KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU
Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Phẩm Lục Giới Sai Biệt
Thứ Hai Mươi Lăm
Bấy giờ
Tịnh Phạn Vương và
quyến thuộc thấy
A Tu La nhẫn đến trời Quảng Quả
cúng dường Phật được
thọ ký, cũng nghe
trời Tịnh Cư nói
kệ tán thán Phật, lại thấy
ngoại đạo cũng được
thọ ký, nhà vua
suy nghĩ rằng : Việc ấy
hi hữu chẳng nghĩ bàn được.
Đức Thế Tôn rất khéo nói như vậy, tất cả
thế gian rồi đều
vui mừng.
Do
ái luyến con trai mình nên
Tịnh Phạn Vương đối với
đức Phật tình ý rất
ân cần.
Đức Thế Tôn nói với
Tịnh Phạn Vương rằng : “Pháp của Phật nói, trước giữa sau đều thiện cả, nghĩa ấy
sâu xa, vị ấy thuần thiện
thanh tịnh không xen tạp
thanh bạch không
ô nhiễm, nói rõ pháp
phạm hạnh. Những
phạm hạnh gì ? Đó là
pháp môn phân biệt lục giới.
Nay vua nên lắng nghe khéo
suy nghĩ sẽ vì vua mà nói ”.
Vua nói : “
Lành thay, nay tôi nghe kỹ xin Phật nói cho”.
Đức Phật nói : “ Nầy
Đại Vương ! Gì là
pháp môn phân biệt lục giới ?
Nầy
Đại Vương lục giới được nói đó là
trượng phu,
lục xúc nhập cũng là
trượng phu,
thập bát ý thức cảnh giới cũng là
trượng phu.
Nầy
Đại Vương ! Cớ gì Phật nói
lục giới tức là
trượng phu ? Những gì là
lục giới ? Đó là
địa giới,
thủy giới,
hỏa giới,
phong giới,
không giới và
thức giới.
Nói rằng
lục giới là
trượng phu đó là đây vậy.
Cớ gì Phật nói
lục xúc nhập gọi là trượng phu? Nhũng gì là
lục xúc nhập ? Đó là vì nhãn xúc nhập thấy các sắc, nhĩ tỷ
thiệt thân cũng như vậy, nhẫn đến vì ý xúc nhập biết các pháp.
Nói rằng
lục xúc nhập là
trượng phu đó là đây vậy
Có gì Phật nói mười tám
ý thức cảnh giới là
trượng phu ? Gì là mười tám
ý thức cảnh giới ? Đó là nhãn thấy được sắc
khả ý do ức
Tưởng
phân biệt mà sanh tư giác, thấy sắc bất
khả ý cũng ức tưởng
phân biệt mà sanh tư giác, thấy sắc xả ý cũng ức tưởng
phân biệt mà sanh tư giác. Nhĩ tỷ
thiệt thân cũng như vậy. Nhẫn đến ý biết pháp
khả ý, biết pháp xả xứ ý đều ức tưởng
phân biệt.
Nói rằng
thập bát ý thức cảnh giới là
trượng phu đó là đây vậy.
Nầy
Đại Vương địa giới có hai thứ : đó là nội và ngoại.
Nội
địa giới là trong tự thân được có những thứ cứng rắn có được có lấy như là tóc long móng răng
da thịt gân xương tủy não
ngũ tạng lục phủ đại tiện
ngoại
địa giới là ngoài thân có những thứ cứng rắn chẳng được chẳng lấy.
Nầy
Đại Vương !
địa giới trong thân, lúc nó
sanh không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng không đi đâu.
nầy
Đại Vương : Có lúc nữ nhơn tự
phân biệt tôi là nư’ nhơn, thấy nam tử kia lại sanh
phân biệt kia là nam tử, bèn sanh
ý tưởng dục ưa muốn hòa hiệp mà sanh
ái nhiễm nơi nam tử ấy.
Có lúc nam tử ấy tự
phân biệt tôi là nam tử, thấy nữ nhơn kia bèn sanh
phân biệt kia là nữ nhơn rồi sanh
ái nhiễm.
Nam tử và nữ nhơn ấy đều sanh
ái nhiễm mà cùng hòa hiệp. Do hòa hiệp mà có
ca la lã.
Nầy
Đại Vương ! Nam tử
phân biệt ấy và sự được
phân biệt, cả hai đều
bất khả đắc, nam tử và tánh nam tử cũng
bất khả đắc, do đó chẳng
tương tục mà sanh
phân biệt.
Phân biệt ấy
tự tánh cũng
bất khả đắc. Như
phân biệt tự tánh bất khả đắc, hòa hiệp và hòa hiệp tư( tánh cũng
bất khả đắc,
ca la lã và
ca la lã tư( tánh cũng
bất khả đắc.
Nếu
tự tánh bất khả đắc thì nó làm sao sanh được yết bồ đàm ?
Nầy
Đại Vương ! Nhơn
phân biệt mà sanh ra có thứ cứng rắn ấy. Thứ cứng rắn lúc
sanh không có từ đâu đến.
Nầy
Đại Vương ! Có lúc thân nầy
rốt cuộc làm
tử thi.
Tử thi cứng rắn ấy lúc
biến hoại nó chẳng về phương Đông cũng chẳng về phương
Nam phương Bắc phương Tây bốn cạnh trên dưới.
Như trên ấy, đó là nội thân
địa giới.
Nầy
Đại Vương ! Có lúc
thế gian đây đều trống rỗng, lại sanh
Phạm Thiên cung điện thất bửu. Tướng cứng rán của cung điện ấy lúc
sanh không từ đâu đến.
Tướng cứng rắn của cung điện thất bửu
trời Tha Hóa Tự Tại,
trời Hóa Lạc,
trời Đâu Suất, trời
Dạ Ma,
trời Đao Lợi, trời
Tứ Thiên Vương, lúc
sanh không từ đâu đến.
Núi
Thiết Vi, núi
Đại Thiết Vi cứng rắn,lú
sanh không từ đâu đến. Nhẫn đến
núi Tu Di, khắp cõi
tam thiên Đại Thiên , tất cả thứ cứng rắn trong ấy, lúc
sanh không từ đâu đến.
Đại địa nầy dày một trăm sáu mươi vạn
do tuần, lúc
sanh không từ đâu đến.
Nầy
Đại Vương ! Có lúc
thế giới nầy hư hoại. Lúc sắp hoại,
đại địa hoặc bị lửa cháy nát, hoặc bị nước trôi rã, hoặc bị gió thổi tan. Lúc lửa cháy
đại địa nầy
cho đến khói tro không còn thấy, như dầu tô bị lửa cháy tan biến không sót thừa, như lấy muối bỏ vào nước
tiêu tan hết cả. Lúc bị gió thổi hoại cũng không còn sót thừa, như gió mạnh tỳ lam thổi tan mất bầy phi điểu không còn sót thừa.
Địa giới trong ấy lúc tan diệt cũng không đi đâu.
Nầy
Đại Vương ! Đúng vậy đúng vậy, nội thân
địa giới và
ngoại thân địa giới, lúc nó
sanh không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Lúc nó sanh cũng không lúc nó trụ cũng không. Sanh và trụ hai
thời gian thể tánh đều không.
Nầy
Đại Vương !
Thủy giới cũng có hai thứ : nội và ngoại.
Nội thân
thủy giới là những thứ nước, tánh nước, thể nước, hoặc nhuần, tánh nhuần, thể nhuần ở trong thân, như nước mắt, nước mũi, mồ hôi, nước miếng, mủ, máu, đàm, mỡ, tủy, sữa,
tiểu tiện.
Ngoại thân thủy giới là những nước tánh nước thể nước và nhuần tánh nhuần thể nhuần mà thân chẳng được chẳng nhiếp.
nầy
Đại Vương !
Thủy giới trong thân ấy, lúc nó
sanh không từ đâu lại, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Như líc thấy người
yêu thương thì trong mắt chảy nước mà lúc bị khổ trong mắt cũng chảy nước, lúc
nghe pháp kính tin nước mắt chảy ra mà bị phong hàn cũng chảy nước mắt, lúc mắt nhặm đỏ cũng vậy.
Nước mắt ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng chẳng đi đâu.
Nầy
Đại Vương có lúc
thủy giới trong thân
tăng trưởng quá nhiều có
thể diệt hỏa giới trong thân. Lúc
hỏa giới ấy diệt, nó không đi đến đâu. Có lúc
hỏa giới trong thân quá
tăng thạnh hay làm khô cạn
thủy giới trong thân. Lúc bị đốt cạn,
thủy giới ấy đi không đến đâu.
Nầy
Đại Vương !
Hỏa giới và
thủy giới trong thân ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đi đâu. Lúc sanh nó cũng không,
thể tánh nó tự không.
Nầy
Đại Vương !Có lúc
thế giới nầy hư hoại. Lúc
thế giới nầy sắp hoại, trong
không gian nổi lên ba mươi hai lớp mây đầy trùm trắp
tam thiên Đại Thiên thế giới đến năm
trung kiếp mưa lớn không dứt, giọt mưa như
tượng vương đái. Sau đó lại
trải qua năm
trung kiếp mưa thật to lớn, nước ngập đầy đến
Phạm Thiên.
Nầy
Đại Vương !
Thủy giới to lớn ấy,
lúc đầu sanh không từ đâu đến.
Nầy
Đại Vương ! Lại có lúc
thế giới nầy hư hoại. Lúc sắp hoại, trong
thế giới nầy có
hai mặt nhựt
xuất hiện, bấy giờ suối nguồn sông nhỏ đều khô cạn.
Kế đến có bốn mặt nhựt
xuất hiện, bấy giờ nguồn nước của các sông lớn đều khô hết.
Kế đến có năm mặt nhựt
xuất hiện, bấy giờ nước trong
đại hải lần lần khô cạn từ một
do tuần, lần lần khô cạn đến mười
do tuần, trăm
do tuần, ngàn
do tuần, vạn
do tuần, đến bốn vạn bốn ngàn
do tuần đều khô cạn.
Bấy giờ nước còn thừa trong
đại hải từ bốn vạn
do tuần, lần lần còn ba vạn, hai vạn, một vạn, chín ngàn, tám ngàn đến còn một ngàn
do tuần, lần lần cạn còn thừa chín trăm tám trăm đến một trăm
do tuần, lần lần cạn còn thừa chín mươi đến còn mười
do tuần, cạn lần còn thừa chín đến một
do tuần, cạn lần còn thừa năm dặm đến mười
đa la thọ , chín đến còn một
đa la thọ, cạn lần
cho đến chỉ còn vũng ướt như dấu chơn.
Bấy giờ trong
đại hải chỉ còn chút tướng ẩm ướt như lúc tròi mưa thoạt ướt thoạt khô.
Lần đến lúc trong
đại hải hơi nước chỉ còn thắm mặt ngón tay.
Nầy
Đại Vương !
Thủy giới ấy lúc lần lần diệt, nó đi chẳng đến đâu,
mười phương đều không đến, lúc sanh nó cũng không, lúc trụ nó cũng không, lúc diệt nó cũng không. Tánh
thủy giới ây
bất khả đắc chỉ có riêng
tác dụng thôi. Nhưng
tác dụng ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ không có tướng để được. Nầy
Đại vương hỏa giới cũng có hai thứ : : nội và ngoại.
Nội
hỏa giới là trong thân chỗ có hỏa, hỏa thể, hỏa tướngvà nhiệt, nhiệt thể, nhiệt tướng. Đó là trong thân có hơi ấm nóng hay làm
tiêu hóa thức uống ăn nhập vào số nhiệt độ ấy.
Ngoại
hỏa giới là những hỏa, thể hỏa, tướng hỏa và hơi ấm nóng ở ngoài thân chẳng lấy chẳng thọ ấy.
Nầy
Đại Vương ! Có lúc
ca la lã trong
bào thai, thân nội
hỏa giới tăng thạnh làm
thủy giới lần kém nên
ca la lã đặc lần cứng lần. Như,đồ kim khí do hỏa lực mà lần cứng rắn.
Ca la lã cứng đặc thì gọi là yết bồ đàm. Yết bò- đàm do hỏa lực mà thành tên là ty
thi ca. Ty
thi ca do hỏa lực mà thành tên là
kiên cố.
kiên cố do hỏa lực mà thành mọc ra năm nhánh.
Đúng vậy, nầy
Đại Vương !
Thủy giới ấy do
hỏa giới thành thục như vậy như vậy.
Thủy giới ấy lần đặc lần cứng mà thành khối thịt.
Nầy Đại Vương! Lúc
hỏa giới ấy sanh, nó không từ đâu lại, mà có thể đốt tiêu
thủy giới.
Nầy
Đại vương ! Có lúc trong thân người
hỏa giới lần diệt tận. Vì
hỏa giới diệt tận nên đồ
ăn uống không
tiêu hóa mà người bệnh ấy không thể
ăn uống được. Vì không
ăn uống được nên ho”a giới diệt hết mà người bệnh phải chết.
Nầy Đại Vương!
Hỏa giới lúc diệt, nó chẳng đi đến
mười phương. Lúc sanh nó cũng không, lúc diệt nó cũng không, mà
hỏa giới ấy từ nào
thể tánh nó tự không.
Nầy Đại Vương! Có
thời kỳ thế giới hư hoại. Lúc
thế giới hoại
hỏa giới ngoài thân
tăng thạnh cháy đỏ suốt khắp cả
tam thiên Đại Thiên thế giới.
Nầy
Đại Vương ! Lửa ngoài thân ấy, lúc
sanh không tưé đâu đến.
Nầy
Đại vương ! Lại có lúc khối lửa lớn ấy cháy khắp cõi
Đại Thiên rồi tắt. Lúc lửa ấy diệt, nó chẳng đến đâu, chẳng đến
mười phương.
Nầy
Đại Vương !
Hỏa giới ngoài thân ấy, lúc sanh cũng không, lúc diệt cũng không,
thể tánh nó tự không, chẳng phải có, chẳng thể được. Chỉ là riêng dụng, nhưng riêng dụng ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ.
Nầy
Đại Vương !
Phong giới cũng có hai thứ : nội và ngoại.
Gì là
phong giới trong thân ? Trong thân mình và trong thân người được có
phong giới bị thọ bị lấy, thể phong, danh phong, tốc tật, thể tốc tật,, danh tốc tật. Đó là ở nơi
tứ chi là phong, ở nơi tỳ vị là phong đi nơi
năm vóc là phong, đi nơi lóng đốt
chi phần là phong,
hơi thở ra vào cũng là phong. Nói
tóm lại, đi khắp trong
thân thể đều là phong.
Có lúc
phong giới trong thân ấy
tăng thạnh tập hiệp có thể làm cho
thủy giới khô khan, cũng có thể làm tổn giảm
hỏa giới, do đó thân người không nhuận trạch cũng không ấm nóng, bụng phình trướng, tay chưn co cúng, các mạch máu căng đầy, gân nóng rút giựt rất
đau khổ hoặc phải chết.
Nầy
Đại Vương !
Phong giới trong thân ấy, lúc
sanh không từ đâu đến.
Nầy
Đại vương !
Người bịnh phong ấy hoặc gặp
lương y cho đúng thuốc hay nên bịnh phong dứt hết. Lúc
phong giới ấy diệt, cũng không đi đâu. Lúc nó sanh cũng không, lúc nó diệt cũng không,
thể tánh nó tự không.
Gì là
phong giới ngoài thân ?
Nầy
Đại Vương ! Ngoài thân được có , thân chẳntg thủ chẳng thọ, thể phong, danh phong, tốc tật, danh tốc tật, đây gọi là
phong giới ngoài thân.
Nầy
Đại Vương ! Có lúc ngoại
phong giới ấy
tăng thạnh tập hiệp làm rụng lá gãy nhánh, gãy cây
trốc gốc, lở non ngã núi, tan nátthành
vi trần, cả cõi
Đại Thiên nầy bị gió mạnh ấy thổi lăn chuyển xoay tròn. Như thợ gốm lấy gậy xoay chuyển vòng khuôn, cõi
Đại Thiên nầy bị gió thổi xoay tròn cũng vậy. Như chút ít bột mịn bị gió thổi tan khó thấy được, cõi
Đại Thiên nầy bị gió mạnh thổi tan thành
vi trần cũng khó thấy được . Như lúc có gió lớn lấy nắm đất rải theo gió bay tan khó thấy được, cõi
Đại Thiên nầy lúc bị gió mạnh thổi tan cũng khó thấy được như vậy.
Nầy
Đại Vương phong giới ngoài thân ấy, lúc
sanh không từ đâu đến.
Lại như đầu
mùa hạ không gió cây cỏ khô héo.
Nầy
Đại Vương ! Ngoại
phong giới ấy, lúc diệt nó không đi đâu.
Phong giới ấy lúc sanh cũng không, lúc diệt cũng không,
thể tánh nó tự không.
Nầy
Đại Vương !Nội
phong giới và ngoại
phong giới ấy cả hai đều không.
Thể tánh nó tự ly, tướng cũng tự ly, tánh cũng
bất khả đắc, tướng diệt cũng ly.
Tại sao ? Vì
phong giới ấy chẳng phải tác, không có
tác giả vậy.
Nầy
Đại Vương ! Gì là
hư không giới ? Nó cũng có hai thứ : nội và ngoại.
Gì là nội
hư không giới ? Hoặc trong thân mình, hoặc trong thân người được thọ được lấy, đó là
hư không, thể
hư không, danh
hư không, trong thân sanh ra ấy nhập vào số các ấm các xứ và các giới bao nhiêu những lỗ huyệt. Đây gọi là nội
hư không giới.
Gì là ngoại
hư không giới ? Đó là ngoài thân có chẳng phải sắc, rỗng
không nhẫn đến không có lông nhỏ ấy gọi là
hư không. Đây gọi laé ngoại
hư không giới.
Nầy
Đại Vương có lúc do nghiệp
nhơn duyên nên sanh các nhạ-p. Các nhập ấy được sanh rồi vây quanh
không giới, bấy giờ được gọi là vào số nội
hư không giới.
Nầy
Đại Vương trong mỗi mỗi
pháp như vậy suy cầu không một
nhãn nhập có thể được, chỉ có
tác dụng.
Nầy
Đại Vương do có gì mà không ? Vì
địa giới thanh tịnh vậy. Như
địa giới thanh tịnh nên không,
thủy hỏa phong giới thanh tịnh nên cũng không như vậy, nó không từ đâu đến.
Nầy
Đại Vương ! Có lúc tất cả các sắc đều
hoại diệt làm
hư không. Tại sao ? Vì
hư không giới vô tận vậy.
Nầy
Đại Vương ! Chỉ nội
hư không giới an trụ
bất động.
Như
vô vi Niết bàn giới an trụ
bất động, phải biết
hư không giới khắp tất cả chỗ cũng vậy.
Nầy
Đại Vương !Như có người ở đồng hoang trống đào đất làm ao làm giếng. Ý
Đại Vương thế nào,
hư không ấy từ đâu đến ?
Bạch
Thế Tôn ! Nó không từ đâu đến.
- Nầy
Đại Vương ! Nếu người ấy lấy đất đắp lại. Ý
Đại Vương thế nào,
hư không ấy đi đến đâu ?
- Bạch
Thế Tôn ! Nó không đi đến đâu. Tại sao ? Bạch
Thế Tôn !
Hư không giới ấy không đến không đi. Tại sao ? Vì
hư không giới ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ vậy
- Nầy
Đại Vương ! Ngoại
hư không giới cũng
bất động tánh nó không
biến đổi.
Hư không giới rỗng không chẳng phải là pháp có. Tại sao ? Vì
hư không giới chẳng phải nam chẳng phải nữ vậy.
Nầy
Đại Vương ! Gì là
thức giới ?
Như nhãn làm chủ
phan duyên nơi sắc, vì đối sắc mà biết nên thức sanh ra hoặc biết được xanh vàng đỏ trắng các màu sắc, cũng biết được dài vắn to nhỏ các
hình sắc. Tất cả những vật sắc mà
nhãn thức thấy được ấy gọi là
nhãn thức giới.
Cũng vậy, hoặc biết tiếng , biết hương, biết vị, biết xúc, hoặc biết pháp, hoặc biết sáu căn ssở duyên
sở tri thì gọi đó là
nhĩ thức giới đến gọi là
ý thức giới.
Nầy
Đại Vương ! Lại
thức giới ấy chẳng y nương các căn, cũng chẳng y nương nơi giới. Tại sao ? Vì chẳng phải địa
tịnh sắc làm
nhãn nhập, chẳng phải
thủy hỏa phong tịnh làm
nhãn nhập. Tại sao ? Chẳng phải
địa giới thanh tịnh và các pháp khác làm
nhãn nhập và người có đủ
nhãn nhập, chẳng phải
thủy hỏa phong giới thanh tịnh sắc và các pháp khác làm
nhãn nhập và người có đủ
nhãn nhập. Tại sao ? Vì các pháp
vô tri vô
liễu biệt vậy, không
kham năng vậy, chẳng phải
sơ trung hậu vậy, chẳng phải
nội ngoại trung gian vậy.
Nầy
Đại Vương :
Thức giới ấy biết cảnh trước rồi liền dứt mất chẳng còn sanh lại. Thức ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không chỗ đến.
Nầy
Đại Vương ! Gì gọi là
nhãn nhập ?
Đó là
bốn đại chủng cấu thành
sắc thanh tịnh. Các
pháp thể tánh nếu là tự không, thì có gì là thanh , có gì là trược. trong các
pháp không có tịnh uế thì sao lại ở trong các pháp mà thấy có tịnh uế.
Như vậy, nầy
Đại Vương ! Vì thế nên biết nhãnh nhạ-p
quyết định thể tánbh
cứu cánh không tịch,
tiền tế hậu tế đều
bất khả đắc. Tại sao ?
Vì
vị lai chưa đến nên
bất khả đắc,
quá khứ đã diệt nên cũng
bất khả đắc.
Vị lai và sự
vị lai bất khả đắc. Nhãn xứ ấy cũng
bất khả đắc, vì
tự tánh ly vậy. Nếu
thể tánh bất khả đắc thì cũng không có được tánh nam và tánh nữ. Đã không có tánh nam và tánh nữ thì nào có
ngã ngã sở.
Nầy
Đại Vương ! Nếu có
ngã ngã sở, đó là
cảnh giới ma . Không
ngã không ngã sở thì gọi là
cảnh giới chư Phật Như Lai. tại sao ? Vì tất cả pháp ly
ngã ngã sở vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như thiệt biết rõ
nhãn nhập không,
nhãn nhập tự tánh không, tại sao ? Vì nhãnh nhập ấy tướng nó
bất khả đắc, thế nên
nhãn nhập ấy
thể tánh nó
không tịch.
Tánh không ấy
ly tướng nhãn nhập, đây gọi là
vô tướng. Ở nơi
tướng không mong cầu nên gọi là
vô nguyện. Đây là ở nơi
nhãn nhập ba môn giải thoát hiện ra trước.
Nầy
Đại Vương ! Gì là
nhĩ nhập giới đến
thân nhập giới ?
Nầy Đại Vương! Tất cả pháp ấy đối ba
giải thoát môn,
hiện tiền quyết định đến
pháp giới cứu cánh khắp
hư không, chẳng gọi được, chẳng nói được, chẳng dùng được, chẳng chỉ được, không
tranh luận, không
ngữ ngôn, chẳng đo lường được.
Nầy
Đại Vương ! Đem nhãn đối sắc gọi là
điên đảo, nhĩ đối thanh, tỷ đối hương, thiệt đối vị, thân đối xúc, ý
đối pháp, gọi là
điên đảo. Vì thế các pháp gọi là ý
cảnh giới.
Nầy
Đại Vương !
Nhãn nhập đối sắc qua thấy lấy dính có ba thứ ngại :
ngó thấy cảnh thuận sanh
ý tưởng ái luyến, nếu thấy cảnh trái sanh
ý tưởng sân khuể, thấy cảnh
trung dung sanh
ý tưởng không tham không sân, năm nhập kia đối cảnh cũng có ba thứ ngại như vậy, nếu duyên cảnh thuận sanh tâm ái, duyên cảnh nghịch sanh tâm sân, duyên cảnh
trung dung sanh tâm
ngu hoặc.
Cảnh giới như vậy là chỗ sở hành của ý. Vì ý đi khắp nên gọi là ý
cảnh giới.
Nầy
Đại Vương ! Ý ấy hành nơi sắc thuận thì sanh
tham dục, hành nơi ssác trái thì khởi sân nộ, hành sắc
trung dung thì khởi
ngu si. Như vậy, ý hành nơi thanh hương vị xúc cũng đều có ba sự khởi
tham sân si. Nghĩa là ý duyên cảnh thuận ý pháp sanh
tham dục, ý duyên cảnh trái ý pháp sanh
sân khuể, ý duyên cảnh
trung dung ý pháp
sanh khởi vô minh ngu si.
Nầy
Đại Vương !Phải như
vậy mà biết nơi các căn dường
như ảo hóa, biết
cảnh giới ấy như mộng.
Nầy
Đại Vương ! Như người trong mộng cùng các thể nữ và
đại chúng vui vầy. Người ấy sau khi
thức dậy ghi nhớ sự việc trong mộng nào
đại chúng nào các thể nữ. Ý
Đại Vương thế nào, sự việc được thấy trong mộng có thiệt chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Không có thiệt
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy
đang lúc ở trong mộng cho là thiệt, có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Không phải trí. Tại sao ?
Đại chúng và thể nữ được thấy trong mộng
cứu cánh là không, cũng là
bất khả đắc, huống lại cùng nhau vui vầy. Người ấy chỉ tự khổ nhọc, trọn không có thiêt.
- Nầy
Đại Vương ! Các
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, thấy sắc
khả ý, mắt thấy sắc rồi sanh lòng
chấp trước, sanh
chấp trước rồi khởi lòng ái trọng, khởi ái trọng rồi sanh tâm
nhiễm trước,sanh
nhiễm trước rồi làm nghiệp trước, đó là thân
ba nghiệp, khẩu bốn nghiệp và ý
ba nghiệp, tạo nghiệp rồi liền dứt mất, nghiệp ấy dứt rồi nó chẳng y nương
Ở
mười phương, nghiệp ấy nhẫn đến lúc
lâm chung thức
tối hậu diệt thấy việc từ trước
hiện ra trong
tâm tưởng.
Nầy
Đại Vương ! Người ấy,
tự phần nghiệp dứt hết, nghiệp khác
hiện ra, giống như từ mộng
thức dậy rồi nhớ sự việc trong mộng.
Nầy
Đại Vương ! Như vậy, thức
tối hậu làm chủ, nghiệp ấy làm
nhơn duyên, do hai duyên ấy mà trong phần sanh
thức tâm bắt đầu khởi hoặc sanh
địa ngục, hoặc sanh
súc sanh, hoặc sanh giới
diêm ma la, hoặc sanh
A Tu La, hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, sanh phần thức sanh, sanh phần
tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại Vương ! không có một pháp nào từ đời nầy đến đời khác, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả ba 1o đều chẳng hư mất. Không có người
tác nghiệp, cũng không người
thọ báo.
Nầy
Đại Vương ! Lúc
tối hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Nầy
Đại Vương ! Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng không đến đâu. Duyên ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt không đến đâu. Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức ấy,
thể tánh hậu thức không. Duyên ấy,
thể tánh duyên không. Nghiệp ấy,
nghiệp thể tánh không. Tử ấy,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ,
thể tánh thọ không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không.Khởi,
thể tánh khởi không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy
Đại Vương ! Như vậy,
tác nghiệp và
quả báo không hư mất, không có người
tác nghiệp, cũng không có người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không ấy là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã không có tướng thì cũng không có nguyện cầu gọi là
vô nguyện giải thoát môn.
Nầy
Đại Vương ! Như vậy tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát, cùng với không đi chung, đường trước là
Niết bàn, xa rời các tướng, xa rời nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, khắp
hư không tế.
Nầy Đại Vương! Nên biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng, tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người trong mộng đấu với kẻ oán thù. Người ấy
thức dậy rồi ghi nhớ cùng kẻ địch đấu nhau. Ý
Đại Vương thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy ở trong mộng cho sự ấy là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Không phải là trí . Tại sao ? Vì trong mộng
cứu cánh không có kẻ
oán địch, huống là chiến đấu. Người ấy huống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, mắt thấy sắc bát khả ái, lòng họ chẳng
vui thích mà sanh
chấp trước rội
khởi tâm sân khuể làm cho tâm
trược loạn mà tạo nghiệp sân nơi thân ba, miệng bốn, ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo xong liền dứt mất. Nghiệp ấy dứt rồi chẳng nương ở
mười phương. Nghiệp ấy đến lúc
lâm chung tối hậu thức diệt thấy
việc làm từ trước
hiện ra trong
tâm tưởng.
Nầy
Đại Vương ! Người ấy thấy nghiệp ấy hiện rồi, lòng họ kinh sợ,
tự phần nghiệp hết, nghiệp khác
hiện ra, như lúc
thức dậy nhớ sự trong mộng.
Nầy
Đại Vương ! Như vậy
tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm
nhơn duyên. Do hai duyên ấy mà trong sanh phần
thức tâm bắt đầu khởi, hoặc sanh
địa ngục súc sanh ngạ quỉ, hoặc sanh
A Tu La Nhơn Thiên. Thức trước diệt rồi, sanh phần thức sanh. Sanh phần
tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại Vương ! Không có một pháp nào từ đời nay đến
đời sau nhưng mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ
quả báo đều chẳng hư mất. Không có người
tác nghiệp cũng không có người
thọ báo.
Nầy
Đại Vương ! Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.nầy
Đại Vương ! Hậu thức ấy lúc khởi , nó không từ đâu đến, đến lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử cũng không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức lúc
sanh không từ đâu đến , lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức ấy,
thể tánh hậu thức không. Duyên ấy,
thể tánh duyên không. Nghiệp á-y,
thể tánh nghiệp không. Tử ấy,
thể tánh tử không. Sơ thức ấy,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh ấy,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi ,
thể tánh khởi không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy
Đại Vương !Tác nghiệp và
quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không ấy là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không nên là
vô tướng giải thoát môn.Nếu đã
vô tướng thì không có nguyện cầu nên gọi là
vô nguyện giải thoát môn. Tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát cùng đi chung với không,
Niết bàn là
con đường trước,
xa lìa các tướng,
xa lìa nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng, tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như có người ở trong
chiêm bao bị quỉ nhiễu
não lòng họ kinh sợ.
Thức dậy, người ấy ghi nhớ quỉ trong mộng. Ý
Đại Vương thế nào, quỉ được thấy trong mộng có thiệt chăng?
- Bạch
Thế Tôn ! Không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy ở trong mộng cho là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Không phải là trí. Tại sao ? Vì trong mộng quỉ còn không có huống là sợ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
- Nầy
Đại vương ! Cũng vậy hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, mắt thấy xả xứ sắc lòng họ
chấp trước rồi tạo nghiệp
chấp trước nơi thân ba miệng bốn ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở
mười phương.
Nghiệp ấy đến lúc
lâm chung,
tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã tạo từ trước
hiện ra trong
tâm tưởng.
Nầy
Đại Vương ! Người ấy thấy rồi lòng họ kinh sợ,
tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sanh ra, giống như
thức dậy nhớ sự việc trong mộng.
Nầy
Đại Vương ! Như vậy
tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm
nhơn duyên, do hai duyên ấy mà trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh
địa ngục v.v… đến sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước diệt, sanh phần thức sanh, sanh phần
tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại Vương ! Không một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ
quả báo đều chẳng mất hư. Không có người
tác nghiệp và
thọ báo.
Nầy
Đại Vương ! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ sanh gọi là sanh số.
Hậu thức ấy , lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
Thể tánh nghiệp không. Tử,
thể tánh tử không.Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không.
Nầy
Đại Vương !
Tác nghiệp và
quả báo như vậy đều chẳng mất hư , không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo. Chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương !Phải biết tất cả pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không ấy là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Nếu đã
vô tướng thì không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát, cùng đi chung với không.
Niết bàn là
con đường trước,
xa lìa các tướng,
xa lìa nguyện
cầu cứu cánh
Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng. Tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người trong mộng thấy nữ nhơn đoan chánh
đệ nhứt trong nước, ở bên nữ nhơn ấy được nghe
âm nhạc vi diệu khả ái. Người ấy gần nữ nhơn nghe
âm nhạc thọ vui
ngũ dục. Sau khi
thức dậy, người ấy ghi nhớ
âm nhạc vi diệu khả ái trong mộng. Ý
Đại vương thế nào,
âm nhạc được nghe trong mộng có thiệt không ?
- Bạch
Thế Tôn không thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Trong mộng người ấy cho là thiệt thì có phải là trí chăng?
- Bạch
Thế Tôn không phải trí. Tại sao ? Trong mộng nữ nhơn và
âm nhạc cứu cánh đều không huống là vui
ngũ dục. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, họ thấy nữ nhơn và nghe
âm nhạc thích ý sanh lòng
nhiễm trước rồi tạo nghiệp
nhiễm trước nơi thân ba miệng và ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở
mười phương. Nghiệp như vậy đến lúc
lâm chung ,
tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm từ trước
hiện ra trong
tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng kinh sợ,
tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sinh ra , giống như
thức dậy nhớ sự trong mộng.
Nầy
Đại Vương ! Như vậy
tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm
nhơn duyên, do hai
nhơn duyên nên trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh
địa ngục v.v… đến trong Nhơn Thiên. Thức ấy diệt rồi sanh phần thức sanh, sanh phần
tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại Vương ! Không có một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ
quả báu đều chẳng mất hư. Không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo.
Nầy
Đại Vương ! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc không từ đâu đến, lúc diệt cũng chẳng đến đâu.
Duyên ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao? Vì
tự tánh ly vậy. Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp không. Tử,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Tác nghiệp và
quả báo như vậy đều không hư. Không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo. Chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng nên không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả đều có đủ
ba môn giải thoát môn cùng đi chung với không,
Niết bàn là
con đường trước,
xa lìa các tướng,
xa lìa nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng. Tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! tai nghe ác thanh,
sanh khởi ác tâm.
Nầy
Đại Vương ! Như người trong mộng thấy nữ nhơn đoan chánh
đệ nhứt trong nước, ở bên nữ nhơn ấy được nghe
âm nhạc vi diệu khả ái. Người ấy gần nữ nhơn nghe
âm nhạc thọ vui
ngũ dục. Sau khi
thức dậy, người ấy ghi nhớ
âm nhạc vi diệu khả ái trong mộng. Ý
Đại vương thế nào,
âm nhạc được nghe trong mộng có thiệt chăng?
- Bạch
Thế Tôn ! Không thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy cho sự trong mọ-ng là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Chẳng phải trí, tại sao ? Vì
thân ái biệt ly được thấy trong mộng ấy
cứu cánh không có huống là buồn khóc. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, họ thấy nghe ác thanh liền
chấp trước nên sanh lòng chẳng ưa rồi giận hờn mà tạo nghiệp sân nơi thân ba miệng bốn và ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở
mười phương. Nghiệp như vậy đến lúc
lâm chung,
tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm từ trước
hiện ra trong
tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng kinh sợ,
tự phần nghiệp hết nghiệp khác
hiện ra, giống như
thức dậy nhớ sự trong mộng. Cũng vậy
tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm
nhơn duyên, do
nhơn duyên ấy nên trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi hoặc sanh
địa ngục v.v… đến sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần
tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
-
Nầy
Đại Vương không một pháp nào từ đời nầy đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ
quả báo đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo.
Nầy
Đại Vương ! Hậu thức ấy, lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu
Nghiệp ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên ,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp không. Tử,
thể tánh tử
không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy
Đại Vương !
Tác nghiệp và
quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng nên không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát cùng đi chung với không,
Niết bàn là
con đường trước,
xa lìa các tướng,
xa lìa nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, khắp
hư không tế.
nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương tai nghe xả thanh, khởi
xả tướng.
Như người trong mộng nghe câu chẳng rõ nghĩa.
Thức dậy người ấy ghi nhớ tiếng được nghe trong mộng. Ý
Đại Vương thế nào, tiếng nghe trong mộng có thiệt chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! không thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy
nằm mộng cho là thiệt thì có phải là trí không ?
- Bạch
Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng
cứu cánh không có
âm thanh để được, huống là có câu
liễu nghĩa câu
bất liễu nghĩa. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hang
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, họ nghe xả thanh bèn
chấp trước nên
mê hoặc mà tạo nghiệp. Nghiệp được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở
mười phương.
Nghiệp như vậy đến lúc
lâm chung,
tối hậu thức diệt thấy sự đã làm từ trước
hiện ra trong
tâm tưởng. Người ấy thấy rồi tâm sanh
chấp trước,
tự phần nghiệp hết, nghiệp khác
hiện ra, giống như
thức dậy nhớ tiếng câu chẳng rõ nghĩa được nghe trong mộng.
Nầy
Đại Vương ! Như vậy,
tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm
nhơn duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh
địa ngục v.v…đến, hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, thức thọ sanh phần sanh, sanh phần tâm
tương tục chủng hoại chẳng duyệt.
Nầy
Đại Vương ! không một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ
quả báo đều chẳng mất hư. Không có người tạo nghiệp cũng không có người
thọ báo.
Nầy
Đại Vương ! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên thức không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp thức không. Tử,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không.Hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy
đại Vương !
Tác nghiệp và
quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch.
Tất cả
pháp không là
không giải pháp môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn.Nếu
vô tướng thì không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba
giải thoát môn cùng đi chung với không,
Niết bàn là
con đường trước, xa rời tướng, xa rời nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, khắp
hư không tế.
Nầy Đại Vương! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! thí như người
chiêm bao lấy hương
gỗ chiên đàn hoặc hương lá đa
ma la và các thứ hương khác để xoa thân mình.
Thức dậy người ấy các thứ hương được xoa trong mộng vừa rồi. Ý
Đại Vương thế nào?, sự thấy trong mộng ấy có thiệt chăng ?
- Bạch Thế Tôn! không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương !Người ấy cho là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng
cứu cánh không có hương huống là xoa thân. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng phu
ngu si không học
chánh pháp, họ ngửi hương thơm bèn mến thích rồi tạo mười nghiệp
nhiễm trước nơi thân ngữ ý. Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất, khi mất, nghiệp ấychẳng nương ở
mười phương. Nghiệp ấy đến lúc
lâm chung,
tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm từ trước hiện trong
tâm tưởng. Như trong
chiêm bao thức dậy nhớ hương thơm được ngửi trong mộng. Nầy
Đại Vương !
Tối hậu thức lám chủ, do nghiệp ấy làm
nhơn duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần
thức tâm ban đầu sanh khởi, hoặc sanh
địa ngục v.v…đến hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm
tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
-
Nầy
Đại Vương ! Không có một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ
quả báo đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo. Nầy
Đại Vương ! Lúc hậu thức diệt gọi là tử số.Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.
Duyên ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.
Nghiệp ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệtnó chẳng đến đâu.
Sơ thức ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nóchẳng đến đâu.
Thọ sanh ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không.Duyên,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp không. Tử,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy
Đại Vương !
Tác nghiệp và
quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không người
tác nghiệp, không người
thọ báo, chỉ vì theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch.
Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
không tướng nên không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả phápđều đủ
ba môn giải thoát cùng đi chung với không.
Niết bàn là
con đường trước, xa rời tướng xa rời nguyện,
cứu cánhNiết bàn giới,
quyết định như pháp giới, cùng khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết căn
như ảo,
cảnh giới như mộng. Tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người
chiêm bao thấy cổ mình đeo những
tử thi rắn, chó, thây người v.v…Thức dậy, người nhớ cảnh mộng rồi sợ sệt. Ý
Đại Vương thế nào , cảnh mộng ấy có thiệt chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy chấp lấy
tử thi được thấy trong mộng có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn !Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng
tử thi thì không có, huống là cột nơi cổ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng phám phu
ngu si không học
chánh pháp, họ thấy thúi xấu thì
chấp trước ghét bỏ mà tạo mười nghiệp sân ghét nơi thân khẩu ý? Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở
mười phương, đến lúc
lâm chung,
tối hậu thức diệt thấy
việc làm từ trước hiện trong
tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng ghét bỏ,
tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra? Như
thức dậy nhớ sự việc trong mộng.
-
Nầy
Đại Vương !
Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm
nhơn duyên, vì hai
nhơn duyên ấymà trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh
địa ngục v.v…đến hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm
tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại Vương ! không có một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp được làm và thọ
quả báo đều chẳng mất hư , không có người
tác nghiệp cũng không có người
thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lu&c diê(t cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Sơ thức, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên không.Nghiệp,
thể tánh nghiệp không.Tử,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không. Hoại,
thể tánh của hoại không.
Nầy
Đại Vương !
Tác nghiệp và
quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không có người
tác nghiệp cũng không có người
thọ báo, chỉ vì theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn? không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng cũng không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát cùng đi chung với không , trên đường đến
Niết bàn,
xa lìa tướng,
xa lìa nguyện,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, cùng khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng, tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người
chiêm bao thấy
tỷ căn hoại.
Thức dậy, người ấy ghi nhớ mũi mình hư. Ý
Đại Vương như thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Chẳng có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy chấp cảnh mộng là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng
cứu cánh không có
tỷ căn huống là hư hoại. Người ấy tự luống nhọc nhằn, đều không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, họ thấy
tỷ căn hoại thì
chấp trước lo sợ mà tạo mười nghiệp
chấp trước lo sợ nơi
thân khẩu ý.
Nghiệp ấy được tạo xong liền dứt diệt . Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở
mười phương, đến lúc
lâm chung tối hậu thức diệt thấy
việc đã làm hiện trong
tâm tưởng. Thấy rồi người ấy sanh lòng sợ sệt,
tự phần nghiệp hết nghiệp khác
hiện ra. Như
thức dậy nhớ việc trong mộng.
Như vậy,
tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm
nhơn duyên, vì hai
nhơn duyên ấy mà trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh
địa ngục v.v… đến hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm
tương tục chủng hoại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại Vương ! Không một pháp nầy từ đời nầy đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã tạo và thọ
quả báo đều không mất hư, không người
tác nghiệp cu’ng không người
thọ báo.
Lúc hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc
sanh không từ đâu tới, lúc diệt cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Sơ thức
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cung không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên không.Nghiệp,
thể tánh nghiệp không.Tử,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy
Đại Vương !
Tác nghiệp và
quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch. tất cả
pháp không là
không giải thoát môn.. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng nên cũng không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn.
Như vậy, tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát cùng đi chung với không, trên đường trước là
Niết bàn,
xa lìa tướng,
xa lìa nguyện,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới cùng khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng, tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người mộng thấy mình
đói khát được cơm canh ngon
tha hồ ăn uống.
Thức dậy thấy người ghi nhớ cơm canh ngon được ăn trong mộng. Ý
Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn !Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng
cứu cánh không có cơm canh huống lại có ăn. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, họ thấy các
thức ăn thì
chấp trước tham ưa say nhiễm rồi tạo nghiệp
tham nhiễm mười thứ nơi
thân khẩu ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở
mười phương, nhẫn lúc
lâm chung,
tối hậu thức diệt thấy
việc làm từ reươ&c
hiện ra trong
tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng tham chấp,
tự phần nghiệp hết, nghiệp khác
hiện ra, như người mộng
thức dậy nhớ sự trong mộng.
-
Nầy
Đại Vương !
Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm
nhơn duyên , vì hai
nhơn duyên ấy mà trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi, thức sanh trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm
tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại vương ! không một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp dã làm từ trước và thọ
quả báo đều chẳng mất hư. Không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo.
Lúc hậu thức ấy diệt gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc
sanh không từ đâu dến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên thức không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp thức không. Tử,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không.Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không,. Hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy
Đại Vương !
Tác nghiệp và
quả báo như vậy đều không mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng nên cũng không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước là
Niết bàn,
xa lìa tướng
xa lìa nguyện,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, cùng khắp
hư không tế.
Nấy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo, cảnh giớiu như mộng, tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người mộng thấy miénh quá đói gặp được dưa đắng, trái câu xa, trái
nhâm bà v.v…liền lấy ăn.
Thức dậy người ấy ghi nhớ trong mộng ăn những trái đắng. Ý
Đại Vương thế nào, trong mộng người ấy có thiệt ăn trái đắng chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! không có thiệt.
- Nầy Đai Cương ! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng còn không có trái đắng huống là có ăn. Người ấy luống sự nhọc nhằn, đều không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, mộng thấy bị đói khổ, họ liền
chấp trước mà tạo mười nghiệp
chấp trước nơi thân khẩu và ý. Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở
mười phương,
cho đến lúc
lâm chung,
tối hậu thức diệt, thấy
việc làm từ trước hiện trong
tâm tưởng.
-
Người ấy thấy rồi, trong tâm sanh
vọng tưởng,
tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sanh ra, như người mộng
thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vậy
tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm
nhơn duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi
thác sanh vào sáu loài. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm
tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Đại !vương ! không một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ
quả báo, đều chẳng mất hư, không có người tạo nghiệp cũng không có người
thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp không. Tử,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không.Hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy
Đại Vương !
Tác nghiệp và
thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng nên cũng không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn.
Như vậy, tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát, cùng đi với không trên đường trước,
Niết bàn,
xa lìa tướng,
xa lìa nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, cùng khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng. Tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như gnười mộng thấy lưỡi mình hư hoại.
Thức dậy người ấy ghi nhớ sự trong mộng. Ý
Đại vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
- Bạch
Đại Vương ! Không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy cho sự mọ-ng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Chẳng phải là trí . Tại sao ? Vì trong mộng lưỡi còn chẳng có huống là hư hoại. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, thấy
thiệt căn hư hoại thì
chấp trước sanh long chẳng ưa mà khởi mười nghiệp
chấp trước nơi
thân khẩu ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt, chẳng nương ở
mười phương,
cho đến lúc
lâm chung,
tối hậu thức diệt thấy
việc làm trước hiện trong
tâm tưởng.
-
Người ấy thấy rồi lòng lo sợ,
tự phần nghiệp hết nghiệp khác
hiện ra, như người mộng
thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vậy,
tối hậu thức làm chủ, do nghiệp zấy làm
nhơn duyên, vì hai
nhơn duyên ấy nên trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu thú. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm
tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại vương ! Không một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ báođều không mất hư , không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc
sanh không từ đâu đến; lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp không.Tử,
thể tánh tử không.Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh rhế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Tác nghiệp và
quả báo như vậy đều không mất hư, không người
tác nghiệp, không người
thọ báo, chỉ thei thế tụcmà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều kho-ng tịch, tất cả
pháp không là
không giải thoát môn, không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng nên cũng không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn.
Như vậy, tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát môn cùng đi chung với không trên đường trước
Niết bàn, xa rời tướng xa rời nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, cùng khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng tất cả
thí dụ đều phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người mộng thấy ôm ấp nữ nhơn đẹp nhất nước. Thức dạ-y, người ấy ghi nhớ sự chạm xúc êm dịu trong mộng. Ý
Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng
cứu cánh không có gái đẹp, huống là chạm xúc êm diệu.Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng
phàm phu nghu si không học
chánh pháp, họ thấy sắc
khả ý thì
chấp trước mà khởi
ái dục sanh lòng
nhiễm trước rồi tạo mười nghiệp
nhiễm trước nơi tân khẩu và ý.
-
Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở
mười phương cho đến lúc
lâm chung tối hậu thức diệt thấy
việc làm từ trước hiện trong
tâm tưởng, người ấy thấy rồi sanh lòng ưa vui,
tự phần nghiệp hết, nghiệp khác
hiện ra, như người mộng
thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vậy,
tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm
nhơn duyên, vì hai nghiệp ấy nên trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu loài.
Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm
tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại Vương ! không một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ
quả báo đều chẳng mất hư. Không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Nầy
Đại Vương ! Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đếu đâu. Duyên ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ
sanh không ttừ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp không. Tử,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy
Đại Vương !
Tác nghiệp và
thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp, không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhưt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch.
Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng nên cũng không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn.
Như vậy, tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước
Niết bàn,
xa lìa tướng
xa lìa nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, cùng khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng. Tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người mộng tự lấy đồng lá nóng quắn thân mình.
Thức dậy, người ấy ghi nhớ trong mộng quấn đồng lá nóng. Ý
Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng còn không có đồng lá huống là có quấn thân mình. Người ấy tự luống nhọc nhằn đều không có thiệt
Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, họ thấy sự kinh sợ thì
chấp trước nên sợ hải nên tạo mười nghiệp sợ hải thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở
mười phương cho đến lúc
lâm chung tối hậu thức diệt, người ấy thấy
việc làm hiện trong
tâm tưởng liền sợ hải,
tự phần nghiệp hết, nghiệp khác
hiện ra, như mộng
thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vậy,
tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm
nhơn duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm
tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại Vương ! Không một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy
việc làm từ trước và thọ
quả báo đều chẳng mất
hư không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo.
Nầy
Đại Vương ! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không tưù đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh, không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức lúc
sanh không tưé đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp không.Tử,
thể tánh tử không.Sơ thức,
thể tánh sơ thức không.Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn, thê” tánhNiết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy
Đại Vương !
Tác nghiệp và
thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả các pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng cũng không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước
Niết bàn,
xa lìa tướng
xa lìa nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp tánh , cùng khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người mộng thấy
thân căn hư hoại chẳng
cảm giác khi xúc chạm .
Thức dậy, người ấy ghi nhớ sự hư hoại trong mộng. Ý
Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng
cứu cánh không có
thân căn huống là có hư hoại. Người tự ấy luống nhọc nhằn, đều không có thiệt.
Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp , tự thấy
thân căn hư hoại thì
chấp trước nên sợ hải rồi tạo mười nghiệp sợ hải nơi thân khẩu và ý . Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở
mười phương, mãi đến lúc
lâm chung tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm hiện trong tâm tưởng?. Người ấy thấy rồi sanh lòng sợ hải,
tự phần nghiệp hết, nghiệp khác
hiện ra, như mộng
thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vật,
tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm
nhơn duyên, do hai duyên ấy mà trong sanh phần
tức tâm sơ khởi vào trong sáu thứ.
Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm
tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại Vương ! không một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy
việc làm từ trước và
thọ báo đều chẳng mất
hư không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đậu.
Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức ,
thể tánh không. Duyên,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp khôn. Tử,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi không. hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy
Đại Vương !
Tác nghiệp và
thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Tất cả pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng cũng không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước
Niết bàn,
xa lìa tướng
xa lìa nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, cùng khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng. Tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người mộng thấy nhà
ảo thuật hóa ra
ngũ dục, tự thấy thân mình hưởng thọ
ngũ dục.
Thức dậy người ấy ghi nhớ cảnh
ngũ dục trong mộng. Ý
Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy cho sự mộng được thấy là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Chẳng phải trí . Tại sao ? Vì trong mộng nhà
ảo thuật còn
cứu cánh không có huống là
ngũ dục và hưởng thọ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt
- Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, họ thấy
ảo sư thuật ra
ngũ dục thì
chấp trước mà ái trọng rồi
nhiễm trước, do đó họ tạo mười nghiệp
ái nhiễm nơi thân khẩu và ý.
Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở
mười phương, mãi đến lúc
lâm chung tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm hiện trong
tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng
ái nhiễm. Nghiệp trước đã hết, nghiệp khác sanh ra, như mộng thức nhớ cảnh sự trong mộng.
Như vậy,
tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm
nhơn duyên, do hai
nhơn duyên ấy mà trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu loài. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm
tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại Vương ! không một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ
quả báo đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người
thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cung không đến đâu.
Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp không.Tử,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Tác nghiệp và
thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương phải biết tất cả pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn . Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng nên cũng không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đầy đủ
ba môn giải thoát cùng đi chung với không trên đường trước
Niết bàn,
xa lìa tướng
xa lìa nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, cùng khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các cann
như ảo,
cảnh giới như mộng. Tất cả
thí dụ phảibiết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người mộng thấy nước lớn cuốn trôi thân mình,
vợ con quyến thuộc thấy vậy
buồn rầu vô lượng.
Thức dậy, người ấy nhớ sự nước trôi và buồn rồi trong mộng. Ý
Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mọ-ng
cứu cánh không có nước, huống
là cuốn trôi và
buồn rầu. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Cũng vậy, hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, thấy nước cuốn trôi thì
chấp trước mà lo buồn rồi tạo mười nghiệp lo buồn nơi thân khẩu và ý.
Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất chẳng nương ở
mười phương, mãi đến lúc
lâm chung tối hậu thức diệt thấy
việc làm từ trước hiện trong
tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng buồn sợ, nghiệp trước đã hết, nghiệp sau
hiện ra, như người
thức dậy nhớ sự cảnh trong mộng .
Như vậy,
tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm
nhơn duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu thú. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm
tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy
Đại Vương ! không một pháp nào từ đời nay đến
đời sau mà có
sanh diệt thấy
việc làm tưé trước và thọ
quả báo đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy lúc tữ không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp không. Tử,
thể tánh tư” không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Khởi,
thể tánh khởi khọng. Hoại,
thể tánh hoại không.
Tác nghiệp và thọ
quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp , cũng không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà có chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại vương ! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch.Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng nên cũng không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả pháp đều là đủ
ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn? xa rời tường xa rời nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới, cùng khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng. Tất cả
thí dụ phải biết như vậy.
Nầy
Đại Vương ! Như người mộng thấy mình uống rượu say không còn hay biết, chẳng biết
phải trái thiện ác tội phước tôn ty
ưu liệt.
Thức dậy, người ấy ghi nhớ sự việc trong mộng. Ý
Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Không có thiệt.
- Nầy
Đại Vương ! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng ?
- Bạch
Thế Tôn !Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng
cứu cánh còn không có rượu huống là có uống say mê loạn chẳng biết tội phước tôn ti
thiện ác phải trái hơn kém. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
- Nầy Đại Vương! Cũng vậy, hàng
phàm phu ngu si không học
chánh pháp, thấy uống rượu mê loạn họ sanh
chấp trước mà
nhiễm ái rồi tạo mười nghiệp
nhiễm ái nơi thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất chẳng nương ở
mười phương, mãi đến lúc
lâm chung tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm từ trước hiện trong
tâm tưởng. Thấy rồi người ấy sanh lòng
ái trước,
tự phần nghiệp hết, nghiệp khác
hiện ra, như người mộng
thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vậy,
tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm
nhơn duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm
tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến
đời sau, mà có
sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ
quả báo đều chẳng mất hư. không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũ’ng không đến đâu.
Duyên ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao ? Vì
tự tánh ly vậy.
Hậu thức,
thể tánh hậu thức không. Duyên,
thể tánh duyên không. Nghiệp,
thể tánh nghiệp không. Tử,
thể tánh tử không. Sơ thức,
thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ
sanh không.
Thế gian,
thể tánh thế gian không.
Niết bàn,
thể tánh Niết bàn không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Nghiệp được tạo tác và
quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người
tác nghiệp cũng không người
thọ báo, chỉ theo
thế tục mà cóchớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều
không tịch. Tất cả
pháp không là
không giải thoát môn. Không ấy không có
tướng không là
vô tướng giải thoát môn. Đã
vô tướng nên cũng không nguyện cầu là
vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước
Niết bàn, xa rời tướng, xa rời nguyện cầu,
cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, cùng khắp
hư không tế.
Nầy
Đại Vương ! Phải biết các căn
như ảo,
cảnh giới như mộng. Tất cả
thí dụ đều phải biết như vậy.