KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU
Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
Thứ Hai Mươi Hai
Bấy giờ có tám ức chúng trời Quảng Quả thấy
A Tu La nhẫn đến
trời Biến Tịnh cúng dường Phật được
thọ ký, họ đều
vừa lòng vui mừng hớn hở nhập mỗi mỗi
pháp môn, từ mỗi mỗi
pháp môn được
vô lượng môn, nơi tất cả
pháp môn được
vô lượng biện tài,
bất đoạn biện tài,
tương ưng biện tài ,
giải thoát biện tài,
vô trước biện tài,
vô ngại biện tài,
vi tế biện tài,
thậm thâm biện tài,
chủng chủng biện tài, mỹ diệu
biện tài,
tương tục biện tài. Ở nơi các
biện tài thảy đều biết rồi, chúng trời Quảng Quả ấy đối với
Như Lai, kính tin
tôn trọng mà bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn! Có
đà la ni tên
Vô Lượng Môn. Nếu có
Bồ Tát tu tâp
đà la ni vô lượng môn ấy, thì được các
biện tài bất đoạn V.V…ấy, ở trong tất cả
cảnh giới tâm chẳng
mê hoặc. Các
cảnh giới ấy không có một pháp nào chẳng phải
đà la ni. Lúc
đại Bồ Tát được
đà la ni ấy, ở trong các pháp đều được
đà la ni trí biện tài
vô ngại. Lúc
đại Bồ Tát an trụ đá la ni
vô lượng pháp môn ấy thì nhập nơi
ngũ ấm, nhập nơi
thập nhị xứ, nhập nơi
thập bát giới, nhập nơi các căn, nhập nơi
tứ đế ,
thập nhị nhơn duyên, nhập nơi
chúng sanh, nhập nơi phi
chúng sanh , nhập nơi hữu, nhập nơi
phi hữu, nhập nơi thủ tưởng, nhập nơi phi thủ tưởng, nhập nơi y nơi
phi y,nhập nơi không nhập nơi ngã, nhập nơi tướng nơi phi tướng, nhập nơi nguyện nơi phi nguyện, nhập nơi
hữu vi nơi
vô vi, tất cả xứ như vậy được
bất hoại biện tài.
Đại Bồ Tát ấy nhập trong
ngũ ấm được
đà la ni. Nghĩa là
sắc ấm ấy tức chẳng phải
thành tựu, tại sao, vì không có chút
sắc pháp được
thành tựu, tại sao, vì
địa giới tánh chẳng phải
thành tựu,
thủy giới hỏa giới và
phong giới tánh đều chẳng phải
thành tựu, tại sa, vì
địa giới tánh ly vậy, nếu
pháp không có
thể tánh thì gọi là chẳng phải
thành tựu,
thủy hỏa và
phong giới tánh tự ly, vì không
thể tánh nên chẳng phải
thành tựu. Sắc chẳng phải
thành tựu như vậy, do vì chẳng phải
thành tựu nên chẳng thể nói là
quá khứ hiện tại và
vị lai, tại sao, vì sắc chẳng phải pháp có nên là
bất khả đắc. Nếu sắc đã
bất sanh tức laé
bất diệt, do vì
bất sanh diệt nên tức là bất khả thuyét, lại còn có thuyết
như vầy, những sắc
quá khứ, sắc
hiện tại,
sắc vị lai, các sắc ấy hòa hiệp gọi là
sắc ấm, sắc ấy
thể tánh cũng
bất khả đắc, nào có
quá khứ hiện tại vị lai, thế nên
sắc ấm chẳng phải là khả thuyết, thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.
Vì vậy nhập nơi ấm tức là nhập nơi
đà la ni. Do vì nhập
đà la ni nên ấm
bất khả đắc, vì ấm
bất khả đắc nên
đà la ni cũng
bất khả đắc, do đó mà nhập
đà la ni bất khả đắc, chỉ có rieng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là
thế tục, chỉ là
ngôn thuyết, chỉ là thi thiết, chẳng phải ấm chẳng sắc, chẳng phải nhập nơi sắc, cũng chẳng
đà la ni thể tánh khả đắc. Tại sao ?
Nghiã là ấm v.v…chă »ng phải là
tác pháp, vì chẳng phải tải
tác pháp nên không có
tích tụ. Do vì
tích tụ nên giả gọi là ấm, như
thế gian nhiều
vật liệu tích tụ lại giả gọi là thành là nhà v.v…Các sắc ấy tánh
bất khả đắc, không có
tích tụ, vì không
tích tụ nên là
không sắc , cũng hông
sắc ấm. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, tánh
bất khả đắc không có
tích tụ, vì không
tích tụ nên không
thọ tưởng hành thức, cũng không
thọ tưởng hành thức ấm. Nhập nơi các ấm ấy phải biết như các ấm.
Nhập nơi nhãn rồi là ai nhập, nghĩa là khổ nhập. Gì là nhãn ? Đó là
thanh tịnh tứ đại tạo nên sắc gọi đó là nhãn. Những gì là tư đại ? Đó là thanh ti(nh
địa giới,
thủy giới,
hỏa giới và
phong giới,
địa giới ấy tánh tự ly, đã là tánh tự ly thì là
pháp thể bất khả đắc, nó là chẳng phải
thành tựu. Như vậy
thủy hỏa và
phong giới tánh đều tự ly, vì
pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải
thành tựu.
Nhãn nhập chẳng phải
thành tựu như vậy nên chẳng thể nói là
quá khứ hiện tại vị lai. Tại sao ?Vì
nhãn nhập chẳng phải là vật. Vì chẳng phải là vật nên chẳng sanh chẳng diệt. Nếu chẳng sanh chẳng diệt tức là
bất khả thuyết. Như vậy nhãn chẳng
sanh diệt, nhập cũng chẳng
sanh diệt, vì chẳng
sanh diệt nên cũng
bất khả thuyết. Phải
hiểu biết như vầy : Chỉ là riêng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là
thế tục, chỉ là
ngôn thuyết. Danh ấy và
danh thể cũng tư( tánh ly. Tại sao ? Vì không có một pháp gọi là nhãn, gọi là nhập, gọi là khổ. Vì danh
bất khả đắc nên
nhãn nhập cũng
bất khả đắc.
Vì nhãn
bất khả đắc nên tức là
đà la ni nhập.
Đà la ni nhập nầy cũng
bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly vậy, chỉ là danh dụng giả, chỉ là
thế tục,
ngôn thuyết thi thiết. Vì thế nên do
nhãn nhập mà được
đà la ni. Được
đà la ni rồi thì được
biện tài.
Nên biết nhĩ tỉ
thiệt thân ý
sắc thanh hương vị xúc pháp cũng đều như vậy.Nhập nơi giới ấy được
đà la ni nhãn, nhãn thể
bất khả đắc,
giới thể bất khả đắc. Tại sao ? Vì nhã ly nhãn tánhvậy, vì giới ly giới tánh vậy. Bởi
pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải vật nên chẳng phải
thành tựu. Chẳng
thành tựu thì là chẳng sanh chẳng diệt. Vì chẳng
sanh diệt nên nó chẳng phải
quá khứ hiện tại vị lai, chỉ là dan h dụng giả, chỉ là
thế tục ngôn thuyết thi thiết. Danh ấy ly
danh tự tánh, nhẫn đến thi thiết ly thi thiết
tự tánh. Nếu
pháp không tự tánh bất khả đắc tức là chẳng phải vật. Đã chẳng phải vật thì chẳng phải
thành tựu. Đã chẳng phải
thành tựu thì chẳng sanh chẳng diệt. Bởi
bất sanh diệt nên chẳng phải
quá khứ hiện tại vị lai. Nếu chẳng nhiếp ở danh ấy tức chẳng phải tướng cũng chẳng phải tưởng, chẳng phải dụng, chẳng phải giả, chẳng phải
hữu vi, chẳng phải khả thuyết, chẳng phải lai chẳng phải khứ, chẳng phải được nói cho người, chẳng phải được
hiển thị, chẳng phải được biết, chẳng phải được rõ, chẳng phải đen, chẳng phải trắng, chằng phải nhà cửa. Vì ly nhà cửa vậy, vì chẳng phải đến, chẳng phải được đến vậy, vì chẳng phải được, chẳng phải bị được vậy, vì chẳng phải chứng, chẳng phải được chứng vậy, chẳng phải
phàm phu cũng chẳng phải
phàm phu địa, chẳng phải
Thanh Văn cũng chẳng phải
Thanh văn địa, chẳng phải
Duyên Giác cũng chẳng phải
duyên Giác địa, chẳng phải
Bồ Tát cũng chẳng phải
Bồ Tát địa, chẳng phải Phật cũng chẳng phải
Phật địa, chẳng phải địa cũng chẳng phải phi địa, đây tức là
chơn như, chẳng dị như, chẳng phải phi như,
tịch diệt vô tướng, chỉ riêng dụng riêng giả. Nói rằng
Như Lai chỉ riêng vì
thế tục nên nói danh
Như Lai, chẳng phải
đệ nhứt nghĩa mà có
Như Lai vậy. Tại sao ? Vì pháp ấy
bất khả đắc nên không có
Như Lai ở nơi giới ấy mà nhập. Phải nên nhập nhãn nhĩ tỉ
thiệt thân ý giới pháp giới ý thức giới như vậy. Tất cả giới khác cũng phải biết như vậy.
Phải nên rộng
nhập pháp giới như vậy.
Bạch
Thế Tôn !Pháp giới ấy, lúc nói rằng ấm mà chẳng hư hoại bổn tánh của
pháp giới ấy, lúc nói nhập lúc nói giới, lúc nói
tứ đế, lúc nói
thập nhị nhơn duyên, cũng đều chẳng hoạibổn tánh thể của
pháp giới ấy.
Pháp giới tùy theo chỗ được nói tất cả các
pháp kiến lập danh tự, đèu chẳng hoại
thể tánh của
pháp giới ấy.
Bạch đức Thế Tôn ! Thi như địa
tùy theo chỗ nó ở mà làm
danh tự sai khác, nhưng chẳng hư hoại bổn tánh của
địa giới ấy. Cũng vậy,
pháp giới tùy theo chỗ nó ở làm
danh tự sai khác mà chẳng hoại bổn tánh
pháp giới. Thi như tủy hỏa
phong giới cũng vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Thí như
hư không tùy theo chỗ nó ở có
tác dụng sai khác mà chẳng hoại
thể tánh hư không. Cũng vậy,
pháp giới tùy theo chỗ nó ở có
tác dụng danh tự sai biệt mà chẳng hoại
thể tánh pháp giới.
Bạch đức Thế Tôn ! Lúc nhập các căn tức là nhập pháp giới? Nói các căn lá
nhãn căn nhĩ căn tỷ căn thiệt căn than căn và
ý căn, cùng
nam nữ căn
mạng căn,
lạc căn khổ căn hỉ căn ưu căn xả căn,
tín căn tinh tấn căn niệm căn định căn huệ căn, vị
tri dục tri căn,
tri căn tri dĩ căn.
Nhãn ấy, nhãn thể
bất khả đắc. Căn ấy, căn thể
bất khả đắc. Tại sao ?Vì nhãn ấy ly nhãn
tự tánh vậy. Đã ly
tự tánh thì
không pháp thể. Bởi
pháp không thể tánh thì nó chẳng phải vật. Bởi chẳng phải vật nên chẳng phải
thành tựu. Bởi chẳng
thành tựu nên nó chẳng sanh. Bởi chẳng sanh nên chẳng diệt. Bởi chẳng
sanh diệt nên chẳng thể nói nó là
quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong
tam thế chẳng
sanh diệt thì nó chẳng phải nhãn cũng chẳng phải
nhãn căn thì làm sao có dụng, phải biết như vậy.
Bạch đức Thế Tôn !Thí
như không quyền
hư dối không có vật chỉ có
danh tự chỉ có
ngôn thuyết. Ở trong địa nhứt
nghĩa không quyền cũng không có. Nhãn và
nhãn căn ấy dường
như không quyền
hư vọng chẳng phải thiệt mà
hiện tướng hư giả dối gạt
phàm phu, chỉ có
danh tự thi thiết
ngôn thuyết, ở trong
đệ nhứt nghĩa nhãn và
nhãn căn đều
bất khả đắc.
Bạch đức Thế Tôn ! Vì như vậy nên ngườo được
Nhứt thiết trí rồi vì độ
chúng sanh mà nói tên là căn. Các căn ấy, ở
đệ nhứt nghĩa vì
tự tánh ly nên căn thể đều không. Vì pháp ấythể kho-ng nên dụng cũng
hư vọng chẳng có chẳng thiệt dối gạt
phàm phu. Vì ly
tự tánh nên chẳng
sanh diệt. Vì chẳng
sanh diệt nên chẳng được nói nó là
quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong
tam thế không có thié nó không có danh không có tướng, chẳng phải được nói, chẳng phải được vì người khác nói, chẳng phải sanh chẳng phải bị sanh, chẳng phải đã biết sẽ biết, chẳng phải đã nghe sẽ ngh, chẳng phải biết chẳng phải biết chẳng phải bị biết, chẳng phải đã chứng sẽ chứng, chẳng phải đã được sẽ được, chẳng phải đã thấy sẽ thấy, chẳng phải đã đến sẽ đến, tại sao , vì nó chẳng phải có vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Thí như có người
chiêm bao được
vui mừng cười nói mớ đi chơi, người ấy sau khi
thức dậy ghi nhớ sự
vui chơi trong mộng mà tìm chẳng thấy chẳng được. Người ấy đương lúc
chiêm bao sự
vui chơi ấy còn chẳng có thiệt huống là lúc
thức dậy, không bao giờ cảnh mộng ấy lại hoặc thấy hoặc được.
Bạch đức Thế Tôn ! Các căn như vậy giống cảnh
vui chơi trong mộng thiệt
bất khả đắc. Vì thế nên tất cả các
pháp thể tánh đều
bất khả đắc. Vì là
bất khả đắc nên chẳng thể nói là
quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở nơi
tam thế thế
bất khả đắc thì nó chẳng thể nói được. Với tất cả các căn phải biết như vậy.
Bạch đức Thế Tôn nhập pháp giới là nhập tất cả pháp, nhập tất cả pháp là
nhập pháp giới.
Bạch đức Thế Tôn !Nhập pháp
tứ đế là
nhập pháp giới. NHững gì là
tứ đế ? Đó là
khổ tập diệt đạo.
Đức Thế Tôn cũng nói tất cả các pháp thảy đều là không, chẳng phải
chúng sanh , chẳng phải mạng, chẳng phải nhơn, chẳng phải tưởng, chẳng phải tướng.
Chúng tôi ở nơi pháp ấy chăẳng có nghi lự.
Bạch đức Thế Tôn ! Vì không
chúng sanh nên cũng không có khổ. Tại sao ? Vì
chúng sanh không nên
khổ đế cũng không. Tại sao ?Vì không có nhơn như vậy nên không có quả như vậy. Vì không có tập nên
diệt đế cũng không. Tại sao ? Vì không có đạo mà chẳng đoạn tập vậy.
Bạch đức Thế Tôn !
Đạo quả ấy là
diệt đế.
Phiền não tập kia
bất khả đắc nên đoạn
phiền não diệt cũng
bất khả đắc. Do diệt
bất khả đắc nên đạo cũng
bất khả đắc. Không khi nào có đạo như
vậy mà không có quả của nó.
Bốn thánh đế ấy chỉ là
phân biệt hư vông chẳng phải có. Bởi chẳng phải có nên chẳng thể nói được là
quá khứ hiện tại vị lai.Nếu ở trong
tam thế bất khả đắc thì nó chẳng phải sanh chẳng phải diệt, chẳng phải tướng chẳng phải tưởng, chẳng phải sắp bày chẳng phải bị sắp bày, chẳng phải nêu chỉ chẳng phải bị nêu chỉ, chẳng phải
hiển hiện chẳng phải bị
hiển hiện, chẳng phải ngũ ngôn chẳng phải bị ngũ ngôn, chẳng phải
ngôn từ chẳng phải bị
ngôn từ; chẳng no&i chẳng phải bị nói; chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải biết chă”ng phải bị biết, chẳng phải rõ chẵng phải bị rõ, chẳng phải lường chẳng phải bị lường, chẳng phải thấu chẳng bị thấu, chẳng phải đến chẳng phải bị đến, chẳng phải được chẳng phải bị được, chẳng phải nghe chẳng phải bị nghe, chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải đối chẳng phải bị đối, chẳng phải chứng chẳng phải bị chứng, chẳng phải trắng chẳng phải đen, chẳng phải sáng chẳng phải tối, chẳng phải đến chẳng phải đi, chẳng phải cạn chẳng phải sâu, chảng phải trong chẳng phải đục, chẳng phải sợ chẳng phải an.chẳng phải trói chẳng phải mở, chẳng phải ghét chẳng phải thương, chẳng phải
phiền não chẳng phải
thanh tịnh, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải đường sá chẳng phải chẳng đường sá, chẳng phải hoại chẳng phải chẳng hoại, chẳng phải
nhiếp thọ chẳng phải chẳng
nhiếp thọ, chẳng phải
sanh tử chẳng phải chẳng
sanh tử, chẳng phải được chẳng phải chẳng được, chẳng phải
chúng sanh chẳng phải chẳng
chúng sanh, chẳng phải
thọ mạng chẳng phải chẳng
thọ mạng, chẳng phải ngã chẳng phải chẳng ngã, chẳng phải vật chẳng phải chẳng vật, chẳng phải không chẳng phải chẳng không, chẳng phải tướng chẳng phải chẳng tướng,, chẳng phải nguyện chẳng phải chẳng nguyện, chẳng phải y chẳng phải chẳng y, chẳng phải
hữu vi chẳng phải
vô vi, chẳng phải đoạn chẳng phải thường, chẳng phải tà chẳng phải chánh, chẳng phải thiệt chẳng phải vọng, chẳng phải
vọng tưởng chẳng phải chẳng
vọng tưởng, chẳng phải xứ chẳng phải chẳng xứ, chẳng phải nhà chẳng phải chẳng nhà, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải xả chẳng phải tu, chẳng phải
sanh tử chẳng phải
Niết bàn, chẳng phải giác chẳng phải chẳng giác, chẳng phải
cảnh giới phàm phu chẳng phải
cảnh giới Thanh Văn chẳng phải
cảnh giới duyên giác chẳng phải
cảnh giới Bồ Tát chẳng phải
cảnh giới Phật, chẳng phải
cảnh giới chẳng phải chẳng
cảnh giới, chẳng phải tác chẳng phải bất tác. Nhập vào đế như vậy tức lànhập vào
pháp giới.
Nhập pháp giới rồi thì được
đà la ni. Được
đà la ni rồi thì được
biện tài. Nhập vào mười hai
nhơn duyên tức lá nhập vào
pháp giới.
Vô minh duyên hành
hành duyên thức thức duyên
danh sắc duyên sắc duyên
lục nhập lục nhập duyên xúc xúc duyên thọ thọ duyên ái
ái duyên thủ thủ duyên hữu
hữu duyên sanh sanh duyên lão tutủ
ưu bi khổ não, khối lớn nhiều khổ lớn như vậy.
Vô minh diệt thì hành diệt nhẫn đến
sanh diệt thì
lão tử ưu bi khổ não diệt, khối lớn nhiều
khổ diệt.
Bạch đức Thế Tôn !
Vô minh ấy,
vô minh thể
bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly. Nếu
pháp không có
thể tánh thì nó chẳng phải vật. Vì chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựuBởi chẳng phải
thành tựu nên chẳng phải sanh chẳng phải diệt. Bởi chẳng
sanh diệt nên chẳng phải
quá khứ hiện tại vị lai. nếu ở trong
tam thế bất khả đắc thì kho-ng có danh không có hình
không tướng không tưởng cũng chẳng
sai biệt. Chỉ là riêng danh riêng giả riêng dụng, chỉ là
thế tục chỉ là
ngôn thuyết, vì
giáo hóa tất cả
phàm phu chúng sanh.
Vô minh ấy ở trong
đệ nhứt nghĩa thiệt
bất khả đắc. Bởi
bất khả đắc nên chẳng phải dụng
sai biệt cũng chẳng thể nói được
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu chỉ là chỉ riêng danh nhẫn đến chỉ riêng thi thiết thì nó chẳng phải thiệt chỉ là
hư vọng ngôn thuyết phân biệt,
giác quán chẳng phải định chỉ lá
hí luận.
Vô minh ấy
nếu không có
tự tánh thì làm sao sanh được hành. Vì
vô minh đã không nên hành cũng chẳng sanh, bởi chẳng sanh nên nó tức là bất lão bất bịnh
bất tử, chẳng
lưu chuyển tức là
bất sanh. Nếu chẳng sanh thì làm sao có
lão tử. Nếu chẳng sanh chẳng tử tức là
chư Phật Bồ đề quá khứ hiện tại vị lai chỉ là
thế tục danh tự chẳng phải
đệ nhứt nghĩa. Nói rằng
vô minh đó tức là
Bồ đề, các chỉ kia cũng vậy. Nhập mười hai
nhơn duyên như vậy phải biết tức là nhập nơi
pháp giới.
Bạch đức Thế Tôn !
Như Lai bất sanh tất cả pháp cũng
bất sanh , vì thế tất cả pháp tức là
Như Lai.
Như Lai bất diệt tất cả pháp cũng
bất diệt, vì thế nên tất cả pháp tức là
Như Lai ,
Như Lai vô tướng tất cả pháp cũng
vô tướng, vì thế nên tất cả pháp tức là
Như Lai.
Nói tóm lược,
vô tướng bất khả đắc như vậy chẳng phải cấu chẳng phải tịnh, chẳng phải yêu chẳng phải ghét,
pháp giới chẳng thể rõ cũng chẳng thể biết.
Bạch đức Thế Tôn !
Chơn như tức là
Như Lai, tất cả các pháp tức là
chơn như, vì thế nên tất cả pháp tức là
Như LaiBạch đức Thế Tôn ! Thiệt tế tức là
Như Lai, tất cả pháp tức là thiệt tế, vì thế nên tất cả pháp tức là
Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Tùy trong pháp nào tức là có
Như lai, trong pháp ấy tức là có tất cả pháp, vì thế nên tất cả pháp tức là
Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người nói
Như Lai được
Vô thượng Bồ đề, người ấy là có
kiến chấp. Tại sao ? Vì
Như Lai bất nhị,
Bồ đề cũng
bất nhị,
bất nhị ấy chẳng có thể
giác ngộ bất nhị vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người nói
Như Lai chuyễn
pháp luân vô thượng, người ấy là có
kiến chấp. Tại sao ? Vì
Như Lai chẳng phải tiến thối vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người,nói
Như Lai độ
vô lượng chúng sanh, người ấy là có
chấp kiến. Tại sao ? Vì tất cả
pháp thiệt không có
chúng sanh nên không có ai được
diệt độ vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người nói rằng
Như Lai lợi ích vô lượng chúng sanh, người ấy là có
kiến chấp. Tại sao ? Vì
Như Lai chẳng
vì lợi ích hay chẳng
lợi ích chúng sanh mà
xuất thế vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có
chúng sanh ở đời
vị lai nói rằng
Như Lai xả bỏ
thọ mạng,
chúng sanh ấy là có
chấp kiến. Tại sao ? Vì
pháp giới không có
nhiếp thọ cũng không có xả bỏ vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người nói
Như Lai nhập
vô dư Niết bàn, người ấy là có
chấp kiến. Tại sao ? Vì
pháp giới không có
sanh tử cũng không có
Niết bàn vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người ở nơi pháp của tôi nói mà có thể
quyết định biết, người ấy chẳng còn thối chuyễn nơi
Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn !
Giả sử pháp giới có biến khác, các
thiện nam tử thiện nữ nhơn có thể tin như vậy,
tất định sẽ
giác ngộ Vô thượng Bồ đề không có
biến đổi ».
Tám ức chúng trời Quảng Quả ở nơi
Thế Tôn diễn nói pháp của mình được chứng rồi đầu mặt lễ chưn Phật,
nhiễu Phật ba vòng đứng qua một phía
chắp tay đồng thanh nói
kệ tán thán đức Phật :
«
Kính lễ Thiện Thệ đấng biết pháp
Đại Đạo Sư na la diên lực
Thắng
Mâu Ni thương yêu tất cả
Phương tiện thị hiện nơi chơn thiệt
Đã tự biết rõ tất cả pháp
Như thiệt
hiển thị các
thế gianCúi lạy thân
vô lượng công đứcVô Thượng Sĩ trí huệ tối thắngPháp
vi diệu chơn thiệt như vậy
Phật nói
tương ưng không có khác
Thế Tôn đại Y Vương vô thượngKhiến
chúng sanh pháp nhãn thanh tịnhKhai diễn tám thứ đường chơn chánh
Vì được
đại Bồ đề Vô thượngQuy kính thân
vô lượng công đứcVô Thượng Sĩ trí huệ tối thắngHiễn thị
Bồ đề đạo chánh chơn
Quyết định xu hướng đại Niết BànChứng được
Vô thượng thắng
Bồ đềTịch diệt an ổn rất
kiên cốĐộ thoát nhiều ức
na do thaChúng sanh luân hồi khổ
sanh tửĐãnh lễ thân
vô lượng công đứcVô Thượng Sĩ trí huệ tối thắngQuan sát ngũ ấm đều
không vôẤm thể
rốt ráo bất khả đắcẤm ấy tức thể ly chẳng có
Chỉ gạt những
chúng sanh phàm nguThế gian nơi đây bị
trói buộcNhư khỉ vượn kia bị dính nhựa
Người trí nơi đây
được giải thoátDu hành không ngại như gió trống
Các giới tức
thể tánh tự không
Tất cả người trí nói như vậy
Không ấy cũng không có
tự tánhCứu cánh cầu nó
bất khả đắcPhàm phu nơi đây đều bị trói
Do vì chẳng biết tánh chơn thiệt
Người
trí quán sát
được giải thoátNơi
tam giới kia
vô sở trướcCác
nhập không thể tự
không tịchTất cả người trí nói như vậy
Như nắm tay không giả chẳng thiệt
Dối gạt hàng
chúng sanh ngu tối
Phàm phu vọng sanh lòng
thủ trướcĐều
do nơi pháp
sanh nghi hoặc
Trụy lạc sanh tử bị tán hoại
Như các nhà buôn chìm biển lớn
Các căn ấy tự nó tự không
Cứu cánh suy tìm
bất khả đắcVí như trong gương hiện mặt mắt
Tượng ấy không thiệt
cứu cánh không
Phàm phu vô trí chấp tượng ấy
Chánh vì chẳng biết pháp chơn thiệt
Dường như bầy chim vào lưới bẫy
Cũng như trong vực cá mắc câu
Chúng sanh không thể
lìa tướng sanh
Chơn thiệt tìm cầu
bất khả đắcVí như trên vách vẽ
hình tượngCứu cánh không tướng chúng sanh thiệt
Phàm phu vô trí nên thử trước
Đều do chẳng biết
nghĩa chơn thiệt
Người
trí quan sát
được giải thoátVí như chim sanh ra khỏi vỏ
Nhơn duyên sanh pháp đều
vô thườngTất cả
không tịch lìa
phan duyênVí như trong mộng hưởng thọ vui
Hư dối gạt gẫm phàm phu mê
Ngu si vô trí bị nó trói
Do chẳng
tư lương vọng
phân biệtNgười
trí quan sát
được giải thoátNhư các chim khôn thoát lồng lưới
Như Phật
công đức bất tư nghịTất cả các pháp cũng như vậy
Các pháp
vô tướng như
Mâu NiPháp thể tịch diệt như
Niết bànCác pháp
vô y như Như Lai
Nơi
tam giới kia chẳng
thủ trướcVì thế tất cả người
thành PhậtĐều do được biết nghĩa nầy vậy
Các pháp vô bố như
Thế TônChẳng khởi tưởng thân mình thân người
Các
pháp nan tư
như Đạo Sư
Chỉ Phật biết được dắt
quần sanhPháp
vô phân biệt như
Thiện ThệChẳng phải
tâm cảnh của
phàm phuLà diệu
cảnh giới của
Như LaiChỉ Phật
Đại Thánh biết rõ được
Nếu có
vô trí nói thế này
Phật chứng
Vô thượng đại Bồ đềNếu lại có người nói
như vầyThế Tôn đã chuyễn
diệu pháp luânNếu lại có người
nhận định rằng
Thiện Thệ đã độ
vô lượng chúng
Họ đều bị
kiến chấp trói buộcVì họ chẳng biết tánh chơn thiệt
Nếu người bảo Phật nói lời nầy
Sát hại hành ấm và cùng mạng
Hoặc nói
Thập Lực nhập Niết bànĐã
lợi ích vô lượng chúng sanhTất cả người ấy đều
chấp kiếnBị trói chặt trong rọ của ma
Chẳng
hiểu biết được pháp
chơn nhưVì chẳng biết nên chẳng biết Phật
Nếu người khéo biết phải chẳng phải
Họ biết rõ được
Đại Đạo SưSẽ được khối
vô lượng công đứcThành Phật thương xót các
thế gianĐây là
chơn như không
biến đổiTất cả các pháp lìa
nghi hoặcĐấng thắng
vô thượng trong Trời Người
Chúng tôi đã biết nghĩa như vậy
Tám ức chúng trời Quảng Quả nầy
Nơi pháp thảy đều được biết hết
Đối
Phật Đạo Sư tự diễn nói
Hiện
nội tâm mình tin hiểu rồi
Tất
cả mừng vui không nghi lự
Đều tự thấy mình sẽ
thành PhậtĐây là
diệu pháp của
Như LaiHọ tự nhận lãnh
Phật thọ ký ».
Đức Thế Tôn biết chúng trời Quảng Quả có đủ
thâm tín, ở trong
Phật pháp quyết định không nghi, vì muốn
đại chúng trồng căn lành nên hiện
mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch
đức Phật«
Đạo sư trí huệ núi
công đứcChẳng phải không nhơn mà
mỉm cườiTôi từng nơi
Phật thân tự nghe
Thế Tôn mỉm cười tất có cớ
Như Lai hiện tướng mỉm cười ấy
Khiến chúng đều thọ vui
thanh tịnhTrời Người
Tu La đại Đạo SưNgưỡng mong diễn nói
nhơn duyên cười
Nay thấy
Như Lai từ nơi miệng
Hiện tướng mỉm cười rất
thanh lươngCác
chúng hội đây đều
hoài nghiNhứt tâm chiêm ngưỡng mặt
Như LaiĐại bi tối thắng Thiên Nhơn SưXin nói cớ cười rất
hi hữuThế gian nếu được nghe Phật nói
Quyết định trừ
hết lòng nghi hoặcTám ức chúng trời Quảng Quả ấy
Thảy đều diễn nói tự
thọ kýDo
công đức gì được quả gì
Xin nói
thành Phật sự
thần thôngKhai diễn phạm âm rất
vi diệuĐể khắp trừ dứt
chúng sanh nghi
Tất cả
đại chúng nghe Phật nói
Thảy đều hớn hở rất
vui mừngĐại chúng chắp tay đều
nhứt tâmTịnh tín chiêm ngưỡng cung kính đứng
Chúng trời
Phật tử đều
tư duyMong cầu
Vô thượng đại Bồ đềCác
chúng hội đây có
nghi hoặcXin
đức Như Lai trừ dứt cho
Chắc sẽ được trí biết phải chẳng
Đầy đủ
thành tựu Nhứt thiết tríĐược nghe
Như Lai tiếng tám đức
Chúng trời không ai chẳng
vui mừngSẽ được
hộ trì Như Lai giáo
Tùy thuận chánh pháp như thuyết hành
Quan sát biết lòng chúng trời rồi
Đại trí Vô thượng nguyện giải nói
Do đó
đại chúng lòng mừng vui
Ở trong
Phật pháp được tin hiểu
Nay nơi
Đạo Sư nguyện được nghe
Chúng trời
quá khứ dã
tu hànhNếu nhờ
Như Lai giải nói rồi
Sở nguyện thảy đều được đầy đủ
Chúng trời Quảng Quả
như pháp hành
Chắc được
thành tựu Nhứt thiết tríSẽ
độ thế gian các
chúng sanhHiển thị thể tánh pháp
chơn như ».
Đức Thế Tôn nói kệ đáp
Huệ Mạng Mã Thắng :
«
Lành thay Mã Thắng khéo biết giờ
Nay ông hỏi Phật thiệt
đúng lúcPhật vì chúng trời Quảng Quả ấy
Ở trước
đại chúng hiện
mỉm cườiNay sẽ vì ông
phân biệt nói
Đều phải
nhứt tâm cùng lắng nghe
Nghĩa
nhơn duyên của tướng
mỉm cườiÔng và
đại chúng sẽ được rõ
Như Lai đầy đủ
Nhứt thiết tríQuan sát nhơn duyên có ba thứ
Lưỡng
Túc Thế Tôn chánh quán rồi
Liền hiện
mỉm cười thị thế gian
Có ngươéi thích ở nơi
Niết bànÍt trí cạn nhỏ cầu
Thanh VănLại có người thích ở yên lặng
Chỉ cầu
Bồ đề Bích Chi PhậtLại có thích
cầu đại Đạo SưThành Phật đại lực na la diênPhật thấy chúng ấy
thâm tín rồi
Tùy họ
sở nguyện mà
độ thoátVì cầu
Thanh Văn mà
thị hiệnPhải biết là tướng cười tối hạ
Phải nên biết Phật
trung phẩm cười
Vì người Bích Chi mà
thị hiệnÔng phải biết cười
thượng phẩm đây
Vì chúng trời nầy
thọ ký Phật
Phật giải nói ba
nhơn duyên cười
Đó là tối hạ và trung thượng
Khéo hiểu
thế gian thắng
Đạo SưThị hiện mỉm cười hiển
thoại tướngPhật biết
chúng sanh muốn
ba thừaNguyện ưa cầu chứng ba
thánh quảVì cầu
Thanh Văn mà hiện cười
Tia sáng mỉm cười vào nơi chưn
Vì cầu
Bích Chi Phật thị hiệnPhải biết sáng cười nhập vào rún
Vì
thọ ký Vô thượng Bồ đềTia sáng cười nhập vào đảnh Phật
Mã Thắng nầy Ông nên ghi rõ
Nhơn duyên mỉm cười có ba thứ
Vừa rồi
Phật hiện tướng sáng cười
Sáng ấy nhập vào đảnh của Phật
Phải biết
mỉm cười hiện sáng ấy
Đều vì
thọ ký Vô Thượng GiácNay Phật sẽ lại vì ông nói
Mỉm cười lại có ba
nhơn duyênLành thay Mã Thắng và
đại chúngMột lòng lặng ý đều lắng nghe
Hiện tiền mỉm cười vì cầu Phật
Tia sáng phóng ra nhập vào đảnh
Tia sáng có lúc dừng ngang lưng
Giây lát mất là vì
Duyên GiácPhật hiện mỉm cười phóng
tia sángTạm thời dừng ở nơi chưn Phật
Sáng ấy theo thừa mà biến hiện
Phải biết là vì người
Thanh VănNay Phật lại nói cớ
mỉm cườiMã Thắng nghe kỹ có ba thứ
Đạo Sư phóng ra các
tia sángRa rồi vòng quanh nơi mình Phật
Tia sáng ra rồi đều rẽ thưa
Trở lại tụ mau quanh lưng Phật
Lần lần
trở lại thêm lớn rộng
Cũng lại vòng quanh bên hữu Phật
Có sáng đầu dừng sau rộng lớn
Lần lần
hữu nhiễu quanh thân Phật
Sáng ấy đều khắp hết thân Phật
Cùng đồng với thân không sai khác
Sáng ấy
trang nghiêm thân tướng Phật
Rực rỡ dường như khối
hoàng kimMâu Ni phóng sáng từ miệng cười
Phải biết sáng ấy ký
quốc độCó sáng phóng ra như lọng báu
Che khắp trên thân
đức Thế TônCó sáng như hoa ở
hư khôngSáng ấy chói rỡ thân
Đạo SưSáng ấy tất cả đều hữu triền
Ba vòng quanh ngoài thân Nhu Lai
Phải biết sáng áy ký
thọ mạngXuất thế đại trí hiện
thoại tướngBa thứ
mỉm cười phóng sáng áy
Thiện Thệ theo căn hiện sai khác
Nay đây
Mã Thắng cần nên biết
Đó là ba thứ nhơn
mỉm cườiThế gian Đạo Sư hiện
thoại tướngKhéo biết
chúng sanh sâu tin thích
Nay ở trong pháp của
Như LaiCác ông nghe đây được
trừ nghiTám ức chúng trời Quảng Quả đây
Hiện tiền trước Phật sâu kính tin
Nói rộng
chánh pháp môn
vi diệuĐều riêng cõi khác được
thành PhậtThọ mạng đầy đủ lâu
vô lượngTrải do tha kiếp trụ
thế gianThế nên
Như Lai hiện
thoại tướngÁnh sáng rộng lớn đủ năm màu
Chúng trời Quảng Quả thuở
quá khứBa mươi sáu
a tăng kỳ kiếpThường được gặp gỡ chư
Thế TônThân thừa
cúng dường tu pháp lành
Lại trãi
thời gian ba mươi sáu
A tăng kỳ kiếp rộng
tu hànhChư
Đại Sĩ này trụ
thế gianCúng dường Như Lai chưa từng mỏi
Vì
tư duy cứu độ các
chúng sanhNên luôn siêng tu
cúng dường PhậtCúng dường Thế Ttôn đúng
pháp nghiMong cầu
Vô thượng đại Bồ đềChúng trời Quảng Quả đời
vị laiSẽ làm được Phật
na la diênThành hiệu
Mâu Ni núi
công đứcKiếp ấy hiệu là Thắng
Kim TràngChư
Như Lai ấy đều riêng ở
Trong
quốc độ trang nghiêm thanh tịnhPhật ấy đồng hiệu Nhựt
Quang LuânĐầy đủ
vô lượng khối
công đứcMỗi mỗi
Như Lai đều trụ thế
Lâu đến
vô lượng do tha kiếp
Chư
Thiện Thệ ấy họp
chúng hộiVô lượng vô biên chẳng đếm được
Lúc mỗi mỗi
Đạo Sư thành PhậtChỗ có hàng
đệ tử Thanh VănDầu Phật ở trong do tha kiếp
Tính đếm số ấy củng chẳng hết
Nếu tất cả toán sư cùng họp
Cũng tính chẳng hết số chúng ấy
Thuở ấy chỗ có chư
Bồ TátSố đông gấp bội chúng
Thanh VănThảy đều
phát tâm ở
Phật thừaNguyện sẽ thành
Nhứt thiết tríỞ trong
quốc độ thanh tịnh ấy
Đều sẽ được
thành Phật thập lựcChư
Bồ Tát ấy chỗ
tu hànhĐồng như Bỗn Sư không sai khác
Chư
Như Lai ấy
diệt độ rồi
Chánh pháp hưng thạnh ở đời lâu
Trải đến mười hai na do kiếp
Được chư
Phật tử siêng
hộ trìLúc pháp chư Phật ấy hưng thạnh
Kẽ
phát tâm vô thượng Bồ đềSố ấy nhiều hơn cát
sông HằngThảy đều siêng
tu Bồ Tát hạnhChư
Thiện Thệ ấy
diệt độ rồi
Chỗ có tất cả chúng
Thanh VănChúng ấy thảy đều được
Niết bànNhiều hơn số cát nơi
đại hảiChánh pháp của chư
Thế Tôn ấy
Đầy đủ hưng thạnh nơi
Thế gianLợi ích vô lượng các
chúng sanhGiáo pháp Phật ấy rất hưnh thạnh
Nghe Phật giải nói như vậy rồi
Tất cả
đại chúng đều tin hiểu
Quyết sẽ được
thành Phật Thế TônRộng làm
lợi ích các
quần sanhBấy giờ
chúng hội đều mừng vui
Đầu mặt
lễ lạy chưn
Như LaiCung kính vô lượng nơi
Thiện ThệĐúng
pháp cúng dường Thiên Nhơn SưThế nên hớn hở phát
tinh tấnDường như cứu đầu đang bi cháy
Thường phải thân cận
thiện tri thứcSiêng tu
Bát Nhã Ba la mậtĐây là hạnh thắng tấn thấy thiệt
Tỳ Kheo các ôg phải
tu tậpSẽ thành
Vô thượng Lưỡng Túc TônCông đức như núi
lợi thế gian ».