KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
09 Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật
Thứ Chín
Đức Thế Tôn bảo Ngài
Xá Lợi Phất : « Thế nào là
đại Bồ Tát vì
Vô thượng Bồ đề nên y dựa Tỳ lê gia
Ba la mật mà thật hành
bồ tát hạnh ?
Này
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát y dựa
Tinh tấn Ba la mật mà
tinh tấn tu hành học hành bồ Tát hạnh.
Đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ
bất thối tinh tấn, có thể chẳng kể
thân mạng quí trọng mà phát đại
tinh tấn cầu pháp môn
vi diệu Bồ Tát tạng ,
ân cần lắng nghe,
thọ trì,
đọc tụng, nghiên tầm
cứu cánh ,
thông đạt nghiã thú , vì người mà rộng diễn giảng khai thị, hoặc lại biên chép
tu học đúng lý. Đây gọi là
đại Bồ Tát thật hành
Bồ Tát hạnh.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là chẳng kể
thân mạng ?
Lúc
đại Bồ Tát thật hành
tinh tấn Ba La mật , dầu bị kẻ khác
khủng bố hăm dọa :Nếu ông ở nơi kinh
Bồ Tát tạng nầy mà
thọ trì đọc tụng nhẫn đến rộng
giảng diễn khai thị như người
tu học như lý, thì ta chẳng lấy trăm cây tên nhọn đâm
xiên qua thân thể ông trừ dứt mạng sống của ông . Dầu
nghe lời hăm doạ ấy
đại Bồ Tát ấy chẳng
để tâm, không sợ sệt,
không kinh hoảng, phát bốn thứ thế
dũng mãnh kiên cố, nơi
pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng càng thêm
tinh tấn chẳng vứt chẳng bỏ chẳng xa chẳng rời,
thành tựu đày đủ, tìn giải
mãnh lợi,
tín giải kiên cố,
kham nhẫn kiên cố,
chánh cần kiên cố.
Này
Xá Lợi Phất ! Ta sẽ vì ông mà nói
thí dụ về
kiên cố nhẫn,
kiên cố chánh cần , để cho
đại Bồ Tát được
kiên cố nhẫn,
kiên cố chánh cần thật hành
Bồ Tát đạo chẳng kể
thân mạng..
Này
Xá Lợi Phất !
giả sử tất cả
hữu tình chúng sanh trong
Tam Thiên Đại Thiên thế giới, hoặc loài
noãn sanh,
thai sanh,
thấp sanh,
hóa sanh, hoặc loài có sắc hình ,
không sắc hình , có tưởng ,
không tưởng,chẳng phải có tưởng
không tưởng, hoặc loài thấy được, chẳng thấy được, tất cả
chúng sanh ấy
trong khoảng sát na đồng thời được thân người , đối với
Bồ Tát họ đồng
kết oán thù rất nặng bảo
Bồ Tát rằng : << Nếu ở nơi kinh
Bồ Tát tạng ấy mà ông
thọ trì ,
đọc tụng nhẫn đến vì người rộng giảng nói khai thị, biên chép,
tu học như lý, thì
chúng ta dồng bắt trói ông sẽ giết chết ông.
Vì thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật, nên
đại bồ Tát dầu nghe hăm doạ ấy, nhưng không hề có một niệm sợ hải, chỉ nhiếp trì đủ bốn thứ
chánh pháp chuyên
cầu pháp môn
vi diệu Bồ Tát tạng.
Đây gọi là đại BồTát
thành tựu bất thối Ba la mật vậy. Lại còn
thành tựu vô biên oai lực
dũng mãnh tinh tấn,
chánh cần dũng kiện,
tịnh giới dũng kiện,
đại huệ dũng kiện,
chánh hạnh thắng trí thảy đều
dũng kiện.
Này
Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành
tinh tấn Ba la mật, vì
đại Bồ Tát ấy đầy đủ
nhẫn lực lớn như vậy, nên
giả sử mười phương vô lượng chúng sanh đều cầm dao kiếm đăm chém
Bồ Tát. Đối với
chúng sanh ấy,
Bồ Tát chẳng hề có một niệm giận hờn.
Này
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì an trụ
nhẫn lực như vậy, nên an vui
vững vàng như
Đại Phạm Vương, như
Thiên Đế Thích, như núi Tu-di chẳng khuynh động, thường an trụ
từ bi luôn
quan niệm cứu độ chúng sanh, trọn
không thối chuyển công hạnh đang
thực hành, mà
Bồ Tát này lòng
bao dung rộng lớn như
đại địa, như đại thủy, như đại hỏa, như
đại phong, như
hư không, lại hay
tu tập đối trị cội gốc
tham sân si.
Này
Xá Lợi Phất ! Nếu có
đại Bồ Tát đem tất cả trân bửu
vô giá chứa đầy cả
hằng sa vô lượng thế giới, dùng phụng thí cho
vô lượng đức Như Lai Đẳng Chánh Giác, lại có
đại Bồ tát thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật, lắng
nghe pháp môn
vi diệu Bồ Tát tạng như vậy rồi qua ở chỗ vắng rảnh
nhiếp tâm suy gẫm pháp ấy và
tinh tấn tu học, lại khiến các
Bồ Tát chưa
tu học cũng
ưa thích tu tập .
Này
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát này vì thật hànhTinh tấn
Ba la mật nên nhiếp trì
vô lượng thiện căn vi diệu, chẳng phải người dưng thí kia có thể bằng được. Tại sao ? Vì
thiện căn như vậy thuộc về
Vô thượng Bồ đề. Vì thế nên
chư đại Bồ Tát ở nơi
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng này phải lắng nghe
thọ trì đọc tụng , hoặc lại biên chép nói cho người
phát khởi tinh tấn dũng mảnh
tu tập.
Lại này
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát phát khởi Tinh tấn Ba la mật phải nên
tu hành chỗ bất hành hành. Chỗ bất hành hành ấy là Niết-bàn vậy.Nói bất hành là vì các
thiên ma chẳng đi.Còn
nói hành là vì các người lành tu
tinh tấn thì đi đến nơi ấy. Nói người lành là chư Phật,
Độc Giác và
đệ tử Phật. Tại sao ? Vì các người lành vô
thánh đạo và chư PhậtThế Tôn đều
xu hướng bát Niết-bàn vậy.
Này
Xá Lợi Phất ! Tất cả
chúng sanh phần đông đi 3 chỗ. Đó là
tùy thuận ác đạo,
xu hướng ác đạo, và sẽ đọa
ác đạo. Vì thế nên đối với pháp
tạp nhiễm ,
chư đại Bồ Tát trọn chẳng
tùy thuận, chỉ cầu những pháp lành
xuất ly giới nhẫn đa văn.
Này
Xá Lợi Phất !
chúng sanh thế gian phần đông an trụ
vô nghiệp mà luôn tự cho là mình an trụ hữu nghiệp.
Chúng sanh thế gian phần đông
giải đãi mà tự cho là mình phát khỡi
chánh cần.
Vì thế nên , này
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát trí huệ trọn chẳng cùng với hạng
vô nghiệp.
giải đãi quen gần nhau, lại cũng chẳng sa vào trong số của họ, chỉ quen gần với
chư đại Bồ Tát đồng một hạnh với mình. Tại sao ? Vì chẳng có
chúng sanh nào đối với đại bát Niết-bàn
thanh tịnh vô nhiễm tối thắng mà sanh lòng
tín giải thanh tịnh như
Bồ Tát.
Này Xá Lôi Phất !
Đại Bồ Tát phát khởi Tinh tấn Ba la mật chẳng những vì tự mình chứng Niết_Bàn mà
phát khởi tinh tấn, mà còn vì
nhiếp thọ tất cả
hữu tình khiến các
chúng sanh được
lợi lạc nên
tu hành chánh hạnh phát khởi tinh tấn khai thị dắt dìu đặt để
chúng sanh trên đường
thánh đạo, do đó nên gọi
Bồ Tát là thiện trượng phu”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
“Chánh cần không lười nhác
Thường đủ đại
tinh tấnNơi Phật
Bồ Tát tạngSáng suốt luôn
thọ trìKhéo
tư duy pháp nghĩa
nơi Phật chẳng nghĩ bàn
Luôn siêng cầu
tịnh phápNên gọi là
Bồ TátBực
chánh cần đại huệNgồi cội diệu
bồ đềDẹp các quân
ác maDo
Bát Nhã tinh tấnHiện thũ hộ
cấm giớiNhiệm trì các
thế gianVì lơị ích
chúng sanhThường tinh tấn vô hạn
Nầy
Xá Lợi Phất !Kinh điển
Đại thừa Đại Bồ Tát tạng
vi diệu như vậy
lưu bố trong đời hay làm cho
chúng sanh phát đại
hoan hỷ, lại hay dẩn sanh
phước đức trí huệ, cảm
đại tài phú, hay cảm
chư thiên thù thắng khoái lạc, hay cảm đầy đủ
viên mãn tất cả, hay sanh tất cả chư Phật Nhu Lai:
Trí lực vô sở uý,
vô ngại trí,
đại từ đại bi,
bất cộng Phật pháp. Nói
tóm lại, hay dẩn sanh tất cả
Phật pháp, dẹp trừ
ma oán , khiến
tâm thanh tịnh, hay phát
trí huệ, cùng gốc
sanh tử, tận ngần mé khổ, hay gần Niết-bàn.
Nầy Xá Lợị Phất !
Đời sau này, lúc Phật và các ông đã nhập Niết-bàn, năm trăm năm sau, bấy giờ có nhiều
chúng sanh phước bạc đối với kinh nầy họ chẳng tin chẳng trọng lại hủy diệt
vứt bỏ. Lại có
vô lượng chúng sanh phước đức kính thờ kinh nầy như lý
tu học chuyên cần tinh tấn để cầu
Vô thượng Bồ đề, để cầu giới, văn, định, huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến, để cầu tất cả
Phật pháp,
lợi lạc tất cả
chúng sanh, để bỏ
tà kiến tu hành chánh kiến, để bỏ
sanh tử tu hành thánh đạo, vì muốn
diễn thuyết chánh pháp hàng phục quân ma, vì muốn bỏ lìa
tham ái điều phục sân hận phá trừ
ngu si dứt diệt
vô minh phát
huệ minh vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Đời
đương lai, nếu có
chúng sanh nghe pháp nầy, rồi muốn cầu tất cả
thiện pháp thì nên
phát khởi chánh cần dũng mảnh
tăng thượng. Do vì
nghe pháp vi diệu nầy thì đối với
Phật pháp không còn
chướng ngại quyết định không nghi.
Nầy
Xá Lợi Phất! Bấy giờ lại có
vô lượng chúng sanh, do
phước đức nhiều nên có
ý chí tăng thượng cầu
Vô thượng Bồ đề được nghe kinh nầy. Nghe rồi sẽ được sự
vui mừng rộng lớn, rất khéo nghiên
tập pháp môn
vi diệu Bồ Tát tạng và
tu hành đúng như lời.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Bấy giờ sẽ có người thích nghe
giáo pháp cũa
Như Lai,
tùy theo nhân duyên sai biệt mà họ được nghe
kinh điển nầy. Nghe xong họ sẽ được sự
vui mừng. rộng lớn. Được
vui mừng rồi họ
phát khởi tinh tấn có thể ở nơi
pháp hữu vi diệu
Bồ Tát tạng này lấy chút ít phần thiết thiệt.
Này
Xá Lợi Phất ! Thí như trên mặt biển lớn có
trôi nổi vô lượng trái chín đầy đủ sắc hương ngon ngọt. Có một
trượng phu phát khởi sức
dũng mãnh tinh tấn lội vào biển lớn
vận động tay chân vớt lấy trái chín ấy, hoặc hai hoặc ba trái rồi ra khỏi biển đến một chỗ ăn nếm trái chín ấy mới biết là rất ngon ít có ,
trượng phu ấy bèn ngĩ rằng những trái chín thơm ngon này từ nào ta chưa hề được ăn, ta nên mạnh dạn lội vào biển lần nữa để vớt lấy những trái còn lại.
Suy nghĩ song ,
trượng phu ấy
trở lại mé biển thì không còn thấy trái chín đâu cả.
Trượng phu ấy rất
hối hận tự trách sao chẳng vớt lấy thật nhiều trái chín để nó trôi mất cả.
Này
Xá Lợi Phất ! Cũng vậy, sau khi Phật
nhập diệt , năm trăm năm sau, lúc
chánh pháp Vô thượng sắp diệt , sẽ có
vô lượng chúng sanh ít tin ít thí , ít giới , ít huệ, ít tu
tinh tấn ,
tùy theo nhân duyên sai biệt mà họ được nghe
kinh điển vi diệu này, nghe xong ở nơi kinh này họ chỉ được chút ít nghĩa cạn nhỏ, nhẫn đến chỉ
thọ trì một
bài kệ bốn câu, lại bị
ác ma nhiễu loạn che ngăn chẳng cho người khác nghe hỏi và
cúng dường ca ngợi kính tin người trì kinh ấy. Biết
mọi người chẳng
kính trọng người ấy ở nơi kinh này an
trụ tâm xả, đem chút ít câu nghĩa đã được nghe đến ở chỗ vắng vẻ để
tư duy quan sát sanh lòng
vui mừng, mà lại
hối hận tự trách rằng : nay ta bỏ
mất lợi lành, tại sao ta chẳng nghe nhiều lảnh thọ nhiều
chánh pháp của
chư Phật Như Lai. Do đó đồi với
Như Lai phát khởi tâm thâm trọng hơn lúc trước.
Này
Xá lợi Phất ! Bấy giờ có các
Tỳ Kheo vì bị
ác ma nhiễu loạn nên nghe kinh này rồi đối với
quần chúng họ sẽ
phát khởi chê bai, cho rằng kinh này do các nhà văn soạn ra, chẳng phải do Phật nói . Vì thế nên đối với kinh này có các
Tỳ Kheo hoàn toàn chẳng nghe chẳng tin ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :…
" Được
nghe pháp này
Đối với
Phật Phápsẽ không
chướng ngạiQuyết định không nghi
Các người ít phước
Chẳng được gặp nghe
Người
phước đức nhiều
Được nghe kinh này
Các người ít phước
Dầu nghe chẳng tin
Nhiều phước nghe rồi
Đầu đội
vui mừngNgười ít phước nói
chẳng phải Phật dạy
Họ sẽ bị đọa
Như đui sa hố
Người nhiều
phước đứcnghe rồi
vui mừngSẽ sanh cõi lành
Như tô nhiều nước
Các người ít phước
Nghe sanh lo rầu
Họ sẽ thọ khổ
Chẳng thoát
tối tămDầu được nghe ít
Lại bị ma nhiễu
Chê bai
Phật PhápMau đọa
địa ngục.
Lại này
Xá Lợi Phất !
Chư Phật Như Lai thành tựu đầy đủ
diệu trí thanh tịnh nhẫn đến biết rõ
tâm niệm của
tứ chúng, hoặc
tỳ kheo hay
tỳ kheo ni, hoặc
ưu bà tắc hay
ưu bà di, ở đời
đương lai lúc
chánh pháp diệt, nghe
kinh điển này hoặc
tùy thuận tin nhận, hoặc hủy báng khinh khi, hoặc có người
hoàn toàn chẳng được nghe, tất cả như vậy, trí
thanh tịnh của
Như Lai đều biết rõ cả ?
Này
Xá Lợi Phất ! Nếu có
đại Bồ Tát và các
chúng sanh khác ở nơi kinh này nghe rồi lảnh
thọ tinh tấn
tu tập thì sẽ được
thành tựu bốn pháp vô chướng
thanh tịnh :
Một là
thành tựu Thi la vô chướng
thanh tịnh .
Hai là
thành tựu đầy đủ vô nạn
thanh tịnh .
Ba là
thành tựu gặp chư Phật gần gũi
cúng dường vô chướng
thanh tịnh.
Bốn là
thành tựu được
ban đầu thấy
Phật Di Lặc vô chướng
thanh tịnh.
Này
Xá Lợi Phất ! Các
chúng sanh ấy nghe kinh này rồi tuỳ theo
phương tiện tu tập , quyết sẽ được các
thiện căn vi diệu như trên đã nói.
Lại này
Xá Lợi Phất ! Đời
đương lai lúc
chánh pháp diệt, có các
đại Bồ Tát an trụ
Đại thừa tu hành Tinh tấn Ba la mật, ở nơi kinh này
chuyên cần tu học phát đại
tinh tấn lắng nghe
thọ trì, biên chép,
đọc tụng, nghiên tầm, chỉ thú rộng vì người giảng nói khai thị. Bấy giờ sẽ có mười pháp
chướng ngại xuất hiện thế gian. Các người có trí phải sớm hay biết chớ chuyển theo nó. Chỉ phải
phát khởi tinh tấn dũng mãnh thọ trì kinh này. Những gì là mười thứ
chướng ngại mà người trí phải biết chớ chuyển theo nó ?
Có các
Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ
ác ma làm cho người trì kinh cấm khẩu chẳng nói được, ở nơi kinh này bèn chẳng giảng nói được. Đây là thứ
chướng ngại thứ nhất mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.
Có các
Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ
ác ma làm cho người trì kinh đau mắt bèn chẳng
đọc tụng giảng nói được. Đây là thứ
chướng ngại thứ hai mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.
Có các
Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ
ác ma làm cho người trì kinh tay chưn mình mẩy
đồng thời đều bịnh cả, bèn chẳng
đọc tụng giảng nói được. Đây là thứ
chướng ngại thứ ba mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.
Có các
Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ
ác ma làm cho người trì kinh chẳng thích chỗ mình đương ở mà muốn bỏ đi , bèn chẳng
đọc tụng giảng nói được. Đây là thứ
chướng ngại thứ tư mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.
Có các
Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ
ác ma làm cho người trì kinh giận thù làm hại nhau , bèn chẳng
đọc tụng giảng nói được. Đây là thứ
chướng ngại thứ năm mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.
Có các
Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ
ác ma làm cho người trì kinh sanh sự tranh cãi gây gổ giận mắng kiện thưa, do đó nên oán thù tàn hại nhau, bèn chẳng
lưu hành giảng nói kinh này mà tạo tạo tác sự việc khác. Đây là thứ
chướng ngại thứ sáu mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.
Có các
Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ
ác ma hóa làm hình người tục hoặc người
xuất gia đến chỗ người trì kinh làm
rối loạn tâm ý khiến chẳng
thọ trì được
trở lại huỷ báng và thích sự việc khác. Đây là thứ
chướng ngại thứ bảy mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.
Đời
đương lai lúc
chánh pháp sắp diệt có các
tỳ kheo trẻ ở nơi kinh này phát
lòng tin thanh tịnh ưa thích ở nơi
pháp luật của Phật. Vì thật hành
tinh tấn Ba la mật nên họ
phát khởi tinh tấn thâm tâm an trụ
Vô Thượng bồ đề. Lại ở kinh này họ
cung kính lắng nghe. Đã đuợc nghe rồi lòng rất
vui mừng. Bấy giờ các
Tỳ Kheo trẽ ấy bị hai bổn sư
Hòa Thượng và
A xà Lê làm
chướng ngại mà bảo rằng : » Kinh của các ông
thọ trì ấy chẳng phải của Phật nói, chẳng phải Phật
Bồ đề, chẳng phải
chánh pháp, chánh phải chánh luật , chẳng phải
thánh giáo. Các
tỳ kheo trẻ ấy nghe theo lời
dạy bảo của hai Thầy bèn rời bỏ Phật
Bồ Đề. Hai Thầy lại bảo các ông phải
tinh tấn tu học các luật các pháp của ta dạy. Các
Tỳ kheo trẻ ấy tuân lảnh lời Thầy. Những
thiện căn tăng thượng đã
tu tập trước kia bị hai Thầy
phá hư. Sau khi
thiện căn hư mất, các
tỳ kheo trẻ ấy lại bị
ác ma dối gạt bèn tạo
nghiệp chướng chánh pháp, lúc
lâm chung cảnh ác
hiện ra hôn mê si loạn mà cảm lấy nghiệp
địa ngục.
Các
việc bất thiện ấy ở
đương lai,
đức như lai ở
hiện tại đây đều biết rõ tất cả.
Ở đời
đương lai lại có các
Tỳ kheo trẻ ở nơi kinh này sanh
ác kiến chê bỏ chẳng tin, đi đâu họ đều
buông lời hủy báng.
Chư Đại Bồ Tát an trụ
Đại Thừa phát khởi tinh tấn, trong
thời kỳ ấy phải sanh 4
quán tưởng : một là phải
quán tưởng nghĩ tự
điều phục tâm mình. Hai là phải
quan sát sự việc mình làm chớ ngó đến sự việc của người Ba là có lòng
xót thương chúng sanh. Bốn là ở chỗ rảnh vắng có
ý tưởng bảo hộ tâm mình và tâm người.
Đời
đương lai có nhiều
chúng sanh thọ các
tà kiến, đối với các
Tỳ kheo diễn nói
chánh pháp, họ ít
tín thọ, họ chẳng
kính trọng thưa hỏi
nghĩa kinh, họ chẳng gần gũi
cúng dường trở lại lăng nhục khinh miệt. Với các
Tỳ Kheo giảng thuyết phi pháp thì nhiều người
tín thọ, họ được
thế lực lớn có nhiều người
cúng dường kính trọng thưa hỏi. Nhơn đó họ hủy báng kinh này. Bấy giờ có các
chúng sanh chẳng
ưa thích kinh này , nghe hủy báng họ càng
vui thích. Còn các người
ưa thích vì nghe hủy báng nên chẳng còn
ưa thích kinh này. Các
tỳ kheo ấy càng thêm đông mạnh đến nổi người trì kinh này ở trước
chúng hội chẳng khai thị được. Đây là thhứ
chướng ngại thứ tám mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.
Đời
đương lai có các
Tỳ Kheo vì
tham ái mà làm trộm cướp,
ưa thích ba thứ tệ của
thế gian : một là
ưa thích tham cầu cơm áo
thế gian, hai là
ưa thích theo cầu
ăn uống thế gian, ba là
ưa thích theo cầu
văn hoa ca kệ hí luận thế gian. Đây là thứ
chướng ngại thứ chín mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.
Đời
đương lai lúc
chánh pháp diệt , có các
Bồ tát an trụ
Đại Thừa vì
thực hành tỳ lê gia
Ba la mật nên đối với
kinh điển này
phát khởi tinh tấn dũng mãnh tăng thượng biên chép ,
thọ trì nghiên tầm ,
đọc tụng vì người rộng giảng dạy. Những người ấy sẽ bị
ác ma nhiễu loạn và
phiền não nghiệp chướng che đậy nên
vui thích việc
thế gian, càng
ưa thích đàm luận viêc
thế gian và
cần cầu những
đàm luận thế gian ,
ưa thích ngủ nghỉ,
ưa thích dông người rộn rịp và
phương tiện cần cầu đông người rộn rịp, vì thế nên ở nơi
kinh điển này chẳng
thọ trì , cũng chẳng
đọc tụng nghiên tầm
nghĩa thú, cũng chẳng giảng dạy cho người.
Này
Xá Lợi Phất ! Trong
Phật Giáo, không có ai khác có thể làm tổn
chánh pháp hay làm cho
chánh pháp mau hủy diệt được, ngoại trừ các ác
Tỳ Kheo lười nhác. Đây là thứ
chướng ngại thứ mười mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo no
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Lúc
chánh pháp diệt nhiều
chướng ngạiSẽ khởi những thứ
nghiệp ác ma
Với pháp lành sạch chẳng thích tu
Cũng chẳng ưa cầu thắng
niết bànTrí huệ ít kém đủ
ác kiếnChẳng muốn an trụ trong
chánh phápLàm đủ cá chạnh
phi phápSẽ đọa
ác đạo quyết chẳng nghi
Những người như vậy lúc
lâm chungKhông ai có thể cứu họ được
Hòa thượng và
giáo thọ của họ
Mãng chung sẽ đọa ba
ác đạoTrăm ngằn
câu chi do tha kiếp
Vì
cầu danh lợi mà bị khổ
Thường bị ba thứ lửa đốt cháy
Làm sao cho họ mau
thoát khỏiPhật đã
chứng thành Vô Thượng GiácChuyển đại pháp luân diệu thanh tịnh
Trời người
thế gian chẳng chuyển được
Nay Phật cố chuyển độ
chúng sanhBỏ Pháp Phật mà đời khó có
Gần quen các
phẩm loại ác maSẽ bị
vô biên khổ rất nặng
Chướng ngại thí giới của họ tu
Chướng
nhơn duyên Bồ Đề thánh đạoNếu ai siêng năng nơi
Phật GiáoMà làm
mê lầm đường
chánh đạoNếu có lắng
nghe pháp Đại thừaTuyên nói các
lý không vô ngãLúc đường thật hành các
chánh phápÁc ma sẽ làm
chướng ngại họ
Bảo đây là thắng đây chơn thiệt
Pháp chẳng thắng thiệt tưởng thắng thiệt
Trở lại hủy
báng Phật chánh phápPhải biết sẽ mau đọa
địa ngụcNếu có
chúng sanh đối với Phật
Cung kính mến ưa
hết lòng tin
Lắng
nghe pháp Bồ Tát tạng này
Mừng vui
tùy thuận mà
ca ngợiÁc ma biết họ vui
Đại thừaCùng
quyến thuộc ma đồng
sầu khổLiền biến hiện nhiều tướng
khủng bốĐể làm
chướng ngại kẻ chơn tu
Hoặc sẽ biến làm hình
Tỳ KheoTrá
hiện thân nhau để
đàm luậnBảo đây chẳng phải đạo
Bồ đềSao laị noi theo mà học tập
Có các
chúng sanh ở kinh nầy
Phát khởi chánh cần tinh tấn hạnh
Lại bị dẫn dụ và khinh chê
Do đó
phế bỏ chẳng
tu họcĐã bị
ác ma làm hoặc loạn
Theo ý ma chuyển bị ma nắm
Ma bảo kinh ấy chẳng phải chánh
Nơi
pháp tịch diệt bèn
vứt bỏHọ cũng rời bỏ đấng
Đạo SưCũng chẳng
cần cầu pháp
Vô thượngHọ đã
phát khởi ngã mạn rồi
Sẽ mau chóng thẳng vào
địa ngụcBấy giờ có số ít
chúng sanhƯu muốn
cần cầu pháp không nầy
Chẳng được hòa hiệp đồng
tu tậpĐều riêng lưu tán nơi phương khác
Pháp
tối thắng Vô thượng như vậy
Người sẽ được nghe đều khinh hủy
Người trì
kinh pháp sợ trốn xa
Đời sau sẽ có các sự ấy
Nước nầy sẽ toàn không người trì
Phương xa dầu có chẳng được nhiều
Dầu có người trì
tụng kinh nầy
Đều bị quên bỏ không han hỏi
Thế gian nương nhờ trong
thánh giáoPháp
thậm thâm Vô thượng như vậy
Vô lượng chướng ngại ở”
đời sauPhật đều biết rỏ như
hiện tạiĐời sau người hiền trì
chánh phápChẳng kể
thân mạng ở vắng vẻ
Tu tập tuyên dạy
chánh pháp nầy
Sẽ được mau thăng nơi
thiện đạo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đời sau lúc pháp sắp diệt, lại có
chư đại Bồ Tát tu
Đại thừa thật hành Tỳ lê gia
Ba La Mật, thấy các ác
chúng sanh ấy
phỉ báng hủy diệt
chánh pháp nầy phải càng
phát khởi sức
chánh cần đại
tinh tấn dũng mãnh, ở nơi
pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng
ân cần lắng nghe
thọ trì biên chép
đọc tụng vì người rộng giảng dạy.
Trong lúc ấy,
chư đại Bồ Tát phải
phát khởi bốn
ý tưởng. Những gì là bốn ý tưởng?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát ấy
nghĩ tưởng rằng người cha
quý báu của ta chẳng bao lâu sẽ diệt. Vì cớ ấy nên
đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như La
Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác trong trăm ngàn
câu chi na do tha vô số đại kiếp chuyên cần tu tập những
hạnh khó làm mới được tạng báu
chánh pháp nầy, thế nên ta phải
phát khởi tinh tấn phụng trì
lưu thông rộng rãi cho pháp bửu còn lâu chẳng diệt.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thí như có người chi” có một đứa con trai nên rất cưng thương. Đứa con trai ấy đủ cả tướng
phước đức,
ngắm nhìn chẳng chán. Sau đó người ấy vì có việc dắt đứa con trai qua chổ nguy nan, sợ con té ngã nên nắm ôm
giữ gìn kỹ lưỡng : chớ để con trai ta té xuống chỗ hiểm nạn.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy cũng vậy, rất
kính trọng tin thờ nơi Phật, chẳng bỏ pháp bửu
Vô thượng nầy, lòng luôn mong cầu
Niết bàn thanh tịnh, dầu ở
ác thế mà có thể giữ lấy
chánh pháp tối thắng.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nay Phật đem
chánh pháp Vô thượng nhơn duyên Bồ đề nầy
phó chúc cho
đại Bồ Tát ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thí như
trong đời lúc
đại quân đấu chiến, ít có ai vì
bảo vệ quân chúng mà ở
trước mặt trận, chỉ trừ
trượng phu hùng mãnh
quả cảm đốc suất quân kiêu dũng đứng
trước mặt trận chống địch để
bảo vệ quân mình.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Cũng vậy, đời
đương lai lúc
chánh pháp diệt những kẽ
phá hoại chánh pháp hiện ra, có những người
phát khởi thâm tâm ưa thích Niết bàn, có thể ở nơi pháp bửu
Vô thượng nầy nhẩn đến
thọ trì chút ít yếu nghĩa. Phải biết người ấy chính là mặc áo giáp
Kiên cố chánh cần phát khởi sức đại
tinh tấn dũng mãnh phá tan mặt trận quân ma.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có người ở nơi
kinh điển nầy nhẫn đến
thọ trì một
bài kệ 4 câu
tùy hỉ khen ngợi rằng
kinh điển nầy thiệt của Phật nói và rộng giảng dạy cho nhiều người . Phải biết người ấy chính là
tùy hỉ khen nói
chánh pháp của chư Phật
quá khứ vị lai hiện tại vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Như Lai chẳng nói người ấy được chút phần
công đức quả báo, mà
Như Lai nói người ấy hay
thành tựu khối
công đức lớn lượng đồng
hư không .
Như Lai nói người ấy là
thiện nhân. Hạng
thiện nhân như vậy rất là khó có , là người
biết ơn, là người
báo ơn. Người
biết ơn báo ơn như vậy là trân bửu trong
loài người.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Đời
đương lai lúc
chánh pháp diệt, lúc
ác ma hiện oai thế, nếu có
chúng sanh ở nơi Phật tin trọng chẳng bỏ
thọ trì kinh nầy không rời. Phật nói người ấy là
trượng phu đệ nhứt, là thiện
trượng phu, là thắng
trượng phu, là kiện
trượng phu, là
đại trượng phu . Phải biết người ấy là bạn pháp tốt của
Như Lai chớ chẳng phải
ác đảng trá hiện . Phải biết người ấy
thực hành công hạnh chơn thiệt
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ tát phải
tu tập chánh hạnh kiên cố,
cho đến chết không hề tạm bỏ. Với Phật phải ân cầ n vệ hộ,
cho đến chết không hề tạm bỏ.Với
chánh pháp phải
ân cần nhiếp thọ ,
cho đến chết không hề tạm bỏ. Với
pháp không thậm thâm phải
ân cần tin hiểu,
cho đến chết không hề tạm bỏ.
Đây là ở đời ác sau nầy,
đại Bồ Tát phát khởi 4 pháp.
Đời
đương lai, lúc pháp sắp diệt, luc
chánh pháp bị
phỉ báng, lúc
chánh pháp bị diệt, lúc đồ đảng
phạm giới lớn mạnh, lúc đua nhau theo cầu ác
chú thuật của
thuận thế ngoai đạo, lúc
kiếp trược loạn , lúc kiện
trược loạn, lúc
phiền não trược, lúc
chúng sanh trược, lúc
mạng trược loạn,
đại Bồ Tát phải
y chỉ nơi ba chỗ. Đó là phải ở
A lan nhã, phải ở nơi dứt
tranh chấp, phải ở nơi Phật
Bồ đề. Đời ác sau nầy
đại Bồ Tát phải
y chỉ ở ba chỗ ấy để được đầy đủ Tỳ lê gia
Ba la mật vậy .
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã ấy mà nói kệ rằng :
“ Chẳng
xa lìa nơi pháp
tối thắngĐể hết khổ : sanh, lão, bệnh , tử
Thường xuyên tinh tấn không
vọng niệmPhải mau
thành tựu tự tha lợi
Nếu ai đối với
chánh pháp này
nghe rồi
thọ trì chánh tư duyPhải biết Phật là thầy của họ
Còn họ là chơn tử của Phật
Nếu chẳng lắng nghe
chánh pháp này
Dầu nghe chẳng trụ
chánh tư duyNgười ấy sẽ đến các
ác đạoNhư các dòng nước chảy về biển
Trăm ngàn
câu chi do tha kiếp
Chư Phật
xuất hiện rất khó gặp.
Dầu được tạm gặp chẳng tin thờ
Sẽ theo
ác ma làm điều ác.
Lại nầy Xá Lợ Phất !
Quá khứ chin mươi mốt kiếp, có Phật
xuất thế hiệu Thắng Quán
Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư,
Phật Thế Tôn.
Trong
pháp hội của Phật Thắng Quán có sáu
Tỳ Kheo kết đoàn thường làm
ác hạnh. Sáu
Tỳ kheo ấy tên là
Thiện Kiến, Thiện Lạc,
Hoan Hỉ, Điều Thiện,
Tô Du Giá và
Hỏa Thiên Thọ.Các
Tỳ Kheo ấy luôn nói
phi pháp :Có ngã, có nhân, có thường, có loạn. Họ đến chỗ kín đáo bàn mưu rằng
chúng ta phải đều riêng đi dụ hóa mỗi người
kết nạp trăm nhà làm đồ đảng, lại khiến trăm nhà truyền cáo
quyến thuộc, các
quyến thuộc truyền cáo
thân nhân, hoặc có thể sẽ đến năm ngàn nhà. Bàn mưu xong, họ chia nhau đi
giáo hóa các làng các chợ, hoặc đến vương đô, hoặc đến lân quốc. Nhà nào họ cũng đều ghé, chẳng nói
chánh pháp mà hủy
báng Phật trước hết.
Sáu ác
Tỳ Kheo ấy hủy báng thế nào? Họ bảo
mọi người rằng các pháp
thế gian đều
quyết định có ngã, có nhân, có
chúng sanh, có
thọ mạng.
Nếu thế gian mà quyết là không
ngã không pháp thì ai đi ai đến, ai ngồi ai nằm, ai nói ai nín, ai
bố thí, ai lãnh nhận, ai
thọ dụng, ai chịu khổ vui, ai chịu chẳng khổ chẳng vui.Nếu có ai bảo rằng
thế gian quyết không có ngã, nhận,
chúng sanh,
thọ mạng, phải biết đó là
oan gia của
mọi người mà chẳng phải là
thiện hữu.
Các ác
Tỳ Kheo ấy lại dụ
hóa đàn ông đàn bà và
nam nữ rằng: nếu có người nào nói các
pháp không ngã nhân chúng sanh thọ mạng, phải biét đó là kẻ
bất thiện, là kẻ
bạo ác, là
ác hữu.
Họ lại bảo
mọi người rằng :các người rất
thông minh có thể
hiểu rõ nghiã của ta giảng nói. Từ nay về sau nếu có các
ác hữu đến nói
thế gian quyết không ngã nhơn
chúng sanh thọ mạng,
mọi người chớ có gần gũi qua lại
cúng dường họ.
Các ác
Tỳ kheo ấy đi dụ hóa nửa tháng mõi người đều dụ được đủ số năm trăm nhà về theo
tà kiến của họ.
Bấy giờ có các
Tỳ Kheo bực
A La Hán lìa hẳn tất cả
phiền não cấu uế và là
đệ tử chơn thiệt của Thắng Quán
Như Lai, Vì đi
khất thực nên đến các nhà đã được
sự giáo hóa của các ác
Tỳ kheo, liền bị người nhà mắng đuổi hạ nhục.Họ nói kệ bảo các
Tỳ kheo A La Hán rằng :
Các thầy chẳng biết được
chánh phápCác thầy mê mất đường
thánh đạoCác thầy rời bỏ nơi
tịnh phápCác thầy đều sẽ đọa
địa ngục.
Nói kệ xong, họ lại chê mắng chư
Tỳ Kheo A La Hán. Họ lại dùng đủ lời để mắng Phật. Ở trước Phật họ nói kệ:
Pháp của Phật nói đều
hư vọngĐó là các hành đều
vô thườngLại nói các pháp đều
vô ngãVà nói không hằng không
bất biếnCác hành đều không có kiên thiệt
Đều là pháp quên mất
hư ngụyPhật nói
không hoa không chỗ có
Chỉ
gạt gẫm được kẻ ngu khờ..
Các người ấy càng giận Phật hơn nên lại ở trước Phật nói kệ :
Các pháp của
Như Lai đã nói
Quyết định không
ngã không chúng sanhKhông có
thọ mạng không hữu tình
Cũng không
tác giả không
thọ giảMà nay hiện thấy các
thế gianCó người
bố thí người lãnh nhận
Và bao nhiêu là người
thọ dụngthọ
khổ thọ vui chẳng vui khổ
Nên biết nói đòi quyết không ngã
Tất cả sẽ đọa vào
ác đạo.
Nầy
Xá Lợi Phất !Lúc những người
bất thiện đồng thanh nói lời
phi pháp như vậy, có sáu mươi tám
câu chi nam nữ do các ác
Tỳ Kheo hóa đạo làm
ác nghiệp ấy,
sau khi chết ho đồng sanh vào
đại địa ngục
vô gián, thọ thân to lớn mình cá đầu người, lưỡi dài rộng trải trên mặt đất, khắp lưỡi có đinh sắt đóng xuống như ruộng trồng gừng, trên lưõi lại có nhiều cày sắt thường cày, trên mỗi
thân hình ấy lại có một trăm sâu trùng rất
ác độc cắn hút, trên
hư không lại có những hòn sắt lớn cháy đỏ rực thường tuôn rơi trên
thân hình ấy.Do
nghiệp ác mà các
tội nhân ấy phải chịu nhiều thứ khổ sở như vậy”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiả ấy mà nói kệ rằng:
“ Hòn sắt cháy đỏ như chớp giăng
Vô lượng trăm ngàn thứ
đáng sợNhằm ngay thân họ mà tuôn rơi
Luôn luôn phải chịu nhiều khổ sở
Lại trên thân họ khắp các chỗ
Ngọn lửa hừng hực khó lại gần
Lửa cháy ngọn cao trăm
do tuầnLỗ lông khắp thân lửa chảy ra
Trên lưỡi dài rộng của mỗi người
Thường bị cày với
vô lượng cày
Nơi nơi trên lưỡi đều rách nát
Khổ đau như vậy luôn không ngớt
Do vì gần quen cùng
ác hữuCảm thấy quả khổ lớn dường ấy
Lại do xa rời các
thiện hữuĐến đổi mau đọa vào
ác đạo.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Sáu
Tỳ Kheo ác
phi pháp thuở ấy, do
sự giáo hóa ác nên
sau khi chết họ đều đọa vào
đại địa ngục
A tỳ, mỗi
thân hình rộng dài đều ba mươi
do tuần, có ngàn lỗ miệng, mỗi miệng có hai cái lưỡi, mỗi lưỡi rộng dài đều bốn
do tuần, trên mỗi lưỡi có năm trăm cày sắt kéo bằng trâu sắt.. Các
tội nhân ấy dầu bị
đau khổ quá nhiều mà chẳng thể kêu rên được.Trên mỗi đầu của họ đều có muôn
ngục tốt tay cầm dao, cưa , mâu, sóc luôn chặt chém. cưa đâm nát đầu mình họ. Họ sống trong
đại địa ngục ấy đên muôn ức năm, và xoay dần như vậy mãi lại sanh vào trong các
đại địa ngục khác chịu đủ các sự khổ sở lớn. Đó là do tội giận phá
thánh giáo của Phật vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Thuở ấy có đại
trưởng giả giàu có vô lượng tên là
An ổn. Nhà ông ấy có đủ
bảy báu châu ngọc, lúa gạo kho tàng tôi tớ dẫy đầy. Ông ấy cũng do ác
Tỳ kheo giáo hóa mà sanh
đoạn kiến. Bà vợ ông ấy tên là Diệm Huệ có nhan dung đẹp được người mến trọng, sanh một con trai
thân tướng đoan nghiêm nhìn không biết chán. Người con trai ấy
thành tựu dung
sắc thanh tịnh
viên mãn đệ nhứt, đã từng gieo trồng căn lành nơi
vô lượng trăm ngàn
na do tha câu chi chư Phật
quá khứ. Lúc sơ sanh con trai ấy ba lần
mỉm cười phát ngôn rằng :Lạ lùng thay nay ta sanh vào nhà đọan kiến này ! bà mẹ quá sợ cả mình nổi ốc bỏ con dắt các tớ gái
chạy trốn.
Bấy giờ các tớ gái muốn
xem xét cho rõ nên
trở lại chỗ cũ coi trẻ sơ sanh ấy là loài gì ? Là Trời, Là Rồng hay
Dạ Xoa ? Là
Càn Thát Bà là
A Tu La, là
Ca Lâu La , là
Khẩn Na La, là
Ma Hầu La Già, là
Cưu Bàn Trà, là Tất Xá Giá, hay là Nhơn
Phi Nhơn ?
Thấy các nữ nhơn ây, trẻ sơ sanh lại phát ngôn rằng : Các chị dầu sợ chạy, nhưng tôi rất an vui. Trẻ ấy vì các
nữ nhân mà nói kệ rằng :
Các người nên thích nơi nghiã lợi
Với nghiã lợi các người chớ sợ
Nay tôi sẽ
cứu độ các người
Cho các người
thoát khỏi tà đạoCác người sẽ
an ổn chớ sợ
Mà phải sợ trốn ác hũu trước
Nay tôi sẽ
cứu độ các người
Cho các người
thoát khỏi tà đạoNghe trẻ ấy phát ngôn như vậy,
cha mẹ và
mọi người đến bên trẻ ấy.
Trẻ ấy liền vì
cha mẹ mà nói kệ rằng :
Trong nhà có những thứ
Tiền gạo rất rộng nhiều
Mau
mang đến cho tôi
Cúng dường Phật và Tăng
Chư
đại Thanh Văn kia
Cùng Thắng Quán
Như LaiTrong khắp cả
ba cõiKhông có ai
sánh bằngChư
đại Thanh Văn kia
Cùng Thắng
Quán Thế Tôn
Rộng
tuyên dương diệu phápLàm
lợi ích chúng sanhChư
đại Thanh Văn kia
Cùng Thắng
Quán Đạo Sư
Thân có đủ Băm hai
Tướng hảo đại trượng phuPhật và
Thanh Văn kia
Dường như
hoa ưu đàmHơn ức
câu chi kiếp
Khó được nghe
danh hiệu.
Nghe trẻ ấy nói xong,
cha mẹ trẻ ấy liền lấy trong nhà hai mươi
câu chi của báu thượng diệu đem đến cho con mà bảo rằng :
Của báu này là của
cha mẹ cho con,
tùy ý con kính tin nơi đâu thì
cúng dường.
Cha mẹ trẻ vì con mà nói kệ rằng :
Các
của báu này là
Do
cha mẹ làm ra
Tùy ý con kính tin
Mang đi mà cúng thí
Nào vàng nào trân bửu
Nhà ta chứa rất nhiều
Tùy ý con kính tin
Mau
mang đi cúng dườngNào
y phục, ghế giường
Những
vòng hoa hương thoa
Tùy ý con kính tin
Cứ
hoan hỉ thí cúng
Nơi Phật và Pháp, Tăng
Những
phước điền Vô thượngLàm
lợi ích quần sanhPhải nên dưng
cúng dường.
Trẻ ấy nghe kệ xong lại vì
cha mẹ mà nói kệ rằng :
Nay tôi đến Thắng Quán
Đấng
thế gian nương dựa
Sắp đặt cúng đường lớn
Để
lợi ích quần sanhNhững ai muốn mong cầu
Phước vui người, trên trrời
Phải cùng tôi đồng đến
Chỗ Thắng Quán
Như Lai.
Mọi người nghe trẻ ấy nói những lời trên đều
kinh ngạc sao trẻ sơ sanh nầy có thể cùng người
đối đáp luận bàn và có thể đi đứng được.
Nghe sự kỳ dị ấy, có tám muôn bốn ngàn người
vân tập đến xem trẻ ấy là loài gì ? Là trời hay thần ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Bấy giờ trẻ liền cùng tám muôn bốn ngàn người trước sau vây quanh đồng đi đến chỗ Phật Thắng Quán. Lúc trẻ ấy trên đường đi đến chỗ Phật, do
phước đức lực nên có mười ngàn lọng báu
tự nhiên hiện ra trên không để che cho khỏi nắng. Khắp
con đường ấy, trên không lại giăng màn lưới vàng, mưa hoa đẹp và bột hương mịn hơn cả hương của
chư thiên thường dùng để rải, gió mát thổi nhẹ hiệp cùng hương trời rải khắp
mọi nơi chẳng dứt. Trên đường
chư Thiên đem các thứ
nước thơm rưới lên dùng vải lụa báu quí và lưới vàng che trùm.
Chư Thiên lại còn mưa hoa trời màu sắc
chói sáng khắp đường dầy đến ngang gối. Hai bên đường
tự nhiên có
vô lượng trăm ngàn ao hồ đầy nước đủ tám đức
mát mẻ. Trong các ao hồ mọc nhiều hoa đẹp như sen xanh, sen vàng, sen đỏ, sen trắng. Mặt nước ao hồ có nhiều giống chim lạ đẹp bơi lội, như các chim cưu, nhạn, oang ương. Lề đường có lan can
bảy báu và những cây báu hàng liệt
trang nghiêm. Giữa
đại lộ lại có
con đường lót hoa hiện
trước mặt trẻ ấy để chờ trẻ ấy đi, vừa để chưn xuống hoa liền vọt lên đỡ chưn vừa cất lên hoa liền ẩn mất. Trẻ ấy đi trên đường hoa giây lát
ngó ngoái lại
đại chúng và nói kệ rằng :
Các người chớ đi nơi
vô lýNgoài đường ta đây đều
phi lýTa thường đi đường chánh lý nầy
Đến
chỗ tối thắng hữu lý
Qua hơn
vô lượng do tha kiếp
Mới nhờ một phước được thân người
Mới gặp một
Phật hiện ra đời
Mới siêng tu được
tịnh tín huệ
Trẻ ấy vì
đại chúng nói kệ vừa dứt, trên không có tám vạn bốn ngàn
đại Thiên Tử
đồng thanh khen rằng
lành thay lành thay ! Rồi nói kệ khen trẻ ấy :
Lành thay lành thay trí huệ lớn
Lời ngài vừa
nói đúng chánh lý
Ngài dùng phía sau là
vô lýNgười có chánh lý phải
đi trướcTrẻ ấy nói kệ báo
chư Thiên :
Chư Thiên các Ngài vừa mách bảo
Chánh ngôn hữu lý cùng
vô lýTôi hỏi các Ngài xin
giải đápThiệt nghiã của hữu lý
vô lýChư Thiên nói kệ báo trẻ ấy :
Nếu thích muốn ở nơi
của báuChẳng thích ra khỏi chỗ sở hành
Là hạng
phàm phu là
vô lýHọ đứng trước đường vào
địa ngụcNếu thích
bỏ nhà để
xuất giaPhải bỏ
dục lạc bỏ
của báuNgười nầy hiện đời có chánh lý
Chẳng lâu mở được
cửa giải thoát.
Trẻ ấy lại nói kệ báo
chư Thiên :
Các ngài vừa nói lý
vô lýThấy các Ngài toàn chưa
hiểu rõNghiã hữu lý
vô lý như vậy
Tôi đã chánh
khai ngộ rất sâu.
Nói kệ xong trẻ ấy
đi thẳng đến chỗ
đại hội của đức Thắng Quán
Như Lai Đẳng chánh Giác, đến nơi rồi liền
đảnh lễ chưn Phật, đi quanh bên hữu ba vòng, đứng qua một bên
hết lòng kính ngưỡng đức Thắng Quán
Như Lai mà nói
kệ tán thán :
Thắng Quán
Như Lai ban
cam lộThường làm
lợi ích các
thế gianNhư
đại long tượng đại sư tử
Do đó nay tôi thường kính lạy
Soi sáng thế gian rất khó gặp
Dường như
hoa ưu đàm bát la
Chỗ đời nương cậy làm ánh sáng
Hình sắc vi diệu rất tròn đủ
Thế gian nhiều khổ nó bức ngặt
Chẳng biết rõ được chân
thánh đạoNhảy bỏ chánh lộ mà trốn chạy
Như người
sanh manh ở
trong đờiNguyện tôi đời nầy sẽ
thành PhậtNhư đấng
Thắng Quán Phật Thế TônSẽ cứu
chúng sanh thoát các khổ
Và cứu kẻ bị ba lửa đốt
Có
vô biên trăm ngàn người ấy
Đều theo tôi đến trước
đức PhậtCúi xin diễn nói pháp
vi diệuCho họ an trụ
vô thượng giác.
Nói kệ xong, trẻ ấy bạch rằng : Nguyện
đời sau tại thế gian nầy, tôi sẽ
thành Phật tuyên nói
diệu pháp cho các
chúng sanh như đức Thắng Quán
Như Lai hiện nay vì
đại chúng tuyên dương pháp
vi diệu.
Bấy giờ trong
pháp hội ấy có tám vạn bốn ngàn người bạch
đức Phật Thắng Quán rằng
chúng tôi cũng nguyện
đời sau được
thành Phật tuyên nói
diệu pháp cho các
chúng sanh như đức Thắng Quán
Như Lai hiện nay vì
đại chúng mà
tuyên dương pháp
vi diệu.
Đức
Thắng Quán Phật biết rõ
ý nguyện tăng thượng của tám vạn bốn ngàn người ấy,
đức Phật liền
mỉm cười.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chư Phật lúc
mỉm cười,
pháp nhĩ có các thứ
tia sáng màu xanh vàng đỏ trắng hồng
pha lê tự nhiên từ tai mắt mũi miệng chiếu ra khắp
vô lượng vô biên Phật thế giới cao đến
trời Phạm Thiên làm luốt ánh sáng của tất cả
mặt trời mặt trăng.
Làm Phật sự xong, các
tia sáng ấy xoay về nhiễu bên hữu đức
Thắng Quán Phật trăm ngàn vòng rồi rót vào đỉnh
nhục kế của Phật ấy.
Bấy giờ đức
Thắng Quán Phật có một
thị giả thấy
thần biến ấy liền
đứng dậy trịch y vai hữu quì gối hữu
chấp tay hướng lên
đức Phật Thắng Quán khom mình
lễ kính rồi ở trước
đức Phật nói kệ hỏi rằng :
Nay tôi hỏi đức
Thắng Quán PhậtĐoan nghiêm hi hữu khiến người mừng
Duyên cớ gì mà đức
Thiện ThệPhật hiện mỉm cười phóng
tia sángĐấng
Lưỡng Túc Tôn hiện
mỉm cườiChẳng phải không duyên
hiện tướng ấy
Mong nói căn do hiện
mỉm cườiVì
thương xót thế gian xin
giải thíchNay có trăm ngàn
câu chi chúng
Hiện đang ở trước
đức Thế TônNhiếp tai
chuyên chú thích lắng nghe
Mong Phật
xót thương vì chúng nói
Phật là mắt của tất cả chúng
Là nhà là cứu là chỗ về
hay dứt điều nghi của
chúng sanhĐấng thương
thế gian làm
lợi íchĐức Phât biết rõ đời
quá khứLại cũng biết rõ đời
vị laiBiết rõ
hiện tại các
Phật độChẳng còn nghi nơi tất cả pháp
Pháp vương biết khắp luận
tự tạiNhư Lai nhiệm mầu hóa
tam thếNay tôi kính hỏi
đức Thế TônCó
nhân duyên gì hiện
mỉm cườiPhật hay dứt hẳn lưới nghi người
Tự không còn nghi tất cả pháp
Phạm âm tuyên dương pháp
vi diệuHay nhổ tên độc cho
chúng sanhLòng tôi
vui sướng khó trình bày
Hai tay chấp lại lòng
cung kínhDám hỏi
Pháp Vương Đại Thánh Tôn
Có
nhân duyên gì hiện cười mỉm.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Đức Thắng Quán
Như Lai bảo
thị giả :
Nầy
Tỳ kheo ! Ông có thấy trẻ ấy đang ở trước Phật chăng ?
Thị giả thưa :
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi đã thấy.
Đức Thắng Quán
Như Lai phán :
Trẻ ấy thuở
quá khứ đã từng ở chỗ sáu mươi bốn
câu chi na do tha trăm ngàn
đức Phật mà
cúng dường kính lễ tôn trọng tán thán.
Cúng dường những
y phục đồ uống ăn đồ nằm thuốc men và các
vật dụng cho chư Phật ấy xong, vì muốn
xu hướng Vô thượng Bồ đề nên trẻ ấy lại ở nơi chỗ mười
na do tha chư Phật
quá khứ mà tu
phạm hạnh hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Nầy
thị giả ! Nay tám muôn bốn ngàn người theo trẻ ấy đến đây đều là
cha mẹ của trẻ ấy trong những đời
quá khứ. Thuở xa xưa, trẻ ấy từng
phát nguyện như vầy : Nguyện tôi
đời đời sanh tại xứ nào, bao nhiêu
cha mẹ đều khiến an trụ
Bồ đề cả. Lại khiến các bà mẹ không còn thọ thân người nữ ở đời thứ hai. Do
lời nguyện ấy nên nay đây họ đồng theo trẻ đến chỗ Phật và cùng
tu học theo trẻ ấy
phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Thắng Quán
Như lai vì
thị giả mà nói kệ rằng :
Tỳ kheo nên
quan sát trẻ ấy
Cùng chúng
tùy tùng tám muôn tư
Lần nọ mừng reo phát lời thiệt
Nguyện tôi
đời sau như Pháp Vương
Phải biết từng ở đời
quá khứNơi chư Phật số lượng kể trên
Cung kính cúng dường đấng
đạo sưLợi ích trời người cả
thế gianỞ chỗ mười
na do tha Phật
Theo Phật
xuất gia trì
chánh phápThực hành việc làm của
Như LaiVì cầu
Bồ đề Vô thượng vậy
Ông xem tám vạn bốn ngàn người
Hiện nay đều ở trước
Như LaiĐã từng trong những đời
quá khứĐều là cha me của trẻ ấy
Trẻ ấy thuở xưa từng
phát nguyệnBao nhiêu
cha mẹ trong nhiều đời
Đều khiến an trụ
Vô Thượng GiácChẳng còn lại thọ thân
nữ nhânHọ đều học theo trẻ ấy cả
Ở trước
Phật phát Bồ đề nguyện
Nay Phật sẽ đều
thọ ký họ
Đời sau họ sẽ đều
thành PhậtDo
nhân duyên ấy Phật
mỉm cườiThắng hạnh của họ Phật đều biết
Biết cả
công hạnh đời
vị laiHọ sẽ
chứng nhập Vô Thượng GiácChư Thiên Long thần và nhân chúng
Vô lượng trăm ngàn
na do thaNghe lời của
Phật thọ ký đây
Đều rất mừng kính
Thắng Quán Phậtnghe
đức Phật Thăng Quán
thọ ký xong,
Trẻ ấy
vui mừng vô lượng,
vội vàng đến chỗ
cha mẹ mà nói kệ rằng
Tám vạn tư người ấy
Cha mẹ tôi đời trước
Đều trụ tại
Bồ đềLòng
cha mẹ về đâu
Cha mẹ nói kệ đáp trẻ ấy :
Như chỗ chí con về
Lòng
cha mẹ cũng vậy
Sẽ thành
nhứt thiết tríĐây
quyết định không nghi
Con đã sanh nhà ta
Sau nầy xin chớ bỏ
Thường phải nhớ đến ta
Khiến mau chứng
Bồ đề.
Trẻ ấy lại nói kệ đáp
cha mẹ :
Người được tôi
hóa đạoNguyện họ
thành Phật trước
Tối hậu tôi sẽ thành
Chiếu thế
Điều Ngự SưNầy
Xá Lợi Phất ! Đứa trẻ ở trong
pháp hội đức Thắng Quán
Như Lai thuở
quá khứ ấy chẳng phải ai lạ, chính là
Đại Tự Tại Thiên Tử đây vậy. Từ nay về sau lại
trải qua câu chi na do tha kiếp chẳng còn
thối chuyển Vô thượng Bồ đề. Quá
số kiếp nầy sẽ sanh vào dòng
Chuyển Luân Thánh Vương, Vương phụ tên Danh Xưng như
Tịnh Phạn Đại Vương cha của ta đây, vương mẫu hiệu Ly Ám như nay mẹ ta
Ma Ha Ma Gia Phu Nhân, con trai tên
Vô Ưu như
La Hầu La con ta đây, sau khi
xuất gia ngộ
Bồ đề thành Phật hiệu
Đại Bi Như Lai đủ mười
đức hiệu, thọ
vô lượng trăm ngàn
câu chi tuổi, ánh sáng thường của Phật
Đại Bi chiếu đều khắp mười
do tuần, chỗ Phật
Đại Bi thuyết pháp đại hội đầy chật một trăm
do tuần.
Đại Bi Như Lai trụ thế
giáo hóa độ hàng
Thanh Văn ba hội
thuyết pháp. Hội thứ nhứt có trăm
câu chi đệ tử Tỳ kheo. Hội thứ hai độ
na do tha câu chi Tỳ Kheo Tăng. Hội thứ ba độ
Tỳ Kheo đệ tử đến số trăm ngàn
na do tha câu chi. Trong hàng
đệ tử ấy có một
câu chi đại A La Hán các lậu đã hết không còn
phiền não, được
tự tại huệ đủ
tám giải thoát,
thành tựu tam muội và sáu
thần thông. Chúng
Bồ Tát trong
pháp hội của
Đại Bi Như Lai cũng đồng số lượng với chúng
Thanh Văn đệ tử, đều là
cha mẹ quá khứ của
đức Phật ấy. Đức
Đại Bi Như Lai tuyên nói
diệu pháp độ
vô số chúng sanh rồi nhập Niết-bàn,
chánh pháp trụ thế một
câu chi năm,
Xá lợi lưu bố cúng dường lợi ích chúng sanh như sau khi ta
nhập diệt.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát an trụ
chánh cần cũng như vậy. Lúc
tu hành Tỳ lê gia
Ba la mật, vì cầu
Vô thượng Bồ đề nên
đại Bồ Tát ấy có thể ở nơi kinh nầy
tu hành chánh pháp càng thêm phấn chấn
phát khởi sức đại
tinh tấn dũng mãnh độ thoát vô lượng chúng sanh. Phật gọi người ấy là thiện
trượng phu tư duy quán sát chẳng mỏi chẳng lui
dũng mãnh tinh tấn lòng luôn
sáng suốt.
Thế nào là
đại Bồ Tát tinh tấn chẳng mỏi ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát lúc vì
chúng sanh mà cầu
Vô thượng Bồ đề thì chẳng nên hạn cầu có số lượng.
Đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng bao nhiêu kiếp tôi
lưu chuyển, bao nhiêu kiếp tôi chẳng
lưu chuyển, mà
đại Bồ Tát luôn mặc giáp
bất tư nghị ở tại
sanh tử quan niệm rằng
giả sử tôi sẽ chịu khổ ở
hậu tế nhiều và lâu hơn ở triền tế, nhưng vì cầu
Vô thượng Bồ đề nên tôi không hề
giải đãi thôi nghĩ ở giữa chừng.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát có đầy đủ
hoằng thệ như
vậy thì gọi là
thành tựu tinh tấn chẳng mỏi.
Thế nào là
đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Giả sử toàn cõi
Tam thiên đại Thiên đầy lửa hừng phát lên, vì muốn đến gặp Phật kia,
đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn đi ngang qua giữa ngọn lửa ấy không hề khiếp sợ. Vì cầu
nghe pháp môn
vi diệu đại Bồ Tát tạng,
đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh do sức
tinh tấn vẫn đi ngang qua giữa chẳng hề khiếp sợ thối lui. Vì muốn tuyên nói
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, dù gặp lửa cháy như vậy,
đại Bồ Tát tinh tấn dõng mãnh do sức
tinh tấn vẫn đi ngang qua giữa chẳng hề khiếp sợ thối lui. Vì muốn
sanh khởi nhân duyên căn lành ,
đại Bồ Tát tinh tấn dõng mãnh do sức
tinh tấn dõng mãnh vẫn đi ngang qua giữa ngọn lửa ấy chẳng hề khiếp sợ thối lui. Vì muốn
lợi ích chúng sanh , vì muốn cho người bát Niết-bàn,
đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn do sức
tinh tấn dầu phải đi ngang qua giữa vùng lửa ấy vẫn không hề khiếp sợ thối lui.
Đây gọi là tướng dạng
tinh tấn dũng mãnh của
đại Bồ Tát tu hạnh Tỳ lê gia
Ba la mật vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát lúc thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật phát khởi dũng mãnh tinh tấn chẳng mỏi, do
thiện căn kiên cố bất thối dũng mãnh phát khởi và
đại bi Vô thượng huân tập nên luôn
phát khởi sức
dũng mãnh đại
tinh tấn, với các
chúng sanh thường làm việc
giáo hóa khai đạo.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát phát khởi tinh tấn chẳng mỏi ấy, trong tất cả
thời gian cất chưn hạ chưn thường chẳng bỏ rời tâm
Bồ đề, với Phật, Pháp và Tăng hằng
kính trọng nhiếp niệm
tại tâm, với tất cả
chúng sanh hằng
quan sát luôn để làm
lợi ích chẳng muốn họ bị
thế lực phiền não bức đoạt. Lại đem hết những căn lành
vi diệu mà mình đã có đều
hồi hướng tất cả về
Vô thượng Bồ đề khiến căn lành ấy
rốt ráo vô tận. Như đem chút nước đổ vào biển lớn thì không bao giờ mất hết.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát tinh tấn chẳng mỏi dùng hạnh
bình đẳng chứa hợp
thiện căn, với
chúng sanh phát khởi bình đẳng chứa hợp
thiện căn,vì muón dẫn sanh
nhứt thiết trí trí nên chứa hợp
thiện căn, vì muốn
lợi ích các
chúng sanh nên chứa hợp
thiện căn.
Vô lượng các
thiện căn lớn ấy đều do
đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi chứa hợp
phát khởi vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi ấy thường phải
tu học pháp như vậy, được khối phước
vô lượng vô biên như sau :
Nầy
Xá Lợi Phất ! Phật
quan sát tất cả
chúng sanh có khối phước
vô lượng, nhẫn đến tất cả bực
hữu học bực
vô học, tất cả hàng
Độc Giác có khối phước nhiều gấp
vô lượng chẳng thể nghĩ bàn. Bao nhiêu khối phước trên ấy,
giả sử đem nạp vào một lỗ lông của
chúng sanh, tất cả lỗ lông trên thân
chúng sanh đều nạp khối phước như vậy
vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn.
Giả sử tất cả lỗ lông trên tất cả thân của tất cả
chúng sanh đều nạp đầy khối phước như trên, đem tất cả khối phước ấy hợp chứa vào trong một ngôi đền thờ pháp lớn không cửa khóa.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Khối phước chứa trong đền thờ pháp ấy tăng lên trăm lần cảm được một
sắc tướng đại trượng phu trên thân
Như Lai. Mỗi mỗi
tướng đại trượng phu đều do khối phước như vậy
cảm thành. Tất cả khối phước
cảm thành tất cả
tướng đại trượng phu ấy hiệp lại thành một tướng my gian
bạch hào. Trăm ngàn khối
phước tướng bạch hào hiệp lại
cảm thành tướng
vô kiến đảnh của
Như Lai .
Câu chi trăm ngàn khối
phước tướng vô kiến đảnh hiệp lại
cảm thành tướng đại pháp
thương khư loa của
Như Lai.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Do vì
tướng đại pháp loa của
Như Lai được
vô lượng thứ
phước đức hợp thành , nên
tùy ý muốn
đức Như Lai phát âm thanh lớn phổ cáo
vô lượng vô biên tất cả
thế giới, vì các
chúng sanh mà tuyên
diệu pháp, đúng như
căn tánh của họ,
nghe pháp họ liền tin hiểu
vui mừng. Đó đều là do sức
tinh tấn dũng mãnh tu học không mỏi vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát phải
quan niệm rằng :
Vô thượng Bồ đề như vậy dầu rất khó được, nhưng tôi chẳng bỏ giáp
tinh tấn phát
đại dũng mãnh
quyết định sẽ mau ngộ
Vô thượng Bồ đề, chẳng lấy gì làm khó.
Thành Phật rồi
tùy ý muốn tôi
phát âm thanh lớn từ tướng phát loa phổ cáo
vô lượng vô biên tất cả
thế giới, vì các
chúng sanh tuyên pháp
vi diệu, đúng như
căn tánh nghe pháp đều tin hiểu
vui mừng.
Đây gọi là
tướng đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát dũng mãnh không mỏi
tu tập Tỳ lê gia
Ba la mật phải
thường tinh tấn
tu tập như vậy. Do
tu học nên
thành tựu đầy đủ tất cả
trí huệ.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Giả sử bao nhiêu
chúng sanh trong
Tam thiên Đại Thiên thế giới đều
thành tựu trí
tùy tín hành cả, dùng tất cả trí
tùy tín hành ấy đem
so sánh với một trí
tùy pháp hành thì chẳng bằng một phần trăm , một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn muôn một phần toán, một phần số, một
phần dụ, nhẫn đến chẳng bằng một phần
ưu ba ni sa đà.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Giả sử tất cả
chúng sanh trong
Tam Thiên Đại thiên thế giới đều
thành tựu trí
tùy pháp hành muốn đem
so sánh với một trí đệ
bát nhẫn thì chẳng bằng một phần trăm
cho đến chẳng bằng một phần
ưu ba ni sa đà.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Giả sử tất cả
chúng sanh trong
Tam thiên Đại Thiên thế giới đều
thành tựu trí đệ
bát nhẫn muốn đem
so sánh với một trí
Tu Đà Hoàn quả thì chẳng bằng một phần trăm
cho đến chẳng bằng một phần
ưu ba ni sa đà.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Giả sử tất cả
chúng sanh trong
Tam thiên Đại Thiên thế giới đều
thành tựu trí
dự lưu quả muốn đem
so sánh với một trí
Tư Đà Hàm hướng. Như vậy, tất cả trí
nhứt lai hướng muốn đem
so sánh với một trí
Tư Đà Hàm quả, tất cả trí Tư Dà Hàm quả muốn đem
so sánh với một trí
A Na Hàm hướng, tất cả trí
bất hoàn hướng muốn đem
so sánh với một trí
A Na Hàm quả, tất cả trí
A Na Hàm quả muốn đem
so sánh với một trí
A La Hán hướng, tất cả trí
vô sanh hướng muốn đem
so sánh với một trí
A La Hán quả, tất cả trí
A La Hán quả muốn đem
so sánh với một trí
Độc Giác, tất cả trí
Độc Giác muốn đem
so sánh với một trí
Bồ Tát tu quá trăm kiếp, tất cả trí
Bồ tát tu quá trăm kiếp muốn đem
so sánh với một trí
Bồ Tát bất thối chuyển, tất cả trí
Bồ tát bất thối chuyển muốn đem
so sánh với một trí
Bồ Tát Nhứt Sanh
Bổ xứ thì chẳng bằng một phần trăm nhẫn đến chẳng bằng một phần
ưu ba ni sa đàNầy
Xá Lợi Phất !
Giả sử tất cả
chúng sanh trong
mười phương thế giới đều
thành tựu trí
Bồ Tát nhứt sanh
bổ xứ muốn đem
so sánh với một trí thị xứ phi xứ của
Như Lai thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn nhẫn đến chẳng bằng một phần
ưu ba ni sa đà.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy do thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật nên lúc nghe
trí huệ thậm thâm của
Như Lai như vậy lòng
không kinh sợ, với
trí huệ ấy sanh lòng thích muốn
phát khởi chánh cần chẳng thôi bỏ mà
quan niệm rằng : Nay tôi
tu hành dũng mãnh tinh tấn,
giả sử thân của tôi khô cạn cả máu huyết
da thịt gân xương tủy não, nếu chưa được trí thị xứ phi xứ ấy, tôi vẫn
tinh tấn dũng mãnh kiên cố trọn không thôi bỏ giữa chừng.
Đây gọi là tướng dạng
Đại Bồ Tát tinh tấn Ba la mật dũng mãnh kiên cố chẳng mỏi,phải nên học như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật đa nên
phát khởi tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi, thường phải
tu học như vậy. Do
tu học nên có
thể diệt lửa các
phiền não của các
chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Giả sử bao nhiêu tâm
quá khứ của tất cả
chúng sanh đều vào chuyển trong một tâm
chúng sanh, như vậy nhẫn đến mỗi mỗi tâm của tất cả
chúng sanh đều có đủ số lượng tâm trên phiền tạp khó biết được. Mỗi mỗi tâm sau đây đều có đủ
vô lượng tham sâu si
phiền não phiền tạp. Đem tất cả
phiền não của tất cả
chúng sanh đều cho vào chuyển.
Trong một tâm của một
chúng sanh .
Giả sử tất cả
chúng sanh đều có đủ
vô lượng phiền não phiền tạp khó biết như vậy.
Đại Bồ Tát suy nghĩ rằng tôi phải
cố gắng phát khởi tinh tấn dũng mãnh tìm cầu
trí huệ tư lương ấy, tùy tôi
phát khởi sức
chánh cần, với lửa
tham sân si và các
nhiệt não khác, tôi phải làm cho diệt dứt không sót, đều làm tan nát mất như tro tàn, khiến
chúng sanh mau ở trên đường Niết-bàn. Đây gọi là
đại Bồ Tát Tinh tấn Ba la mật dũng mãnh chẳng mỏi, phải nên học như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì tu Tỳ lê gia
Ba la mật nên an trụ
tinh tấn không mỏi thường phải
tinh tấn tu học như vậy. Do
tu học nên các
thiện nghiệp nơi thân nơi khẩu và nơi ý đều không thôi bỏ. Nhẫn đến tất cả
tinh tấn đều là
phương tiện sách tấn
thân khẩu ý của
Bồ Tát.
Nầy
Xá Lợi Phất trong đời chỉ nói đến tướng hai nghiệp thân và khẩu của
Bồ Tát là
tinh tấn đệ nhứt mà chẳng nói đến tướng tâm
tinh tấn của
Bồ Tát. Tướng tâm
tinh tấn của
Bồ Tát vô lượng vô biên nay Phật sẽ nói lược.
Tâm
Bồ Tát tu hành chánh cần hoặc tấn hoặc chỉ. Thế nào là
chánh cần tấn chỉ ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát tu hành đại
tinh tấn vì
Vô thượng Bồ đề mà siêng tu
tinh tấn. Nói tấn là đối với
chúng sanh thì
phát khởi đại bi. Nói chi là
vô ngã trí. Nói tấn là nhiếp các
chúng sanh. Nói chỉ là chẳng chấp lấy pháp. Nói tấn là ở
sanh tử không mỏi. Nói chỉ là chẳng thấy có
ba cõi. Nói tấn là xả bỏ tất cả. Nói chỉ là
bố thí chẳng chán. Nói tấn là nhiếp lấy
tịnh giới. Nói chỉ là chẳng nhàm
Thi la. Nói tấn là
cam chịu các khổ. Nói chỉ là không lòng hủy hoại. Nói tấn là
phát khởi pháp lành. Nói chỉ là tâm thường
xa lìa. Nói tấn là
nhiếp thọ tịnh lự. Nói chỉ là tâm
thường tịch diệt. Nói tấn là
nghe pháp chẳng chán. Nói chỉ là khéo giỏi như lý. Nói tấn là nghe nói không nhàm . Nói chỉ là không
hí luận pháp. Nói tấn là cầu
tư lương trí huệ. Nói chỉ là dứt các
hí luận. Nói tấn là
tăng trưởng tịnh tín. Nói chỉ là chơn trí
hành xả. Nói tấn là đủ năm
thần thông. Nói chỉ là khắp biết
lậu tận. Nói tấn là tu các
niệm xứ. Nói chỉ là niệm
vô công dụng.Nói tấn là
phương tiện chánh cần. Nói chỉ là
thiện ác đều xả bỏ. Nói tấn là dẫn phát
thần túc. Nói chỉ là nhiệm vận
tác dụng, nói tấn là thiện quyền
ngũ căn. Nói chỉ là quán chẳng phải
căn tánh. Nói tấn là
nhiếp thọ ngũ lực. Nói chỉ là trí không
chế phục. Nói tấn là sanh
bồ đề phần . Nói chỉ là trí giảng
trạch pháp . Nói tấn là cầu
tư lương chánh đạo. Nói chỉ là
không tánh lai vãng. Nói tấn là
cầu xa ma tha.Nói chỉ là
tâm an trụ tịch chỉ. Nói tấn là tư trợ thắng quán. Nói chỉ là gẩm xét
pháp tánh.Nói tấn là liền theo xét xem các nhân. Nói chỉ là biết khắp các nhân. Nói tấn là theo người nghe
phát âm. Nói chỉ là đúng
như pháp tu hành. Nói tấn là thân
trang nghiêm. Nói chỉ là
pháp tánh thân. Nói tấn là ngữ
trang nghiêm. Nói chỉ là thánh
mặc nhiên tánh. Nói tấn là tin môn
giải thoát. Nói chỉ là không có
phát khởi.Nói tấn là xa rời
bốn ma. Nói chỉ là bỏ
phiền não tạp khí. Nói tấn là
phương tiện thiện xảo. Nói chỉ là
quán sát thâm huệ. Nói tấn là
quan sát duyên cảnh.Nói chỉ là
vô công dụng quán. Nói tánh là
quán sát giả danh. Nói chỉ là tỏ thấu thiệt nghiã
Nầy
Xá Lợi Phất ! Bao nhiêu tướng tấn và tướng chỉ ấy gọi là
đại Bồ Tát duy tâm tinh tấn.
Nếu như
đại Bồ Tát nghe những tướng tâm
tinh tấn như vậy phải nên
phát khởi tinh tấn dũng mãnh đầy đủ không mỏi.
Đây gọi là
đại Bồ Tát tu tập tinh tấn Ba la mật thành tụ tướng
tinh tấn dũng mãnh không chán mỏi.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh không mỏi ấy
thành tựu năm
pháp tăng tấn thì có thể mau ngộ
vô thượng Bồ đề. Đó là gặp Phật
xuất thế, được gần
thiện hữu, được toàn đủ không nạn chướng, tất cả pháp lành đã được tu tấn thì
vĩnh viễn không hư mất, theo
tu học với
đại Bồ Tát an trụ
luật nghi. Có được năm điều trên là
thành tựu năm
pháp tăng tấn, do đó mà
đại bồ Tát tinh tấn dũng mãnh không mỏi sẽ mau ngộ
Vô thượng Bồ đề ».
Bấy giờ
trưởng lão Xá Lợi Phất bạch
đức Phật : <<
Bạch đức Thế Tôn ! vả có
Bồ Tát nào cũng giảng năm pháp nầy chăng ? >>
Đức Phật phán : << Có. Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
Bồ Tát có năm pháp sau đây thì có thể tổn giảm. Đó là có Phật
xuất thế mà chẳng gặp, chẳng muốn gần
thiện hữu, chẳng được không nạn chướng, pháp lành
tu tập phần nhiều hư mất, không muốn theo học với
Bồ Tát an trụ
luật nghi. Do có những pháp tổn giảm ấy nên chẳng mau ngộ
Vô thượng Bồ đề.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát có năm pháp sau đây thì bị tổn giảm :
Quốc vương hay đại thần đem sức oai thế
khủng bố chúng sanh, đến đổi ai có sự duyên thì
cầu thỉnh oai phước, nếu có ai làm xong việc như vậy sẽ trọng tạ. Hàng
Bồ tát tại gia vì thấy có lợi nên lòng chẳng
chánh trực bèn lãnh làm, phàm nói năng đều vì lợi cả.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát tại gia do làm sự việc ấy mà tổn giảm
thiện đạo, tổn giảm vô nạn, vì
dưỡng thân mà làm
ác hạnh nên chẳng gặp Phật
xuất thế nhẫn đến chẳng mau ngộ
Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là
Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ nhứt vậy. Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Tại gia Bồ Tát ở nơi thành hư hoại.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu chư Phật
xuất thế vì các
chúng sanh mà
chuyển pháp luân thanh tịnh vi diệu. Bấy giờ sẽ có
bốn chúng xuất hiện : Đó là những chúng
Tỳ kheo,
Tỳ Kheo ni,
Ưu Bà Tắc và
Ưu Bà Di.
Lúc ấy chư ni vì
bảo hộ giới hạnh mà đến ở trong các thành ấp thôn xóm. Các
Bồ Tát tại gia đến chỗ chư ni ở làm
nhiễm ô người
giữ giới. Do vì hủy giới nên gọi là ở nơi thành hư hoại.
Bồ Tát tại gia phạm sự ấy thì chẳng gặp Phật
xuất thế nhẫn đến chẳng mau ngộ
Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là
Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ hai vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Tại gia Bồ Tát thấy
thời kỳ có nhiều người nương theo
giới luật diễn nói
chánh pháp bèn làm
chướng ngại sự
nghe pháp tu tập của
cha mẹ anh chị em
vợ con quyến thuộc và các
chúng sanh. Do làm
chướng ngại chánh pháp như vậy nên trong
thời gian dài,
tại gia Bồ Tát ấy thường bị
chướng ngại nơi
giới luật chẳng gặp Phật
xuất thế nhẫn đến chẳng mau ngộ
Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là
Bồ Tát tổn giảm thứ ba vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Tại gia Bồ Tát nghe trong kinh
đức Phật nói khen pháp
thiểu dục tri túc xuất gia yên tĩnh ở
núi rừng lìa khổ, bèn không tin
trở lại hủy báng và cũng bảo người có
kiến chấp như vậy. Vì hủy
báng pháp thanh tịnh của
Như Lai nên
tại gia Bồ Tát bất thiện ấy bị sa chìm trong các loài đáng hủy báng đó là
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỉ, hoặc sanh
biên địa và trong nhóm
ác kiến.
Tại gia Bồ Tát ấy chẳng gặp Phật
xuất thế nhẫn đến chẳng được mau ngộ
Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là
Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ tư vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
tại gia Bồ Tát nương theo
quốc vương hay đại thần hoặc những người
giàu sang có
thế lực mà làm điều tệ ác,
cậy thế lực chê cợt
mắng chửi các
chúng sanh.Do đó ngữ
ác hạnh ấy nên mau chiêu vời các báo
ác đạo mà chẳng gặp Phật
xuất thế, chẳng gần
thiện hữu, chẳng được không nạn, căn lành hư mất, chẳng theo
Bồ Tát gìn
luật nghi tu học chánh pháp và chẳng mau ngộ
Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là
Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ năm vậy>>.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã ấy mà nói kệ rằng :
«
Bồ Tát nếu có năm pháp tổn
Do đó
trí huệ không
tăng trưởngĐã chẳng gặp được Phật ra đời
Lại chẳng gần gũi bực
thiện hữuHoặc là vua chúa các đại thần
Khi trá dối gạt các
chúng sanhVì có những thứ nghiệp chẳng lành
Nên chẳng được gặp đấng
cứu thếThế lực khủng bố nhiều
hữu tìnhBắt nạp hối lộ hoặc
tổn hạiGây tạo
ác nghiệp như vậy rồi
Chẳng còn gặp được
Phật Thế TônChư ni ở tu
giới thanh tịnhLàm hư
giới hạnh sanh buồn khổ
Sẽ rời
vô lượng ức
Như LaiChẳng được
thành tựu những vô nạn
Với
cha mẹ vợ con quyến thuộcChướng ngăn chẳng cho
tu pháp hạnh
Lại ngăn nghe học Phật
chánh phápSẽ mau
cảm quả ngu si ác
Có người nhàm đời thích
xuất giaTìm cách bắt bớ ngăn trở họ
Sẽ rời
vô lượng đấng Thế TônChẳng được
thành tựu những vô nạn
Có người nghe học pháp
xuất lyThiểu dục tri túc ở vắng vẻ
Bèn chẳng bằng lòng sanh
hờn giậnHủy báng
chánh pháp sanh
tà kiếnHủy báng
chánh pháp như vậy rồi
Thường đọa
sanh manh báo rất khổ
Trong tất cả
tội nghiệp trọng chướngSo đây chẳng bằng phần mười sáu
Sẽ khó gặp được chư
Như LaiDầu thấy cũng không
lòng tin kính
Cảm thấy hoàng hôn nữ
sanh manhLại
đọa lạc đà lừa heo chó
Đối với chư Phật chư
Bồ TátSanh lòng ân trọng yêu kính mến
Rời xa tất cả
chướng ngại rồi
Nối tiếp
tu học đạo
hiền thánhCha mẹ vợ con cùng
quyến thuộcThường thích đặt ngồi trong
chánh phápCó người nhàm đời cầu
xuất giaKhen ngợi giúp đở cho
toại chíNếu ở trong
quyến thuộc chánh phápSẽ mau sanh lên cõi
hiền lànhCó ai tán trợ người
xuất giaSẽ mau tỏ ngộ
Vô Thượng Giác.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lại còn có năm pháp, nếu
xuất gia Bồ Tát mà có thì chẳng gặp Phật
xuất thế, chẳng gần
thiện hữu, chẳng được vô nạn,
thiện căn hư hỏng, chẳng theo
Bồ Tát giữ giới để
tu học chánh pháp, do đó chẳng mau ngộ
Vô thượng Bồ đề.
Đây là năm pháp : Một là hủy phạm
Thi la. Hai là chê bai
chánh pháp. Ba là
tham trước danh lợi. Bốn là
chấp chặt ngã kiến . Năm là
ganh ghét người khác.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thí như chó đói khổ sở đi dọc theo đường gặp được khúc xương khô màu hơi đỏ, nó cho là hậu vị liền ngoạm đem đến ngã tư chỗ đông người. Vì tham thèm nên nước dãi chảy ra trên xương, nó vọng cho là ngon ngọt, rồi hoặc gặm hoặc liếm hoặc nhai hoặc chép, nó
thích thú gặm nhấm mãi chẳng bỏ rời khúc xương ấy. Bấy giờ có hàng Sát Lợi,
Bà La Môn và các
trưởng giả đều là nhà
phú quí đi qua đường ấy. Chó đói thấy họ từ xa đi lại, lòng nó khó chịu cho là các người ấy sẽ cướp món
ăn ngon của nó, nên nó
giận dữ gào sủa nhe răng lỏ mắt rượt cắn họ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Ông nghĩ thế nào ? Những người đi đến ấy là vì việc khác hay là muốn tìm lấy khúc xương khô hơi đỏ đó chăng ?
-
Bạch đức Thế Tôn ! Không phải họ tìm lấy xương khô.
- Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu như
vậy thì tại sao chó đói ấy lại giận sủa nhe răng rượt cắn họ ?
Bạch đức Thế Tôn ! Theo ý tôi hiểu thì chó đói ấy sợ những người đi lại tham đồ
ăn ngon tất sẽ cướp mất mỹ vị
cam lộ của nó, vì thế mà nó nhe răng sủa cắn họ.
- Nầy
Xá Lợi Phất ! Đúng như lời ông nói. Đời
mạt thế sau nầy có các
Tỳ Kheo dầu được không nạn mà đối với các nhà
thí chủ, do lòng bỏn sẻn mà ghét ganh tham ăn tham uống chẳng tu
chánh pháp. Phật choTỳ kheo nầy như chó đói kia vậy. Nay Phật
xuất thế vì
xót thương cứu độ chúng sanh, nên lo việc ấy mà vì các ác
Tỳ Kheo đời
mạt thế nói ra
thí dụ như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Chư đại Bồ Tát vì muốn
lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh nên cầu
Phật trí mà thật hành Tỳ lê gia Ba
Na la mật. Thịt nơi thân của mình, các
Bồ Tát ấy còn
vui vẻ đem cho, huống lại
vọng tưởng thịt xấu mà
ganh ghét người khác.
Nầy
Xá Lợi Phất các ác
Tỳ Kheo ganh ghét người khác ấy, Phật gọi họ là si
trượng phu, là kẻ tham sống, là
nô lệ giữ lúa tiền, là kẻ bị trói trong
của cải trân ngoạn, là kẻ chỉ biết trọng áo cơm, là kẻ tham ăn mà
ganh ghét.
Này
Xá Lợi Phất ! Phật lại nói
chánh pháp như vầy : Các
Tỳ kheo đến nhà người
thí chủ trước, chẳng nên thấy các
Tỳ Kheo khác mà sanh
lòng ghen ghét. Nếu có
Tỳ Kheo trái lời ta dạy, thấy các
Tỳ Kheo khác hoặc nói nhà
thí chủ nầy là chỗ quen trước của tôi, thầy ở đâu lại tới đây. Với nhà nầy tôi rất
thân mật, thầy ở đâu đến muốn
xâm đoạt.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tại sao các
Tỳ Kheo tham lam ấy đối với kẻ đến sau lại sanh lòng ganh ghét?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì nhà
thí chủ ấy đã hứa cúng cho họ những
y phục đồ uống ăn đồ nằm thuốc men và các
vật dụng khác. Họ sợ
thí chủ đem đồ hứa cúng nầy mà thí cho các
Tỳ kheo kia vậy. Như thế, đối với nhà
thí chủ họ
phát khởi ba lỗi nặng : Một là
phát khởi lỗi nơi chỗ ở. Họ thấy các
Tỳ kheo khác hoặc nói lời hờn rằng nay tôi sẽ rời chỗ nầy. Hai là với nhà
quen thân sẽ bảo : chưa biết nên
cho hay chẳng nên. Ba là với nhà chẳng nhứt định họ sẽ vọng sanh các
lỗi lầm.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các
Tỳ Kheo tham sẻn ấy đối với người đến sau phát ba ác ngôn : Một là nói nhà
thí chủ nhiều việc xấu ác cho các
Tỳ Kheo khác bỏ đi. Hai là với cácTỳ
Kheo đến sau có lời
thành thật , mà
trái lại là
nói dối . Ba là trá hiện lành tốt để gần gũi rình tìm chút lỗi nhỏ rồi ra trước chúng cử tội.
Này
Xá Lợi Phất các
Tỳ kheo ở nhà
thí chủ sanh lòng ganh
bỏn xẻn thì mau dứt mất tất cả pháp lành đã có.
Này
Xá Lợi Phất ! Nếu có
Tỳ kheo tham ganh
bỏn xẻn, Phật gọi họ là người
bất thiện, là
vứt bỏ Bồ đề tư lương, lại chẳng thể theo
Bồ tát giữ
luật nghi để tu
chánh pháp.
Này
Xá Lợi Phất ! Thuở
quá khứ vô lượng vô số bất tư nghì kiếp, có Phật
xuất thế hiệu Thắng Hiện Vương
Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn, thọ chín mươi
câu chi na do tha đều là
đại A La Hán.
Này
Xá Lợi Phất !
Thời kỳ ấy có một
Trưởng giả tên Thiện Trạch nhà
giàu có lớn.
Trưởng giả ấy có hai con trai tên
Luật Nghi và Trụ
Luật Nghi. Cả hai còn
ấu trĩ dung mạo đoan chánh
xinh đẹp ai cũng thích nhìn.
Một hôm vào lúc sáng sớm,
đức Phật Thắng Hiện Vương
đáp y mang bát cùng
Tỳ kheo Tăng
vì lợi ích chúng sanh mà đi
khất thực vào thành của truỡng giả ấy ở. Phật và
chúng tăng oai nghi tường tự, các căn
vắng lặng, tâm ý điềm bạc, tu nhiếp các căn như
đại long tượng, đứng lặng không vẫn đục như nước ao sâu , đức lớn
vòi vọi như tòa lầu vàng ,
thân sắc vững sáng như tòa núi vàng tử kim, lại cũng như biễn cả đầy
châu báu, như vua
Đế Thích chư Thien vây quanh, như
Đại phạm Vương tâm ý
tịch tịnh.
Này
Xá Lợi Phất ! Hai con trai của
Trưởng Giả Thiện Trạch ở trên lầu thấy Phật Thăng Hiện Vương từ xa đi lại
phát khởi lời khen lòng
vui mừng khen chưa từng có. Trụ
Luật Nghi thấy Phật trước
vui mừng nói với anh rằng : Từ khi sanh ra
đến nay anh có thấy vua
chúng sanh đoan nghiêm thế ấy chăng ?
Luật Nghi đáp : Ta từ nào chưa từng thấy vua
chúng sanh đoan nghiêm như vậy. Trụ
Luật Nghi nói với anh rằng như chỗ tôi nghĩ thì
đời sau tôi
quyết định sẽ làm vua
chúng sanh như vậy.
Trụ
Luật Nghi đồng tử nói kệ với anh rằng :
Như anh
Luật Nghi nay đã thấy
Đời sau tôi quyết được như vậy
Chúng
đại Tỳ Kheo vây quanh tôi
Sẽ lại gấp bội hơn ngảy nay
Vì cầu
nhơn duyên Bồ Đề ĐạoTôi thề chẳng nuốt những uống ăn
Anh đã thích ở trong lao ngục
Ý tôi
quyết định sẽ siêu thắng
Đấng vua tất cả
chúng sanh ấy
Đồng như vầng trăng giữa
tinh túAi được thấy mà chẳng kính tin
Lại thích ở nhà chẳng
xuất ly.
Luật Nghi Đồng tử nói kệ đáp lời em:
Vả thôi em chớ nên lớn tiếng
Chẳng phải nói suông mà
thành sựTa chẳng cần phát
ngôn ngữ đời
Thử xem ai
thành chánh giác trước.
Trụ
Luật Nghi đồng tử nói kệ thưa anh rằng:
Đạo
Bồ Đề Vô thượng như vậy
chẳng phải lòng xấu rít mà được
Tôi phải phát tiếng
hiền lành lớn
Quyết định thành Phật trên
loài ngườiLuận người xấu rít như thế này
Của cải chẳng muốn cho người biết
Nay tôi đâu cứ nín lặng
Thân mạng còn bỏ huống
của báuTôi đem của nhà đều
bố thíĐể cầu
nhơn duyên Bồ Đề ĐạoLuôn phần
gia tài của anh có
Cúng
phước điền Phật vì rất kính
Ai thấy
Thế Tôn đấng
Tối ThắngĐủ
ba mươi hai tướng tốt đẹp
Mà chẳng
phát nguyện đến Bồ Đè
Chỉ trừ kẻ
kiến chấp hạ liệtBao nhiêu nhà cửa và
của báuCha mẹ với tất cả
quyến thuộcTôi sẽ đều xã ly tất cả
Mau đến chỗ
đức Như Lai Phật
Là mặt nhựt sáng đời cậy nương
Từ Tôn soi đời rất khó gặp
Trăm ngàn
câu chi do tha kiếp
Thắng tướng như vậy khó được nghe
Tôi thấy
Thế Tôn vào Vương Đô
Chúng
Đại Tỳ Kheo vây quanh Phật
Như trăng tròn sáng tại trời trong
Rọi ánh sáng soi khắp mặt đất
Tôi thấy
Thế Tôn tới ngã tư
Tướng tốt
trang nghiêm tất cả chỗ
Khác nào mặt nhựt tia nắng vàng
Đầy cả
hư không thường chiếu khắp
Tôi thấy
Thế Tôn đi trước chúng
Trang nghiêm hiển phát
Tỳ Kheo Tăng
Dường như núi chúa
tu di kia
Chói các núi báu đều nghiêm lệ
Oai quang của Phật tất
rực rỡSoi hết
quần sanh ở cõi này
Lưỡng Túc Tôn có đủ tướng tốt
Ánh sáng làm đẹp hàng
đại chúngNhư Lai có sức
thần thông lớn
Ngự trị Trời Rồng Nhơn
Phi NhơnLại khởi
vô lượng thứ biến hiện
Vì
chúng sanh mà vào vương đô
Ai thấy
Pháp Vương thạnh như đây
Ba mươi hai tướng
trang nghiêm lớn
Mà lại mong cầu
hạ liệt thừaChỉ trừ người
thấp hèn ngu tối
Nay tôi mừng thấy
đức Thế TônPhát sanh
lòng tin rất
thanh tịnhVì độ
chúng sanh tu Bồ ĐềCần phải mau đến chỗ
Như Lai.
Luật Nghi đồng Tử lại nói kệ đáp lời em:
Ta đối đường sá chẳng phải lười
Mà chẳng mau đến chỗ
Như LaiChờ ta xuống tòa lầu này
Sẽ ra phía ngoài
suy gẫm kỹ
Phải nên bỏ rời tưởng
chấp ngãLại chẳng luyến tiếc
thân mạng mình
Và cầu
trí huệ Phật tối thượngRồi mới đi đến chỗ
Như LaiCha mẹ cửa nhà và
của báuThứ ấy làm người
luyến ái nặng
Nay ta
đồng thời đều
vứt bỏRồi mới đi đến chỗ
Như LaiNếu người nguyện muốn sẽ
thành PhậtLại rất mến thích
đức Như LaiPhải mau rời bỏ khối trân bửu
Xa rời tục gia đến phi gia.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Trụ
Luật Nghi đồng tử nghe lời anh nói xong liền xuống thang lầu để đến chỗ Thắng Hiện Vương Phật.
Luật Nghi đồng tử xuống lầu nhanh chóng chạy đến chỗ Phật
kính lễ xong Trụ
Luật Nghi mới đến.
Bấy giờ
Luật Nghi Đồng Tử đem mười ức
y phục báu
vô giá dâng lên
đức Phật và nói kệ rằng :
Nay tôi chẳng cầu các tướng đẹp
Dâng cúng
Như Lai y
vô giáXin nguyện được báo ở
đời sauĐồng
Phật Như Lai đây không khác
Tối thắng trong tất cả
hàm linhKhéo ở trong tất cả
diệu phápXin nguyện được báo ở
đời sauĐồng
Phật Như Lai đây không khác
Đầy đủ tạng
trí huệ vô thượngKhéo ở
chánh cần các oai lực
Ba mươi hai tướng thân có đủ
Nguyện mau được
thành Phật Vô thượngThành tựu chư Phật
mười trí lựcKhéo an trụ bốn
vô sở úy
Xin nguyện được báo ở
đời sauĐồng Phật Nhu Lai đây không khác
Như chỗ Phật biết
pháp chân tịnh
Chỉ Phật khéo ở
soi sáng cả
Xin Phật diễn nói pháp ấy cho
Khiến tôi mau ngộ
Vô Thượng GiácNay tôi chẳng cầu tướng
tốt đẹpDâng Phật y
vô giá tối thượngChỉ mong
Bồ đề diệu
tịch tĩnhĐể độ
chư Thiên và
nhân thếNhư Lai đã ở pháp
vi diệuTất cả dị luận không động được
Nay tôi vì
cầu pháp như vậy
Nên dâng y
vô giá thắng thượng
Các
pháp không sanh không lão bệnh
Cũng không rầu buồn lo khổ than
Xin Phật dạy nói
pháp tịch tĩnh
Dắt dìu
lợi ích trời người vậy
Nếu
pháp không có
tham sân siCũng không
kiêu mạn và khác ái
Xin nói
Bồ đề và
Phật tánhPháp vô vi mát mẻ cam lồNhững
pháp Như Lai đã an trụ
Được hàng
Thiên Long đều
kính lễHoặc có
tư lự hoặc
vô tưXin Phật dạy nói
pháp tịch tĩnh
Phật ở tại đây hay chiếu khắp
Bốn phương
vô lượng những
Phật độNhư ngọn lửa hừng trong hang tối
Tôi nguyện chứng được
cam lộ nầy
Hoặc tất cả những ái
vô áiTánh thường chẳng nương nơi
dục giớiSắc
vô sắc giới cũng chẳng nương
Xin Phật tuyên nói pháp diệu ấy.
Trụ
Luật Nghi nghe anh nói kệ xong bèn đem một bộ guốc báu mới dâng cúng Thắng Hiện Vương
Như Lai và nói kệ rằng :
Nguyện tôi sẽ vì các
quần sanhLàm cứu làm về làm nhà ở
Chẳng còn lại đi trên đường tà
Hằng dắt bầy mê nói
chánh đạoNguyện thường chẳng quen các
tham dụcTham dục là đường kẻ ngu đi
Rời hẳn tất cả
pháp hữu viHằng gặp
Như Lai Phật
xuất thếĐã gặp được đấng
soi sáng đời
Phải nên
cúng dường Lưỡng Túc TônCần cầu Vô thượng Phật
Bồ đềLợi ích cho các
quần sanh vậy
Phải đem
vô lượng vòng hoa hương
Tràng phan cao đẹp và lọng báu
Dâng hiến vua rồng trong loài rồng
Lợi ích cho các
quần sanh vậy
Lại đem các thứ
y phục đẹp
Mền nệm uống ăn những thuốc men
Đều mang đem dâng hiến
Phật Thế TônLợi ích cho các
quần sanh vậy
Đánh trống lớn nhỏ thổi ốc loa
Hòa tấu tiêu sáo tiếng
ca thanhĐều đem dâng hiến đấng soi đời
Lợi ích tất cả
quần sanh vậy
Món ăn thơm ngon rất bổ dưỡng
Thế gian vi diệu thường
ưa chuộngĐều đem dâng hiến đấng cứu đời
Lợi ích tất cả
quần sanh vậy
Cúng dường rộng lớn như vậy rồi
Lợi ích vô lượng các
chúng sanhBấy giờ tôi liền học
xuất giaSiêng năng
tu học các
phạm hạnhSẽ an trụ nơi
bát chánh đạoLại an vui lượng ức
chúng sanhNguyện tôi làm chỗ
hữu tình nương
Thường chẳng đi trên đường
tà vạyChư thánh quở rầy rất
hạ liệtĐó là
dâm dục tôi bỏ được
Lại sẽ
vứt bỏ các
phóng dậtVới chẳng
phóng dật luôn
tu họcNguyện tôi chẳng sanh vào các nạn
Thường được sanh vào nhà
tịnh tínĐời đời thường thấy
đức Thế TônThấy được Phật rồi rất
tin tưởngĐã
tin tưởng Phật rồi
cung kínhĐem
vòng hoa đẹp và hương thoa
Các thứ
âm nhạc cúng dường rồi
Cần cầu trí huệ sâu của Phật
Rộng sắm đồ
cúng Phật như vậy
Trải qua vô lượng câu chi kiếp
Dứt hẳn
dục lạc bỏ
tại giaSiêng năng
tu học hạnh
thanh tịnh.
Trụ
Luật Nghi đồng tử nói kệ xong, liền tại chỗ của Phật Thắng Hiện Vương
xây dựng đạo tràng bằng xích
chiên đàn cao đẹp bốn
do tuần ngang rộng
trang nghiêm đủ kiểu chạm đẹp. Đã lập
đạo tràng trang nghiêm xong,
đồng tử Trụ
Luật Nghi đem dâng
Phật Thế Tôn ấy mà nói kệ rằng:
Đức Phật an trụ bốn thứ trụ
Đấng
Tối Thắng xưa thường khen ngợi
Nay tôi mừng cầu trụ như vậy
Xin đấng
Thiện Thệ từ mẫn hứa
Nếu có an trụ chỗ trụ ấy
Tâm thường biết rõ
vô lượng chúng
Và biết đời
quá khứ vị laiNay tôi mừng cầu trụ như vậy
Nếu ở chỗ ấy đến
cứu cánhBốn thứ
chánh cần bốn
thần túcVà bốn
tối thắng vô ngại biện
Nay tôi mừng cầu trụ như vậy.
Lúc ấy vì thương đong tử ấy nên Phật Thắng Hiện Vương nhận tòa
đạo tràng thắng thượng được hiến dâng.Phật cùng
Tỳ Kheo tăng vào ở trong ấy.
Thấy Phật và
Tỳ Kheo tăng đã nhận và vào ở tòa
đạo tràng của
bình dân,
đồng tử Trụ
Luật Nghi rất
vui mừng lại đem các thứ
cúng dường Thượng Diệu dâng hiến
cung kính tôn trọng khen ngợi gấp bội trọn nửa tháng không ngớt nghỉ. Sau đó, ở trước Phật,
đồng tử ấy cạo bỏ râu tóc mặc áo
ca sa do
lòng tin thanh tịnh mà
xuất gia chuyên chí
tinh tấn cầu các pháp lành.
Nầy
Xá Lợi Phất !Lúc ấy, hai
đồng tử cầu pháp lành rồi
tâm trí chơn chánh với
Vô thượng Bồ đề đều phát
hoằng thệ.
Luật Nghi đồng tử phát thệ rằng nguyện tôi
thành Phật trước. Phật ấy hiệu
Thế Gian Y Hộ phóng
đại quang minh .
Trụ
Luật Nghi đồng tử phát
thệ nguyện rằng nguyện tôi
thành Phật trước. Phật ấy hiệu
Đại Đạo Thương Chủ cứu độ trời người.
Luật Nghi đồng tử ở trước
đức Phật Thắng Hiện Vương đứng
chấp tay đại thệ trang nghiêm nói kệ rằng :
Tôi sẽ chẳng còn
ngồi yên nữa
Và cũng chẳng dựa thân
nằm ngủChuyên ròng
cần cầu đạo
Bồ đềĐể
lợi ích các
chúng sanh vậy
Tôi sẽ chẳng kể
thân mạng sống
Thường bỏ
giải đãi siêng
tinh tấnChí cầu
Vô thượng Bồ đề đạo
Để làm
lợi ích các
chúng sanhGiả sử máu thịt đều cạn khô
Da xương gân mạch đều teo gầy
Phải bỏ
giải đãi và
thân mạngSiêng cầu đến
Bồ đề Vô thượngTrụ
Luật Nghi đồng tử nghe lời anh phát thệ
vui mừng hớn hở liền ở trước anh nói kệ rằng:
Nay phải cùng hiệp đồng
hòa hảoTu hành Bồ đề Vô thượng hạnh
Phát khởi tinh tấn siêng
tối thắngĐể
lợi ích tất cả
quần sanhNay tôi giảm lo cho
thân mạngMặc cho máu thịt lần khô cạn
Phát khởi tinh tấn học theo anh
Để cầu
Vô thượng Bồ đề đạo
Tôi sẻ ở riêng rảnh vắng vẻ
Núi rừng hoang vắng siêng
tinh tấnThường cầu trí
tối thắng Vô thượngỞ ngôi
trang nghiêm đại Pháp VươngNầy
Xá Lợi Phất !Thuở
quá khứ ấy hai
đồng tử Luật Nghi đại Bồ Tát và Trụ
Luật Nghi đại Bồ Tát ở trong
pháp hội của Thắng Hiện Vương
Như Lai phát
hoằng thệ lớn, vì thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật nên siêng năng
tu hành chánh đạo.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc hai
Bồ Tát ấy
thực hành tinh tấn, trong
thời gian một ngàn năm chưa hề bị sự ngủ nghỉ xen đoạt chừng khoảng
đàn chỉ, trong ngàn năm chưa hề có
ý muốn nằm nghỉ, trong ngàn năm chưa hề có ý thích ngồi, trong ngàn năm chưa hề có
một lần khom lưng ngồi xổm chỉ trừ lúc tiêu tiểu, nếu lúc muốn ăn thì đứng thẳng. Trong ngàn năm chưa hề ăn hai lần, một ngày chỉ ăn
một lần, mỗi lần chỉ ăn một vắt và uống một chén nước. Trong ngàn năm chưa hề có ý thích
ăn uống như có
ý nghĩ rằng nay tôi
đói khát cần phải uống ăn thứ ấy. Trong ngàn năm chưa từng có
một lần ăn uống quá lượng. Trong ngàn năm chưa hề có
quan niệm ăn uống vừa ý : Thứ nầy mặn, nầy lạt, nầy ngọt, nầy đắng, nầy cay, nầy chua, nầy ngon, nầy đở. Trong ngàn năm mỗi khi đi
khất thực thì
nhứt tâm chánh niệm, chưa hề nhìn ngó mặt người cúng thí, chưa hề có
ý nghĩ ai cho ta, là đàn ông hay đàn bà, nhẫn đến đồng nam
đồng nữ cũng chẳng nhìn ngó. Trong ngàn năm ở dưới cội cây mà chưa hề ngước mặt ngó hình cây. Trong ngàn năm chưa hề thay đổi
y phục để mặcTrong ngàn năm chưa hề có ý tham ý giận ý hại. Trong ngàn năm chưa hề có
ý tưởng nhớ
thân quyến, hoặc cha hoặc mẹ hoặc
anh chị em và các
quyến thuộc khác. Trong ngàn năm chưa hề nhớ nghĩ nhà cũ. Trong ngàn năm chưa hề có
ý nghĩ ngước xem màu sắc như
nguyệt tinh tú mây ráng
hư không. Trong ngàn năm chưa hề có
ý nghĩ đem thân dựa nơi cây nơi vách.Trong ngàn năm chưa hề có
ý nghĩ dùng
tô dầu thoa tay chân. trong ngàn năm chưa hề có
quan niệm kinh sợ. Trong ngàn năm chưa hề có
ý nghĩ thân tâm mỏi mệt. Trong ngàn năm chưa hề có nghĩ lười biếng
phóng dật mà chỉ có
ý nghĩ nay ta
tu hành lúc nào sẽ chứng
Vô thượng Bồ đề. Trong ngàn năm chưa hề có
một lần thân tâm đau khổ. Trong ngàn năm chưa hề có
ý nghĩ tôi muốn
cạo tóc, chỉ trừ
Tứ Thiên Vương đế dung
thần lực lấy tay xoa
tóc mang về cung trời xây tháp báu
cúng dường. Trong ngàn năm dầu có
chư Thiên Vương hoặc đến hoặc đi mà hai
đồng tử Bồ Tát không hề có
ý tưởng đến đi. Trong ngàn năm chẳng hề có
quan niệm từ trong bóng râm tối đi đến chỗ ánh sáng, từ chỗ nóng nực đến chỗ
mát mẻ. Trong ngàn năm dầu là mùa rét lạnh cũng chưa hề có
ý tưởng mặc áo dầy ấm. Trong ngàn năm chưa hề có
quan niệm luận bàn việc
thế gian vô ích.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Trong ngàn năm hai
đồng tử Bồ Tát ấy
thực hành tinh tấn kiên cố như vậy. Bấy giờ có
ác ma tên
Ngu Si Niệm, như ngày nay ta
xuất thế có
ác ma Ba Tuần vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Lúc ấy ác ma vì muốn làm nhiễu loạn nên ở khắp đường
kinh hành của
Luật Nghi Bồ Tát,
ác ma bố trí đầy dao đưa lưỡi nhọn bén lên.
Luật Nghi Bồ Tát thấy đường đầy dao hơi quên
chánh niệm, có
ý tưởng dao nhọn bén. Vì có
ý tưởng ấy liền
tự giác ăn năn phát âm thanh lớn hai lần xướng rằng :
Quái lạ thay tại sao nay tôi lại
phóng dật !
Âm thanh ấy vang khắp
Tam thiên Đại Thiên thế giới. Trên
hư không có sẵn trăm ngàn
câu chi đồ đảng.
Thiên ma nghe tiếng xướng lên của
Bồ Tát liền
đồng thanh bảo
Bồ Tát rằng : Lời phổ cáo của Ngài rất hay rất hay.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Những
âm thanh ấy chỉ riêng
Luật Nghi nghe, còn trụ
Luật Nghi chẳng nghe, đó là do
ma lực vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !Nghe
lời nói của
Thiên ma Luật Nghi Bồ Tát phấn phát đại
tinh tấn kiên cố đi kinh hành trên đường ấy
nhiếp tâm lại chẳng còn
nghĩ tưởng đến dao nhọn,
hàng phục ma oán ấy xong.
Luật Nghi Bồ Tát an trụ
oai nghi như vậy, thật hành
diệu hạnh như vậy,
tu đạo tích như vậy, khởi
đại bi như vậy,
phát khởi tinh tấn dũng mãnh như vậy chưa hề thôi nghỉ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Hai
bồ Tát ấy ở trong
pháp hội Phật Thắng Hiện Vương vì
thực hành Tỳ lê gia
Ba la mật nên đều
thành tựu đại bi dũng mãnh. Lại trong ngàn năm ở rừng vắng rảnh
tu tập Phật
tùy niệm. Sau
thời gian ấy Phật Thắng Hiện Vương nhập Niết-bàn.
Chư Thiên đến báo tin ấy với hai
Bồ Tát. Hai
Bồ Tát ấy liền đến chỗ
đức Phật nhập diệt đứng
chấp tay chiêm ngưỡng đức Như Lai chẳng rời mặt, lòng rất mến luyến
kính trọng và nghĩ rằng :
Đức Như Lai xuất thế đại từ bi che chở chúng sanh đồng như nhà ở, sao Phật sớm nhập Niết-bàn khiến
chúng tôi không chỗ nương không chỗ nhờ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Hai
Bồ Tát ấy đứng trước
đức Phật luyến mến kính ngưỡng trọn bảy ngày bảy dêm chưn chẳng dợi động chẳng xiết
cảm thương, liền
mạng chung sanh lên cõi
Phạm Thiên. Đã được thân
Phạm Thiên có sức trí biết đời trước, liền dùng
thần thông đến hội Niết-bàn, hai vị ấy vì
Xá lợi,của Phật Thắng Hiện Vương mà xây tháp báu cao lớn cực
trang nghiêm mãn bốn mươi ngàn năm mới
hoàn thành, trên tháp treo nhiều lọng tròn.
Xây tháp xong, hai
Bồ Tát ấy rất
vui mừng đứng
chấp tay chiêm ngưỡng mến kính mãi đến bảy mươi ngàn năm mới cúi đầu
đảnh lễ. Do đó hai
Bồ Tát mạng chung đều sanh về nhà Chuyển LuânVương ở Thiện Bộ Châu. Lúc sơ sanh hai
Bồ Tát nhớ những sự việc
quá khứ liền nói rằng :Nay tôi phải an trụ nơi pháp
bất phóng dật tối thượng đệ nhứt. Hai
bồ Tát ấy lại nói kệ tự răn mình rằng:
Nay tôi sanh nhà vua
Chuyển LuânCủa cải rộng lớn đều
như ýPhải nên xả bỏ những
phóng dậtCần cầu Vô thượng Bồ đề đạo
Của báu sắc dục và ngôi vua
Vô thường mau chóng trong giây lát
Người trí chẳng
ham thích thứ ấy
Siêng tu
Vô thượng Phật
Bồ đềVới
của báu nếu chẳng ham ưa
Vì lợi
chúng sanh cầu
Phật quảPhải mau rời nhà cầu
xuất giaTu hành thắng
diệu hạnh thanh tịnhThuở
quá khứ xưa
vô lượng kiếpĐam mê ngũ dục làm
phước đứcHoặc sanh lên trời hoặc nhơn gian
Chưa hề có lòng chán
ngũ dụcPhải bỏ
ngũ dục và ngôi vua
Cha mẹ quyến thuộc và
của báu.
Bỏ cả quốc thành và quan quân
Xuất gia cần cầu chứng
Phật quả.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Hai
Bồ Tát sơ sanh ấy
thân hình đoan chánh bằng
đồng tử mười sáu tuổi, liền
cạo tóc đắp y ca sa do
lòng tin thanh tịnh mà
xuất gia, trọn hai mươi ngàn năm siêng tu
phạm hạnh. Sau đó
mạng chung lại sanh
trời Phạm Thiên. Mãn báo trời lại
sanh nhân gian.
Thuở ấy ở Thiện Bộ Châu có Phật
xuất thế hiệu Diệu Hương
Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn. Được gặp Phật, hai
bồ Tát liền theo Phật
xuất gia mãn
câu chi năm
tu hành phạm hạnh.
Thứ đệ như vậy có mười ngàn
đức Phật xuất thế,
Luật nghi Bồ Tát đều được gặp Phật.và đều theo Phật
xuất gia tu
phạm hạnh trồng các cội lành luôn siêng
tinh tấn.
Trụ
Luật nghi Bồ Tát đời đời sanh đồng chỗ với anh và đều tu
thánh đạo, chỉ trừ chẳng tu
phạm hạnh nơi một
đức Phật. Do đó
Luật Nghi Bồ Tát thành Phật trước
xuất hiện ra đời hiệu Xí Nhiên
Tinh Tấn Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư,
Phật Thế Tôn, thọ chin mươi
câu chi tuổi,
đệ tử Thanh Văn có chín mươi
na do tha câu hội.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thuở Xí Nhiên
Tinh Tấn Như Lai xuất thế thì Trụ
Luật Nghi Bồ Tát làm
Chuyển Luân Vương oai thế khắp bốn phương đủ
phước đức lớn. Vương rất tin kính
đức Phật, sắm những
y phục đồ
ăn uống thuốc men và nhiều thứ
cần dùng trọn ba tháng
cúng dường tôn trọng tán thán đức Phật và
Tỳ Kheo Tăng . Đức Xí Nhiên
Tinh Tấn Như Lai thọ sự cúng dường ấy và vì muốn
giác ngộ Chuyển Luân Vương nên nói kệ rằng:
Nếu muốn chứng được các
Phật phápTinh tấn dũng mãnh là trên hết
Các loài
hàm sanh tham
ngũ dụcCó mong
cầu chi khó quả toại
Nếu cầu nghĩa lợi nơi
ngũ dụcNgười trí nên biết không nghiã lợi
Vua nay ở tại không nghĩ lợi
Cầu
thắng nghĩa lợi chẳng thể được
Xưa Phật cùng vua là anh em
Đều phát
hoằng thệ cầu
Bồ đềThuở ấy tranh đua cùng
ước hẹnAi sẽ mau được
thành Phật trước
Nay vua thấy Phật chứng
Bồ đềChuyển
thắng pháp luân cho
đại chúngVua còn ngập chìm nhà
ngũ dụcHoang
dâm nữ sắc luôn
thủ hộChư Phật
quá khứ thường tuyên nói
Người trí chớ nên ham
ngũ dụcNên ta luôn luôn siêng xa rời
Chưa hề theo cầu làm
phóng dậtVua thấy biết sai làm vô nghiã
Nên thường ở lại nghiệp
vô nghĩaTham dục gây khổ vua mãi mê
Ly dục thanh tịnh được thánh ngợi
Nghe đức Xí Nhiên
Tinh Tấn nói kệ xong,
Chuyển Luân Vương ấy liền
giác ngộ thấy rõ lỗi
tham dục cầu mong
xuất gia, trọn chẳng
giả từ vợ con quyến thuộc đại thần các
tiểu vương, cũng chẳng đoái nghĩ
quốc gia nhân dân kho tàng
châu báu, vua đứng lên đến trước
đức Phật nhứt tâm chắp tay nói kệ rằng :
Tôi sẽ bỏ hết nhà lẫn nước
Cần đến chỗ vắng đến ngày chết
Thà để
da thịt đến khô khan
Để làm
nhơn duyên Bồ đề Phật
Lại phải
tinh tấn đại dũng mãnh
Lợi ích vô lượng các
quần sanhVứt bỏ tại gia đến phi gia
Sẽ ở
vô vi chỗ trống vắng
Chẳng thích đeo theo các
ngũ dụcTệ ác dối gạt kẻ
ngu phuVì ta sa chìm trong bùn dục
Nên nay bịt mặt mà
theo saungũ dục kho báu và ngôi vua
Tất cả
đồng thời đều
vứt bỏTức thời ở trong thành giáo Phật
Chuyên lo tinh
tu đạo Vô thượngAi người có trí lại gần dục
Ai học
chánh pháp làm
hữu viKhiến tôi
tu hành tinh tấn rồi
Chẳng mau
thành Phật tham
ngũ dụcVì thế tôi bỏ các
dục lạcNgôi vua
của báu đều trừ dứt
Cần theo
Phật giáo đến phi gia
Làm
nhơn duyên Phật
Bồ đề vậy
Nói kệ xong,
Chuyển Luân Vương ấy ở chỗ
đức Phật Xí Nhiên
Tinh Tấn cạo bỏ râu tóc mặc
ca sa do
lòng tin thanh tịnh mà
xuất gia rồi đến chỗ vắng vẻ siêng tu
phạm hạnh. Lại có sáu mươi
câu chi trăm ngàn
chúng sanh nghe
Chuyển Luân Vương xuất gia học đạo,họ cũng khởi
lòng tin thanh tịnh theo vua
xuất gia siêng tu
phạm hạnh.
Nầy
Xá Lợi Phất ! đức Xí Nhiên
Tinh Tấn Như Lai ở đời
giáo hóa lâu sau thì nhập Niết-bàn.
Chuyển Luân Vương Tỳ kheo thấy
Phật diệt độ thương cảm mến tiếc xây bửu tháp
cúng dường Xá lợi, ít lâu sau
mạng chung sanh
cung trời Đâu Suất rồi lại
sanh nhân gian thành
Vô thượng Chánh giác hiệu
Diệu Hạnh Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ Thế gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn, thọ một
câu chi tuổi,
đệ tử Thanh
Văn có
câu chi na do tha hội đều là
đại A La Hán, trăm ngàn chúng
đại Bồ Tát đều chẳng thối chuyểnVô thượng
Bồ đề,
giáo hóa vô lượng vô số chúng sanh, việc đáng làm đã làm xong, Đức
Diệu Hạnh Như Lai nhập Niết-bàn,
chánh pháp trụ thế hơn một kiếp,
Xá lợi lưu bố lợi ích chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư đại Bồ Tát thực hành Tỳ lê gia
Ba la Mật an trụ
chánh cần hành
Bồ Tát đạo, phải nên
y theo sự
tu học tinh tấn dũng mãnh không mỏi của
Luật Nghi đại Bồ Tát, chớ có làm theo
chúng sanh tham lam bỏn xẻn mê gặm xương khô kia.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có
Bồ Tát thích cầu
Bồ đề, với nhà
thí chủ chớ nên tham lẫn. nếu lúc mất
chánh niệm mang lòng tham lẫn phải liền
quan sát ba điều
đáng sợ . Những gì là ba điều
đáng sợ ?
Nơi nhà
thí chủ thường
lai vãng, hoặc nhơn
khất thực, hoặc lại
đàm thoại triền miên chẳng thôi bèn
thành thân hảo. khi thấy
Tỳ kheo hiền thiện khác đến, vì tham lẫn nên
ganh ghét, hoặc có lúc
hay giận hờn. Do cớ ấy phải biết là
nhiếp thọ nghiệp đạo khổ ở
địa ngục, phải biết là gieo giống
sanh manh tại tâm điền , phải biết là nghiệp sanh
biên địa.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nay Phật lại vì ông mà nói tướng dạng ấy.
Bồ Tát tham lẫn ấy thấy
Tỳ kheo hiền thiện đến nhà
thí chủ mình liền sanh lòng
ganh ghét giận hờn. Trong lòng dầu giận mà ngoài mặt giả vui
đàm luận, lòng thì bỏn xèn mà thân luôn kề cận hầu tiếp, nhưng lại đứng lỗ khuất lỏ mắt nhìn, hoặc đem sự chẳng thiệt
vu cáo hủy báng. Những hành động như vậy phải biết là
nghiệp đạo địa ngục, là gieo giống
sanh manh vào
nội tâm, là nghiệp sanh
biên địa chịu khổ sở, bị báo
sanh manh hủy nhục ngày đêm
cực khổ bị người
sai khiến.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát ở nơi nhà
thí chủ nếu khởi lòng tham lẫn ganh tị, thì phải
suy nghĩ ba diều
đáng sợ ấy”.
Trưởng lão Xá Lợi Phất bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn! Lạ thay thật chưa từng có.
Chư đại Bồ Tát rất là
hi hữu mới được gặp
đức Như Lai nói phát pháp
xuất yếu nơi nhà
thí chủ sanh tham lẫn ấy.
Lành thay đức Thế Tôn, xin vì hàng
Thanh Văn chúng tôi mà nói
chánh pháp rời
lìa tướng tham lẫn nơi nhà
thí chủ. Tại sao ? Vì
Thanh Văn chúng tôi cũng muốn
thoát khỏi báo khổ
địa ngục sanh manh và
biên địa mà được sanh vào
trung quốc loài người.
Chúng tôi đều muốn nghe
chánh pháp xuất ly tham lẫn nơi nhà
thí chủ. Xin
đức thế Tôn chẳng
bỏ rơi chúng tôi mà tuyên dạy cho”.
Đức Phật phán :”
lành thay lành thay, nầy
Xá Lợi Phất! rất là
hi hữu, nay các ông có thể an trụ nơi không a dua mà thỉnh hỏi
đức Như Lai về nghiã như vậy. Lắng nghe lắng nghe Phật sẽ nói cho.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có
chúng sanh muốn theo
Phật học Phật pháp đức Phật liền vì họ mà tuyên dạy. Tại sao ? Vì những
chúng sanh có thể theo Phật
tu học,
đức Phật chẳng trái ý họ, quyết
hiện ra trước họ để
thuyết pháp.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !Nếu có
chúng sanh chẳng muốn theo
Phật học chánh pháp, nếu
đức Phật thuyết pháp cho họ nghe, họ sẽ chẳng chịu tin mà còn gây nên căn bổn
tranh đấu.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát thành tựu lòng tin thanh tịnh thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật, ở nơi
Phật pháp có
lòng tin thanh tịnh lâu ngày thường thích
quán sát, vì muốn
cứu tế chúng sanh nên đến chỗ Phật
ân cần trịnh trọng hỏi
nghĩa giải nghi.
Đức Phật có nói
pháp chỉ đều
ưa thích lắng nghe,
nghe pháp xong lại
phát khởi lòng tin sâu rộng thanh tịnh vui mừng hớn ở càng thêm
tinh tấn thọ trì chánh pháp tu hành đúng pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất đời sau, các
đệ tử của ta ít có
Tỳ Kheo nào
thâm tâm mong
cầu pháp Niết-bàn
tịch tịnh, phần đông
y theo ba
sự nghiệp. Một là thường thích theo
cầu danh lợi thế gian. Hai là tham ưa bè đảng theo cầu
thí chủ qua lại chẳng ngớt. Ba là
ưa thích theo cầu nhà cao cửa đẹp chứa cất của tiền
vàng bạc châu báu và các thứ đồ dùng. Đây là
y chỉ theo cầu ba sự.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các
Tỳ Kheo ấy vì
y chỉ ba sự như vậy nên chẳng
thoát khỏi ba
ác đạo.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các
Tỳ Kheo ấy chẳng muốn
thoát khỏi địa ngục,
bàng sanh ngạ quỷ, mà họ
trở lại thích siêng
tu pháp dứt đường sanh
cõi trời, họ lại siêng làm những sự
tranh luận ly gián chê mắng lần nhau, họ lại ưa gần các
ác hữu lòng tin chẳng
thanh tịnh bỏ chỗ
thanh vắng mà ở nơi náo nhiệt, cùng người tục kết bè đảng. Các nhà tục bảo : Nầy
trưởng lão nên thường đến nhà, tôi sẽ
cung cấp tứ sự cúng dường. Còn các
trưởng giả ở nơi
thanh vắng ấy chẳng chịu giao tế với người
thế tục,
chúng tôi làm sao
thăm hỏi được.
Vì thế nên các
Tỳ Kheo ấy càng thân cận
tại gia, cùng nhau chuyện trò toàn những sự phiền tạp
thế tục.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các ác
Tỳ kheo ấy thích
ở chung và
giao thiệp với hạng người bất lương,
tham trước chỗ ở chẳng hề
di chuyển. Họ tìm nhiều bè đảng và luôn
thăm viếng nhà
thí chủ, đích thân đi mừng đi điếu, do đó mà thầm kín
thân ái nhau. Khi có khách
Tỳ Kheo đến thì không
cung cấp lại
buông lời chê trách phi pháp. Mà khách
Tỳ kheo thiệt là bực
Hiền Thánh. Ác
Tỳ Kheo ấy cũng chẳng
xưng hô ngài là người
đa văn giới đức thanh tịnh, cũng chẳng
xưng hô ngài là bực
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các ác
Tỳ Kheo ấy ở trong pháp của
Phật mà chẳng
tu pháp của Phật. Không có việc gì khác, mà chỉ ưa chê bai
mắng nhiếc chẳng thôi. Các người
tại gia bè đảng của ác
Tỳ Kheo ấy lại nói rằng : Những khách
Tỳ Kheo chưa hề
ở chung và đến lui
thân thiện với
chúng tôi cùng kinh
lý sự việc
với nhau,
vì lẽ ấy nên
chúng tôi chỉ nên cùng các
Tỳ Kheo cựu trụ bao bọc nhau và mượn oai thế nhau.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì những
lý do ấy nên các ác
Tỳ Kheo đối với
kinh điển nầy, hoặc hiểu hoặc chẳng hiểu, họ đều luôn luôn hủy báng chẳng tin.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có người lắng nghe
kinh điển được
Như Lai diễn nói những
pháp môn văn cú sai biệt như vậy, nghe rồi
vui thích tin hiểu không nghi lầm thì quyết có thể rời bỏ những kẻ ác như trên và cũng rời bỏ những nghiệp phải đọa
ác đạo.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát tu hành tinh tấn dũng mãnh không mỏi lắng nghe
đức Phật nói những tướng tham rít nghiệp đọa vào
ác đạo ấy rồi bèn chẳng
tự hành động những sự tham lẫn nơi nhà
thí chủ, huống là bảo người khác làm.
Đây gọi là
đại Bồ Tát chuyên cần chẳng mỏi
tu hành Tỳ lê gia
Ba la mật, phải nên học như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát chuyên cần không mỏi, lúc
tu tập Tỳ lê gia
Ba la mật, với các
chúng sanh tưởng là người bệnh vì họ thường bị ba thứ
nhiệt não làm khổ luôn.
Những gì là ba thứ nhiệt não? Đó là
tham dục nhiệt não,
sân khuể nhiệt não và
ngu si nhiệt não .
Đại Bồ Tát nghĩ rằng nay tôi phải dùng
chánh pháp vô thượng thuốc cao
vô não nầy thoa cho các
chúng sanh nhiệt não. Nhờ
chánh pháp Vô thượng, thuốc cao
mát mẻ vi diệu nầy, thoa vào thì các
chúng sanh ấy sẽ dứt trừ những
tham sân si nhiệt não.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát tu hành Tỳ lê gia
Ba la Mật có
vô lượng tướng dạng, nay Phật sẽ lược nói.
Đại Bồ Tát thường nghĩ rằng : Tất cả
chúng sanh đều là những người bệnh, vì thường bị
nhiệt não bởi
ba độc tham sân si vậy. Những
chúng sanh sanh vào
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh là bị
tham sân si ấy làm
nhiệt não. Những
chúng sanh sanh lên trời hay nhơn gian cũng đều bị
ba độc ấy đốt khổ. Nếu có
chúng sanh thành tựu nghi kiến thì cũng thường bị
ba độc đốt khổ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các
chúng sanh bị bệnh
phiền não, chẳng phải các
lương y khác và diệu dược
thù thắng khác có thể trị lành, có thể làm lửa nóng
tham sân si lặng tắt được
Chỉ có
đức Như Lai đại y vương Vô thượng thắng diệu và
đại Bồ Tát chứng pháp thân
dùng sức đại nguyện tự nghiêm trì thân mình làm
lương dược rồi mới trừ được bệnh
nhiệt não tham sân si cho tất cả
chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Theo ý của ông thì
chúng sanh giới nhiều hay là
địa giới v.v.. . nhiều ?
-
Bạch đức Thế Tôn ! Theo tôi hiểu diệu nghĩa của
đức Phật nói,
chúng sanh giới nhiều, chẳng phải
địa giới,
thủy giới,
hỏa giới và
phong giới có thể
so sánh bằng được.
- Nầy
Xá Lợi Phất ! Đúng như lời ông nói :
chúng sanh giới nhiều, chẳng phải
địa giới v. v… nhiều. Nay ta lại nói tướng dạng ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Có các
chúng sanh thân hình vi tế khó thấy được, mắt thần của các
thần tiên cùng
thiên nhãn của
Thanh Văn,
Độc Giác đều chẳng thể thấy, chỉ có
thiên nhãn thanh tịnh của
Như Lai là soi rõ được.
Tịnh thiên nhãn của
Như Lai thấy rõ những
chúng sanh vi tế ấy chừng bằng
dung lượng của một bánh xe, số ấy
vô lượng nhiều hơn số trời và người trong toàn cõi
Tam thiên Đại Tthiên
thế giới.
Này
Xá Lợi Phất !
Chúng sanh giới vô lượng vô biên như vậy, nhẫn đến tất cả
chúng sanh trong
Tam thiên Đại Thiên thế giới, hoặc
noãn sanh,
thai sanh,
thấp sanh,
hóa sanh, hoặc có
sắc không sắc có tưởng
không tưởng, hoặc
phi hữu tưởng phi
vô tưởng, hoặc khả
kiến hoặc bất khả kiến, nhẫn đến bao nhiêu
chúng sanh giới giả danh kiến lập,
giả sử trong khoảng sát na, tất cả số lượng
chúng sanh giới ấy, không trước không sau
đồng thời đều được thân người và đều thành
lương y cả và đều thọ một kiếp, tất cả đều
thông suốt y đạo, giỏi luyện phương thuốc làm
đại y sư giỏi trị lành các bệnh tật như thần y
Kỳ Bà hiện nay. Các
đại y sư ấy chung nhau nghị luận phương dược muốn chữa trị bệnh
nhiệt não tham sân si của một
chúng sanh.
Giả sử mỗi mỗi
đại y sư ấy đều mang diệu dược
thanh lương lượng bằng núi chúa Tu-di chăm sóc chữa trị thoa đắp cho con bệnh tận y thuật của mình
cho đến dùng hết số lượng diệu dược ấy, cũng chẳng chữa lành được bệnh
nhiệt não tham sân si của một
chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian thấy các
chúng sanh bị bệnh
phiền não,
đức Như Lai chỉ nói một
pháp môn bất tịnh quán,
Chánh pháp Vô thượng, thuốc cao
vô não để thoa đắp, có
vô lượng chúng sanh trừ diệt được bệnh
nhiệt não tham dục. Thoa đắp trị cho
vô lượng trăm
chúng sanh,
vô lượng ngàn
chúng sanh,
vô lượng trăm ngàn
chúng sanh,
vô lượng câu chi chúng sanh,
vô lượng trăm
câu chi chúng sanh,
vô lượng ngàn
câu chi chúng sanh,
vô lượng trăm ngàn
câu chi chúng sanh,
vô lượng câu chi na do tha chúng sanh,
vô lượng trăm
câu chi na do tha chúng sanh,
vô lượng trăm
câu chi na do tha chúng sanh,
vô lượng ngàn
câu chi na do tha chúng sanh,
vô lượng trăm ngàn
câu chi na do tha chúng sanh, nhẫn đến
vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh, nhờ pháp
bất tịnh quán mà
tham dục nhiệt não đồng thời trừ dứt.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đức Như Lai chỉ nói một
pháp môn từ bi quán,
Vô thượng chánh pháp diệu dược
thanh lương dùng để thoa đắp. Có
vô lượng chúng sanh nhờ
pháp dược ấy mà trừ được bệnh
sân khuể nhiệt não. Nhẫn đến có
vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh nhờ pháp
từ bi quán mà
sân khuể nhiệt não đồng thời trừ dứt.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đức Như Lai chỉ nói một
pháp môn nhơn duyên quán
chánh phápVô thượng diệu dược
thanh lương dùng để thoa đắp, có
vô lượng chúng sanh, nhẫn đến có
vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh dứt trừ được bệnh
nhiệt não ngu si.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Như vừa rồi
đức Phật nói
đại Bồ Tát chứng pháp thân dùng
nguyện lực nghiêm trì thân mình mà làm
lương dược dùng trừ dứt bệnh
nhiệt não tham sân si cho
vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh. Nay
đức Phật lại nói tướng dạng ấy. Ông nên lắng nghe.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ta nhớ
quá khứ trước
vô số kiếp, có Phật
xuất thế hiệu Nhiên Đăng
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Thuở ấy đức Nhiên Đăng
Như Lai thọ ký cho ta
đời sau quá
vô số kiếp sẽ
thành Phật hiệu
Thích Ca Mâu Ni đủ mười hiệu. Được Phật Nhiên Đăng
thọ ký xong, ta
chứng pháp thân thành tựu. Sau khi Phật Nhiên
Đăng diệt độ, ta làm
Đế Thích tên
Vi Diệu Nhãn được oai thế
tự tại ở
trời Đao Lợi, Có
thần thông lớn
oai đức lớn
chư thiên quyến thụôc đông nhiều.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Thuở ấy ở
Thiệm Bộ Châu có tám muôn bốn ngàn
đại thành và
vô lượng thôn ấp thị trấn và
vô lượng trăm ngàn
câu chi na do tha chúng sanh, nhân vật đông đúc rất hưng thạnh. Bấy giờ có bệnh dịch lớn
xuất hiện, nhiều
chúng sanh mắc phải bệnh dịch nặng. Có
vô lượng y sư
dược sư tận lực cứu chữa, nhưng bệnh vẫn không dứt. Các
chúng sanh mang bệnh ấy chẳng gặp
lương y bị
bệnh hành đau khổ, không ai
cứu hộ, không chỗ về nương, họ đồng
kêu la lên khóc rằng : Nay tôi mắc lấy
bệnh khổ nầy, xứ nào có Trời Rồng
Dạ Xoa Quỉ Thần lại
từ bi trừ bệnh cho tôi. Nếu trừ được bệnh tôi sẽ chẳng tiếc tất cả
của cải châu báu, sẽ
hậu tạ lương y và
thuận theo sự
dạy bảo.
Lúc ấy ta ở
trời Đao Lợi do
tịnh thiên nhãn thấy
vô lượng chúng sanh bị nhiều bệnh dịch quá
đau khổ, và do
tịch thiên nhĩ nghe suốt lời khóc than kêu cầu của họ.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Thuở ấy, khi ta thấy và nghe sự việc ở
nhân gian như vậy, với các
chúng sanh ấy, ta
phát khởi đại bi mà nghĩ rằng : Sao mà quá khổ,
vô lượng vô biên chúng sanh như vậy mắc phải bệnh nặng không nơi nương cậy, không người
cứu hộ, không chỗ nương về, không ai chữa lành. Nay ta
quyết định làm nơi nương cậy, làm người
cứu hộ, làm chỗ nương về và làm y sư chữa lành bệnh cho họ. Ta liền
ẩn thân hình
Đế Thích cao lớn mà
hóa sanh làm thân
chúng sanh to lớn tên
Tô Ma nơi
Thiệm Bộ Châu cách
đại thành Câu Lô chẳng xa. Thọ sanh xong, ta ở
hư không nói kệ phổ cáo tất cả
chúng sanh ở
Thiệm Bộ Châu rằng :
Cách thành Câu Lô chẳng mấy xa
Có thân to lớn tên
Tô MaNếu ai ăn được thịt thân ta
Tất cả
bịnh khổ đều trừ dứt
Nó không giận hờn không làm hại
Vì làm
lương y mà thọ sanh
Mọi người nên mừng chớ
kinh nghiTùy ý xẻo thịt ăn trừ bịnh
Lúc ấy vô lượng chúng sanh trong tám vạn bốn nghìn
đại thành các thôn ấp thị tứ, những kẻ đang mắc
bịnh khổ nghe tiếng phổ cáo ấy đồng kéo nhau đến bên thân
Tô Ma Bồ Tát đua nhau dùng dao bén cắt xẻo thịt. Đương lúc bị xẻo cắt, nơi thân thịt
Tô Ma Bồ Tát phát âm thanh lớn nói kệ rằng
Nếu do đây sẽ chứng
Bồ đềTạng trí sẽ thành
vô tận tạngTùy tôi
phát nguyện lời
chí thànhCũng
nguyện thân thịt thường
vô tận.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Lúc ấy tất cả
chúng sanh ở
Thiệm Bộ Châu vì bị bịnh bức khổ nên họ tranh nhau hoặc xẻo hoặc chặt từng khúc thịt nơi thân
Tô Ma Bồ Tát rồi hoặc ăn hoặc gánh đem đi. Dầu bị chặt xẻo nên vì
nguyện lực nên cắt xẻo bao nhiêu thì thịt sanh ra bấy nhiêu không hề khuyết giảm.
Nầy
Xá Lợi Phất! Các
chúng sanh ấy được
ăn thịt Tô Ma Bồ Tát rồi tất cả đều lành bịnh, tâm an vui
thân thể không
biến đổi. Bấy giờ tất cả nhơn dân ở
Thiệm Bộ Châu hoặc nam hoặc nữ đã được
ăn thịt của
Tô Ma Bồ Tát mà lành bịnh đều tự nghĩ rằng
Tô Ma nầy có ơn rất lớn đối với
chúng ta, trừ
bịnh khổ cho ta , ban ta sự an vui, ta phải
sắp đặt cúng dường thế nào để đáp ơn ấy.. Họ cùng nhau
tụ tập bên thân
Tô Ma Bồ Tát ở thành Câu Lô mà nói kệ rằng:
Ngài là nương cậy là
cứu hộNgài là
lương y là diệu dược
Xin thương mà
dạy bảo chúng tôiCúng dường thế nào đáp ơn nặng.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Lúc ấy ta thấy
chúng sanh được lành bệnh an vui mà
mang ơn nặng
qui y với ta. Ta liền diệt thân
Tô Ma trở lại thân
Đế Thích đứng trước họ oai quang sáng rỡ bảo họ rằng : Nếu do thịt nơi thân của ta mà đượchết
bịnh khổ,
mọi người mang ơn mà muốn
báo đền. Ta chẳng phải vì
quốc độ ngôi vua thành ấp nhà cửa mà cứu
mọi người đem thịt nơi thân mình
bố thí, cũng chẳng vì
vàng bạc châu báu mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì voi ngựa bò dê các
súc vật mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì
nam nữ đồng bộc nô tỳ mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì món
ăn uống y phục giường nệm thuốc men mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì vườn rừng đất đai ao hồ nhà cửa cùng các đồ
cần dùng mà
bố thí thịt thân mình. Ta
sở dĩ thương
mọi người mắc
bịnh khổ mà
bố thí thịt thân mình để chữa lành đó là vì muốn
chúng sanh rời
nghiệp bất thiện.
Mọi người nếu có thể vì ta mà rời hẳn rời hẳn các nghiệp
sát sanh,
trộm cắp,
tà dâm,
vọng ngôn,
lưỡng thiệt,
ác khẩu,
ỷ ngữ, tham gian,
sân hận và
tà kiến thì tức là
lợi ích cho ta cũng tức là
báo ơn ta vậy.
Đế Thích lại đối
đại chúng mà nói kệ rằng :
Ta vốn chẳng vì khối trân bửu
Chẳng vì thành ấp cùng
quốc độCũng chẳng phải vì thiên
ngọc nữChẳng vì áo cơm giường nệm nằm
Muốn báo
Tô Ma Bồ Tát ơn
Chỉ nên
tôn trọng đồng hòa hiệp
Đều có
từ tâm kính mến nhau
Chuyên tu mười nghiệp lành tịnh diệuMọi người phải trì
mười nghiệp lànhLuôn luôn hoà hiệp phòng giữ chặt
Đây gọi là
pháp cúng dường lớn
Vì
Bồ Tát chẳng cầu
của cảiTa chẳng dùng
của báu thế gianChẳng dùng
ăn ngon và mặc đẹp
Chẳng dùng voi ngựa và xe cộ
Chẳng dùng giường nệm đồ trang sức
Mọi người cùng nhau đồng hòa hiệp
Giữ gìn thanh tịnh mười nghiệp lànhCùng nhau
phát khởi đại từ tâm
Mình người đồng tu lòng
lợi íchNầy
Xá Lợi Phất ! Nghe ta nói kệ xong,
mọi người ở
Thiệm Bộ Châu thuở ấy vì
cảm ơn đức, nên họ
đảnh lễ nơi chưn ta mà cùng
thọ trì mười
nghiệp đạo lành
thanh tịnh vi diệu.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Ta nhớ rõ tất cả những người ở
Thiệm Bộ Châu thuở ấy được
ăn thịt Tô Ma Bồ Tát, từ đó
đến nay chưa hề có một người bị đọa
ác đạo, họ đều sanh lên
trời Đao Lợi và vì
nghiệp duyên trước nên luôn cùng ta chung sanh.
Thuở ấy ta lại vì
thiên chúng ấy mà diễn dạy
chánh pháp làm cho họ đều được an trụ nơi
ba thừa thánh đạo : hoặc
Thanh Văn thừa, hoặc
Độc Giác thừa, hoặc có người an trụ
nhứt thừa Vô thượng Bồ đề. Các chúng ấy hoặc đã nhập Niết-bàn, hoặc sẽ nhập Niết-bàn, hoặc hiện nhập Niết-bàn.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Ta
quan sát đại Bồ Tát an trụ
pháp thân vì thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật nên
thành tựu đại
thần thông như vậy,
thành tựu đại oai đức như vậy,
thành tựu đại thế lực như vậy, mới có thể chỉ
xả thí một thân thịt mà
thành thục được
vô biên chúng sanh đều an trụ nơi
ba thừa thánh đạo được chẳng
thối chuyển>>.
Trưỡng Lão
Xá Lợi Phất bạch rằng : « «
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là tướng dạng của
đại Bồ Tát thật hành Tỳ Lê Gia
Ba la mật chuyên cần tu tập được
pháp thân ? Mong
đức Thế Tôn dạy cho.
- Này
Xá Lợi Phất ! Tướng
pháp thân của
Đại Bồ Tát không
sanh không tử
kiên cố không hư hoại như chất
kim cương chẳng thể nghĩ bàn được . Nhưng vì
hóa độ những
chúng sanh thân hư hoại mà
chư pháp thân
đại Bồ Tát hiện thân hư hoại, còn muốn
hóa độ hàng thân chẳng hư hoại thì lại
hiện thân bất hoại. Nhưng
pháp thân ấy
viên thành đầy đủ, lửa chẳng cháy được, dao chẳng đứt được, như chất
kim cương kiên cố.
Này
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát an trụ
pháp thân vì thật hành Tỳ lê gia
ba la mật nên
tinh tấn không mỏi, chẳng phải là có
công dụng chỉ dùng thân mình thì có thể
thành thục vô lượng chúng sanh chẳng
cần phải vọng tâm suy nghĩ phân biệt. Chính
Bồ Tát này thân tự có thể hay biết , trọn các
thân tướng tùy
nhập tự thân
chơn như pháp tánh, tự thân
chơn như tùy nhập
chư Pháp chơn như,
chư Pháp chơn như tùy
nhập tự thân
chơn như, tự thân
chơn như tùy nhập chư Phật
chơn như, chư Phật
chơn như tùy
nhập tự thân
chơn như, tự thân
chơn như tùy nhập khứ lai
hiện tại chơn như, khứ lai
hiện tại chơn như tùy
nhập tự thân
chơn như. Lại
quá khứ chơn như chẳng trái
vị lai chơn như,
vị lai chơn như cũng chẳng trái
quá khứ chơn như ,
quá khứ chơn như chẳng trái
hiện tại chơn như,
hiện tạI chơn như cũng chẳng trái
quá khứ chơn như.
Vị lai chơn như chẳng trái
quá khứ chơn như,
quá khứ chơn như cũng chẳng trái
vị lai chơn như,
vị lai chơn như chẳng trái
hiện tại chơn như,
hiện tại chơn như cũng chẳng trái
vị lai chơn như.
Hiện tạI chơn như chẳng trái
quá khứ chơn như,
quá khứ chơn như cũng chẳng trái
hiện tại chơn như,
hiện tại chơn như chẳng trái
vị lai chơn như,
vị lai chơn như cũng chẳng trái
hiện tại chơn như. Lại khứ lai
hiện tại chơn như tức là
uẩn xứ giới chơn như.
Uẩn xứ giới chơn như tức
nhiễm ô thanh tịnh chơn như.
Lưu chuyển tịch diệt chơn như tức
gia hạnh chơn như.
Gia hạnh chơn như tức nhứt thiết hạnh
chơn như. Nhứt thiết hạnh tức là
chơn như,
chơn như tức là nhứt thiết hạnh.
Này
Xá Lợi Phất !
Chơn như tức là thiệt tánh, là như tánh, là phi bất như tánh, là bất
viễn ly tánh, là
vô pháp động Tánh, là
vô nhiễm loạn tánh, là bất
tương vi tánh, là
vô vi tránh tánh.
Này
Xá lợi Phất !
Chơn như là không chỗ vi tránh. Do vì không vi tránh mà gọi là
chơn như vậy, nhưng chư
Như Lai nói là vi tránh.
Này
Xá Lợi Phất !
Chơn như gọi là
tùy thuận nhiếp thọ, tại sao
Như Lai lại nói là vi tránh? Vì
Như Lai trái với tất cả tránh vậy. Do đó mà
Bồ Tát thường hiện tất cả vi tránh. Chư
Như Lai vốn không vi tránh cũng chưa hề
phát khởi. Tại sao ? Vì không vi không tránh nên gọi là
Như Lai vậy, nhưng lại thường hiện các
sắc tượng vi tránh, chẳng phải
Như Lai có động loạn.
Chư đại Bồ Tát dùng trí như thiệt
quán thân Như Lai bình đẳng pháp tánh tức tự
thân bình đẳng pháp tánh. Lại ở nơi tự
thân bình đẳng pháp tánh quán
Như Lai bình đẳng pháp tánh. Lại ở nơi tự
thân bình đẳng pháp tánh quán các thân và phi thân, ở nơi tất cả các thân và phi thân
quán thân bất tư nghì kia.
Đại Bồ tát ở nơi
pháp duyên sanh rõ thấu tất cả thân, đã rõ thấu rồi
dẫn nhiếp pháp thân.
Đương lúc
đại Bồ Tát dẫn nhiếp pháp thân ấy,
đức Phật gọi họ chứng được
pháp thân. Đã
chứng pháp thân thì có thể
thị hiện thân
uẩn xứ giới. Phải
biết thân uẩn xứ giới ấy là do
pháp thân hiển hiện vậy?
Vì thế nên, này
Xá Lợi Phất ! Tất cả
chúng sanh nếu có ai được gặp thân ấy, hoặc thấy hoặc nghe đều liền
điều phục, lúc chạm xúc thân ấy, có thể khiến
chúng sanh làm những pháp lành nghĩa lợi.
Lại này
Xá Lợi Phất ! Như hiện nay thần y
kỳ Bà họp các vị thuốc hòa lại làm
hình tượng nữ nhơn đẹp xinh ai thấy cũng thích. Do thần y khéo nắn khéo trang sức nên tượng nữ nhơn ấy dầu không
tư lự không
phân biệt mà có
tác động qua lại đi đứng ngồi nằm. Các nhà hào quí vua quan
trưởng giả có bịnh tật đến nhà thần y. Thần y khám bịnh xong, đem tượng nữ nhơn
ban cho người bịnh. Người bịnh tạm thời ôm ấp tượng nữ nhơn ấy thì tất cả bịnh tật đều
tiêu trừ,
thân tâm an lạc. Thần y
kỳ Bà có
diệu trí trị bịnh
thế gian, các y sư
trong đời không ai bằng được.
Này
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
pháp thân hiển hiện cũng như vậy. Tất cả
chúng sanh hoặc nam hoặc nữ có bịnh
nhiệt não,
tham sân si đến chỗ
Bồ Tát ấy tạm thời chạm xúc thân
Bồ Tát ấy thì tất cả
bịnh khổ đều được
tiêu trừ ,
cảm thấy thân tâm mình rời khỏi các
nhiệt não. tại sao? Do vì
chư Đại Bồ Tát trước kia
phát nguyện lớn khéo
thanh tịnh vậy.
Lại này
Xá Lợi Phất !
Pháp thân đại Bồ Tát chẳng do
ăn uống đoàn thực mà được sống còn, dầu biết rõ tất cả
thức uống ăn đều vốn không chỗ có, nhưng vì thương
chúng sanh mà hiện
ăn uống. Dầu hiện
ăn uống mà không
tham trước, với
thân thể mình chưa hề đoái luyến. Tại sao? Vì
thế lực của
pháp thân chẳng thối chẳng giảm,
thân thể ấy chẳng do
ăn uống mà
tồn tại.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Pháp thân Bồ Tát đối với
sanh tử khó biết rõ được mà lại
thị hiện thân có sanh có tử. Tại sao ? Vì muốn
thành thục các
chúng sanh nên
thị hiện có
sống chết vậy. Dầu
thị hiện chết mất mà
đại Bồ Tát ấy biết rõ tất cả
pháp không dứt mất, dầu
thị hiện co sanh mà
thị hiện tất cả
pháp không khởi tác, dầu
thị hiện sanh khởI mà biết rõ tất cả
pháp cứu cánh
vô sanh. Lại
pháp thân ấy dùng pháp làm món ăn, do
pháp lực giữ gìn,
y chỉ nơi pháp, do vì bổn nguyện nên dầu không
công dụng tư lự phân biệt mà
thành thực chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Pháp thân Bồ Tát có những tướng dạng như vậy là do
tinh tấn không mỏi
tu hành Tỳ lê gia
Ba la mật mà được
chứng nhập.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
« Thân như
kim cương chẳng tổn hoại
Biết
thời giáo hóa nên hiện sanh
Độc ác dao lửa chẳng hại được
Chúng được
giáo hóa thấy thiêu hại
Có bịnh thì thấy là
lương dượcNgười
đói khát thấy là
thực phẩmBởi tánh các pháp
vô phân biệtChứng pháp thân không thân nhứt lý
Biết rõ các pháp từ
duyên sanhKhông ngã nhơn
nam nữ ý sanh
Vì có các duyên nên khổ mãi
Vì không các duyên nên khổ dứt
Biết sắc chẳng bền như đống bọt
Suy gẫm các thọ đồng bóng nước
Tưởng ấm như nóng
ánh nắng gợn
Quan sát hành ấm dường bẹ chuối
Như nhà
ảo thuật giỏi làm trò
Phút chốc liền hiện các
sắc tượngBiết
công dụng thức cũng như vậy
Người trí không cầu nơi
ngũ ấmBiết của đời như tên rời dây
Lại giống
chớp nhoáng nước thác đổ
Tạm tụ lại tan tợ mây nổi
Người trí chẳng cầu của
trong đờiCác cõi không có một người nào
Chưa từng chẳng hưởng cảnh trời vui
Lại đọa
ác đạo bị
nghèo khổPhật tử biết vậy chẳng cầu trời
Tâm ấy
vô y dường
hư khôngPhi hữu phi vô rời
y chỉDầu sanh các cõi không
sanh tửVì
chứng pháp thân không
lão tử.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát tinh tấn không mỏi lúc
tu hành Tỳ lê gia
Ba la mật phải chánh tâm
tu học như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Thế gian dầu có y sư đầy cả
thế giới cũng chẳng biết được ba thứ bịnh hoạn lớn. Tại sao ? Vì họ chẳng giỏi lại
vô trí nên họ chẳng biết được ba thứ bịnh hoạn lớn
tham sân si. Chẳng những họ chẳng biết ba thứ bịnh hoạn lớn ấy mà họ cũng chẳng biết được ba thứ
lương dược đối trị ba thứ bịnh hoạn lớn ấy. Đó là họ chẳng biết bịnh hoạn lớn
tham dục và
lương dược đối trị là
bất tịnh quán, bịnh hoạn lớn
sân khuể và
lương dược đối trị là
từ bi quán, bịnh hoạn lớn
ngu si và
lương dược đối trị là
duyên khởi quán.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các y sư
thế gian ấy chỉ trị được một hai bịnh khác mà không trị được tất cả bịnh của
chúng sanh, họ chỉ trị bịnh hết tạm thời mà không thể trị dứt
vĩnh viễn.
Đại Bồ Tát nghĩ rằng nay ta thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật tu
Bồ Tát đạo, há lại học theo các y sư ấy, ta phải nương theo chư
Phật Thế Tôn là
đại y vương khéo thấu rõ các pháp trị dứt
cứu cánh tất cả bịnh. Ta theo học với
đại y vương Vô thượng ấy,
tu học xong, ta sẽ trị khắp tất cả
bịnh khổ há lại trị một hai thứ bịnh riêng rẽ, ta sẽ trị dứt
cứu cánh gốc các bịnh há lại trị lành tạm thời.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng : Ta phải chứa họp
chánh pháp Vô thượng thuốc cao
cam lộ khiến tất cả
chúng sanh nghe tên thuốc thì những bịnh rất nặng
tham sân si tự nhiên tiêu diệt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Trong núi Tuyết có vị thuốc tên Tỳ
Già Ma, ai nghe tên thuốc ấy thì các độc nhiệt mãnh liệt ở
thế gian đều
tiêu diệt. Chỗ thuốc Tỳ
Già Ma ấy
trong vòng trăm
do tuần, vì oai thế thạnh của nó nên làm cho các
ác độc đều
vô hiệu. Nếu đem thuốc Tỳ
Già Ma ấy xoa vào trống lớn loa lớn rồi hoặc đánh trống hoặc thổi loa, các
chúng sanh nghe tiếng trống tiếng loa ấy, hoặc kẽ uống
độc dược, hoặc bị độc vật cắn đốt, gai độc đâm, vương chất độc, tất cả độc ấy đều
tiêu diệt.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Ngoài thần y
Kỳ Bà, tất cả y sư
thế gian đều không biết thuốc Tỳ
Già Ma. Chỉ có thần y
Kỳ Bà là biết sắc tánh của thuốc thần ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Cũng như vậy,
đại Bồ Tát tinh tấn không mỏi thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật chứa họp
chánh pháp Vô thượng thuốc cao
cam lộ xoa đắp cho tất cả
chúng sanh có bịnh, chẳng
cùng chung với pháp
Thanh Văn,
Độc Giác, chỉ trừ
đức Như Lai đại y vương Vô thượng khéo thấu tất cả pháp, dùng
chánh pháp Vô thượng thuốc cao
cam lộ xoa khắp ống loa
đại pháp. Xoa xong liền thổi loa
tiếng vang khắp
Tam thiên Đại Thiên thế giới, nhiều
chúng sanh nghe tiếng
pháp loa ấy tất cả
bịnh nặng tham sân si đều
trừ diệt, nhẫn đến có
bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh đều được
trừ diệt bịnh nặng tham sân si.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Chánh pháp Vô thượng thuốc cao
cam lộ ấy từ nơi nào mà đến họp tại đây ? Phải biết là
từ pháp khí
đại Bồ đề mà đến.
Pháp khí đại Bồ đề ấy từ chỗ nào đến ? Phải biết là từ trong trắp báu
Bồ Tát pháp mà đến. Trắp báu
Bồ Tát ấy từ đâu đến ? Phải biết
từ pháp môn
đại Bồ Tát tạng mà đến chớ chẳng đâu khác.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì thế nên
đại Bồ Tát tinh tấn chẳng mỏi vì muốn
tu hành Tỳ lê gia
Ba la mật nên
chí thành cần cầu kinh điển pháp môn đại Bồ Tát tạng, lắng nghe
thọ trì, hoặc
đọc tụng nghiên cứu nghĩa lý rồi rộng giảng dạy cho các
chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Ông lại nên biết thêm tướng dạng ấy, nay Phật sẽ nói để
hiển bày thêm những nghĩa ấy. Các
đại Bồ Tát nghe ta nói rồi rất
chí thành cần cầu kinh điển ấy để
nghiên cứu tu học và dạy lại
mọi người.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Đời
quá khứ vô lượng vô số bất tư nghị kiếp, ở
thế giới nầy có Phật
xuất thế hiệu Xích
Liên Hoa Thắng
Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn. Có tám mươi
câu chi Thanh Văn đệ tử đều là
đại A La Hán.
Đức Phật Xích
Liên Hoa Thắng thọ tám mươi tuổi thì
nhập Niết bàn,
chánh pháp trụ thế năm trăm năm,
tượng pháp trụ thế cũng năm trăm năm,
Xá lợi lưu bố cúng dường như sau khi ta
diệt độ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Sau khi Phật Xích
Liên Hoa Thắng
nhập Niết bàn sắp mãn một trăm năm, bấy giờ có một
Bồ Tát từ
thế giới khác chết đến sanh
thế giới nầy nơi nhà
đại vương. Vừa sanh ra liền xướng lên rằng : “Lạ thay, nay sanh xứ phi pháp”.Xướng rồi lại nói : “ Nay tôi sẽ thật
hành pháp hạnh. Nay tôi sẽ thật
hành pháp hạnh “ .
Mọi người nghi quái đồng gọi trẻ sơ sanh ấy là “Pháp Hạnh “ . Đến tuổi hai mươi, Vương tử
Pháp Hạnh do
lòng tin thanh tịnh xuất gia quy hướng đạo
Vô thượng.
Xuất gia xong, “Pháp Hạnh”
Tỳ Kheo ở riêng nơi rừng vắng trong một
tịnh thất.
Lúc ấy trên không có
đại Thiên Thần đến bảo rằng : Nầy
Tỳ Kheo ! Nếu nay ông
cầu pháp Vô thượng của
Như Lai thì nên
cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng. Nếu chưa được thì chớ bỏ
tinh tấn, chuyên chí tìm cầu chớ để chẳng được.
Nghe
Thiên Thần mách xong,
Tỳ Kheo Pháp Hạnh rất
vui mừng thân tâm thơ thới liền đi hỏi tìm pháp
Bồ Tát tạng. Tự thân đến các thành ấp thôn xóm và các đình quán để tìm cầu, tìm mải không được.
Tỳ Kheo ấy lại đến các
tăng phường, hoặc thấy
Tỳ Kheo, hoặc
Tỳ Kheo Ni liền thưa rằng :
Lành thay thưa Ngài nơi nào có
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng,
Bồ Tát y theo đó
tu học xuất sanh
vô lượng diệu pháp của chư Phật. Các người ấy đáp rằng : Nầy
Tỳ Kheo tôi chưa hề được nghe những gì gọi là
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng. Nay nhơn vì ông nói tôi mới được nghe
danh tự pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng.
Tỳ Kheo Pháp Hạnh lại tự
suy nghĩ :
Diệu pháp của chư Phật chẳng lẽ
Thiên Thần vọng nói. Nay tôi phảI chẳng bỏ rời
dũng mãnh tinh tấn nếu chưa được
nghe pháp môn
vi diệu Bồ Tát tạng thì quyết không bỏ giữa chừng.
Suy nghĩ xong lại hỏi các
Tỳ Kheo : Đức Xích
Liên Hoa Thắng
Như Lai nhập Niết bàn trà tỳ tại chỗ nào ? Biết được rồi,
Tỳ Kheo Pháp Hạnh liền đến chổ Phật
trà tỳ cúi đầu
đảnh lễ đi nhiễu
vô số vòng rồi
ngồi kiết già một phía,
nhứt tâm chánh niệm tưởng đối mặt Phật mà phát thệ rằng : Nay tôi
ngồi kiết già tại đây nếu chẳng được từ
đức Phật Xích
Liên Hoa Thắng
hiện tiền được
nghe pháp môn
vi diệu Bồ Tát tạng thì quyết chẳng xả chưn quyết chẳng rời khỏi chỗ ngồi nầy.
Phát thệ xong,
Pháp Hạnh Tỳ Kheo tinh tấn kiên cố ngồi kiết già nhứt tâm chánh niệm quá bảy ngày. Bấy giờ
thế giới phương Đông có
Phật hiệu Bửu Tạng
Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vì
Pháp Hạnh nên đến
hiện thân trước mặt Ngài mà bảo rằng : Nay ông nên theo tám môn
cú pháp trong
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng để
tinh tấn tu hành thì các
Phật pháp sẽ chẳng khó được. Bảo xong
đức Phật Bửu Tạng giảng nói tám môn
cú pháp cho
Pháp Hạnh Tỳ Kheo.
Được nghe Phật dạy,
Pháp Hạnh Tỳ Kheo tinh tấn tu tập tám môn
pháp cú, sau đó chẳng lâu được
thành tựu đa văn Vô thượng bất tư nghị, liền xả chưn rời chỗ ngồi, vì muốn rộng thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật nên
dũng mãnh tinh tấn đến các thành thị thôn ấp, các đình quán,
lần lượt tuyên nói hiển thông
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ấy khắp
mọi nơi mãn sáu mươi năm. Lúc đó
Bồ Tát Pháp Hạnh giáo hóa chúng trời người mãn số một
câu chi đều được an trụ trong
ba thừa. Lúc
lâm chung Pháp Hạnh Bồ tát phát thệ rằng : Tôi nguyện sannh
trở lại trong
loài người ở
thế giới nầy và sẽ
tu pháp hạnh. Do
nguyện lực ấy nên sau khi
mạng chung sanh
trở lại nhà
cư sĩ. Vừa sanh ra liền xướng lên rằng : Tôi sẽ
tu pháp hạnh, tôi sẽ
tu pháp hạnh. Do đó
mọi người lại đặt tên cho trẻ ấy là
Pháp Hạnh. Lúc sơ sanh mà
Pháp hạnh đồng tử thân hình như tám tuổi, dùng
lòng tin thanh tịnh xuất gia hướng về đạo
Vô thượng.
Xuất gia chẳng lâu, do
túc tập nên diệu nghĩa của
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng tự nhiên hiện ra.
Tỳ Kheo Pháp Hạnh an trụ trong
đại Bồ Tát tạng ấy đủ sáu mươi năm rồi đi khắp nơi
giáo hóa pháp ấy trong sáu mươi năm. NgườI được
giáo hóa đủ một
câu chi đều an trụ trong
ba thừa. Lúc
lâm chung,
Pháp Hạnh Bồ Tát phát nguyện sanh làm người
trở lại tại thế giới nầy và cũng
tu pháp hạnh. Do
nguyện lực ấy nên sau khi
mạng chung sanh trong cung vua. Ngày ấy trên
hư không Thiên Thần xướng rằng: “
Pháp Thắng Bồ Tát xuất thế,
Pháp Thắng Bồ Tát xuất thể”.
Do lời
Thiên Thần xướng nên Vương tử sơ sanh ấy được đặt tên là
Pháp Thắng. Đến năm hai mươi tuổi Vương tử ấy
lòng tin thanh tịnh xuất gia, được
mọi người gọi là
Pháp Thắng Tỳ Kheo. Do sức đại
niệm huệ sẵn có nên
Pháp Thắng Tỳ Kheo được
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng tự nhiên hiện ra rồi
tinh tấn tu tập có thể khéo dứt hẳn nghi lầm cho tất cả
chúng sanh, sau sáu mươi năm tự thân đi khắp
mọi nơi giáo hóa mãn sáu mươi năm được đủ số một
câu chi chúng Trời, Người đều an
trụ tâm Vô thượng Bồ đề.
Lúc
lâm chung,
Pháp Thắng Bồ Tát phát nguyện sanh trong nhơn đạo
xuất gia tu pháp hạnh. Sau khi
mạng chung, do
nguyện lực ấy nên sanh nhà
trưởng giả giàu lớn. Ngày ầy trên không
Thiên Thần xướng rằng:” Nay Đắc Niệm
Bồ Tát xuất thế, nay Đắc Niệm
Bồ tát xuất thế “. Do đó
mọi người đặt tên cho trẻ ấy là Đắc Niệm. Tuổi đủ hai mươi
đồng tử xuất gia làm
Tỳ Kheo. Vì sức
túc tập nên
tự nhiên được
Đà La Ni bất vong
tối thắng Vô thượng bất tư nghị, đầy đủ
đa văn, an trụ như vậy sáu mươi năm rồi tự thân đi khắp nơi
giáo hóa trọn sáu mươi năm được một
câu chi chúng an trụ trong
ba thừa. Lúc
lâm chung, Đắc Niệm
Bồ Tát phát nguyện trở lại nhơn gian
xuất gia tu pháp hạnh. Do đó lại sanh vào vương cung. Có
Thiên Thần xướng rằng: “Nay
Y Pháp Bồ Tát xuất thế, nay
Y Pháp Bồ Tát xuất thế “.
Mọi người theo lời xướng ấy đặt tên cho trẻ là
Y Pháp. Đến tuổi hai mươi,
Y Pháp vương tử
lòng tin thanh tịnh xuất gia làm
Tỳ Kheo, vì sức
túc tập nên
tự nhiên được
niệm lực vô gián và
pháp môn Bồ Tát tạng tự nhiên hiện ra. Trong năm mươi năm,
Y Pháp Bồ Tát du hành giáo hóa khắp nơi, độ đước bốn
câu chi chúng thiên nhơn an trụ trong
ba thừa. Sau khi
mạng chung,
Y Pháp Bồ Tát sanh về
thế giới của Phật Bửu Tạng ở
Đông phương. Lúc sơ sanh liền
thành tựu đa văn Vô thượng bất tư nghị giáo hóa sáu mươi tám
câu chi chúng trời người đều an trụ trong
ba thừa.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Y Pháp Bồ Tát ở
thế giới Đông phương của Phật Bửu
Tạng giáo hóa
đại chúng xong,
mạng chung sanh
trở lại trong vương cung tại
Thiệm Bộ Châu trong
thế giới của Phật Xích
Liên Hoa Thắng . Sáu mươi tám
câu chi Trời Người được
giáo hóa ở phương Đông cũng
mạng chung theo
Bồ Tát ấy sanh tại
quốc độ nầy cùng
Bồ Tát ấy làm
quyến thuộc.
Bấy giờ ở
cõi nầy có Phật
xuất thế hiệu
Tối Cao Hạnh
Như Lai,
Ứng Cúng ,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư,
Phật Thế Tôn , thọ mãn tám mươi
câu chi tuổi. Người
thuở ấy cũng thọ bằng Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đức
Tối Cao Hạnh
Phật thuyết pháp mỗi năm có một
đại hội, mỗi
đại hội đều có tám mươi
câu chi chúng
Thanh Văn. Có tất cả tám mươi
câu chi đại hội chúng Thanh Văn, đều là
đại A La Hán.
Bấy giờ
Bồ Tát ấy làm Vương tử tên
Dũng Thí,
thành tựu đa văn trí huệ sáng suốt cùng
quyến thuộc sáu mươi tám
câu chi người đến chỗ
Phật đảnh lễ đi nhiễu rồi ngồi một phía.
Đức
Tối Cao Hạnh
Như Lai biết
lòng tin và
ý muốn tăng thượng của
Dũng Thí Vương tử liền khai thị
diệu pháp thù thắng hiệp với bổn hạnh. Được Phật khai thị, Vương tử tỏ ngộ được tâm tin
thanh tịnh cùng
quyến thuộc đồng
xuất gia trọn đời tu
phạm hạnh,
tinh tấn tu hành Bồ Tát đạo sẽ được chứng
Vô thượng Bồ đề.
Đức
Tối Cao Hạnh
Như Lai ở giữa
đại chúng thọ ký cho
Dũng Thí Tỳ Kheo đại Bồ Tát kế sau khi
Phật diệt độ sẽ thành
Vô thượng Bồ đề xuất hiện thế gian hiệu Đại
Tinh Tấn Như Lai, Ư¨ng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn.
Thọ ký xong, Phật
Tối Cao Hạnh liền
nhập Niết bàn.
Dũng Thí Bồ Tát thấy Phật
nhập diệt càng thêm
luyến mộ,
xây dựng tháp miếu khắp nơi
cung kính cúng dường xá lợi của Phật cho
chúng sanh được
lợi ích.
Bồ Tát ấy
trụ trì chánh pháp khai hóa vô lượng, ít lâu sau
thành Phật hiệu Đại
Tinh Tấn Như Lai, thọ nửa kiếp,
thuyết pháp có
vô lượng đại hội. Mỗi
đại hội có mười hai
na do tha đệ tử Thanh Văn đều là
đạI A La Hán.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát tinh tấn không mỏi như vậy vì thật hành Tỳ lê gia
Ba la mật nên
trịnh trọng ân cần tìm
cầu pháp môn
vi diệu Bồ Tát tạng, nghe rồi
thọ trì đọc tụng tư duy nghiên cứu phân tích
nghĩa lý rộng giảng dạy cho các
chúng sanh, mãi vậy chẳng thôi nên được
thành Phật hiệu Đại
Tinh Tấn Như Lai đủ cả mười hiệu như trên đã thuật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu có
thiện nam thiện nữ an trụ nơi
chánh hạnh vi diệu Đại thừa muốn mau chứng được
Vô thượng Bồ đề thì phải
phát khởi tinh tấn dũng mãnh trịnh trọng ân cần tìm
cầu pháp môn
Bồ Tát tạng. Khi được gặp rồi
cung kính lắng nghe
thọ trì đọc tụng suy tư
nghiên cứu nhẫn đến vì
mọi người mà rộng giảng dạy. Tại sao? Vì
đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn tất do tìm
cầu pháp môn
vi diệu Bồ Tát tạng mới được
thành tựu viên mãn Tỳ lê gia
Ba la mật vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Đây gọi là
đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn chuyên tu Tỳ lê gia
Ba la mật vì
chúng sanh mà thật hành
Bồ Tát hạnh.
Nếu các
đại Bồ Tát tinh tấn tu hành Bồ Tát hạnh ấy thì tất cả
thiên ma chẳng nhiễu loạn được, lại chẳng bị chiết phục bởi các dị đạo và thế luận”.
Pháp Hội Bồ Tát Tạng
Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật
Thứ chín
HẾT