKhông
ngã không nhơn không
chúng sanhHai bên
hữu vô đều rời bỏ
Khéo biết ba thuở như
thủy nguyệtNay ai
bước lên Vô thượng thừaNối lấy
chủng tánh pháp Như Lai
Sanh trong Tam bửu rộng lớn nhứt
Nhơn duyên mỉm cười xin Phật nói
Như Lai hiện cười phóng
tia sángVì các thừa kia có
sai biệtÁnh sáng trở vào vai gối Phật
Đó là vì người
Nhị thừa kia
Nay Phật phóng ra
vô lượng quangSáng ấy trở vào ngay đảnh Phật
Đấng Thiên
Trung Tôn vì người nào
Ở nơi
Phật thừa sẽ thọ ký”.
Đức Phật bảo
Tôn giả A Nan : “Nay ông có thấy
Bạt Đà La này chăng ? Quá chín vạn hai ngàn kiếp nơi cõi
Đại Trang Nghiêm trong kiếp Thiện Hóa,
Bạt Đà La sẽ
thành Phật hiệu
Thần Biến Vương
Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác.
Cõi Phật ấy
nhân dân đông đảo
an ổn giàu vui đất bằng êm dịu như bông
đâu la, cây hoa cây quả bày hàng thứ lớp,
trang nghiêm với
tràng phan bửu cái, các
âm nhạc tự kêu, hơi thơm khắp chốn, đồ uống ăn
cần dùng đều
tùy niệm mà đến,
vật dụng hưởng thọ như
trời Đao Lợi. Nước ấy thường hiện các thứ
trang nghiêm nên hiệu là
Đại Trang Nghiêm. Tất cả nhơn dân trong cõi ấy đều an trụ
Đại thừa tin sâu
vững chắc.
Thần Biến Vương
Như Lai thọ bảy ngàn tuổi,
chánh pháp trụ thế đủ trăm ức năm. Lúc sắp
nhập Niết bàn đức Phật ấy
thọ ký Vô thượng Bồ đề cho
Bồ Tát danh xưng rằng :
Đời sau ông sẽ
thành Phật hiệu Nhứt Thiết
Tối Thắng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác”.
Bấy giờ
Bạt Đà La nghe
đức Phật thọ ký xong từ
hư không xuống
đảnh lễ chưn Phật bạch rằng : “Nay tôi
quy mạng đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác và pháp Tỳ Kheo”.
Bạt Đà La ân cần bạch như vậy
vô lượng câu chi số trăm ngàn biến, lại bạch rằng : “Như
đức Phật Thế Tôn vì ở nơi
chơn như không có khác nên nói tất cả
pháp không khác
chơn như, nhẫn đến không
sai biệt không thiếu bớt không
phân biệt không
sanh không tác, nay tôi
quy y cũng như vậy”.
Tôn giả A Nan nói với
Bạt Đà La : “Nếu ông như
chơn như được
đức Phật nói mà
quy y như vậy, nay ông há lại ở trong
Phật pháp tánh có sở đắc chăng ?”.
Bạt Đà La nói : “Thân tôi tức là
Như Lai pháp tánh. Tại sao? Vì tôi và
Như Lai không hai không khác, vì tất cả pháp đều
chơn như vậy. Nói là
chơn như thì tức là các
pháp tánh vô sai biệt, tất cả
chúng sanh cũng như vậy.
Tôn giả nên biết nói là không hai là không chỗ
phân biệt đó là không hai. Tại sao ? Vì khắp biết các
pháp chỉ có
danh tự, vì là
Phật trí vậy”.
Tôn giả bạch
đức Phật : “Bạch
đức Thế Tôn ! Rất
lạ kỳ Ảo sư Bạt Đà La ấy lại có
trí huệ biện tài như vậy. Xưa ông ấy dùng
ảo hóa mê hoặc thế gian, nay thì dùng
trí huệ hoặc loạn”.
Đức Phật bảo
Bạt Đà La : “Ông có thiệt vậy chăng ?”.
Bạt Đà La bạch Phật : “Như
đức Phật đã làm những
sự hoặc loạn tôi cũng như
vậy mà hoặc loạn
thế gian. Tại sao? Như
Phật Thế Tôn ở trong
vô ngã mà nói có
chúng sanh và
thọ giả, đây là đại hoặc loạn ở
thế gian. Như
đức Như Lai đã chứng
Bồ đề rồi chẳng thấy chút pháp
sanh tử qua lại mà nói
sanh tử qua lại.
Như ý tôi thì chỉ có
đức Như Lai là đại hoặc loạn thôi”.
Đức Phật nói : “Lành thay,
lành thay, như lời
Bạt Đà La nói, ở trong
vô ngã nhẫn đến không có
sanh tử qua lại mà
chư Phật Như Lai tùy theo thế tục nói
sanh tử v.v… cũng không có pháp gọi là
Niết bàn, nhưng vì chứng được pháp
Niết bàn mà nói Niết bàn”.
Bạt Đà La bạch Phật : “Tôi xin
xuất gia làm Tỳ Kheo”.
Đức Phật bảo
Di Lặc đại Bồ Tát : “Ông nên cạo râu tóc
truyền giới cụ túc cho
Bạt Đà La.
Tuân lòi
đức Phật,
Di Lặc Bồ Tát cho
Bạt Đà La xuất gia thọ giới cụ túc.
Được
xuất gia rồi,
Bạt Đà La bạch Phật : “Bạch
đức Thế Tôn !
Xuất gia đây chỉ là
hình tướng chẳng phải chơn
xuất gia. Nếu chư
Bồ Tát chơn
xuất gia là lìa các tướng ở
ba cõi thành thục chúng sanh mới gọi là chơn xuất gia”.
Nói lời trên đây xong, có năm ngàn
chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, đều ở nơi các lậu tâm
được giải thoát.
Tôn giả A Nan bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Kinh này tên là gì ?
Chúng tôi phải phụng trì thế nào ?”.
Đức Phật phán : “Kinh này tên là
kinh Pháp Môn
Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La, cũng gọi kinh Tiệm Chứng
Bồ Đề Pháp Môn. Nếu có
chúng sanh ở đời
mạt thế muốn thấy
Như Lai và
làm Phật sự cho
chúng sanh thì nên
thọ trì đọc tụng kinh này và rộng
giảng thuyết cho
mọi người. Tại sao ? Vì người nầy đã thấy
Như Lai, cũng đã
làm Phật sự cho người rồi. Vì thế nên ở nơi kinh này mà
thọ trì đọc tụng rộng
lưu thông là
thương xót làm
lợi lạc cho
chúng sanh. Nếu người muốn đến
Vô thượng Bồ đề cũng ở nơi kinh này siêng năng
tu tập.
Kinh này hay xuất sanh
Vô thượng Bồ đề, vì thế nên cũng gọi là kinh Xuất Sanh
Bồ Đề.
Nếu người
thọ trì đọc tụng kinh này thì phải biết chư Phật ở nơi thân người ấy, huống là y kinh này
tu hành như ý”.
Bạt Đà La bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Kinh này cũng gọi là kinh Phát Giác
Thiện Căn. Tại sao ? Vì nay ở nơi Phật được nghe kinh này tất cả
thiện căn đều
hiện tiền vậy”.
Đức Phật nói kinh này rồi,
Tôn giả A Nan và
Bạt Đà La cùng Trời, Người,
đại chúng A Tu La,
Càn Thát Bà v.v…
nghe lời Phật dạy đều rất
vui mừng tin nhận
phụng hành.
XXI. PHÁP HỘI THỌ KÝ ẢO SƯ BẠT ĐÀ LA
THỨ HAI MƯƠI MỐT
HẾT