KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XIV
PHÁP HỘI
PHẬT THUYẾT NHẬP THAI TẠNG
THỨ MƯỜI BỐN
Hán Dịch: Pháp Sư Nghĩa Tịnh
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy tôi nghe, một lúc
đức Phật ở thành
Ca Tỳ La vườn Đa Căn Thọ chúng
Tỳ Kheo vô lượng người câu hội.
Bấy giờ
đức Thế Tôn có em trai tên
Nan Đà, thân như màu
hoàng kim đủ ba mươi hai
tướng đại trượng phu thấp hơn Phật bốn ngón tay. Vợ tên Tôn
Đà La nghi dung đoan chánh
thế gian ít có, đẹp sáng siêu tuyệt người đều thích thấy.
Nan Đà cưng vợ
triền miên lưu luyến không tạm xa rời,
tình ái nhiễm rất nặng quyết chung sống
trọn đời.
Đức Thế Tôn xét biết đến
thời kỳ thọ
hóa độ, bèn vào lúc sáng sớm
đắp y cầm bát đem
Trưởng lão A Nan làm thị giả vào thành
khất thực, kế đến cổng nhà
Nan Đà mà đứng.
Đức Thế Tôn dùng sức đại bi phóng ánh sáng màu
hoàng kim chiếu khắp trong nhà
Nan Đà đều thành màu
hoàng kim cả.
Nan Đà nghĩ rằng ánh sáng bỗng chiếu đến chắc là
đức Như lai. Liền sai người hầu ra cổng xem, vội trở vào báo rằng
đức Thế Tôn đứng tại cổng nhà.
Nan Đà nghe báo liền muốn ra mau nghinh lễ
đức Thế Tôn.
Tôn
Đà La tự nghĩ nếu ta để y đi,
đức Thế Tôn tất định cho y
xuất gia. Nàng bèn níu áo chồng lại.
Nan Đà bảo vợ nay nên tạm cho ta đi ra lễ
đức Thế Tôn rồi ta liền trở vào.
Tôn
Đà La nói cùng nhau ước kỳ hẹn tôi mới cho đi. Nàng lấy phấn ướt đắp lên trán rồi nói với chồng rằng : Điểm này chưa khô phải trở vào, nếu trễ hẹn phải phạt năm trăm tiền vàng.
Nan Đà ưng chịu rồi liền ra ngoài cổng lễ chưn
đức Phật, tiếp lấy bát của
Như Lai mang vào nhà đựng đầy cơm ngon bưng ra ngoài cổng.
Đức Thế Tôn liền bước đi
đồng thời ra dấu cho
A Nan chớ có lấy bát ấy.
Đức Như Lai Đại Sư oai nghiêm
tôn trọng,
Nan Đà chẳng dám kêu đứng lại, bèn trao bát đầy cơm cho
A Nan.
Ngài
A Nan hỏi : "Vừa rồi anh tiếp lấy bát ở nơi ai ?".
Nan Đà nói : "Ở nơi đức Phật".
Ngài
A Nan nói : "Như vậy nên trao cho đức Phật".
Nan Đà chẳng dám gọi
đức Phật chỉ
lặng lẽ đi theo sau.
Về đến
tinh xá ở vườn Đa Căn Thọ,
đức Thế Tôn rửa tay chưn rồi đến ghế mà ngồi.
Nan Đà dâng bát cơm.
Đức Thế Tôn ăn xong bảo
Nan Đà rằng : "Em
xuất gia được chăng ?". Vì
đức Thế Tôn thuở xưa lúc tu
Bồ Tát đạo, đối với
cha mẹ sư trưởng và
chư tôn túc chưa hề trái lời
dạy bảo, nên lời dạy của Phật không ai
trái lại. Do đó mà
Nan Đà nghe
đức Phật bảo
xuất gia liền đáp rằng : "Xuất gia được".
Đức Thế Tôn liền sai Ngài
A Nan cạo râu tóc
Nan Đà.
Ngài
A Nan vâng lịnh
đức Phật tìm người đến cạo.
Nan Đà nói với người ấy rằng : "Ngươi biết chăng, không bao lâu ta sẽ làm
Chuyển Luân Vương, nếu ngươi
cạo tóc ta, ta sẽ chặt cánh tay ngươi".
Người ấy
sợ hãi gói dao lại muốn từ đi về .
Ngài
A Nan vội bạch
đức Phật.
Đức Phật đến hỏi
Nan Đà : "Em chẳng
xuất gia ư ?".
Do oai của
đức Phật,
Nan Đà thưa : "Xin xuất gia".
Đức Thế Tôn cầm bình nước rưới lên đầu
Nan Đà, tịnh nhơn liền cạo.
Nan Đà nghĩ rằng nay phải kính phụng
đức Thế Tôn, ban ngày tạm
xuất gia, chờ tối sẽ về nhà. Đến chiều tối,
Nan Đà theo đường cũ đi về nhà.
Đức Thế Tôn hóa hố lớn ngay giữa đường.
Nan Đà thấy hố ấy tự nghĩ rằng : Bây giờ không làm sao đi về nhà được, đành phải xa Tôn
Đà La. Đêm nay nhớ tưởng nàng có thể chết được. Nếu còn sống, sáng mai sẽ về. Vì nhớ Tôn
Đà La nên
Nan Đà sầu khổ suốt đêm.
Biết
ý nghĩ của
Nan Đà,
đức Phật bảo Ngài
A Nan đến cho
Nan Đà hay là
đức Phật sai
Nan Đà làm
tri sự nhơn.
Ngài
A Nan tuân hành lời
đức Phật.
Nan Đà hỏi
A Nan : "Sao gọi là
tri sự nhơn và phải làm gì ?"
Ngài
A Nan nói : "Phải
kiểm điểm các việc trong chùa".
Nan Đà hỏi : "Phải làm những sự gì ?".
Ngài
A Nan nói : "Nầy
Cụ thọ ! Phàm người
tri sự, lúc chư
Tỳ Kheo đi
khất thực phải rưới quét trong chùa, lấy phân trâu mới
thứ đệ tô cho sạch, phải
để ý canh phòng chớ cho thất lạc, có
việc phải phán quyết thì đem bạch
chư Tăng. Nếu có
hương hoa thì đem trao cho chúng. Đêm đến thì đóng cổng
đóng cửa đến sáng mới mở. Chỗ đi đại tiểu phải thường rửa lau. Trong chùa nếu có chỗ nào hư thì phải tu bổ".
Nghe xong
Nan Đà nói :"Thưa
Đại Đức ! Như lời
đức Phật sai bảo, tôi xin vâng làm".
Sáng ngày đến giờ
tiểu thực, chư
Tỳ Kheo chấp trì y bát vào thành
Ca Tỳ La khất thực.
Nan Đà thấy chùa vắng người liền nghĩ rằng ta quét chùa xong sẽ
trở về nhà. Do
thần lực của Phật, chỗ
Nan Đà quét sạch hiện ra phân dơ. Thấy vậy
Nan Đà bỏ chổi hốt sạch phân, nhưng phân vẫn còn không hốt hết được.
Nan Đà nghĩ rằng : Thôi mặc,
đóng cửa chùa rồi về. Cũng do
thần lực của
đức Phật,
đóng cửa phòng này xong qua
đóng cửa phòng kia thì phòng này cửa lại
tự nhiên mở trống.
Nan Đà lo rầu nghĩ rằng nếu có
kẻ trộm xâm phạm thì có hại gì.
Ta sẽ làm vua lại xây trăm ngàn ngôi chùa lớn
tốt hơn đây. Ta nên về nhà. Sợ đi đường lớn gặp Phật nên
Nan Đà theo đường nhỏ mà đi.
Đức Phật biết bèn
từ đường nhỏ ngược chiều đi lại. Từ xa
Nan Đà thấy Phật, chẳng muốn gặp Phật, liền
ẩn mình trong tàng cây rậm bên đường.
Thần lực của Phật làm cho các nhánh cây đều cất cao lên lộ
Nan Đà ra.
Đức Phật hỏi
Nan Đà : "Em từ đâu đến đây nên theo ta".
Nan Đà hổ thẹn cúi đầu
đi theo Phật.
Đức Phật biết
Nan Đà quá
luyến ái vợ, muốn
dẫn tiếp Nan Đà khiến xả ly nên
đức Phật ra khỏi thành
Ca Tỳ La đến Thất La Phiệt ở tại vườn Lộc
Từ Mẫu của bà
Tỳ Xá Khư.
Đức Phật thầm nghĩ
Nan Đà ngu si nhiễm hoặc mãi nhớ vợ chẳng bỏ
tình ái, nên làm
phương tiện cho thôi dứt.
Đức Phật bảo
Nan Đà rằng : "Từ trước em có thấy núi Hương Túy chưa ?".
Nan Đà thưa chưa từng thấy.
Đức Phật nói : "Nếu như vậy em nên nắm chéo y ta".
Nan Đà tuân lời nắm chéo y của
đức Phật.
Lúc ấy đức Thế Tôn dường như
Nga Vương bay lên
hư không đến núi Hương Túy dắt
Nan Đà xem ngó hai bên. Dưới cây có trái kia thấy một con khỉ cái mù một mắt đang ngửa mặt nhìn sững
đức Như Lai.
Đức Phật bảo
Nan Đà rằng con khỉ cái này sánh với Tôn
Đà La thi ai đẹp ?
Nan Đà thưa : "Tôn
Đà La con giòng
Thích Ca đẹp như
thiên nữ nghi dung
đệ nhứt trong đời không có hai người. Khỉ cái này đem sánh với nàng thì ngàn muôn ức phần chẳng bằng một".
Đức Phật hỏi : "Em có thấy
thiên cung chưa ?".
Nan Đà thưa rằng chưa thấy.
Đức Phật lại bảo
Nan Đà nắm chéo y rồi như
Nga Vương bay lên
hư không đến
trời Đao Lợi, khiến
Nan Đà nhìn ngắm cảnh
thù thắng ở
cõi trời.
Nan Đà tuân lời đến vườn
hoan hỉ, vườn thể thân, vườn thô thân, vườn giao hiệp, cây viên sanh, tòa
Thiện Pháp Đường, các
thắng cảnh cõi trời như vậy, nào cung điện vườn tược, nào
hoa quả ao tắm, những chỗ dạo chơi
vui vẻ thù thắng đều
quan sát hết.
Kế đến
Nan Đà vào trong thành
Thiện Kiến, lại thấy các thứ
âm nhạc âm thanh vi diệu, nhà cửa cao rộng
màn che trướng phủ, nơi nào cũng có các
thiên nữ cùng nhau
vui đùa.
Nan Đà xem khắp mọi cung, thấy có một cung điện chỉ có
thiên nữ mà không có
thiên tử, bèn hỏi thiên nừ rằng : "Tại sao mọi cung đều có
thiên tử thiên nữ ở chung cùng nhau vui thú, mà cung này chỉ có toàn
thiên nữ ?".
Thiên nữ đáp : "Đức
Thế Tôn có người em trai tên
Nan Đà theo Phật
xuất gia tu
phạm hạnh mạng chung sẽ sanh nơi đây,
chúng tôi chờ ông ấy".
Nan Đà nghe nói
vui mừng hớn hở vội
trở lại chỗ
đức Phật.
Thấy
Nan Đà,
đức Phật hỏi em có thấy cảnh thắng diệu ở
cõi trời chăng ?
Nan Đà thưa đã thấy, rồi thuật lại mọi sự đã được thấy.
Đức Phật hỏi có thấy
thiên nữ chăng ?
Nan Đà thưa : "Đã thấy".
Đức Phật hỏi : "Các
thiên nữ ấy sánh với Tôn
Đà La thì ai đẹp ?".
Nan Đà thưa : "Đem Tôn
Đà La so với các
tiên nữ ấy thì cũng như đem con khỉ cái chột mắt ở núi Hương Túy sánh với Tôn
Đà La, trăm ngàn muôn lần chẳng bằng một".
Đức Phật bảo
Nan Đà rằng : "Người tu
phạm hạnh có
thắng lợi ấy, nay em nên gắng tu
phạm hạnh sẽ được sanh
cõi trời hưởng khoái lạc này".
Nan Đà nghe
đức Phật nói lòng
vui mừng đứng yên.
Bấy giờ
đức Thế Tôn cùng
Nan Đà rời
cõi trời Đao Lợi trở lại rừng
Thệ Đa. Từ ngày ấy vì
ái mộ thiên cung mà
Nan Đà chuyên tu phạm hạnh.
Đức Phật biết
tâm niệm của
Nan Đà nên sai Ngài
A Nan đi truyền lịnh
đức Phật cho các
Tỳ Kheo không người nào cùng
Nan Đà ngồi chung chỗ,
kinh hành đồng chỗ, để y một sào, để bát một chỗ, để bình một chỗ, chẳng được đồng một chỗ với
Nan Đà mà
đọc tụng kinh điển.
A Nan truyền lịnh
đức Phật, các
Tỳ Kheo đều
tuân hành.
Nan Đà thấy
mọi người xa lánh mình thì rất
hổ thẹn. Lúc sau, Ngài
A Nan cùng các
Tỳ Kheo ở trong nhà
thị giả vá
y phục.
Nan Đà nghĩ rằng các
Tỳ Kheo đều rời bỏ tôi chẳng ở đồng một chỗ. Còn
A Nan nầy là em trai tôi há lại lánh tôi.
Nghĩ vậy
Nan Đà liền
đi vào nhà ngồi bên
A Nan.
Lúc ấy A Nan vội
đứng dậy tránh ra.
Nan Đà nói : "Nầy
A Nan ! Các
Tỳ Kheo khác bỏ tôi đã đành. Còn
A Nan là em trai tôi sao nỡ ghét lánh tôi".
Ngài
A Nan đáp : "Thiệt có lý ấy, nhưng anh
tu đạo riêng, còn tôi theo đường khác,
vì vậy mà phải tránh nhau".
Ngài
Nan Đà hỏi : "Thế nào là đạo anh đường em ?".
Ngài
A Nan đáp : "Anh thích sanh
cõi trời mà tu
phạm hạnh, tôi cầu
Niết Bàn mà trừ
dục nhiễm vậy".
Ngài
Nan Đà nghe lời ấy càng thêm lo buồn.
Đức Thế Tôn biết
tâm niệm của
Nan Đà nên đến hỏi :"Em đã thấy
địa ngục chưa ?".
Ngài
Nan Đà thưa : "Chưa thấy".
Đức Phật bảo Ngài
Nan Đà nắm chéo áo y của Phật rồi đem
Nan Đà vào trong
địa ngục.
Đức Phật đứng qua một bên bảo Ngài
Nan Đà đi xem các nơi trong
địa ngục. Ngài
Nan Đà liền đi, trước hết thấy sông tro, kế đến rừng gươm, sông phẩn. Vào trong
quan sát thấy các
chúng sanh thọ nhiều sự khổ : hoặc bị kềm rút lưỡi, bẻ răng, móc mắt, hoặc bị cưa sẻ đôi
thân thể, hoặc bị búa chặt rời tay chưn, hoặc bị mâu
xuyên qua thân, hoặc roi đánh, xóc đâm, hoặc bị chùy sắt đập nát, hoặc bị rót nước đồng vào miệng, hoặc bị ném lên cây gươm núi dao, hoặc bị chày giã đá xay, hoặc ôm cột đồng nằm giường sắt cháy đỏ, lại thấy vạc sắt đốt lửa lớn dầu nước sôi trào nấu các
hữu tình, lại thấy một
vạc dầu nước sôi sục mà không có ai bị nấu trong ấy.
Ngài
Nan Đà hỏi
duyên cớ.
Ngục tốt giải đáp rằng : "Em trai
đức Phật là
Nan Đà chỉ nguyện muốn
sanh thiên mà tu
phạm hạnh, rồi đây ông sẽ được sanh
cõi trời tạm hưởng khoái lạc, khi thân trời
mạng chung sẽ phải vào
vạc dầu sôi này, nên tôi chụm lửa chờ ông ấy".
Nghe
ngục tốt nói, Ngài
Nan Đà rất kinh sợ rởn ốc dựng lông mồ hôi lạnh tuôn ra, tự nghĩ rằng nếu nó
biết mình là
Nan Đà có thể nó sẽ lấy chĩa xom mình bỏ vào vạc để nấu. Ngài
Nan Đà vội vã chạy gấp về chỗ
đức Phật.
Đức Phật hỏi : "Em đã thấy
địa ngục chăng".
Ngài
Nan Đà buồn khóc rơi nước mắt nghẹn ngào nói nhỏ thưa rằng : "Tôi đã được thấy".
Đức Phật hỏi : "Em đã thấy những gì ?".
Ngài
Nan Đà đem tất cả những sự đã thấy thuật trình
đức Phật.
Đức Phật phán : "Nếu nguyện nhơn gian, hoặc cầu
thiên thượng thì có những
lỗi lầm như vậy. Nay em phải cầu
Niết bàn mà tu
phạm hạnh, chớ thích
cõi trời mà gây sự khổ về sau.".
Ngài
Nan Đà nghe
đức Phật dạy như vậy, trong lòng rất
hổ thẹn cúi đầu nín lặng.
Đức Thế Tôn liền dắt Ngài
Nan Đà cùng ra khỏi
địa ngục về đến rừng
Thệ Đa bảo Ngài
Nan Đà và chư
Tỳ Kheo rằng : "Trong tâm có ba thứ cấu dơ là
dâm dục, giận thù và
ngu si rất đáng được
vứt bỏ, phải nên xa rời, các ông phải tu học".
Đức Thế Tôn ở rừng
Thệ Đa không bao lâu, vì muốn
tùy duyên giáo hóa chúng sanh nên cùng
đồ chúng qua nước
Chiêm Ba ở bên ao Yết Già.
Ngài
Nan Đà cùng năm trăm
Tỳ Kheo cũng
đi theo đức Phật. Các Ngài đến chỗ
đức Phật đảnh lễ chưn Phật rồi ngồi qua một phía.
Đức Phật thấy
đại chúng ngồi xong bảo ngài
Nan Đà rằng : "Phật có
pháp yếu sơ trung hậu đều thiện, văn nghĩa khéo hay thuần nhứt
viên mãn phạm hạnh thanh bạch. Đó là kinh Nhập Mẫu Thai. Ông phải lắng nghe kỹ khéo
suy nghĩ, nay Phật sẽ vì ông mà nói kinh ấy".
Ngài
Nan Đà thưa : "Vâng,
bạch đức Thế Tôn. Xin muốn được nghe".
Đức Phật nói :"Dầu có thai mẹ mà có nhập và chẳng nhập. Thế nào là thọ sanh nhập vào trong thai mẹ ?
Nếu
cha mẹ nhiễm tâm cùng làm dâm ái, bụng mẹ sạch sẽ, nguyệt kỳ điều hòa đến
thời kỳ và
trung ấm hiện tiền, như
vậy thì nhập thai mẹ.
Trung ấm ấy có hai thứ hình : một là dung sắc
xinh đẹp, hai là
dung mạo xấu xí.
Trung ấm địa ngục có
dung mạo như cây gỗ cháy trụi.
Trung ấm bàng sanh có màu như khói.
Trung ấm ngạ quỉ có màu như nước.
Trung ấm trời hay người có màu như
hoàng kim.
Trung ấm cõi sắc thì
hình sắc trắng láng.
Trời vô sắc không có
thân trung ấm vì không có
sắc thân vậy.
Trung ấm của
hữu tình hoặc có hai tay hai chưn, hoặc nhiều chưn bốn chưn không chưn,
tùy theo nghiệp ngày trước đáng phải
thác sanh chỗ nào thì cảm
thân trung ấm như
thân hình ấy.
Nếu là
trung ấm trời thì đầu hướng lên trên,
trung ấm người
bàng sanh và quỉ thì đi ngang,
trung ấm địa ngục thì đầu trút xuống.
Phàm thân trung ấm thì đều có
thần thông đi trong
hư không, như
thiên nhãn ở xa thấy chỗ thọ sanh.
Nói nguyệt kỳ đến
thời kỳ là nói
thời kỳ nạp thai.
Nầy
Nan Đà ! Hoặc có nữ nhơn
trải qua ba ngày, hoặc năm ngày, nửa tháng, một tháng, hoặc có chờ duyên
trải qua lâu nguyệt kỳ mới đến. Nếu có nữ nhơn thân không oai thế thọ nhiều tân khổ
hình dung xấu xí không
ăn uống tốt, nguyệt kỳ dầu đến mà mau dứt ; dường như đất khô khi rước nước dễ khô. Nếu có nữ nhơn thân có oai
thế thường thọ
an lạc nghi dung đoan chánh được
ăn uống tốt, có nguyệt kỳ đến chẳng mau dứt, dường như đất nhuần khi rưới nước thì khó khô.
Thế nào là chẳng
nhập thai mẹ ?
Lúc cha xuất tinh thì mẹ chẳng xuất, lúc mẹ xuất tinh thì cha chẳng xuất, hoặc đều chẳng xuất, đều chẳng thọ thai.
Nếu mẹ
bất tịnh mà cha tịnh, hoặc cha
bất tịnh mà mẹ tịnh, hoặc đều
bất tịnh cũng đều chẳng thọ thai.
Nếu chỗ âm của mẹ có bịnh phong, bịnh hoàng, bịnh đàm, hoặc có huyết khí thai kiết, hoặc bị thịt tăng, hoặc bị uống thuốc, hoặc bị bịnh lúa mạch, bịnh eo lưng kiến, hoặc sản môn như miệng lạc đà, hoặc trong ấy như cây nhiều rễ, như đầu cầy , như càng xe, như dây leo, như lá cây, như tua lúa mạch, hoặc bụng dưới sâu, hoặc trên sâu, hoặc chẳng phải đồ thọ thai, hoặc máu thường xuất, hoặc thường chảy nước, hoặc như mỏ quạ, hoặc mở mà chẳng hiệp, hoặc trên dưới bốn bên rộng hẹp chẳng đồng, hoặc cao hạ lõm lồi, hoặc bên trong có trùng ăn thúi hư
bất tịnh. Nếu mẹ có những lỗi ấy thì chẳng thọ thai.
Hoặc
cha mẹ tôn quí mà
trung ấm ti tiện, hoặc
trung ấm tôn quí mà
cha mẹ ti tiện cũng chẳng thành thai.
Nếu
cha mẹ và
trung ấm đều
tôn quí mà nghiệp chẳng hòa hiệp cũng chẳng thành thai .
Nếu ở nơi cảnh trước mà
trung ấm không có
nam nữ hai thứ ái niệm cũng chẳng thọ thai.
Nầy
Nan Đà ! Thế nào là
trung ấm được vào thai mẹ ?
Nếu bụng mẹ tịnh,
trung ấm hiện tiền thấy làm việc dục, không có những lỗi như trên,
cha mẹ và con có nghiệp tương cảm mới nhập vào thai mẹ.
Lại lúc
trung ấm sắp
nhập thai tâm liền
điên đảo . Nếu là nam thì với mẹ sanh yêu với cha sanh ghét. Nếu là nữ thì cha sanh yêu với mẹ sanh ghét. Đời
quá khứ vì tạo các nghiệp mà sanh
vọng tưởng có
tâm niệm hiểu
sai lầm, tưởng lạnh rét, tưởng gió lớn mưa lớn mây mù; hoặc nghe tiếng đông người
ồn ào, tưởng như vậy rồi
tùy theo nghiệp đời trước ưu hay liệt mà sanh mười thứ
vọng tưởng: Nay tôi vào nhà, tôi muốn lên lầu, tôi lên đài điện, tôi lên giường ghế, tôi vào nhà cỏ, tôi vào nhà lá, tôi vào lùm cỏ, tôi vào trong rừng, tôi vào lỗ vách, tôi vào trong rào.
Nầy Nan Đà! Lúc
trung ấm niệm tưởng như vậy liền
nhập thai mẹ. Phải biết tối sơ thọ sanh gọi là
yết la lam, là tinh cha huyết mẹ chớ chẳng phải vật khác. Do tinh huyết
cha mẹ hòa hiệp làm chỗ
sở duyên của thức nương ở nơi đó.
Ví như chất lạc bình dùi nhơn công
động chuyển mãi thì có chất tô suất sanh, khác đây thì chất tô chẳng sanh. Phải biết
cha mẹ tinh huyết
bất tịnh và thân
yết la lam cũng như vậy.
Lại nầy Nan Đà! Có bốn
thí dụ, ông nên lắng nghe:
Như nương cỏ xanh mà trùng sanh ra. Cỏ chẳng phải trùng, trùng chẳng rời cỏ, nương nơi cỏ
nhơn duyên hòa hiệp thì trùng
sanh thân nó màu xanh như màu cỏ.
Cha mẹ tinh huyết và thân
yết la lam nhơn duyên hòa hiệp có
đại chủng căn sanh cũng như vậy.
Như nương phân bò mà sanh trùng. Phân chẳng phải trùng, trùng chẳng rời phân, nương phân
nhơn duyên hòa hiệp mà trùng được
sanh thân nó màu xanh. Tinh cha huyết mẹ thân
yết la lam cũng như vậy,
nhơn duyên hòa hiệp thì
đại chủng căn sanh.
Như nương táo sanh trùng, táo chẳng phải trùng, trùng chẳng rời táo, nương nơi táo
nhơn duyên hòa hiệp mà trùng được
sanh thân nó màu đỏ. Tinh cha huyết mẹ thân
yết la lam cũng như vậy,
nhơn duyên hòa hiệp thì
đại chủng căn sanh.
Như nương chất lạc sanh trùng, lạc chẳng phải trùng, trùng chẳng rời lạc, nương chất lạc
nhơn duyên hòa hiệp mà trùng được
sanh thân nó màu trắng. Tinh cha huyết mẹ thân
yết la lam cũng như vậy,
nhơn duyên hòa hiệp thì
đại chủng căn sanh.
Lại nầy Nan Đà! Nương
cha mẹ bất tịnh và
yết la lam nên
địa giới hiện tiền tánh cứng rắn,
thủy giới hiện tiền ướt nhuần,
hỏa giới hiện tiền tánh ấm nóng,
phong giới hiện tiền tánh nhẹ động.
Nầy Nan Đà! Nếu
cha mẹ bất tịnh và thân
yết la lam chỉ có
địa giới mà không
thủy giới thì khô khốc mà phân tán như tay bóc bột tro khô vậy. Nếu chỉ có
thủy giới mà không có
địa giới thì lỏng chảy như dầu như giọt nước. Do
thủy giới nên
địa giới chẳng tan, do
địa giới mà
thủy giới chẳng chảy.
Nầy Nan Đà! Thân
yết la lam có địa thủy hai giới mà không
hỏa giới thì thúi rã như ngày
mùa hạ khối thịt tươi để chỗ râm mát.
Nầy Nan Đà! Thân
yết la lam có địa
thủy hỏa giới mà không
phong giới thì chẳng
tăng trưởng quảng đại.
Đây đều do nghiệp
quá khứ làm nhơn, lại làm duyên lẫn nhau cùng
chiêu cảm nhau mà thức được sanh,
địa giới hay trì,
thủy giới hay nhiếp,
hỏa giới hay chín,
phong giới hay lớn. Như có người thợ bánh và học trò trộn nấu đường cát rồi dùng miệng thổi cho nó lớn rộng thêm mà bên trong thì rỗng trống như củ sen. Trong thân
bốn đại chủng địa thủy hỏa phong, do
nghiệp lực tăng trưởng cũng như vậy.
Nầy Nan Đà!
Cha mẹ bất tịnh có thân
yết la lam, thân ấy chẳng phải bụng mẹ, chẳng phải là nghiệp, chẳng phải nhơn chẳng phải duyên, do các thứ ấy
hòa hội mới có thai.
Như hột giống mới chẳng bị gió nắng làm tổn hư, chắc thiệt không lỗ cất chứa đúng cách, đem gieo vào ruộng tốt nhuần ướt. Do
nhơn duyên hòa hiệp như
vậy mà rễ mầm cọng nhánh lá bông trái
thứ đệ sanh trưởng.
Nầy Nan Đà! Hột giống ấy chẳng phải rời lìa các duyên hòa hiệp mà mầm cây v.v... được sanh.
Do đó mà biết rằng chẳng phải chỉ có
cha mẹ, chẳng phải chỉ có nghiệp và các duyên khác mà thai được sanh,
cần phải do tinh huyết của
cha mẹ, nghiệp và các duyên hòa hiệp mới có thai vậy.
Nầy Nan Đà! Như người sáng mắt vì cầu lửa nên đem nhựt quang châu để trong
ánh nắng rồi đặt phân bò khô lên mới có lửa phát sanh. Nương đủ các duyên hòa hiệp mới có
thai sanh cũng như vậy.
Cha mẹ bất tịnh thành
yết la lam gọi đó là sắc
thọ tưởng hành thức cũng gọi là
danh sắc. Khối uẩn
danh sắc ấy đáng
chán ghét,
thác sanh các loài nhẫn đến chút phần
sát na, Phật chẳng
tán thán. Tại sao? Vì sanh vào các loài là rất khổ,
ví như phẩn dơ, chút phần cũng hôi, sanh vào các loài chút phần cũng khổ. Năm
thủ uẩn sắc
thọ tưởng hành thức ấy đều có sanh trụ
tăng trưởng và suy hoại. Sanh tức là khổ, trụ tức là bịnh,
tăng trưởng suy hoại tức là
lão tử.
Vì lẽ ấy người trí đâu nên ở nơi biển
sanh tử mà mến ưa nằm trong thai mẹ thọ khổ lớn ấy.
Lại nầy Nan Đà! Phàm
nhập thai cứ đại số mà nói thì có ba mươi tám thất nhựt.
Thất nhựt thứ nhứt, thai ở bụng mẹ như ở trong nồi,
thân căn ý căn đồng ở một chỗ, hơi nóng đốt nấu rất
đau khổ tên là
yết la lam trạng như nước cháo hay nước lạc. Trong bảy ngày hơi nóng bên trong nấu nung,
bốn đại chủng mới phát hiện.
Thất nhựt thứ hai thai ở bụng mẹ có gió khởi lên tên là biến xúc do nghiệp trước phát sanh thổi chạm thai ấy tên là án bộ đà trạng như lạc đặc như tô đọng. Trong bảy ngày hơi nóng bên trong nấu nung
bốn đại chủng phát hiện.
Thất nhựt thứ ba thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là đao sao thổi chạm thai ấy tên là
bế thi trạng như chiếc đũa hay con trùng, trong bảy ngày
bốn đại chủng phát hiện.
Thất nhựt thứ tư thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là nội khai thổi chạm thai ấy tên là
kiện nam trạng như vỏ hài hay ôn thạch, trong bảy ngày
bốn đại chủng phát hiện.
Thất nhựt thứ năm thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là nhiếp trì thổi chạm thai ấy có năm tướng hiện đó là hai cánh hai đùi và đầu. Như
mùa xuân mưa xuống rừng cây rậm rợp nhánh lá
tăng trưởng, năm tướng nơi thai
tăng trưởng cũng như vậy.
Thất nhựt thứ sáu thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là
quảng đại thổi chạm thai ấy có bốn tướng hiện đó là hai chỏ hai gối.
Thất nhựt thứ bảy thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là triền chuyển thổi chạm thai ấy có bốn tướng hiện đó là hai tay hai chưn.
Thất nhựt thứ tám thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là
phiên chuyển thổi chạm thai ấy có hai mươi tướng hiện đó là tay chưn đều mười ngón.
Thất nhựt thứ chín thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là phân tán thổi chạm thai ấy có chín tướng hiện đó là hai mắt hai tai hai mũi miệng và hai lỗ dưới.
Thất nhựt thứ mười thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là kiên ngạnh làm cho thai cứng chắc. Lại có
gió nghiệp tên là
phổ môn làm cho thai phồng lên như trái nổi.
Thất nhựt thứ mười một thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là sơ thông làm cho thai
thông suốt chín lỗ hiện ra. Lúc mẹ đi đứng ngồi nằm làm việc gió ấy xoay chuyển hư thông lần lần khiến
chín lỗ lớn ra.
Thất nhựt thứ mười hai thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên khúc khẩu thổi hai bên thai làm đại trường và tiểu trường. Lại có
gió nghiệp tên là xuyên phát lai cho
thai sanh ra một trăm chỗ cấm.
Thất nhựt thứ mười ba thai ở bụng mẹ do sức gió trước nên biết
đói khát, lúc mẹ uống ăn có chất bổ dưỡng từ rốn vào để nuôi thân thai.
Thất thứ mười bốn thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là tuyến khẩu làm cho
thai sanh một ngàn lóng : thân trước sau
tả hữu đều sanh hai trăm năm mươi lóng .
Thất thứ mười lăm thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là
liên hoa làm cho
thai sanh hai mươi mạch hấp rút chất bổ dưỡng : thân trước sau
tả hữu đều có năm mạch nhiều thứ tên nhiều màu sắc, hoặc tên bạn tên lực tên thế, màu thì xanh vàng đỏ trắng, màu đậu, màu dầu, màu tô, màu lạc và nhiều màu khác, tướng nó
hòa nhã. Hai mươi mạch ấy, mỗi mạch đều riêng có bốn mươi mạch làm
quyến thuộc hiệp lại có tám trăm mạch hấp rút hơi : thân trước sau
tả hữu đều riêng có hai trăm. Tám trăm mạch ấy, mỗi mạch còn có một trăm đường mạch
quyến thuộc liền nhau hiệp có tám vạn : thân trước sau
tả hữu đều có hai vạn. Tám vạn mạch ấy còn có nhiều lỗ, hoặc một lỗ, hoặc hai lỗ nhẫn đến bảy lỗ, mỗi lỗ liền với lỗ lông. Như rễ sen có nhiều lỗ thông nhau.
Thất nhựt thứ mười sáu thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là
cam lộ hành có thể làm
phương tiện an trí nơi chỗ cho hai mắt, hai tai, mũi miệng cổ họng, ngực hông, chỗ chứa đựng đồ
ăn uống, hay làm cho
hơi thở ra vào
thông suốt.
Thất nhựt thứ mười bảy thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là lông phất khẩu hay làm cho mắt tai mũi miệng v. v... nhuần ướt .
Thất nhựt thứ mười tám thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là
vô cấu làm cho sáu căn
thanh tịnh.
Thất nhựt thứ mười chín thai ở bụng mẹ
thành tựu bốn căn nhãn nhĩ tỷ và thiệt cộng với ba căn lúc tối sơ
nhập thai là
thân căn mạng căn và
ý căn.
Thất nhựt thứ hai mươi thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là
kiên cố làm cho thân thai, chưn tả sanh hai mươi lóng xương ngón chưn, chưn hữu sanh hai mươi lóng xương ngón chưn, gót có bốn, mắt cá có hai, gối có hai, vế có hai, eo có ba, sống có mười tám, sườn có hai mươi bốn. Tay tả sanh hai mươi xương ngón, tay hữu sanh hai mươi xương ngón, cánh có bốn, bắp có hai, ngực có bảy, vai có bảy, cổ có bốn, hàm có hai, răng có ba mươi hai, sọ đầu có bốn. Trong đây trừ xương nhỏ thì xương lớn có hai trăm.
Thất nhựt thứ hai mươi mốt thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là
sanh khởi hay làm cho trên thân
thai sanh thịt.
Thất nhựt thứ hai mươi hai thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là phù lưu hay làm cho thân
thai sanh huyết.
Thất nhựt thứ hai mươi ba thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là tịnh trì hay làm cho thân
thai sanh da.
Thất nhựt thứ hai mươi bốn thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là tư mạn hay làm cho da sáng bóng.
Thất nhựt thứ hai mươi lăm thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là trì thành hay làm cho máu thịt tư nhuận.
Thất nhựt thứ hai mươi sáu thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là sanh thành hay sanh tóc lông móng cùng các mạch liền nhau.
Thất nhựt thứ hai mươi bảy thai ở bụng mẹ có gió tên là khúc thược hay làm cho tóc lông móng đều
thành tựu.
Nầy
Nan Đà ! Nếu đứa con đời trước tạo nhiều ác tham gian
bỏn xẻn bất hiếu
bất hòa, nay sanh nhơn gian được
quả báo chẳng
vừa ý. Nếu đời cho cao là đẹp thì thân nó lùn, nếu cho thấp là đẹp thì thân nó cao, thô tế ít nhiều gầy mập cận ly khiếp dũng trắng đen v. v... đều ngược sở hảo của người đời. Lại còn do
nghiệp ác nó cảm lấy
ác báo như đui điếc câm ngọng ngu đần
xấu xí, giọng nói người ghét, tay chưn cong què, hình như
ngạ quỉ thân thuộc còn ghét chẳng muốn nhìn huống là người khác,
ba nghiệp đối với người nói điều gì, người chẳng tin nhận chẳng
để ý. Tại sao ? Vì đời trước nó tạo
nghiệp ác nên nay được báo ác như vậy.
Nầy
Nan Đà ! Nếu đứa con ấy đời trước tạo nghiệp phước
bố thí chẳng tham gian cứu giúp người nghèo thiếu làm nhiều
nghiệp lành hiếu thảo thuận hòa, thì nay cảm báo lành sanh trong nhơn gian được
quả báo vừa ý, cao thấp thô tế nhiều ít mập gầy dũng khiếp v.v... điều hiệp
sở thích người đời, sáu căn tròn đủ
đoan chính đẹp xinh, giọng nói người ưa,
ba nghiệp trình bày người đều tin nhận kính nhớ để lòng. Tại sao ? Do đời trước nó tạo
nghiệp lành nên được báo tốt như vậy.
Nầy
Nan Đà ! Nếu thai là nam, ở bên hông hữu của mẹ ngồi bẹp hai tay bụm mặt hướng sống lưng mẹ mà ở yên. Nếu thai là nữ, ở bên hông tả ngồi bẹp hai tay bụm mặt hướng bụng mẹ mà ở yên. Nó ngồi dưới sanh tạng trên thục tạng, vật sống đè xuống, vật chín đâm lên, như trói năm chỗ cắm tại đầu cây nhọn. Lúc mẹ ăn nhiều hay ăn ít đều bị
đau khổ, hoặc ăn quá lỏng, quá khô, quá lạnh, quá nóng, quá mặn, quá đắng, quá cay, quá chua, quá ngọt đứa con đều
đau khổ cả. Hoặc mẹ hành dục, hoặc đi gấp chạy mau, ngồi lâu nằm lâu, hay
nhảy nhót thảy đều bị khổ.
Nầy
Nan Đà ! Phải biết lúc ở thai mẹ có nhiều thứ khổ đau
bức bách đức con chẳng thể kể hết. Ở trong
loài người còn khổ đến thế huống là các
ác đạo, ai là người có trí mà lại
ưa thích lấy thân tai ách trong biển khổ
sanh tử.
Thất nhựt thứ hai mươi tám thai ở bụng mẹ, đứa con ấy vọng sanh tám thứ
tưởng điên đảo : tưởng là ở nhà, là ngồi xe, là vườn, là lầu, là gác, là rừng cây, là giường ghế, là sông ao, mà thiệt không các thứ ấy chỉ
hư vọng phân biệt.
Thất nhựt thứ hai mươi chín thai ở bụng mẹ có
gió nghiệp tên là hoa điều hay làm thân đức con láng trắng sạch sẽ, hoặc do
nghiệp lực khiến màu đen thâm, hay xanh, hay các màu khác, hay khô khốc không tươi nhuần, ánh sáng trắng ánh sáng đen đều theo màu sắc mà phát ra.
Thất nhựt thứ ba mươi thai ở bụng mẹ có gió tên thiết khẩu làm cho tóc lông móng được sanh trưởng và nhuần sáng.
Thất nhựt thứ ba mươi mốt đến thất nhựt thứ ba mươi bốn thai ở bụng mẹ
tăng trưởng quảng đại.
Thất nhựt thứ ba mươi lăm thai ở bụng mẹ chi thể đầy đủ.
Thất nhựt thứ ba mươi sáu và ba mươi bảy thai ấy chẳng thích ở bụng mẹ.
Thất nhựt thứ ba mươi bảy thai ấy sanh ba
ý tưởng chẳng
điên đảo. Đó là
ý tưởng bất tịnh, hôi dơ và
tối tăm.
Thất nhựt thứ ba mươi tám, thai ở bụng mẹ có gió tên là
lam hoa hay làm cho thai hướng xuống giăng dài hai tay
xu hướng cửa đẻ. Kế có gió tên xu hạ thổi khiến thai trút đầu xuống hai chân đưa lên sắp ra cửa đẻ.
Nầy
Nan Đà ! Nếu đứa con ấy, đời trước nó tạo những
nghiệp ác và làm trụy thai người, do đó nên nay thai ấy tay chưn ngang lọan chẳng lay chuyển được bèn chết trong bụng mẹ. Người mẹ nhơn đó mà chịu
vô lượng thống khổ hoặc cũng phải chết.
Nầy
Nan Đà ! Nếu đứa con ấy, đời trước nó tạo phước đầu chuyển mình chẳng
tổn hại mẹ
an ổn ra ngoài không các tai ách, lúc đẻ cũng khiến người mẹ rất
đau khổ gần chết thai mới sanh ra được. Các ông nên
quan sát kỹ mà cầu
xuất ly.
Lại nầy
Nan Đà ! Nay ông đã biết ở thai khổ, lúc
sanh khổ. Ông nên biết phàm người thọ sanh rất
khổ não.
Lúc sơ sanh hoặc nam hay nữ rơi vào tay người, hoặc trên khăn, chiếu v.v... hoặc trong nắng hay chỗ râm, hoặc trên xe, hoặc nơi giường, trong lòng người, tất cả chỗ đều chịu sự
đau đớn, khổ sở. Như bò bị lột da đứng dựa vách bị kiến bu, hoặc dựa cây bị sâu cắn, dầu đứng chỗ trống bị nắng gió cũng rất
đau khổ. Trẻ sơ sanh cũng vậy lúc tắm nước nóng chịu khổ rất là bức thiết.
Sau khi được sanh, trẻ ấy uống sữa của mẹ mà lớn.
Nầy
Nan Đà ! Đã có nhiều thứ
khổ không gì đáng ưa, đâu có người trí mà lại
ái luyến sanh tử.
Sanh bảy ngày rồi, trong thân ấy có tám vạn hộ trùng ngang dọc ăn nuốt.
Có một hộ trùng tên thực phát nương tóc ăn tóc.
Có hai hộ trùng tên phục tàng và thô đầu nương đầu ăn đầu.
Có một hộ trùng tên nhiễu nhãn nương mắt ăn mắt.
Có bốn hộ trùng tên khu trục, bôn tẩu, ốc trạch và
viên mãn nương óc ăn óc.
Có một hộ trùng tên đạo diệp nương tai ăn tai.
Có một hộ trùng tên tàng khẩu nương mũi ăn mũi.
Có hai hộ trùng tên dao trịch và biến trịch nương môi ăn môi.
Có một hộ trùng tên mật diệp nương răng ăn răng.
Có một hộ trùng tên châm khẩu nương lưỡi ăn lưỡi.
Có một hộ trùng tên lợi khẩu nương cuống lười ăn cuống lưỡi.
Có một hộ trùng tên thủ viên nương nướu ăn nướu.
Có hai hộ trùng tên thủ võng và bán khuất nương bàn tay ăn bàn tay.
Có hai hộ trùng tên đoản huyền và trương huyền nương bắp tay ăn bắp tay.
Có hai hộ trùng tên cận tý và viễn tý nương cánh tay ăn cánh tay.
Có hai hộ trùng tên dục thôn và dĩ thôn nương yết hầu ăn yết hầu.
Có hai hộ trùng tên hữu oán và đại oán nương ngực ăn ngực.
Có hai hộ trùng tên loa bối và loa khẩu nương thịt
ăn thịt.
Có hai hộ trùng tên
hữu sắc và hữu lực nương máu và ăn máu.
Có hai hộ trùng tên
dũng kiện và hương khẩu nương gân ăn gân.
Có hai hộ trùng tên bất cao và hạ khẩu nương xương sống ăn xương sống.
Có hai hộ trùng đồng tên chỉ sắc nương mỡ ăn mỡ.
Có một hộ trùng tên
hoàng sắc nương hoàng ăn hoàng.
Có một hộ trùng tên chơn châu nương thận ăn thận.
Có một hộ trùng tên đại chơn châu nương eo lưng ăn eo lưng.
Có một hộ trùng tên
vị chí nương lá lách ăn lá lách.
Có bốn hộ trùng tên thủy mạng, đại thủy mạng, châm khẩu và đao khẩu nương ruột ăn ruột.
Có năm hộ trùng tên nguyệt mãn, nguyệt diện, huy diệụ huy diện và biệt trụ nương hông bên hữu ăn hông bên hữu.
Có năm hộ trùng đồng tên trên nương hông bên tả ăn hông bên tả.
Có bốn hộ trùng tên xuyên tiền, xuyên hậu, xuyên kiên và xuyên trụ nương xương ăn xương.
Có bốn hộ trùng tên đại bạch, tiểu bạch, trùng vân và xú khí nương mạch ăn mạch.
Có bốn hộ trùng tên
sư tử, bị lực, cấp tiển và
liên hoa nương sanh tạng ăn sanh tạng .
Có hai hộ trùng tên an chí và cận chí nương thục tạng ăn thục tạng.
Có bốn hộ trùng tên diêm khẩu, uẩn khẩu, võng khẩu và tước khẩu nương đường tiểu ăn nước tiểu.
Có bốn hộ trùng tên ưng tác, đại tác, tiểu hình, và tiểu thúc nương đường đại ăn phẩn.
Có hai hộ trùng tên hắc khẩu và đại khẩu nương vế ăn vế.
Có hai hộ trùng tên lại và tiểu lại nương gối ăn gối.
Có một hộ trùng tên ngu căn nương bắp chơn ăn bắp chưn.
Có một hộ trùng tên hắc hạng nương bàn chưn ăn bàn chưn.
Nầy
Nan Đà ! Thân này rất đáng chán sợ, nó
thường có tám vạn hộ trùng ngày đêm cắn ăn, vì thế mà làm cho thân nóng khổ gầy ốm mỏi mệt
đói khát.
Lại còn tâm có nhiều
khổ não lo rầu chết ngất, nhiều bịnh phát hiện, không
lương y trị lành được.
Nầy
Nan Đà ! Người trí đâu có ở trong biển
sanh tử ưa thích thân rất khổ này.
Thân ấy lại còn bị các thần bịnh bắt giữ đó là
thiên thần,
long thần,
bát bộ thần và các
quỉ thần các
ly mị bắt giữ. Hoặc bị nhựt, nguyệt,
tinh thần làm tổn. Các
quỉ thần ấy làm bịnh hoạn, bức não
thân tâm khó nói hết.
Nầy
Nan Đà ! Có ai ở
sanh tử thích vào thai mẹ để chịu nhiều
đau khổ, sanh thành như vậy,
tăng trưởng như vậy, uống máu sữa của mẹ và uống ăn vọng có
ý tưởng là ngon lần lần
trưởng thành, dầu cho được
an lạc không bịnh, áo cơm
dư thừa, sống trăm tuổi,
trong đời ấy giấc ngủ gần phân nửa.
Ban đầu làm trẻ thơ, kế làm
đồng tử, đến
trưởng thành nhiều
ưu bi hoạn nạn các bịnh hoạn đau nhức
vô lượng trăm thứ khổ
hành hạ thân ấy khó nói hết.
Các khổ trong thân bức não, lúc khó
chịu đựng thì chẳng còn muốn sống, có ý tìm chết. Thân như vậy nhiều khổ, ít vui, dầu tạm sống còn tất rồi
hoại diệt.
Nầy
Nan Đà ! Phàm sanh đều tử không thường còn. Dầu cho uống thuốc tư dưỡng
thọ mạng được kéo dài năm tuổi chung quy cũng chẳng khỏi
tử thần giết chết đưa qua đất trống.
Phải biết sanh sống không đáng vui ưa,
tư lương đời sau phải siêng chứa họp, chớ có
buông lung,
chuyên tu phạm hạnh chẳng nên lười nhác. Đối với các
gia hành : lợi hành,
pháp hành,
công đức hành, thuần
thiện hành phải thường thích
tu tập. Hằng
quan sát chính mình, lòng ghi nhớ hai nghiệp
thiện ác, chớ để sau này phải nói
ăn năn,
lúc ấy tất cả
sở hữu mến ưa đều rơi lìa mà theo nghiệp
thiện ác đi vào đời sau.
Nầy
Nan Đà !
Thọ mạng trăm năm có mười vị :
Tối sơ là
anh nhi, vị này nằm trong nôi. Thứ hai gọi là
đồng tử, làm trẻ nít chơi đùa. Thứ ba gọi là
thiếu niên thọ các
dục lạc. Thứ tư gọi là thiếu tráng
dũng kiện đa lực. Thứ năm gọi là thanh niên có trí
đàm luận. Thứ sáu gọi là
thành tựu hay khéo
tư lương giỏi làm kế sách. Thứ bảy gọi là lần suy giỏi biết pháp thức. Thứ tám gọi là hủ mại các việc
suy nhược. Thứ chín gọi là cực lão không còn làm gì được. Thứ mười gọi là trăm tuổi, là đúng vị chết.
Nầy
Nan Đà ! Khái quát những đại vị lược nói có mười vị như vậy, tính theo bốn tháng làm một mùa thì trong trăm năm có ba trăm mùa, xuân hạ và đông đều có trăm mùa. Một năm có mười hai tháng
tổng số có một ngàn hai trăm tháng. Lấy mỗi nửa tháng làm số thì có tất cả hai ngàn bốn trăm lần nửa tháng. Theo ba mùa thì đều riêng có tám trăm lần nửa tháng. Ngày đêm thì có ba vạn sáu ngàn. Một ngày ăn hai bữa thì có bảy vạn hai ngàn
bữa ăn. Dầu có sự duyên chẳng ăn cũng ở trong số ấy. Sự duyên chẳng ăn như là vì
sân hận mà chẳng ăn, vì gặp khổ mà chẳng ăn, vì cầu chẳng được, vì ngủ,
trì trai, chơi đùa mà chẳng ăn, vì sự vụ, vì bịnh mà chẳng ăn. Ăn cùng chẳng ăn cộng lại có
tổng số như trên, gồm lúc uống sữa mẹ. Mạng người trăm tuổi Phật đã nói đủ. Năm, tháng, ngày, đêm và số uống ăn các ông phải
nhàm chán.
Nầy
Nan Đà ! Thân ấy sanh thành trưởng đại có nhiều bịnh hoạn, như là những bịnh đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, răng, cổ, họng, ngực, bụng, tay, chưn, hủi, cùi,
điên cuồng, sưng thủng, ho suyễn, bịnh phong, hoàng nhiệt, đàm ấm, ngược bịnh, gân cốt đau nhức. Thân người có nhiều
bịnh khổ như vậy. Lại còn có trăm lẻ một bịnh phong, trăm lẻ một bịnh hoàng nhiệt, trăm lẻ một bịnh đàm ấm, trăm lẻ một bịnh tổng hợp, cộng là bốn trăm lẻ bốn bịnh từ nội thân phát sanh.
Nầy
Nan Đà !
Thân thể ung nhọt các bịnh họp thành không tạm thời dừng
niệm niệm chẳng ở lại,
thể chất nó là
vô thường, là khổ, là không, là
vô ngã, là pháp bại hoặi gần nơi chết mất chẳng thể
bảo tồn yêu cưng được.
Nầy
Nan Đà ! Các
chúng sanh còn có sự
thống khổ lúc sống, như là bị chặt tay, chơn, đầu, móc mắt, thẻo tai, lắt mũi, ngục tù giam cầm gông xiềng đánh đập khảo tra,
đói khát khổ sở, rét nóng mưa tuyết, muỗi mòng, kiến, rận, gió bụi,
ác thú,
độc trùng nhiều thứ bức não khổ sở
vô lượng vô biên khó kể hết được. Mà các
hữu tình thường ở giữa sự
thống khổ như vậy lại
đam mê vui thích. Bao nhiêu
dục lạc đều lấy khổ làm căn bổn, mà
hữu tình chẳng biết rời bỏ lại đi tìm cầu, ngày đêm bị nung nấu
thân tâm nhiễm não, bên trong cháy nóng không lúc nào nghỉ.
Nầy
Nan Đà ! Những
hữu tình ấy đều là bỏ khổ tìm khổ, chỉ là khổ sanh, chỉ là
khổ diệt, các hành
nhơn duyên nối nhau
phát khởi đức Như Lai biết rõ nên nói
pháp hữu tình
sanh tử. Các hành đều
vô thường chẳng phải
cứu cánh chơn thiệt, là pháp
biến hoại chẳng
bảo thủ được, phải cầu
tri túc phải rất chán sợ siêng cầu
giải thoát.
Nầy
Nan Đà ! Các loài
hữu tình trong
thiện đạo chỗ sanh
bất tịnh còn phải chịu nhiều thứ
đau khổ kể nói khó hết, huống là các
hữu tình địa ngục ngã quỉ
bàng sanh ba
ác đạo có biết bao là
thống khổ không thể chịu được.
Lại nầy
Nan Đà ! Có bốn thứ người
nhập thai mẹ :
Một là
hữu tình nhập trụ
xuất thai đều
chánh niệm.
Hai là
hữu tình nhập và trụ
chánh niệm,
xuất thai chẳng
chánh niệm.
Ba là
hữu tình nhập thai chánh niệm,
xuất thai chẳng
chánh niệm.
Bốn là
hữu tình nhập trụ và
xuất thai đều chẳng
chánh niệm.
Ai là người nhập trụ và
xuất thai đều
chánh niệm ? Như có một loại
hữu tình tánh ưa
trì giới luôn tập
hạnh lành thích làm thắng
sự tạo phước, rất giỏi
giữ gìn,
chất trực chẳng
buông lung có
trí huệ lớn, lúc
lâm chung không có gì phải
ăn năn liền thọ sanh. Đây hoặc là bậc
Dự Lưu bảy đời, hoặc là bậc Gia Gia sáu đời đến hai đời, hoặc là bậc
Nhứt Lai, hoặc là bậc Nhứt Gian
Bất Hoàn Hướng. Người ấy do trước tu
hạnh lành, lúc
lâm chung dầu có
khổ não mà tâm chẳng
tán loạn chánh niện mà chết, lại còn
chánh niệm nhập vào thai mẹ biết rõ các pháp. Phàm đã do
nghiệp thọ sanh đều từ các
nhân duyên mà được
sanh khởi, thường ở cùng chỗ với các ma.
Nầy
Nan Đà ! Phải
biết thân này luôn là hang ổ của tất cả
bất tịnh,
thể chất chẳng thường còn, là vật
ngu si dụ gạt kẻ mê. Thân này lấy xương làm
cơ quan, gân mạch liền nhau thông các lỗ huyệt, mỡ xương thịt tủy cùng ràng rịt nhau dùng da phủ lên để che sự dơ xấu đầy những
bất tịnh, tóc lông răng móng phần vị
sai biệt, vì chấp là
ngã và ngã sở nên luôn
bị bắt kéo đi chẳng được
tự tại, thường luôn ra mũi dãi mồ hôi dơ dáy, nước vàng đàm nhớt, mỡ trỉn hư rã,
thân mật gan phổi, đại trường tiểu trường phẩn tiểu đáng gớm, còn những loài trùng đầy dẫy các nơi, trên dưới các lỗ thường chảy hôi dơ, hai tạng sanh thục trùm bằng da mỏng nào khác hầm tiêu.
Nầy
Nan Đà ! Ông phải
quan sát phàm lúc ăn nuốt, răng nhai, nước miếng ngấm nuốt vào cổ họng tủy óc hòa chung chảy
tân dịch trong bụng, như chó gặm xương khô vọng cho là ngon, đồ ăn vào bụng ợ ngược trở lên lại nuốt trở vào.
Nầy
Nan Đà ! Thân nầy nguyên từ
yết la lam, án bộ đà,
bế thi v.v... các vật
bất tịnh mà được sanh trưởng,
anh nhi lưu chuyển nhẫn đến
lão tử,
luân hồi trói buộc như hố
tối tăm, như hầm thúi dơ thường
mặn lạt đắng cay ngọt chua các
thực phẩm để tư dưỡng. Lại lửa trong bụng mẹ đốt nấu
thân căn, nồi phẩn
bất tịnh thường bị nóng khổ. Lúc người mẹ đi đứng nằm ngồi như bị trói năm chỗ, như bị lửa thui khó chịu nổi, không gì ví dụ.
Nầy
Nan Đà ! Thai ấy dầu bị khổ thiết ở trong hầm phân dơ, nhưng do
lợi căn nên tâm chẳng toán loạn.
Lại có một loại
hữu tình bạc phước, thai ở bụng mẹ hoặc ngang hoặc ngược, do
nghiệp lực đời trước, hoặc mẹ
ăn uống lạnh nóng mặn cay chẳng khéo điều hòa, hoặc uống nước quá lượng, hoặc nhiều làm
dâm dục, hoặc nhiều tật bịnh, hoặc hay
sầu não, hoặc có lúc trợt té, hoặc bị đánh đập, do đó mà thân người mẹ tăng nóng, do thân mẹ nóng nên thai như bị thiêu đốt rất khổ sở, do khổ đau nên thai liền
động chuyển, do động chhuyển nên hoặc thai nằm ngang nằm úp sanh ra chẳng được. Có nữ nhơn giỏi dùng dầu tô thoa tay cho vào bụng mẹ nhẹ nhàng đưa thai về chỗ cũ. Lúc tay họ chạm vào thai thì đứa con ấy rất là
đau khổ, như trẻ nhỏ bị lóc
da thịt rồi rắc tro lên
đau khổ khó nói được.
Dầu bị khổ thống ấy nhưng vì thượng
lợi căn nên
chánh niệm chẳng tán. Thai ấy ở bụng mẹ chịu khổ như vậy.
Lúc sắp sanh,
đau khổ mà ra ngoài. Do
nghiệp phong ấy làm cho hai tay giao hiệp, gân cốt co rút rất khổ sở,
thân thể xanh bầm như sưng thũng khó chạm đến được,
đói khát bức ngặt, tim treo
nhiệt não, do
nghiệp lực nên có gió thổi xô ra. Đã được ra ngoài bị hơi gió chạm đến đau như dao cắt như đụng lửa than, tay người hay khăn chiếu đụng đến đều rất
đau đớn. Dầu bị khổ nhưng do thượng
lợi căn nên
chánh niệm chẳng
tán loạn biết
nhập thai ở thai ra ngoài đều rất khổ. Ai là người trí lại
ưa thích nhập thai mẹ.
Nầy
Nan Đà ! Ai nhập và thụ thai có
chánh niệm còn lúc
xuất thai chẳng
chánh niệm ?
Có hạng
hữu tình tánh ưa
trì giới tu tập phẩm lành thường làm thắng
sự tạo phước, tâm họ
chất trực chẳng
phóng dật có ít
trí huệ, lúc
lâm chung không
hối tiếc. Đây hoặc là bực
Dự Lưu bảy đời, hoặc bực Gia Gia sáu đời đến hai đời, hoặc bực
Nhứt Lai, hoặc bực Nhứt Gian
Bất Hoàn Hướng. Người này do trước đã tu
hạnh lành, nên dầu lúc
lâm chung các khổ bức ngặt mà tâm chẳng loạn lại còn
chánh niệm nhập vào thai mẹ biết rõ các pháp, do nghiệp sanh ra thì đều từ các
nhân duyên mà được
sanh khởi, ở bụng mẹ và lúc ra ngoài đều chịu nhiều
đau khổ, do trung
lợi căn nên
nhập thai và trụ thai có
chánh niệm mà lúc
xuất thai thì không. Ai là người trí lại thích
nhập thai mẹ.
Nầy
Nan Đà ! Ai
nhập thai có
chánh niệm mà trụ và
xuất thai thi không ?
Có hạng
hữu tình tánh ưa
trì giới tu tập phẩm lành thường làm thắng
sự tạo phước, tâm họ
chất trực chẳng
buông lung có ít
trí huệ, lúc
lâm chung không
hối tiếc. Đây hoặc là bực
Dự Lưu bảy đời, hoặc là bực Gia Gia sáu đến hai đời, hoặc là bực
Nhứt Lai hoặc là bực Nhứt Gian
Bất Hoàn Hướng. Lúc
lâm chung dầu nhiều
đau khổ mà tâm chẳng
tán loạn lại còn
chánh niệm nhập vào thai mẹ, vì là bực hạ
lợi căn nên lúc ở thai và lúc
xuất thai không
chánh niệm. Ai là người trí lại thích vào thai mẹ.Nầy
Nan Đà ! Ai nhập trụ và
xuất thai đều không
chánh niệm ?
Có các
hữu tình ưa
phá giới chẳng
tu thiện phẩm thường làm việc ác tạo
nghiệp ác, tâm chẳng
chất trực nhiều
buông lung không
trí huệ tham của bỏn xẻn tay luôn co rút chẳng thể mở giăng ban bố cho người, luôn hi vọng lòng chẳng điều thuận, kiến và hành
điên đảo, lúc
lâm chung hối hận các
nghiệp bất thiện hiện ra, đương lúc chết rất khổ sở bức thiết, làm họ
tán loạn chẳng tự nhớ biết tôi là ai từ đâu
đến nay đi chỗ nào, đây gọi là ba
thời kỳ nhập thai trụ thai và
xuất thai đều không
chánh niệm.
Nầy
Nan Đà ! Các
hữu tình ấy sanh làm người dầu có
vô lượng khổ não như vậy nhưng là chỗ tốt, trong
vô lượng kiếp khó được thân người.
Nếu sanh
cõi trời thường sợ
trụy lạc, có khổ ái
biệt ly, lúc
lâm chung,
chư Thiên bảo rằng : Nguyện ông được
thác sanh thiện đạo, đó là trời người.
Nhơn đạo khó được, xa rời các chỗ nạn chướng lại càng khó.
Những gì là
ác đạo ? Đó là
địa ngục đạo thường bị khổ thiết khó ví dụ được.
Ngạ quỉ đạo tánh nhiều
sân hận không tâm nhu nhuyến, dối gạt giết hại, lấy máu nhuộm tay không có
tình thương hình dung xấu xí ai thấy cũng kinh sợ, dầu
đến gần người nhưng vì
đói khát nên luôn bị
chướng ngại.
Bàng sanh đạo
vô lượng vô biên, tạo việc
vô nghĩa, việc vô phước, việc
vô pháp,
việc bất thiện, việc không thuần chất, ăn nuốt lẫn nhau kẻ mạnh lấn kẻ yếu. Có các
bàng sanh lúc sanh lúc sống lúc chết đều ở trong chỗ
bất tịnh phẩn dơ hôi thúi
tối tăm. Hoặc có loại tạm ra ánh sáng như ong bướm muỗi ruồi kiến mối rận rệp.
Ngoài ra có
vô lượng vô biên giống sanh trưởng thường
tối tăm. Do vì
chúng nó ở đời trước là kẻ
ngu si chẳng nghe
kinh pháp,
phóng túng nơi
ngũ dục tạo
nghiệp ác nên sanh trong các loài thọ lấy khổ ngu mê tăm tối.
Nầy
Nan Đà ! Lại có
vô lượng vô biên bàng sanh hữu tình nghe mùi phẩn dãi liền chạy đến lấy đó làm món
ăn uống, đó là các giống heo dê chó gà chồn kên quạ ruồi nhặng bọ hung,
chúng nó do
nghiệp ác đời trước mà tự cảm lất báo ấy.
Nầy
Nan Đà ! Lại có
vô lượng vô biên bàng sanh hữu tình sanh và sống đều ở trong nước như thủy tộc cá tôm v.v...,
chúng nó do
nghiệp ác đời trước mà tự cảm lấy báo ấy.
Nầy
Nan Đà ! Lại có
vô lượng vô biên bàng sanh hữu tình thường lấy cỏ cây và các thứ
bất tịnh làm món
ăn uống, như voi ngựa trâu bò đà lừa,
chúng nó do
nghiệp ác đời trước mà
thọ báo ấy.
Nầy
Nan Đà ! Biển khổ
sanh tử rất khổ rất khổ, lửa nóng đốt cháy, không một
hữu tình nào là chẳng bị thiêu đốt. Các
hữu tình ấy
do nơi ngọn lửa phừng mạnh nhãn nhĩ tỷ
thiệt thân và ý tham cầu
trần cảnh sắc thanh hương vị xúc pháp.
Thế nào gọi là ngọn lửa phừng mạnh ?
Nầy
Nan Đà ! Đó là những ngọn lửa
tham sân si, những ngọn lửa
sanh lão bịnh tử, những ngọn lửa
ưu bi khổ não độc hại thường tự đốt cháy không một ai được khỏi.
Nầy
Nan Đà ! Người
giải đãi thọ nhiều khổ sở, họ bị
phiền não vây buộc mà tạo
nghiệp ác, nên
luân hồi chẳng dứt,
sanh tử chẳng hết. Người
tinh tấn thọ nhiều
an lạc,
phát tâm dũng mãnh dứt
trừ phiền não,
tu tập pháp lành chẳng bỏ
việc thiện không lúc nào thôi nghỉ.
Các ông phải
quan sát thân thể này
da thịt gân xương máu mạch tủy não sẽ tan rã chẳng lâu, thường phải
nhứt tâm chớ để
giải đãi, người chưa
chứng đắc phải siêng cầu
chứng ngộ. Các ông
cần phải học tập như vậy.
Nầt
Nan Đà ! Phật chẳng cùng
thế gian làm những
tranh luận, nhưng
thế gian đối với phật lại cưỡng làm
tranh luận. Tại sao ?
Vì những người biết rõ các pháp chẳng
tranh luận với ai, đã rời lìa
ngã và ngã sở thì còn ai
tranh luận với ai.
Do vì
thế gian không thấy hiểu mà vọng
phát khởi chấp trước, nên Phật chứng
Đẳng Chánh Giác tuyên lời rằng Phật ở nơi các
pháp không gì chẳng biết rõ.
Nầy
Nan Đà ! Phật nói có sai dị chăng ?
-
Bạch đức Thế Tôn !
Đức Phật nói không sai dị.
- Nầy
Nan Đà !
Lành thay, tốt thay !
Như Lai nói quyết không sai dị.
Như Lai là đấng chơn ngữ, đấng thiệt ngữ, đấng
như ngữ, đấng bất dị ngữ, là người muốn tất cả
thế gian mãi mãi an vui được
thắng lợi lớn, là người biết đạo, là người hiểu đạo, người
thuyết đạo, người khai đạo, là
Đại đạo sư,
Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn.
Người
thế gian vô tri vô tín, thường làm
nô bộc cho các căn, chỉ thấy trong bàn tay mà chẳng nhìn lợi lớn chơn thiệt, việc dễ chẳng tu, việc khó lại luôn làm.
Nầy
Nan Đà ! Thôi đi.
Cảnh giới trí huệ như đây, nay ông phải dùng
nhục nhãn để
quan sát những thứ ấy được. Biết những thứ được thấy đều là
hư vọng thì gọi là
giải thoát.
Nầy
Nan Đà ! Ông chớ tin Phật, chớ theo chỗ muốn của Phật, chớ
y lời của Phật, chớ
xem tướng Phật, chớ theo chỗ thấy hiểu của
Sa Môn, chớ phát sanh
cung kính đối với
Sa Môn, chớ nói
Sa Môn Kiều Đàm là
đại sư của tôi, mà ông chỉ nên ở nơi pháp được
tự chứng của Phật riêng tại chỗ
tịch tĩnh suy lường
quan sát thường siêng
tu tập,
tùy theo pháp đã được
dụng tâm quan sát, liền theo pháp ấy
quán tưởng cho
thành tựu,
chánh niệm ở yên nơi đó, tụ làm cồn bãi, tụ làm nương về, pháp là cồn bãi là chỗ nương về, không có cồn bãi nào khác, không có chỗ về nào khác.
Nầy
Nan Đà ! Thế nào là
Tỳ Kheo tự mình làm cồn bãi chỗ về ?
Nầy
Nan Đà ! Nếu có
Tỳ Kheo theo nội thân của mình
quan sát siêng gắng nhiếp niệm được chánh
hiểu rõ, đối với
thế gian có bao nhiêu giận não thường
suy xét điều phục, đây gọi là theo nội thân
quan sát là khổ. Nếu
quan sát ngoại thân và
nội ngoại thân cũng như vậy.
Nầy
Nan Đà ! Ông ở nơi
tập pháp quan sát nơi thân rồi an trụ nơi đó,
quan sát nơi diệt rồi an trụ nơi đó. Lại ở nơi tập và diệt hai pháp
quan sát nơi thân rồi lại an trụ nơi đó. Tức ở thân nầy hay thành
chánh niệm. Hoặc chỉ có trí, hoặc chỉ có kiến, hoặc chỉ có niệm, hoặc không y tựa mà an trụ, đối với
thế gian nầy biết là không lấy được. Đây gọi là
Tỳ Kheo ở nơi tự nội thân theo nội thân
quan sát mà an trụ nơi đó,
quan sát ngoại thân và
nội ngoại thân cũng vậy.
Kế
quan sát nội thọ, ngoại thọ,
nội ngoại thọ mà an trụ nơi đó. Kế
quan sát nội tâm, ngoại tâm,
nội ngoại tâm mà an trụ nơi đó. Kế
quan sát nội pháp,
ngoại pháp,
nội ngoại pháp rồi an trụ nơi đó. Siêng gắng nhiếp niệm được chánh
hiểu rõ, đối với
thế gian có bao nhiêu giận não đều thường
suy xét điều phục,
quan sát tập pháp rồi an trụ,
quan sát diệt pháp rồi an trụ, lại
quan sát tập diệt hai pháp rồi an trụ. Tức ở nơi thân nầy hay thành
chánh niệm, hoặc chỉ có trí, hoặc chỉ có kiến, hoặc chỉ có niệm, với các
thế gian nầy biết không lấy được.
Đây gọi là
Tỳ Kheo tự làm cồn bãi chỗ về nương, pháp làm cồn bãi chỗ về nương, không có cồn bãi chỗ về nương nào khác.
Nầy
Nan Đà ! Nếu có
trượng phu bẩm tánh
chất trực không siểm cuống, lúc sáng sớm đến chỗ Phật, Phật đem pháp lành
tùy cơ chỉ dạy. Người ấy đến chiều tự trình bày sở đắc. Hoặc chiều chỉ dạy đến sáng trình bầy sở đắc.
Nầy
Nan Đà ! Pháp lành của
Phật hiện được
chứng ngộ hay trừ
nhiệt não khéo
ứng thời cơ dễ làm
phương tiện, là
pháp tự giác khéo hay
che chở. Người đối trước
Phật thân nghe Phật nói
pháp thuận với
tịch diệt Niết bàn hay đến
Bồ đề Chánh giác, đây là chỗ biết của Phật. Vì thế nên nay ông thấy các
pháp tự lợi ,
lợi tha hoặc tự tha đều lợi phải thường
tu học. Với pháp
xuất gia nên
cẩn thận thật hành chớ để luống qua. Như vậy sẽ được
thắng quả vô vi an lạc đáng được thọ
cúng dường, làm cho các
thí chủ được phước lợi lớn được
quả báo rất tốt
tôn quí quảng đại. Các ông phải nên
tu học như vậy.
Lại nầy
Nan Đà ! Chưa có một
sắc pháp nào là đáng được mến ưa và có thể về sau chẳng
biến hoại. Chưa có
sắc pháp nào chẳng
phát khởi ưu bi chẳng sanh
phiền não.
Nầy
Nan Đà ! Sắc ấy là
thường hay vô thường ?
- Bạch
Thế Tôn ! Thể nó là
vô thường.
- Nầy
Nan Đà ! Đã là
vô thường thì nó là khổ chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Là khổ.
- Này
Nan Đà ! Đã là
vô thường là khổ tức là pháp
biến hoại. Các
đệ tử đa văn của Phật có cho sắc là ngã, ngã có sắc, sắc thuộc ngã, ngã ở tại trong sắc chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Không cho như vậy.
- Nầy
Nan Đà ! Thọ tưởng hành và thức là
thường hay vô thường ?
- Bạch
Thế Tôn ! Là
vô thường.
- Nầy
Nan Đà ! Đã là
vô thường thì
thọ tưởng hành thức có là khổ chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Đều là khổ.
- Nầy
Nan Đà ! Đã là
vô thường khổ tức là pháp
biến hoại. Các
đệ tử đa văn của Phật có cho rằng thọ v. v... là ngã, ngã có thọ v.v... , thọ v.v... thuộc ngã, ngã ở trong thọ v.v... chăng ?
- Bạch
Thế Tôn ! Đều không cho như vậy.
- Nầy
Nan Đà ! Do đó mà biết rằng phàm là sắc, hoặc
quá khứ. Hoặc
vị lai, hoặc
hiện tại, hoặc nội, hoặc ngoại, hoặc thô, hoặc tế, hoặc thắng, hoặc liệt, hoặc cận, hoặc viễn, tất cả sắc đều chẳng phải ngã, ngã chẳng có sắc, sắc chẳng thuộc ngã, ngã chẳng ở trong sắc. Phải dùng
chánh niệm chánh huệ mà
quan sát vậy. Với thọ tưởng hành và thức cũng dùng
chánh niệm chánh huệ mà
quan sát như vậy. Nếu
đệ tử đa văn của Phật
quan sát như vậy, chán sợ nơi sắc, chán sợ
thọ tưởng hành thức. Đã chán sợ thì không
nhiễm trước liền
được giải thoát. Đã
giải thoát rồi tự
biết mình giải thoát mà tuyên lời rằng sự sanh của tôi đã hết,
phạm hạnh đã lập,
việc làm đã xong chẳng còn thọ thân sau".
Phật nói pháp ấy xong,
Cụ thọ Nan Đà xa trần rời cấu được
pháp nhãn thanh tịnh, năm trăm
Tỳ Kheo ở nơi
hữu lậu tâm
được giải thoát.
Đức Thế Tôn lại nói kệ bảo
Nan Đà rằng :
"Nầy người không
chánh địnhThì không trí
thanh tịnhChẳng dứt được
phiền nãoNên ông phải siêng tu
Ông thường tu
diệu quánBiết các uẩn
sanh diệtThanh tịnh nếu
viên mãnChư Thiên đều vui đẹp
Cùng bạn bè giao hoan
Qua lại ái niệm nhau
Tham danh say mê lợi
Nan Đà ! Ông phải bỏ
Chớ thân cận
tại giaVới những người
xuất giaNhớ vượt biển
sanh tửCùng tận bờ mé khổ
Trước từ
yết la lamKế thành bóng thịt nhão
Bóng thịt thành
bế thiBế thi thành
kiện namKiện nam tạm
chuyển biếnSanh đầu và
tứ chiCác xương họp
thành thânĐều từ nghiệp mà có
Xương đầu hiệp chín miếng
Hàm có hai xương liền
Răng có ba mươi hai
Chưn răng cũng như vậy
Lỗ tai và xương cổ
Xương nướu và sống mũi
Ngực hông cùng yết hầu
Tổng có hai mươi xương
Khuôn mắt có bốn xương
Hai vai cũng hai cặp
Hai cánh cùng đầu ngón
Tổng có năm mươi xương
Sau cổ có tám xương
Xương sống ba mươi hai
Tất cả có căn bổn
Số ấy cũng bốn phần
Xương sườn bên hông hữu
Liền nhau có mười ba
Hông tả liền nhau sanh
Cũng có mười ba xương
Những cốt tỏa như vậy
Ba ba liền nối nhau
Hai hai móc kéo nhau
Ngoài ra chẳng nối nhau
Hai đùi chưn
tả hữuHiệp có năm mươi xương
Tổng ba trăm mười sáu
Chống đứng cho thân thịt
Lóng xương móc nối nhau
Hiệp thành xương
chúng sanhĐấng thiệt ngữ ghi nói
Chỗ biết của
Chánh giácTừ chưn đến nơi đầu
Hôi dơ chẳng bền chắc
Do đây cọng
thành thânMỏng manh như nhà cỏ
Không ngọn chỉ xương đứng
Máu thịt tô đắp khắp
Đồng
người gỗ cơ quanCũng như tượng
huyễn hóaNên
quan sát thân này
Gân mạch lại vấn quanh
Da ướt gói bọc nhau
Chín chỗ có miệng ghẻ
Khắp nơi thường chảy tràn
Phẩn đái các
bất tịnhVí như kho cùng thúng
Đựng những lúc bắp thảy
Thân nầy cũng như vậy
Hôi dơ đầy trong ấy
Vận động cơ quan xương
Mỏng manh chẳng bền chắc
Kẻ ngu thường
ưa thíchNgười trí không
nhiễm trướcThường chảy mũi dãi dơ
Mủ máu luôn đầy dẫy
Mỡ vàng lộn nước sữa
Óc đầy trong sọ đầu
Ngực ức đàm ấm chảy
Trong có tạng sanh thục
Mỡ nhớt và da màn
Năm tạng những ruột dạ
Các thứ hôi rã ấy
Những dơ dáy đồng ở
Thân tội sâu
đáng sợĐây tức là
oan giaNgười
vô thức đam mêNgu si thường
bảo hộThân hôi dơ như vậy
Dường như thành quách mục
Ngày đêm bị
phiền nãoTrôi dời không tạm dừng
Thân : thành, xương : tường vách
Máu thịt làm bùn tô
Vẽ màu
tham sân siTheo chỗ mà trang sức
Đáng gớm
thành thân xương
Máu thịt
liên hiệp nhau
Thường bị
ác tri thứcKhổ trong ngoài đốt nhau
Nan Đà ! Ông phải biết
Những lời Phật đã nói
Ngày đêm thường nhiếp niệm
Chớ nghĩ đến cảnh dục
Nếu người muốn
xa lìaThường
quan sát như vậy
Siêng cầu chỗ
giải thoátMau khỏi biển sanh tử".
Đức Thế Tôn nói kinh
Nhập Thai nầy rồi,
Cụ thọ Nan Đà và năm trăm
Tỳ Kheo đều rất
vui mừng tín thọ phụng hành.
Tỳ Kheo Nan Đà vượt khỏi biển
sanh tử hiểm nạn đến
Niết bàn cứu cánh an ổn được quả
A La Hán nói kệ tự mừng rằng :
"Kính tâm dưng nước tắm
Nước sạch và hương thoa
Cùng tu những
ruộng phướcĐược
báo thù thắng nầy".
Đại chúng nghe lời kệ ấy đều
nghi ngờ, vì muốn hết nghi nên bạch
đức Phật rằng : "Tỳ Kheo
Nan Đà trước tạo nghiệp gì mà được thân màu
hoàng kim đủ ba mươi tướng
trang nghiêm, trông với thân
Thế Tôn chỉ kém có bốn ngón. Với cảnh
dục lạc, ông ấy rất
nhiễm trước. Nhờ
đức Phật xót thương cưỡng vớt ra khỏi biển
sanh tử đặt ông ấy nơi
cứu cánh Niết bàn. Mong
đức Thế Tôn giải thích cho".
Đức Phật bảo
đại chúng rằng : "Tỳ Kheo
Nan Đà đời trước tạo nghiệp nay
quả báo thành thục đều được phát hiện".
Đức Phật liền nói kệ rằng :
"Giả sử trải trăm kiếp
Nghiệp đã tạo chẳng mất
Lúc
nhơn duyên hội ngộ
Lại tự thọ
quả báo.
Các ông nên lắng nghe đây. Thuở
quá khứ chín mươi mốt kiếp, người thọ tám vạn tuổi, có Phật
xuất thế hiệu là
Tỳ Bà Thi Như lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư,
Phật Thế Tôn, cùng sáu vạn hai ngàn
Tỳ Kheo du hành nhơn gian đến
thành Thân Huệ chỗ nhà vua đóng đô.
Đức Phật ấy đến ở tại rừng Thân Huệ.
Đức Phật ấy có em trai khác mẹ rất
say đắm cảnh
dục lạc. Đức
Tỳ Bà Thi Phật khuyên em
xuất gia ra khỏi biển
sanh tử phương tiện đặt tại
cứu cánh Niết bàn.
Nhà vua lúc bấy giờ tên là
Hữu Thân dùng pháp trị nước, nhơn gian đông giầu no đủ
an ổn. Vua có em trai khác mẹ rất say mê dâm nhiễm. Vua nghe
đức Phật và
đại chúng đến ở rừng Thân Huệ, bèn đem các Vương Tử thị
thần cung nữ nhơn dân đến chỗ
đức Phật,
đảnh lễ chưn Phật rồi ngồi một phía.
Đức
Tỳ Bà Thi Phật vì vua và
đại chúng tuyên dương diệu pháp chỉ dạy cho họ được
lợi ích vui mừng được sự
hiểu biết thù thắng.
Em trai vua say mê
sắc dục chẳng chịu ra khỏi cửa. Các con đại thần và các
tri hữu đến bảo rằng :
Thiện hữu có biết chăng ? Nay nhà Vua và Vương Tử cùng
nội cung đại thần nhơn chúng đến chỗ đức
Tỳ Bà Thi Phật lễ kính nghe pháp được sự
hiểu biết thù thắng.
Thân người khó được, Ngài đã được, sao nay Ngài vẫn
say đắm dâm dục chẳng chịu ra khỏi cửa. Nghe các bạn trách, em vua
hổ thẹn,
miễn cưỡng đi theo,
Tỳ Kheo em trai
đức Phật gặp hỏi, họ thuật
cớ sự.
Tỳ kheo ấy nói tôi là em trai
đức Phật, ngày trước ở nhà say mê cảnh dục, may được
đức Phật cưỡng dắt
xuất gia an ổn đến
cứu cánh Niết bàn. Nay còn có hạng người
ngu si giống như tôi. Các Ngài
từ bi cưỡng dắt đồng đi thiệt là
việc lành rất lớn. Đến chỗ
đức Phật tất sẽ tin sâu.
Nhóm người ấy đến chỗ
đức Phật. Đức
Tỳ Bà Thi Như Lai quan sát các
căn tánh dục mà vì họ
thuyết pháp. Em vua
nghe pháp rồi
phát khởi lòng tin sâu
lễ Phật bạch rằng : Mong
Thế Tôn cùng
Thánh chúng sáng mai đến nhà tôi vào
ôn thất tắm gội.
Đức Phật yên lặng nhận.
Em trai vua biết
đức Phật đã nhận lời, liền lễ chưn Phật, về đến chỗ vua thưa rằng : tôi đến chỗ Phật
nghe pháp sanh
lòng tin, với cảnh
dâm dục sanh lòng chán lìa. Tôi
phụng thỉnh Phật và Tăng sáng mai đến nhà tôi vào
ôn thất tắm gội.
Đức Như Lai Đại Sư đã
từ bi nhận lời.
Đức Phật là chỗ mà trời và người đều phải
cúng dường,
Đại Vương nên rưới quét đường sá,
trang nghiêm thành quách.
Nhà vua nghĩ rằng em trai ta mê say
sắc dục khó khuyên can, nay Phật
điều phục được thiệt là
hi hữu.
Đức Phật vào thành ta nên
nghiêm sức. Vua đáp rằng rất tốt. Em về lo sắm sửa các vật
cần thiết để tắm gội. Ta sẽ
tùy sức trang nghiêm thành quách. Em vua rất
vui mừng tạ từ về nhà.
Nhà vua bảo các quan nên truyền lịnh phổ cáo nhơn dân sáng ngày
Thế Tôn sẽ vào thành, nhơn dân đều nên
tùy sức trang nghiêm thành quách rưới quét đường sá, cầm các
hương hoa đón rước đức
Đại Sư.
Nhơn dân
nghe lời phổ cáo liền rưới quét
trang nghiêm khắp nơi rước nước hoa,
đốt hương thơm, treo phan lọng
rải hoa cúng dường như vườn
hoan hỉ của
Thiên Đế Thích. Em trai vua thì sắm sửa nước nóng thơm và dầu thơm,
trang nghiêm nhà tắm đặt bày ghế ngồi.
Sáng ngày, đức
Tỳ Bà Thi Phật sắp vào đến thành. Nhà vua mang
đại chúng ra tiếp nghinh lễ chưn Phật rồi
theo sau Phật vào thành.
Em trai vua tiếp
đức Thế Tôn vào
ôn thất dưng
nước thơm để Phật tắm rửa thấy thân Phật như màu
hoàng kim ba mươi hai tướng tốt tám mươi tùy hình hảo toàn thân xinh đẹp, liền
vui mừng sanh
lòng tin sâu.
Đức Phật tắm xong mặc
y phục rồi, em trai vua
đảnh lễ chưn
Phật phát nguyện rằng : Nay tôi
may mắn gặp
phước điền tối thượng dâng lễ mọn
cúng dường, nguyện tôi
đời sau thân màu
hoàng kim như
đức Phật. Như em trai Phật
đam mê cảnh dục, được Phật cưỡng dắt ra khỏi đến chỗ
an trú cứu cánh Niết bàn. Nguyện tôi
đời sau được làm em Phật, được thân màu
hoàng kim, lúc tôi
đam mê cảnh dục được Phật cưỡng dắt ra khỏi sông sâu
ái nhiễm đến chỗ
Niết bàn an ổn.
Nầy các
Tỳ Kheo ! Em trai vua Thân Huệ
đam mê sắc dục chíng là
Nan Đà hiện nay, do ngày trước tạo nhơn lành
cúng dường Phật Tỳ Bà Thi và phát thiện nguyện nên nay được thân màu
hoàng kim vàđược Phật cưỡng dắt ra khỏi đến chỗ
an ổn cứu cánh Niết bàn".
Chư
Tỳ Kheo còn có chỗ nghi nên bạch
đức Phật do tạo nghiệp gì mà
Tỳ Kheo Nan Đà được ba mươi hai
tướng đại trượng phu ?
Đức Phật bảo chư
Tỳ Kheo : "Ông ấy tạo nghiệp rộng nói như trước. Về
quá khứ trong
tụ lạc có một
Trưởng giả giàu lớn nhiều của đồ dùng không thiếu. Có một khu vườn bông trái sum suê, suối chảy ao tắm rừng cây sầm uất, có thể làm nơi ẩn
tu hành cho người
xuất gia.
Bấy giờ có vị
Độc Giác xuất thế thương xót chúng sanh mà ở nơi nhàn tĩnh.
Thế gian không Phật chỉ có
phước điền ấy.
Có một
Độc Giác Tôn Giả du hành nhơn gian đến
tụ lạc ấy
quan sát khắp nơi đến vườn trên. Người giữ vườn thấy
Tôn Giả liền thỉnh ngơi nghỉ tại vườn. Giữa đêm
Tôn Giả nhập
hỏa quang tam muội. Người giữ vườn thấy vậy liền về báo với
Trưởng giả về sự
thù thắng hi hữu đáng
vui mừng ấy.
Trưởng giả nghe báo vội đến vườn lễ chưn
Tôn Giả bạch rằng : Ngài vì
khất thực làm
phước điền cho tôi, mong Ngài ở lại vườn nầy, tôi sẽ thường
cúng dường.
Tôn Giả thấy
ân cần liền nhận lời ở trong vườn ấy nhập
chánh định thắng diệu
giải thoát.
Tôn Giả lại nghĩ rằng thân hôi thúi này
luân hồi sanh tử, việc nên làm đã làm xong, nay tôi phải nhập
viên tịch vĩnh chứng
vô sanh. Nghĩ như vậy rồi
Tôn Giả bay lên
hư không nhập
hỏa quang định hiện các
thần biến phóng ánh sáng lớn, trên chói lửa hồng, dưới chảy nước trong. Bỏ thân ấy rồi
thần thức chẳng sanh
vĩnh viễn chứng
vô dư Niết bàn giới.
Trưởng giả thâu thi hài dùng dầu thơm để thiêu lại lấy nước sữa để tắt lửa, thâu xương tàn để trong bình mới xây tháp treo phan lọng, lòng rất kính tin, rưới ba mươi thứ
nước thơm và phát
đại nguyện cầu các
tướng hảo.
Nầy chư
Tỳ Kheo !
Trưởng giả thuở
quá khứ ấy chính là
Nan Đà hiện nay.
Do nơi nghiệp kính tin
cúng dường nên nay thọ
quả báo cảm được ba mươi tướng thắng diệu".
Đại chúng lại có chỗ nghi lại bạch
đức Phật : "Bạch
đức Thế Tôn !
Tỳ Kheo Nan Đà đã từng tạo nghiệp gì,
nếu không xuất gia bỏ
trần tục thì quyết sẽ nối ngôi
Luân Vương ?".
Đức Phật bảo các
Tỳ Kheo : "Thuở
quá khứ trong kiếp Hiền này lúc người thọ hai muôn tuổi, có Phật
Ca Diếp Ba xuất thế đủ mười
đức hiệu an trụ tại rừng Thí Lộc. Trong thành ấy có vua tên Ngật Lật Chỉ, dùng pháp trị dân làm
đại Pháp Vương, có ba Vương Tử. Việc
giáo hóa đã xong, Phật
Ca Diếp Ba nhập
đại Niết bàn. Nhà vua kính tin dùng các
gỗ thơm như
chiên đàn,
trầm thủy,
hải ngạn,
ngưu đầu, thiên
mộc hương để làm lễ
trà tỳ, rưới tắt lửa với sữa thơm, thâu
Xá lợi của Phật đựng trong bình vàng báu xây tháp bằng tứ bửu, ngang rộng đều một
do tuần, cao nửa
do tuần. Lúc đặt
tướng luân lên tháp, Vương Tử thứ hai đích thân treo lọng ở giữa.
Nầy chư
Tỳ Kheo ! Vương Tử thứ hai
thuở ấy chính là
Nan Đà vậy. Do thuở xưa ông ấy kính tâm
cúng dường treo lọng ở giữa tháp,
thiện nghiệp ấy làm cho ông hai ngàn năm trăm đời thường làm Lực
Luân Vương cai trị một châu
thiên hạ.
Trong đời nầy nếu chẳng
xuất gia,
Nan Đà lại sẽ làm Lực
Luân Vương được
đại tự tại".
Trong
đại chúng lại còn nghi bạch
đức Phật : "Bạch
đức Thế Tôn !
Tỳ Kheo Nan Đà từng tạo nghiệp gì mà nay ở trong
đệ tử Phật là người thiện hộ
căn môn đệ nhứt ?".
Đức Phật phán dạy : "Nầy chư
Tỳ Kheo ! Đây là do
nguyện lực vậy. Thuở Phật
Ca Diếp Ba, đời trước
Nan Đà xả tục
xuất gia,
thân giáo sư của ông ấy ở trong pháp của Phật
Ca Diếp Ba, thiện hộ
căn môn được xưng là
đệ nhứt. Ông ấy
trọn đời tự giữ
phạm hạnh, nhưng hiện đời ấy không
chứng ngộ. Lúc
lâm chung ông ấy phát thệ rằng : Tôi ở chỗ Phật
trọn đời giữ hạnh mà không
chứng ngộ. Tôi nguyện đem căn lành
tu hành nầy, lúc Phật
Thích Ca Mâu Ni ra đời, tôi sẽ ở trong
giáo pháp của
đức Phật ấy lìa tục
xuất gia dứt các
phiền não được quả
A La Hán.
Thân giáo sư tôi đây thiện hộ
căn môn đệ nhứt, tôi nghuyện sau nầy ở trong
giáo pháp của Phật
Thích Ca Mưu Ni tôi cũng là người thiện hộ
căn môn đệ nhứt.
Do
nguyện lực ấy nên nay đây
Nan Đà là người thiện hộ
căn môn đệ nhứt trong hàng
đệ tử Phật.
Nầy chư
Tỳ Kheo ! Nếu thuần
ác nghiệp cảm thuần
ác báo, nếu thần
thiện nghiệp cảm thuần thiện báo, nếu là
tạp nghiệp sẽ cảm tạp báo. Vì thế nên các ông phải rời lìa thuần
ác nghiệp và
tạp nghiệp mà tu thuần
thiện nghiệp. Các ông phải tu như vậy".