THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Tôn Giả Tu Bồ Đề, Đệ Nhất Giải Không (Subhoti)
Triết lý
thâm sâu của
Đức Phật về sự
hiện hữu của
vũ trụ nhân sinh thật là
bao la, đa dạng và không có
giới hạn.
Đức Phật đã dùng 22 năm
trong suốt 49 năm
hành đạo của Ngài để giảng dạy về cái
đạo lý chân không của
vũ trụ và
thuyết giảng cái
thật tướng,
vô tướng của tất cả các pháp. Từ đó
kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật được ra đời như là
trung tâm điểm để
giải thích tánh không của
vũ trụ, mà
Bát Nhã là
trí tuệ để thấu hiểu về
tánh không nầy.
Chữ “Không” rất
huyền diệu, bởi vì khi nói “Có” thì chưa phải là “có”, còn nói”Không” thì chưa chắc là “không”. Vì sự khó hiểu về chữ “Không” nên
Đức Phật đã khẳng định rằng nếu
chúng sinh muốn được
giác ngộ hoàn toàn thì phải có khả năng để
nhận biết là “Thực tướng
vô tướng và thực tánh vô tánh”. Phật dạy rằng bất cứ vật gì có
sắc tướng thì cái đó có sự lừa dối, có nghĩa là cái đó
không thật và
biến đổi theo luật
vô thường. Vậy chỉ khi nào
chúng sanh thấy rõ
vô tướng nơi các tướng thì
chúng sinh sẽ thấy được Phật, tức là được
giác ngộ rồi vậy. Cũng vì sự
huyền diệu của chữ “Không” nên
tuệ giác Bát Nhã không thể dùng
ngôn thuyết và cũng chẳng thể dùng tâm tư để
thấu triệt đạo lý đó được. Khi
Đức Phật thuyết giảng cho 1250 vị
đại A La Hán về
tính không của
vũ trụ thì chỉ có
tôn giả Tu Bồ Đề là người
duy nhất có thể
hiểu rõ ý nghĩa của chữ “Không” nầy vì
thế tôn giả mới xứng đáng với
danh hiệu là đệ nhất
giải không.
Thật ra đối với một nhân vật
phi phàm như
Tu Bồ Đề thì
tôn giả đã có những
điềm lành đặc biệt từ lúc sơ sanh. Khi Ngài vừa
chào đời thì tất cả tài bảo, dụng cụ trong nhà của
cha mẹ bỗng nhiên biến mất.
Mọi người trong nhà đều lo sợ, vội mời thầy tướng đến xem. Nhà tướng số sau khi
nghiên cứu kỹ càng
quả quyết rằng:
- Đây là một
điềm tốt vì trong nhà vừa sanh
quý tử thì tiền bạc trong nhà đều trống trơn ngay khi cậu bé
chào đời. Đó là
biểu tượng cậu bé chính là đệ nhất
giải không sau nầy.
Chúng ta nên đặt tên cho cậu bé là Không Sanh. Điều nầy rất là đại cát đại lợi và tương lai chú bé sẽ không bị
danh văn lợi dưỡng thế gian ràng buộc. Hoặc
chúng ta có thể gọi chú bé là
Thiện Cát cũng tốt lắm vậy.
Lời nói của vị thầy tướng số làm
an lòng mọi người, từ đó đứa bé được gọi là Không Sanh hay
Thiện Cát.
Đột nhiên ba ngày sau, tài bảo và dụng cụ trong nhà mới
trở lại như trước. Đây quả là chuyện
hy hữu xưa nay ít có.
Mặc dầu sanh trưởng trong
gia đình giàu có và rất được
cha mẹ cưng chiều, nhưng từ nhỏ
Tu Bồ Đề đã không
nô lệ vào tiền tài báu vật.
Cha mẹ cho đồng nào, thì cậu đem
bố thí cho những người
nghèo khổ. Lạ lùng là khi đi đường mà gặp kẻ
hành khất áo không kín thân thì cậu liền cởi áo của mình mà cho họ, chỉ mặc vỏn vẹn quần cụt về nhà.
Tuy
cha mẹ không tiếc chút ít
tiền của, nhưng với
việc làm của cậu con yêu thường không bằng lòng nên kêu lại dạy dỗ:
- Không Sanh! Con làm như vậy không được. Tiền bạc có sẵn không kể
lý do gì mà đem cho người và quần áo mặc trên người cũng cởi ra cho. Con để trần
thân thể thật khó coi.
Tu Bồ Đề ôn hòa,
cung kính thưa với
song thân:
- Con chẳng biết vì sao trong tâm lại nghĩ rằng tất cả trên
thế gian nầy rất quan hệ với con.
Thân thể mọi người cũng như thân con. Khi sanh ra đã chẳng có áo quần thì trần trụi sao lại không tốt? Đem của mình cho người thì người và con sao lại không như nhau?
Nghe
Tu Bồ Đề nói,
cha mẹ tôn giả chẳng vui tí nào:
- Con chỉ là con nít mà thật kỳ cục. Có tiền không biết xài, quần áo chẳng
quan tâm, còn
lý luận gì đâu chẳng sợ người ta
chê cười. Từ nay về sau
nếu không sửa đổi thì
cha mẹ sẽ nhốt trong nhà, không cho ra ngoài nữa.
Cha mẹ nghiêm cấm mà
Tu Bồ Đề chẳng thay đổi
tâm tánh bố thí làm lành của mình nên bị
cha mẹ giữ luôn trong nhà. Nhưng thật ra đây là điều
tốt đẹp cho
Tu Bồ Đề bởi vì nhờ không được đi ra ngoài nên mỗi ngày cậu bé tìm đọc và
nghiền ngẫm những sách vở về
triết học và
tôn giáo của
Ấn Độ đương thời. Do đó đối với
vấn đề nhân sinh cậu bé có một sự
hiểu biết rành rẽ. Cậu thường tự hào nói với
cha mẹ:
- Tất cả sum la vạn tượng trên
vũ trụ đều hiện rõ trong tâm con. Tâm con như
hư không rỗng rang chẳng có chút gì. Nếu như trên
thế gian nầy không có bậc
thánh nhân đại trí đại giác thì ai có
đủ tư cách để
bàn luận với con về
tâm cảnh của người
giải thoát. Ai cũng không rõ được
thế giới trong tâm con.
Lời nói tự đắc của chàng thanh niên
Tu Bồ Đề làm
cha mẹ liên tưởng đến việc kỳ lạ khi cậu mới sanh mà trong lòng thầm nghĩ con mình thật là lạ đời bởi vì người khác thường thì
lời nói cũng kỳ lạ.
Quy Y Theo Phật
Một ngày nọ, trên đường hoằng dương
đạo pháp,
Đức Thế Tôn đến quê hương của
Tu Bồ Đề. Dân chúng trong làng xôn xao
bàn tán Phật Đà là bậc
nhất thiết trí mà trên
thế gian nầy không ai có thể
sánh bằng.
Đặc biệt là chính
cha mẹ Tu Bồ Đề cũng theo dân làng
quy y với Phật mà
gia đình của
Tu Bồ Đề chỉ có một
truyền thống là
tín ngưỡng Bà La Môn. Điều nầy làm cho
Tu Bồ Đề thắc mắc không ít vì từ xưa tới giờ
cha mẹ Tu Bồ Đề làm việc gì cũng tính toán
cẩn thận thì tại sao hôm nay họ lại hồ đồ
nghe lời dân làng mà
cải đạo dễ dàng như vậy? Lần nầy đến lượt
Tu Bồ Đề thấy
cha mẹ mình hành động kỳ quái.
Một hôm
phụ thân Tu Bồ Đề nói rằng:
- Không Sanh! Con thường tự cho mình rất có
trí tuệ và đã thông
chân lý nhân sanh, nhưng sánh với
Đức Phật thì con còn kém xa.
Đức Phật chẳng những có
đại trí tuệ, mà cũng
đại từ bi và đại
thần thông. Từ khi Ngài quang lâm đến làng ta, người trong làng đều
quy y với Ngài. Cha định thỉnh
Đức Thế Tôn về nhà
cúng dường và khi đứng
trước mặt Ngài con nên bỏ tâm cuồng ngạo đi nhé.
Mặc dầu nghe
phụ thân nói thế, nhưng trong tâm
Tu Bồ Đề không phục chút nào, nên nói:
- Đối với con mắt
mọi người,
Phật Đà là bậc
nhất thiết trí, nhưng đối với con, ông ấy chỉ là một người
bình thường.
Tuy nói như vậy, nhưng chính
Tu Bồ Đề tự thắc mắc
Phật Đà là người thế nào và tại sao lại có
sức mạnh thu hút
quần chúng lớn lao như thế? Càng nghĩ,
Tu Bồ Đề càng thắc mắc nên
quyết định lén đi trước xem
Đức Phật ra thế nào chớ không thể đợi
Đức Phật đến nhà thọ trai mới tương kiến.
Chiều tối gió mát
hiu hiu, trăng thanh
thượng tuần lơ lửng trên không và muôn sao nhấp nháy như
cười nhạo tính
hiếu kỳ của
Tu Bồ Đề. Khi
Tu Bồ Đề đến nơi thì
vừa lúc Đức Phật đang ngồi trên tòa cao
thuyết pháp, bốn bên sáng lòa mà
trước mặt là hàng vạn
thính chúng quỳ rạp,
nghe pháp.
Quan sát kỹ thì thân Phật dường như
phóng hào quang.
Tu Bồ Đề thầm nghĩ:
- Người ấy không giống người thường, dung nghi
viên mãn,
trang nghiêm và thần tướng của Phật đã
vượt quá sức tưởng tượng của
Tu Bồ Đề.
Giữa khung cảnh yên tĩnh chỉ có tiếng
thuyết pháp của Phật trong khi ngàn vạn
thính chúng chẳng dám thở mạnh. Phật dạy rằng:
-
Thế gian nầy chẳng nên đấu tranh
với nhau bởi vì
mọi người đều là
một thể nhưng
xưa nay con người vốn không
phân biệt được
nhân ngã mà thôi. Tất cả các pháp đều do
nhân duyên hòa hợp mà sanh ra, chẳng có vật nào
độc lập mà
tồn tại. Mình và
vạn vật đã nương nhau để sống còn thì việc ban bố lòng thương và
ân huệ cho
chúng sanh khi mới nhìn thì giống như vì người nhưng thật ra đối với chính mình thì
lợi ích còn lớn hơn.
Pháp âm của
Thế Tôn rất từ hòa và
đạo lý Ngài nói đó đã khiến
Tu Bồ Đề cảm động.
Tu Bồ Đề bèn lẫn vào trong
thính chúng và len lén
chấp tay bái Phật.
Phật thuyết pháp xong,
trở về tịnh thất an nghĩ.
Tu Bồ Đề cứ đứng đó bồn chồn trước cửa thất, muốn vào gặp
Thế Tôn mà không dám.
Đức Phật đang
ngồi thiền trong thất, quán thấy bèn ra gọi:
- Anh là ai? Hãy vào trong nầy nói chuyện với ta.
Không
ngần ngại suy nghĩ gì nữa,
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:
- Con,
Tu Bồ Đề, rất mong được
Đức Thế Tôn thâu nhận con làm
đồ đệ xuất gia.
Phật hỏi:
- À! Anh là
Tu Bồ Đề. Ta từng nghe nói anh là người
thông minh nhất trong làng. Rất tốt, người
thông minh chân chính mới có thể
chân chính tin hiểu và
vâng theo Phật pháp.
Cha mẹ anh biết không?
- Con nghĩ rằng
cha mẹ con biết
chắc chắn là rất
vui mừng cho con được
hân hạnh bái Phật Đà làm vị
lão sư.
Đức Thế Tôn gật đầu hoan hỷ. Từ đó
Tu Bồ Đề khoác
áo cà sa và
trở thành một
đệ tử khác thường trong
tăng chúng.
Khuất Thực Nhà Giàu Chớ Không Khuất Thực Nhà Nghèo
Sau khi
xuất gia theo Phật, cuộc sống của
Tu Bồ Đề bây giờ
trở thành ba y một bát như tất cả các vị
tỳ kheo khác. Mỗi sáng sớm
tôn giả đi vào làng khuất thực và chiều đến thì theo Phật
nghe pháp,
tham thiền.
Chúng
tỳ kheo mỗi ngày đi khuất thực đều
tuân theo pháp chế của Phật, đó là theo thứ tự mà xin cho dù đi
một mình hay đi với
chúng tăng, bất luận nhà đó
cho hay không thì họ phải
tuần tự qua hết. Nhưng
Tu Bồ Đề thì lối
sinh hoạt khuất thực cũng không giống ai cả. Mỗi khi rời
tịnh xá,
tôn giả tách đường đi riêng. Với dáng đi
oai nghi nghiêm chỉnh,
tôn giả hướng về khu nhà giàu
rảo bước an tường mà khuất thực.
Ban đầu các
tỳ kheo không
lưu tâm đến việc ấy, nhưng lâu ngày họ mới phát
giác hành động của
tôn giả có vẻ lạ thường. Số là
Tu Bồ Đề thích đến những nhà
giàu có mà khuất thực, nếu đi qua khu nào thấy nhà cửa nhỏ hẹp hoặc nhà nào kinh tế nghèo cùng thì
tôn giả không ôm bát đứng trước cửa. Cho dù là
xa cách mấy,
tôn giả cũng đi tìm nhà phú quý còn không thì thà để bụng đói chớ không đi khuất thực.
Một hôm, trong thành
Tỳ Xá Ly có một vị
tỳ kheo cười mỉm với
tôn giả trên đường đi và nói:
-
Nghèo khó thì ở ngay
trước mặt cũng không ai
hỏi thăm,
giàu sang dù ở núi sâu cũng có người thân. Trong thành
Tỳ Xá Ly nầy toàn là thương buôn
phú hộ, chẳng biết hôm nay
tôn giả chọn được nhà nào chưa?
Tu Bồ Đề nhìn vị
tỳ kheo một cái rồi mới
giải thích:
- Đại đức! Tôi chẳng phải không ưa người nghèo. Tôi cũng đích thật là một người bần cùng vậy. Thật ra thì tôi có
phát nguyện chỉ đến nhà giàu mà xin, không đến nhà nghèo đưa bát. Đó là điều
khổ tâm của tôi, xin
đại đức lượng xét.
Vị
tỳ kheo không mấy
hài lòng, nói thêm:
-
Tôn giả xin nhà giàu không xin nhà nghèo, mỗi ngày dinh dưỡng đầy đủ, không lạ gì mà
thân thể mạnh khỏe như thế. Ngài nhìn lại xem có phải ngài béo tốt thế kia!
Tu Bồ Đề ôn hòa nhỏ nhẹ giải thích nguyên nhân chọn lựa sự khuất thực của mình:
- Đại đức! Xin đừng nói vậy. Tôi đến khuất thực nhà giàu, không phải vì tham
thức ăn ngon. Còn như nếu tham ăn thì tôi đã không
xuất gia học đạo.
Đại đức có biết tại sao tôi không đến nhà nghèo không? Vì người
cùng khổ, tự họ đã sinh sống khó khăn, đâu có dư dã
thức ăn mà
cúng dường cho chúng ta? Nếu bắt họ
cố ý phát tâm thì cũng chỉ là lòng có dư mà sức không đủ.
Chúng ta đã không có
thức ăn để
cứu tế họ, lẽ đâu lại thêm
gánh nặng cho họ?
Trái lại,
chúng ta đến xin nhà giàu, họ
bố thí chút
thức ăn thì đối với họ chẳng nhằm gì. Cho nên tôi xin nhà giàu mà không xin nhà nghèo là
vì vậy.
Tu Bồ Đề nói rõ
quan niệm của mình thì vị
tỳ kheo kia mới thôi không nói nữa.
Trong
tăng đoàn, người có
phong độ tương phản với
Tu Bồ Đề là
Đại Ca Diếp. Trong khi
Tu Bồ Đề chỉ xin nhà giàu chẳng xin nhà nghèo, còn
Đại Ca Diếp thì chỉ xin nhà nghèo chớ không đến nhà giàu.
Tu Bồ Đề không
hiểu rõ dụng tâm của
Đại Ca Diếp nên nhân một buổi chuyện trò rảnh rỗi, mới hỏi:
-
Tôn giả Đại Ca Diếp!
Thái độ xin nhà nghèo của Ngài trái ngược với tôi. Tôi
vô phép xin ngài nói
cho biết nguyên nhân:
-
Tôn giả Tu Bồ Đề!
Chúng ta là
sa môn xuất gia thì phải làm việc theo
đạo lý, đó là
phước điền của
nhân gian.
Chúng ta thọ sự cúng dường của họ là để giúp cho họ có cơ hội
tăng trưởng phước huệ. Tôi đến nhà nghèo khuất thực là để tạo cơ hội cho họ gieo
phước điền để trừ cái nhân
nghèo khổ cho tương lai. Còn người
giàu có thì họ đang hưởng nhiều
phước đức,
chúng ta cần gì thêm hoa thêm gấm.
Lời nói của
Đại Ca Diếp một mặt thì
giải thích cho
việc làm của mình còn mặt kia thì đã kích hành động
Tu Bồ Đề chỉ xin nhà giàu mà không xin nhà nghèo.
Tu Bồ Đề nghe xong, chỉ
gật đầu nhưng không
đồng ý vì
tôn giả không bắt buộc người khác phải giống mình, chỉ nói:
- Khuất bần, khuất phú đều là
vì lợi ích cho
chúng sinh. Thưa tôn giả!
Phương tiện của
Phật pháp rất nhiều,
chúng ta mỗi người có thể tự làm theo đường lối riêng, kỳ thật đều là
giáo pháp của
Đức Thế Tôn.
Thái độ khuất thực của
Tu Bồ Đề và
Đại Ca Diếp trở thành hai
thái cực đối chọi nhau. Về sau
Đức Phật biết được nên
quở trách hai vị là cả hai không
áp dụng đúng
tinh thần bình đẳng của
Phật giáo và cả hai hành động không hợp với phép khuất thực của
đạo Phật.
Phật dạy:
- Phép khuất thực chơn chánh là không chọn lựa nghèo giàu, không chê dơ sạch và
oai nghi nghiêm túc thứ tự mà
hành khất.
Đại Ca Diếp cố chấp hơn nên sắc thái
tu khổ hạnh đầu đà rất mạnh
vì vậy tôn giả xưa nay không nguyện xả bỏ
lối tu khổ hạnh nầy. Còn
Tu Bồ Đề thì tánh tình rỗng rang do đó đối với lời chỉ thỉ của Phật thì y giáo
phụng hành. Từ đó
tôn giả sửa đổi thái độ khuất thực của mình. Luôn luôn
cảm ân mà tiếp thọ lời chỉ giáo của
Như Lai.
Ngộ Được Lý “Không” Của
Bát NhãTừ khi
gia nhập tăng đoàn,
Tu Bồ Đề lúc nào cũng rất nhiệt
tâm từ việc
nghe pháp tu hành đến việc thay mặt Phật đi
giáo hóa lợi sinh. Trong tất cả 16 hội và 4 nơi
thuyết pháp Bát Nhã, nếu
như không đi
hoằng pháp thì
tôn giả chưa từng
vắng mặt.
Một hôm tại nước
Xá Vệ thuộc
tịnh xá Kỳ Viên, Phật và 1250 vị
đại Tỳ kheo đều
đắp y và mang
bình bát vào thành theo thứ lớp khuất thực. Khuất thực xong, Phật và chư
đệ tử đồng về
tịnh xá để thọ trai. Sau đó,
Đức Thế Tôn nhắm mắt tỉnh tọa và trong
tăng chúng không ai dám hướng về Phật mà hỏi han gì cả.
Lúc ấy,
Tu Bồ Đề ở trong
đại chúng, vội
đứng dậy, trịch áo bày vai hữu,
đảnh lễ Phật rồi
cung kính hỏi:
- Bạch Thế Tôn!
Đệ tử chúng con đều biết
Thế Tôn là bậc tối thiện
nhiếp hộ chúng con, nhưng đối với hàng
thiện nam thiện nữ đã
phát tâm Bồ Đề thì làm thế nào để an trụ chơn tâm? Với những
vọng niệm nhiễu loạn như thế thì làm sao có thể
hàng phục vọng tâm? Xin
Đức Thế Tôn từ bi vì
đại chúng mà chỉ dạy.
Câu hỏi của
Tu Bồ Đề làm
Đức Phật rất
hoan hỷ mà dạy rằng:
- Như muốn an trụ nơi tâm
Bồ Đề và không bị
vọng niệm quấy rối thì khi
bố thí nên hành
bố thí vô tướng, khi
độ sanh nên
thực hành độ sanh vô ngã. Nên
y theo đó mà an trụ
chơn tâm và
y theo đó mà
hàng phục vọng tâm.
Thật vậy “
vô tướng bố thí,
vô ngã độ sanh” có nghĩa là khi
bố thí thì phải phá trừ
chấp ngã chấp pháp. Ý Phật muốn nói là khi
bố thí thì không nên chấp mình là người
bố thí ban ơn, tức là
chấp ngã, còn người đó là kẻ chịu ơn, tức là chấp nhơn và đây là vật
bố thí, tức là
chấp pháp thì
tâm không sanh các
phiền não ô nhiễm.
Vì vậy khi làm các
Phật sự mà không khởi
vọng tâm,
chấp ngã chấp pháp thì các
phiền não tham, sân, si không sanh. Mà
phiền não không sanh thì
chúng ta không tạo nghiệp tức là không còn
luân hồi sanh tử. Đây chính là
phương pháp “hàng phục vọng tâm” và “an trụ chơn tâm” vậy. Vì sự sâu sắc như vậy nên kinh có câu: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, có nghĩa là không nên dính mắc nơi sắc thì sẽ sanh tâm
Bồ đề, không nên dính mắc nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp thì sẽ sanh tâm
Bồ đề và
tâm không dính mắc thì tâm sẽ an. Còn đối với
chúng ta thì tâm còn dính mắc nên
tâm không an là vậy, mà
tâm không an thì làm sao mà
giác ngộ giải thoát cho được. Chữ trụ trong
kinh Kim Cang có nghĩa là dính mắc vì thế mà
ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng khi nghe câu” Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong
kinh Kim Cang thì Ngài liền
ngộ đạo. Tại sao Ngài
ngộ đạo nhanh thế? Bởi vì mỗi khi
lục căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của
Lục Tổ tiếp xúc với
lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì tâm của Ngài không bị dính mắc ở nơi nào cả, tức là
tâm không trụ. Một
thí dụ điển hình là khi mắt
chúng ta thấy một bình hoa, tức là
nhãn căn tiếp xúc với
sắc trần. Khi mới thấy và biết cái vật đó là bình hoa thì tâm của
chúng ta lúc bấy giờ được gọi là
chơn tâm. Mà muốn giữ mãi cái
chơn tâm nầy thì tâm của
chúng ta không khởi niệm
phân biệt cái bình hoa là tốt hay xấu. Như vậy tâm của
chúng ta không bị dính mắc vào
sắc trần. Còn nếu tâm của
chúng ta khởi niệm
phân biệt là cái bình hoa nầy thì đẹp hay xấu thì cái
chơn tâm của niệm
ban đầu biến thành vọng tưởng. Nói
tóm lại nếu sáu căn
tiếp xúc với
sáu trần mà
tâm không chạy theo sáu trần thì đó là
tâm không trụ hay là
tâm không dính mắc.
Có một
câu chuyện khác nói về
tâm không dính mắc là khi
Đức Phật còn
tại thế thì một hôm có một người
ngoại đạo tu chứng được năm phép
thần thông và vì lối
thuyết giảng rất hay nên
thính chúng đến nghe rất đông mà trong số đó có cả
Trời Đế Thích. Một hôm ông giảng xong,
thính chúng ai cũng ra về chỉ có
Trời Đế Thích ngồi lại khóc. Ông
ngoại đạo lấy làm lạ bèn hỏi:
- Thưa Ngài! tại sao nghe giảng xong Ngài lại khóc.
Trời Đế Thích trả lời:
- Thưa thầy! Thầy giảng rất hay, nhưng tôi thấy Thầy sắp chết nên
thương tiếc.
Vị
ngoại đạo giựt mình nói:
- Vậy làm sao khỏi chết?
- Chỉ có
Đức Phật mới dạy
pháp môn bất tử.
- Ngài ấy ở đâu?
- Ngài đang
thuyết pháp tại
tịnh xá Trúc Lâm, nếu Thầy cần thì đến đó
cầu pháp.
Vị
ngoại đạo dùng
thần thông mà bay trên mây hướng về
tịnh xá Trúc Lâm để gặp Phật. Trên đường đi, ông nghĩ mình tới
cầu pháp với Phật mà không có cái gì để
cúng dường thì không đúng lễ thì ông chợt thấy cây ngô đồng đang
trổ bông rất đẹp nên ông dùng
thần thông nhổ hai cây ngô đồng đang nở hoa dâng lên Phật. Ông nói:
- Thưa Ngài Cư Đàm, muốn khỏi chết phải làm sao?
Phật dạy:
- Buông!
Ông
ngoại đạo buông một tay rớt cây ngô đồng thứ nhất, còn một tay vịn cây ngô đồng thứ hai.
Phật bảo:
- Buông!
Ông
ngoại đạo buông tay thứ hai tức thì cây ngô đồng thứ hai ngã.
Phật lại bảo:
- Buông!
Ông
ngoại đạo đã buông hết hai tay và hai cây ngô đồng đã ngã hết rồi mà bây giờ Phật lại bảo buông nữa thì ông không biết buông cái gì nên thưa:
- Hai tay tôi bưng hai cây ngô đồng, lần thứ nhất Ngài bảo buông thì tôi buông tay thứ nhất thì cây ngô đồng thứ nhất ngã, lần thứ hai Ngài bảo buông thì tôi buông tay thứ hai cây ngô đồng thứ hai ngã, bây giờ Ngài bảo buông nữa, tôi không biết buông cái gì?
Phật
giải thích:
- Lần thứ nhất ta bảo ông buông là buông chấp
trần cảnh, lần thứ hai ta bảo ông buông là buông chấp sáu căn, lần thứ ba ta bảo ông buông là buông chấp
vọng thức. Nếu ông buông được ba cái đó là ông dứt
sanh tử.
Ý Phật muốn nói gì?
Khi buông chấp
trần cảnh có nghĩa là đừng để sáu căn
chạy theo sáu trần thì
tâm không bị dính mắc. Tức là
tâm không khởi
phân biệt tốt xấu thì
tâm không bị
si mê vọng niệm.
Khi buông chấp sáu căn có nghĩa là sáu căn không bị
sáu trần quyến rũ thì sáu căn sẽ được
thanh tịnh.
Còn buông chấp
vọng thức có nghĩa là
tâm không chạy theo vọng trần thì không sanh ra
vọng thức.
Tóm lại ý Phật muốn nói với ông
ngoại đạo là nếu tâm bên ngoài không bị
vọng trần kích thích và bên trong không bị
phiền não quấy phá thì tâm sẽ
thanh tịnh. Khi tâm đã
thanh tịnh thì không gây nghiệp, mà không gây nghiệp tức là không còn
sanh tử.
Tu Bồ Đề thấu hiểu cái
đạo lý cao siêu và cảm kích
pháp âm của Phật nên
vui mừng rơi nước mắt và quỳ dài trước tòa của
Thế Tôn mà
bạch Phật rằng:
- Bạch Phật! Từ khi con làm người
đến nay, cái
đạo lý sâu xa vi diệu như thế này mới được nghe đến lần đầu. Từ đây con không còn vướng vào
chấp ngã chấp pháp. Ngay cả bốn tướng ngã, nhơn,
chúng sanh và
thọ giả cũng không thể
trói buộc con. Lìa tất cả
chấp trước mới thấy được lý “không” và lìa tất cả
danh tướng mới thấu đáo nhơn sanh.
Hôm nay con đã thể hội
tâm lý của Phật như là
nhận thức rõ cho chính con.
Tu Bồ Đề nghe xong thì
khai ngộ và từ đó được xưng là đệ nhất
giải không.
Hạnh
Nhẫn Nhục Tột Cùng
Đức Thế Tôn tuy biết
Tu Bồ Đề đã lìa
chấp trước, nhưng vì
lòng từ bi muốn
nhấn mạnh đến tu hạnh
nhẫn nhục tột cùng mà còn chấp mình tu hạnh
nhẫn nhục tột cùng thì chưa phải là
nhẫn nhục tột độ. Kẻ
tu hành phải lìa tất cả
vọng chấp: nhơn, ngã, bỉ, thử…mà
tu pháp nhẫn nhục thì
pháp nhẫn nhục mới
hoàn toàn rốt ráo.
Đức Phật hồi tưởng lại đời
quá khứ và kể rằng:
- Tu Bồ Đề!
Trong đời quá khứ ta một thời
tu hành trong núi sâu và
trải qua một đoạn
nhân duyên như sau:
Khi ta đang
tĩnh tọa dưới cội cây
đại thọ, nhắm mắt
nghiền ngẫm những
bí ẩn của
vũ trụ và khởi nguyên của nhân sanh. Bốn bề gió mát thoảng đưa, hoa cỏ bay mùi hương u nhã. Bỗng từ xa có nhiều tiếng cười lảnh lót vang lên khiến ta
mở mắt nhìn xem. Thì té ra đây là một nhóm
công nương yêu
kiều diễm lệ đang đứng
trước mặt ta. Bọn họ mặt
y phục cung nhân,
châu ngọc óng ánh khiến người mới nhìn tưởng họ là
tiên nữ trên trời hay là
vương phi chốn
nhân gian. Họ nắm tay nhau, cười
nói trước mặt ta và hỏi:
- Ông đạo! Ở chỗ núi cao rừng rậm nầy sao dám ngồi tu một mình? Ông không sợ cọp beo hùm sói làm hại sao?
Ta nhìn các cô, ngồi
nghiêm chỉnh đáp:
- Thưa các cô nương!
Ở trong núi sâu nầy mà
tu đạo, đích thị chỉ có
một mình tôi.
Tu hành không
nhất định phải có
bạn đồng tu. Người có
lòng từ bi thì
rắn độc thú dữ không làm
tổn hại. Ở chốn thành thị, những thứ như tiền, vàng, sắc đẹp và chế độ cai trị hà khắc
uy quyền cũng là một thứ hổ báo
sài lang của rừng núi đấy.
Ta nói
vậy thì bọn
cung nữ liền bỏ
thái độ kiêu mạn mà
cung kính thỉnh ta
thuyết pháp. Ta bèn ngắt một bông hoa nhỏ bên cạnh rồi
tiếp tục nói:
- Này các cô! Người
đời xưa nay đều ưa tìm cầu khoái lạc, nhưng khoái lạc cũng có thứ
chân thật, thứ
giả dối, có cái
lâu dài và cũng có cái tạm bợ. Nhưng phần lớn
mọi người đều bị
mê hoặc bởi thứ khoái lạc
hư giả và ngắn ngủi. Giống như đóa hoa nầy tuy thật đẹp, nhưng không
vĩnh viễn nở hoa tỏa hương.
Tuổi trẻ và sắc đẹp,
sức khỏe và hùng mạnh đều không đủ cho
chúng ta nương tựa. Người cao quý là ở chỗ biết
học đạo, mong được thăng hoa
sinh mệnh, được kéo dài sức sống, đó mới là việc khẩn yếu.
Lúc ta đang nói, bỗng một người mặc
y phục vương giả, tay cầm gươm báu từ trong rừng cây
bước ra. Ông đến bên ta và lớn tiếng mắng rằng:
- Mi là ai? Dám
cả gan đùa cợt với
cung phi của ta?
- Đại Vương! Xin phép hỏi quý danh của Ngài. Xin đừng hạ nhục người như thế.
Nhà vua
hăng hái nói:
- Ngươi ngủ mê rồi phải không?
Oai danh của ta
chấn động khắp nơi, ngươi há không biết ta là vua
Ca Lợi hay sao? Hèn gì ngươi dám
cả gan mê hoặc đám
cung phi của ta.
- Đại Vương! Xin đừng nói thế, người
tu hành nhẫn nhục không nói trả lại nhà vua, nhưng Ngài tạo
khẩu nghiệp đó thì tương lai sẽ không tốt đâu.
Nhà vua càng nóng giận:
- Ngươi
tu hành nhẫn nhục à! Ta sẽ cắt đứt
thân thể ngươi ra từng mảnh, xem ngươi còn nói
tu nhẫn nhục không?
Lúc ấy vua
Ca Lợi xuống gươm xẻo tai, móc mắt, xẻo mũi, chặt hai tay hai chân ra từng đoạn mà ta vì muốn độ
chúng sanh nên
lúc ấy không có chút gì
ân hận. Ta theo
tinh thần độ sanh vô ngã,
dần dần tu tập tích chứa
phước huệ và
trang nghiêm Phật quả. Thật vậy,
hành hung người không thể thắng người, chỉ có người
thực hành nhẫn nhục mới là người
thắng lợi cuối cùng.
Sau cơn nóng giận, nhà vua
hối hận và hỏi:
- Có lẽ vì
thế lực của nhà vua nên ông không dám
chống lại, chứ trong tâm làm sao khỏi buồn giận?
Ta thề rằng:
- Nếu tôi
không thật tu nhẫn nhục tột cùng và trong tâm còn chút giận hờn thì tôi chết luôn theo với chân tay bị cắt xẻo.
Trái lại, nếu tôi thật
tu nhẫn nhục tột cùng và
tâm không sân hận thì tay chân của tôi bị cắt đều
hoàn nguyên trở lại như xưa.
Lời thệ của ta vừa dứt thì mũi, tai,
thân thể đều
hoàn lại như trước. Nhà vua
hết sức ăn năn sám hối tội lỗi của mình và
thỉnh cầu ta
tha thứ. Ta đã không
hờn giận lại còn
phát nguyện:
“Sau khi
đắc đạo thì ta sẽ độ ngươi trước”
Vua
Ca Lợi bây giờ chính là
tôn giả Kiều Trần Như.
Tu Bồ Đề nghe qua một đoạn
sự tích nhân duyên tu hành của
Đức Thế Tôn thời
quá khứ rất là
cảm động vì
thế tôn giả thấu hiểu được
chân lý vô ngã tối cao và
đạt đến lý “không “sâu xa.
Ý Nghĩa Chữ “Không”
Đối với lời chỉ dạy của
Đức Phật thì
Tu Bồ Đề nhận thức rõ ràng sự tương quan
nhân duyên trong
vũ trụ. Phật dạy rằng:
Các pháp do
nhân duyên sanhVà các pháp cũng do
nhân duyên diệt
Như vậy tất cả
mọi vật trên
thế gian nầy đều do
nhân duyên kết hợp mà thành và khi
nhân duyên không còn nữa thì chúng sẽ bị hoại. Vì thế
nhân duyên là
yếu tố quan trọng nhất cho lý “KHÔNG”. KHÔNG chẳng phải là “không” của cái chẳng có gì và cũng chẳng phải là cái không trống rỗng, không thấy, không
hiện hữu trên
thế gian. Mà không chẳng hề lìa
nhân quả của sự vật mà có, bởi vì Không chính nó không có
tự tánh, tức là
vô ngã.
Một hôm, một
ngoại đạo Bà La Môn thuộc giới
trí thức gặp
Tu Bồ Đề trên đường đi, bèn chất vấn:
-
Tôn giả Tu Bồ Đề! Nghe nói Ngài là người đệ nhất
giải không trong hàng
đệ tử Phật, tôi
xin lỗi hỏi, tất cả sự vật trên
thế gian đều
tồn tại rõ ràng mà Ngài cho là không, nếu
giải thích là không thì làm sao cho
trọn vẹn với lời
giải thích ấy?
Tu Bồ Đề đưa tay chỉ một ngôi nhà và nói:
- Ông xem cái nhà này là do bốn
yếu tố đất, nước, gạch, ngói và các
nhân duyên hòa hợp mà hình thành. Nếu đem phân tán đất, nước, gạch, ngói thì
hình tướng cái nhà nầy sẽ không còn, mà tên gọi “cái nhà” cũng không có luôn. Từ
lý luận “tất cả đều do
nhân duyên hòa hợp” có thể thấy được lý ”Không”. Thật vậy, lúc chưa có sự
hòa hợp của gạch, ngói, đất, nước thì chưa có cái nhà nầy vì đây chỉ là một mảnh đất trống mà thôi, tức là Không và sau nầy khi gạch ngói đổ bể tan rã thì cái nhà nầy cũng không còn nữa, tức là nó
trở lại tính Không của
ban đầu. Người không ngộ được
lý Không thì thấy mọi sự vật trên đời nầy
bền vững lâu dài, còn kẻ ngộ được
lý Không thì
mọi việc chẳng qua như là
giấc mộng. Vậy “Không” đó là
diện mục bổn lai của tất cả sự vật.
Diện mục bổn lai là
hình tướng ban đầu trước khi
nhân duyên tạo
tác thành hình thể mới.
Người
Bà La Môn nọ nghe nói xong, trầm tư một phen, rồi
chấp tay làm lễ
Tu Bồ Đề nói:
- Tôn giả! Ngài chẳng hổ danh là bậc
đệ tử đệ nhất
giải không của
Phật Đà. Lời chỉ dạy của Ngài khiến tôi rất
cảm phục. Thật
xấu hổ cho tôi chẳng
đủ tư cách cùng Ngài đối luận. Xin chào Ngài,
chúng ta sẽ gặp sau.
Tu Bồ Đề trang nghiêm gật chào rồi vẽ một nét trong không trung và nói rằng:
-
Đang lúc ông tóc đen thành
tóc bạc,
đang lúc ông thấy trên cành lá rụng xuống đất, rồi lại hoa rơi hạt rụng làm nẩy mầm,
tăng trưởng và nở hoa, kết trái. Qua bao nhiêu năm
tuần hoàn biến hóa rồi lại
trở về nguyên thể của nó. Ngài nên nhớ kỹ, đó là “Không”.
Người Đầu Tiên Nghinh Đón
Đức PhậtTu Bồ Đề thể chứng lý “không”,
tuyên dương lý không và tất cả
oai nghi đi đứng nằm ngồi của
tôn giả cũng
biểu thị lý không.
Một hôm, bỗng
nhiên không thấy bóng
Đức Phật trong
tăng đoàn, tất cả
đệ tử xôn xao
tìm kiếm mà không biết
Đức Thế Tôn đi đâu. Sau đó
tôn giả A Na Luật dùng
thiên nhãn xem xét mới biết
Thế Tôn đã lên cung trời Đạo Lợi
thuyết pháp cho
thánh mẫu Ma Da khoảng ba tháng nữa mới trở xuống.
A Na Luật báo cho
đại chúng biết tin ấy làm
mọi người đều
mong mỏi và cứ mỗi một ngày không có Phật thì họ
cảm thấy lâu bằng ba năm.
Ba tháng
trôi qua và đã đến lúc
Đức Thế Tôn trở về lại
nhân gian khiến cho các
đệ tử tranh nhau đi đón.
Lúc ấy Tu Bồ Đề đang vá y trong một hang động tại núi Linh Thứu, nghe truyền tin
Đức Phật trở về liền
đứng dậy buông áo xuống định cùng đi
nghinh tiếp. Ngay lúc đó, trong tâm chợt khởi lên
ý nghĩ làm
tôn giả ngồi xuống chỗ cũ.
Tôn giả nghĩ rằng: Ta đi đón Phật để làm gì?
Chân thân của
Thế Tôn không thể thấy bằng sáu căn do đó nếu ta mà đi
nghinh tiếp Ngài thì chẳng khác nào cho rằng
pháp thân Ngài do
tứ đại hòa hợp, đó là ta không
nhận thức được
tánh không của
đại pháp. Không thấy
tánh không tức là không thấy được
pháp thân Phật.
Về
pháp thân Phật chính là
tánh không của các pháp, không có chủ tạo tác, cũng không bị tạo tác. Muốn thấy Phật,
trước tiên phải rõ
ngũ uẩn tứ đại là
vô thường. Phải biết rõ tất cả sự vật
hiện có đều
không tịch và biết các pháp sum la vạn tượng đều là
vô ngã. Không ngã, không nhơn, không năng tác và không
sở tác. Tất cả các pháp đều rỗng lặng bởi vì
pháp tánh biến khắp
mọi nơi và
pháp thân thì chỗ nào cũng có. Ta
phụng hành giáo pháp của Phật đã thể chứng lý “ không” của các pháp thì ta nghĩ mình không nên
mê lầm trên
sự tướng. Khi
nhận thức như vậy,
tôn giả an nhiên ngồi lại vá áo mà không đi
nghinh tiếp Đức Phật. Ngày Phật
trở về thật là một sự
vui mừng lớn lao
thành thử trong
tăng đoàn chỗ nào cũng đầy vẻ
hân hoan vì ai ai cũng đều muốn
bái yết Phật trước người khác. Lúc bấy giờ trong
tăng đoàn có
tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc đã dùng
thần thông để đi thật nhanh mà nghinh đón
Đức Phật trước nhất. Sau khi
đảnh lễ Đức Thế Tôn, bà nói:
- Bạch Thế Tôn!
Đệ tử Liên Hoa Sắc, người thứ nhất nghinh đón
Thế Tôn, xin Phật nhận con
bái yết.
Đức Phật mĩm cười, chậm rãi nói:
-
Liên Hoa Sắc! Ta
trở về, người nghinh đón ta trước nhất chẳng phải là cô đâu.
Liên Hoa Sắc lấy làm lạ, quay lại nhìn hai bên thì thấy
trưởng lão Đại Ca Diếp đều còn phía sau.
Liên Hoa Sắc hoài nghi nên
bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn!
Đệ tử chẳng dám hỏi, nhưng ai là người nghinh đón Ngài trước con?
Đức Phật lại mĩm cười, nhìn các
đệ tử đông đảo kéo đến rồi mới
trả lời cho
Liên Hoa Sắc mà cũng
như bảo với
đại chúng:
- Các ông rất tốt, xa xôi đến mấy cũng đi đón ta, nhưng người gặp ta trước nhất là
Tu Bồ Đề. Ông ấy lúc này đang
quan sát tánh KHÔNG của các pháp trong
hang núi Kỳ Xà Quật. Ông ấy mới là người
chân chính nghinh tiếp ta. Người thấy pháp mới là người đầu tiên thấy Phật và là người đệ nhất
nghinh tiếp Phật.
Liên Hoa Sắc và các
đệ tử nghe Phật nói mới biết đối với
Phật pháp của
Thế Tôn và đối với việc
lãnh hội chân lý của
vũ trụ thì
mọi người không ai
sánh bằng Tu Bồ Đề.
Qua
lời khen ngợi
đặc biệt của
Thế Tôn,
tôn giả Tu Bồ Đề càng lúc càng
nổi danh và
dĩ nhiên càng được
đại chúng tôn kính.
Vị
A La Hán Ly Dục Bậc Nhất
Lối sống và tâm tư của
Tu Bồ Đề rất
điềm đạm tự tại và thường ở trong
KHÔNG tam muội mà
giải thoát.
Đã là
con người trên cõi đời nầy cho dù là một ông thánh đi nữa cũng
lắm phen bị
chê cười phỉ bang cho dù ông thánh ấy chẳng khác nào như viên ngọc không tỳ vết, đã lìa xa mọi thứ
danh văn lợi dưỡng. Mỗi ngày,
Tu Bồ Đề chỉ lo
tu đạo và
hoằng pháp độ sinh, nhưng nhân tình
ấm lạnh, miệng lưỡi lắm lời cũng không buông
tha cho tôn giả. Cho dù trong
thế gian lắm tiếng
thị phi,
tôn giả xem những thứ ấy như gió thoảng ngoài tai mà chẳng hề
khởi tâm động niệm.
Một ngày nọ trên đường đi
thuyết pháp,
tôn giả nghe có người
phê bình mình. Họ nói rằng:
Tu Bồ Đề là cái thứ gì, ông ấy chẳng làm nên tích sự gì, ở trong
tăng chúng như một tên ngáo, không có một chút sống coi cho ra hồn. Một số
tỳ kheo khác nghe như vậy liền bất bình giùm cho
tôn giả. Họ hỏi
Tu Bồ Đề sao không
trả lời lại?
Tu Bồ Đề an nhiên,
hòa nhã mà đáp:
- Thưa các vị!
Đa tạ các vị có lòng yêu mến
bạn đạo, nhưng xin các vị chớ có khởi lòng bất bình như vậy.
Biện bạch vô ích là một thứ
tranh luận mà
tranh luận là tâm còn hơn thua.
Chúng ta là người tu thì đối với những lời dèm pha,
phỉ báng, cho tới
nghịch cảnh, ma nạn đều phải xem đó như là cái duyên
trợ đạo để
tăng trưởng sự
tu hành, nhờ đó mà
chúng ta có thể
tiêu trừ nghiệp chướng và tăng
lòng tin mạnh mẽ. Vã lại, trong
thế giới của
chân lý không có chuyện tranh cãi.
Chân lý là không ta không người, không cao không thấp và không có thánh phàm. Tôi đã biết lý chơn
không vô trụ, một tướng
bình đẳng cho nên cái tâm của tôi như
vạn lý tình không đến một chút xíu cũng không có thì tôi
biện bạch với họ làm chi?
Tu Bồ Đề giải không với tấm lòng và
tâm niệm khoáng đạt
tự tại như
thế cho nên các
tỳ kheo rất khâm phục tác phong của
tôn giả.
Tu Bồ Đề đối với
chúng sanh luôn dùng đức
nhẫn nhục để
thuyết pháp hoặc
giáo hóa họ
trở về với
chánh đạo,
quả thật tôn giả là người cao thượng đệ nhất.
Tôn giả thường nói, nếu như có
chúng sinh nói tôi đứng hoài không tốt thì tôi liền ngồi suốt ngày. Còn như chê tôi ngồi hoài không được thì tôi sẽ đứng luôn cả ngày. Tôi đối với tất cả
pháp không khởi một tí
phiền não và cũng không làm phiền một
chúng sanh nào.
Tu Bồ Đề hay
tùy thuận thế gian,
thực hành đại
nhẫn nhục nên đối với bất cứ ai đều không náo loạn họ và cũng không tranh cãi với họ chỉ vì
tôn giả thông đạt tánh không.
Đức Phật biết
Tu Bồ Đề tu hành như thế thì rất
hoan hỷ vui lòng. Một hôm nọ trên hội
Bát Nhã,
Đức Phật khen ngợi rằng:
- Trong hàng
đệ tử ta thì người
tu đạt đến
trình độ như
Tu Bồ Đề thật hiếm có. Ông có thể chứng
vô tranh tam muội, đó là đệ nhất trong
loài người. Ta
chúc mừng cho ông đó vì ông xứng đáng là vị
A La Hán ly dục bậc nhất.
Tu Bồ Đề được khen ngợi, trong tâm rất cảm kích
vui mừng, nhưng lại chẳng dám tự đắc.
Tôn giả chắp tay đảnh lễ Đức Thế Tôn và nói:
- Bạch Thế Tôn! Ngài
ban cho đệ tử chúng con những lời
từ bi ái mộ để khích lệ chúng con
vì vậy con không biết làm sao
diễn tả hết nỗi cảm kích.
Thế Tôn nói con là bậc nhất
loài người, là
A La Hán ly dục. Nếu con nghĩ như
vậy thì chưa hết
ngã chấp và
rốt cuộc con cũng còn chìm trong
pháp chấp, có chứng có đắc. Bạch Thế Tôn! Con không nghĩ như vậy, cũng không làm như vậy, vì
nhân duyên vô sanh vô vi. Tuy
Đức Thế Tôn nói với con những lời
ái mộ mỹ mãn, nhưng thật ra, chính
tôn giả Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên mới đúng là những bậc
A La Hán ly dục.
Tu Bồ Đề rất khiêm tốn cộng với
lời nói khéo léo,
ôn hòa đã làm làm cho
tôn giả không hổ danh là một bậc thánh
A La Hán đương thời.
Chư Thiên Rải Hoa Cúng DườngTu Bồ Đề nổi danh là vị
A La Hán ly dục cho nên đối với
thế gian,
tôn giả không cần tranh hơn thua và cũng không mong gì ở
thế gian cả. Có khi
tôn giả ở trong
tăng đoàn tu học cùng với
đại chúng, có khi ngài
tu tập thiền định trong rừng cho nên
pháp hỷ càng ngày càng cao sâu
huyền diệu.
Kỳ Xà Quật là một ngọn núi rất
nổi tiếng vào thời
Đức Phật còn
tại thế vì núi nầy có rất nhiều khóm trúc bao quanh còn rừng thì sâu và rất nhiều hang động với
phong cảnh đẹp,
thanh nhã và
yên tịnh rất
thích hợp cho người tu.
Đức Thế Tôn thường ngự đến đây cũng vì
lý do ấy.
Tu Bồ Đề rất thích
lối sống trong rừng núi cho nên lúc nào cũng thấy
tôn giả ở núi Linh Thứu nầy.
Những lúc trời trong mây trắng,
tôn giả tọa thiền dưới gốc cây bên sườn núi, hoặc
kinh hành quán tưởng. Còn những lúc mưa to gió lớn thì Ngài vào trong động, hoặc núp dưới những tảng đá lớn để
tư duy Phật pháp.
Đối với
tôn giả, núi sâu rừng rậm là một
đạo tràng kín đáo
tu hành rất tốt, ban ngày có chim bay thú chạy bên cạnh và khi đêm đến trăng sao trùng dế làm bằng hữu
tu hành. Chính tại nơi
yên tịnh nầy,
tôn giả thường nghĩ rằng
con người ta vốn từ cõi không mà đến thì cũng nên
trở lại với
thiên nhiên không tịch.
Một hôm,
Tu Bồ Đề ngồi thiền trong thạch động.
Tôn giả nhập không tam muội với
công hạnh thâm sâu cảm động đến
chư thiên hộ pháp.
Vì vậy có rất nhiều vị trời
xuất hiện trên không rải
thiên hoa bay phơi phới trước
tôn giả để
cúng dường.
Trời Đế Thích chấp tay khen ngợi nói:
- Thưa tôn giả! Làm người có
danh vọng tiền rừng bạc biển trên
thế gian thật chẳng có gì đáng tôn quý. Dầu cho là
quốc vương hay
phú hộ cũng đều bị
trói buộc trong
phiền não dục vọng.
Tôn giả đúng là bậc tôn quý trên
thế gian và thật là người đại
tu hành chân chính. Hiện nay Ngài
nhập Không Tam Muội làm cho ánh sáng
oai đức của Ngài chiếu soi suốt
thiên cung của
chúng tôi.
Tôn giả Tu Bồ Đề mặc dù ở
cõi người nhưng rất xứng đáng được sự thọ
cúng dường của
cõi trời. Ngài khéo nói
Bát Nhã và lúc nào cũng dạo chơi ở chốn
Không Tam Muội như trời xanh vạn dặm. Ngài đã
thoát khỏi mọi tình cảm của
thế gian, cho dù là
phiền não hắc ám hay
bồ đề trong sáng cũng không thể làm cho mờ tâm của
tôn giả. Ngài cắt đứt dây
sắc dục và bẻ gãy xiềng
chấp pháp.
Tôn giả, xin hãy tiếp thọ hoa trời
cúng dường của
chúng tôi để tỏ lòng
tôn kính.
Lời
xưng tán của thiên nhơn với những hoa trời rơi
tán loạn làm kinh động đến
Tu Bồ Đề.
Tôn giả sau khi
xuất định bèn hỏi thiên nhơn:
- Các ông là ai? Vì sao đến đây
rải hoa khen ngợi ta?
Vị thủ lãnh
chư thiên chấp tay thưa:
- Con là
Trời Đế Thích và mấy vị kia đều là thiên nhơn.
Tu Bồ Đề hỏi tiếp:
- Vì sao các vị lại
ân cần khen ngợi tôi như thế?
Trời Đế Thích thưa:
- Chúng con
kính trọng tôn giả nhập Không Tam Muội và nói
Bát Nhã rất hay.
Tu Bồ Đề hơi
ngạc nhiên:
- Tôi chưa từng nói một chữ
Bát Nhã, cớ sao các ông khen ngợi?
Trời Đế Thích trả lời:
-
Tôn giả không nói, chúng con không nghe. Thế thì không nói và không nghe mới thật là chơn
Bát Nhã.
Tu Bồ Đề nghe xong thì rất
hài lòng mĩm cười liền khen
chư thiên:
- Trên hội
Bát Nhã,
Đức Phật nói pháp
vi diệu thâm sâu nên
lúc ấy các ông
hộ trì đạo tràng đã
tín thọ thâm hiểu.
Đa tạ các ông đem
hoa thơm rải cúng, nguyện mùi hương
thiên hoa nầy biến khắp
cõi người và
cõi trời.
Tu Bồ Đề nói xong thì tất cả
chư thiên lại làm lễ
một lần nữa rồi từ từ biến mất trong mây.
Chư thiên rải
thiên hoa cúng dường, ngoại trừ
Đức Phật thì
tôn giả là người
duy nhất được hưởng cái
danh dự đặc biệt nầy.
Chư Thiên Tấu Nhạc Thăm Bệnh
Đối với
Tu Bồ Đề thì núi Kỳ Xá Quật là nơi
lý tưởng để
tham thiền nhập định và
quán tưởng tính Không của các pháp. Một hôm, bỗng nhiên
tứ đại bất hòa làm cho
thân tâm của
tôn giả cảm thấy mệt mỏi không an.
Là một vị thánh với sức
tu hành thâm hậu thì làm sao
tôn giả còn có bệnh? Thật ra,
sắc thân bị
nghiệp báo chiêu cảm là
pháp hữu vi, mà đã là
pháp hữu vi thì làm sao
tránh khỏi hiện tượng sanh, lão, bệnh, khổ,
lý không và luật
vô thường của tạo hóa.
Mặc dầu Tu Bồ Đề đã chứng
thánh quả thì
tinh thần của
tôn giả đã
giải thoát, nhưng
sắc thân hữu vi còn đó. Mà
sắc thân là pháp
thế gian thì tất nhiên phải gánh chịu luật sanh, lão, bệnh, tử của
thế gian.
Khi
tôn giả cảm thấy bệnh
trầm trọng, Ngài bèn đem
tọa cụ trải trên đất,
ngồi kiết già để
quán tưởng cái thân bệnh từ đâu mà ra.
- Cái
bệnh khổ của thân nầy từ đâu mà đến? Ta phải làm gì để có thể hết bệnh?
Tu Bồ Đề tự hỏi một cách
thâm sâu như thế và
tư duy tiếp:
-
Nguyên nhân đưa đến bệnh nầy, hoặc là
nghiệp báo quá khứ đến
thời kỳ phải trả, hoặc là chướng duyên của đời
hiện tại. Nếu như
vậy thì thuốc men chẳng thể nào
trừ tận gốc, chỉ tin sâu vào
luật nhân quả thì phải
sám hối tội nghiệp và
tu tập thiền quán thì
từ tâm không khổ và sau đó khiến thân hết khổ.
Tu Bồ Đề thiền quán và
chánh niệm như thế thì
lập tức cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng
tự tại và không còn chút bệnh nào cả.
Ngay
lúc ấy Trời Đế Thích dẫn theo 500 thiên nhơn và rất nhiều
nhạc thần từ trên không bay xuống
núi Kỳ Xà Quật.
Trời Đế Thích liền bảo
nhạc thần tấu khúc ủy vấn.
Nhạc thần vâng lệnh đến trước
tôn giả khảy đờn
lưu ly và 500 thiên nhơn đồng ca rằng:
Tôn giả, đức vọng như trời cao thay
Tôn giả,
tu hành như trường thủy thay
Qua khỏi bể
sanh tửTiêu dứt lửa
hữu viGià bệnh
thống khổ đều đoạn trừ
Hành nghiệp nếu
sám trừCấu uế được diệt hết
Nguyện
tôn giả thể
ngộ thiền định
Tôn giả,
bệnh khổ liền
tiêu trừTôn giả, thân người được lành bệnh
Tấu khúc
chấm dứt, tiếng ca vừa mừng thì
Trời Đế Thích mang
quyến thuộc đảnh lễ tôn giả.
Tu Bồ Đề từ bi đáp lễ và khen rằng:
- Khúc ca và nhạc điệu của các ông thật là
vi diệu hòa ca.
Trời Đế Thích cung kính hỏi thăm:
- Chúng con thỉnh vấn
tôn giả,
hiện giờ bệnh của Ngài còn hay hết?
Tôn giả bèn bảo với vua trời rằng:
- Các pháp từ
nhân duyên sanh ra, các pháp lại theo
nhân duyên mà diệt.
Nhân duyên hòa hợp thì
pháp thành,
nhân duyên ly tán thì pháp
bại hoại tan rã. Trong mỗi pháp thì tự nó có
quả báo nhân duyên. Đối với pháp đen thì dùng pháp trắng để trị, và pháp trắng thì dùng pháp đen mà
đối trị. Cũng như bệnh
tham dục thì phải cần
quán bất tịnh để
đối trị, bệnh
sân hận thì dùng
tâm từ bi
đối trị còn bệnh
ngu si thì dùng
trí tuệ bát nhã đối trị.
Tất cả trên
thế gian đều là không, chẳng có tướng ngã, chẳng có tướng nhơn, không có
phân biệt nam nữ. Các ông thấy kia, gió đông thổi ngã cây
đại thọ, hoặc là sương tuyết làm héo nụ hoa, làm cho cây cỏ khô gãy nhưng khi gặp gió xuân mưa nhẹ thì
tự nhiên đâm chồi nẩy lộc. Các pháp
rối loạn rồi cũng
trở về với
tính an bình của
vũ trụ.
Một chút bệnh tật của thân tôi, đó là khi các pháp
rối loạn.
Chúng ta có thể dùng thủy
cam lồ của
Đức Phật và
thiền quán thì bệnh của tôi sẽ được chóng lành.
Đa tạ các vị
cực nhọc đến đây,
hiện tại thân tôi rất
an ổn tự tại.
Trời Đế Thích nghe xong rất
hoan hỷ,
đảnh lễ tôn giả và cùng các thiên nhơn
trở lại cõi trời.
Tu Bồ Đề nhìn theo họ và ngâm:
Thế Tôn khai
thị chúng ta
Bệnh khổ, pháp Phật mới hay trị lành
Chẳng cần đợi bệnh lo tu
Bình thường cốt
yếu Văn, Tư rồi Hành
Cơ duyên chứng ngộ sẵn dành
Sám hối nghiệp chướng mới đành
an tâmTin lý nhân quả thậm thâmTích chứa
phước huệ để
tăng đạo mầu
Đó là diệu được
trong đờiTrị lành mọi bệnh, mọi thời khổ đau.
Thuyết
Lý Không Trên Hội
Bát NhãTu Bồ Đề trí tuệ thật là
thâm sâu huyền diệu, chẳng những
tôn giả có thể
nhận thức những
lời khen chê của
thế gian để
giải thoát cho mình ra khỏi mọi
ràng buộc của
vật chất mà
tôn giả còn có thể dùng trí
Bát Nhã và
thiền quán để
giải trừ bệnh khổ của
thân tâm.
Một hôm, trên hội
Bát Nhã,
Đức Phật bảo
Tu Bồ Đề:
- Này Tu Bồ Đề! Ông rất có
biệt tài, thể hợp
sâu xa lý
chân Không. Hôm nay các vị
Bồ Tát nhóm hợp ở đây, ông có thể
giải thích pháp
tương ứng của
Bát Nhã Ba La Mật cho họ để giúp cho sở học của các vị ấy thêm đầy đủ để cùng nhau
nỗ lực tinh tấn tu hành.
Phật nói như thế,
chúng hội đều biết
pháp môn Bát Nhã là
pháp môn cao
thâm huyền diệu nên
mọi người đều nghĩ rằng:
-
Tôn giả Tu Bồ Đề có thể dùng
trí tuệ biện tài của mình để
tuyên thuyết pháp
vi diệu như thế chăng? Hay là nương sức
oai thần của
Đức Phật mà nói ra?
Tu Bồ Đề biết tâm của
hội chúng, bèn nói:
- Từ mệnh của
Thế Tôn không thể cãi lại, chúng
đệ tử khi thuyết giáo, không kể là
giáo pháp cạn sâu, như nếu nói được khế lý,
khế cơ đều là nhờ
oai thần của Phật. Nương sức của Ngài mà nói pháp, khuyên người
tu học mới là
đạt được bổn thể của các pháp, mới là
tương ứng với
thật tướng của các pháp và mới có thể
thông đạt được
tâm lý của
Thế Tôn.
Hôm nay tôi vâng
oai thần của Phật,
tuyên thuyết về lý
tương ứng của
Bát Nhã Ba La Mật trong sự
tu học Bồ-tát đạo, đó chẳng phải là sức
trí huệ biện tài của tôi.
Lời nói của
Tu Bồ Đề rất khiêm nhượng và
cung kính.
Tôn giả nói xong lại
đảnh lễ Đức Phật và thưa:
- Bạch Thế Tôn!
Đệ tử vâng lời dạy của Ngài, nói về pháp
tương ứng giữa
Bồ Tát và
Bát Nhã Ba La Mật, nhưng có pháp nào là Bồ-tát đâu? Pháp nào là
Bát Nhã Ba La Mật đâu? Con chẳng thấy có pháp tên gọi Bồ-tát, cũng chẳng thấy có pháp tên
Bát Nhã Ba La Mật. Trên danh xưng của hai pháp ấy, con cũng chẳng
phân biệt. Con dùng
nhận thức nầy mà nói về sự
tương ứng giữa Bồ-tát và
Bát Nhã Ba La Mật. Bạch Thế Tôn! Cung thỉnh
Thế Tôn từ bi khai thị trước, con có thể làm đầy đủ sở học cho các Bồ-tát chăng?
Đức Phật hoan hỷ trả lời:
- Này Tu Bồ Đề! Bồ-tát chỉ là danh từ để gọi Bồ-tát,
Bát Nhã Ba La Mật cũng chỉ là danh từ để gọi
Bát Nhã Ba La Mật. Danh xưng Bồ-tát và
Bát Nhã Ba La Mật cũng chỉ là danh xưng mà thôi. Điều ấy vốn không sanh chẳng diệt.
Tuy nhiên, để tiện ở trong, không phải ở ngoài, cũng không ở khoảng giữa,
xưa nay là
bất khả đắc. Nếu như nói rằng: “ngã” cũng chỉ có
giả danh vì bổn thể của ngã
xưa nay vốn chẳng
sanh diệt. Các
pháp hữu vi như mộng, như
tiếng vang, như hình bóng, như huyển hóa, như sóng nắng và như bóng trăng
dưới nước. Do đó, Bồ-tát muốn
chứng đắc pháp
bất sanh,
bất diệt thì
cần phải tu học giả danh và
giả pháp của Bồ-tát và
Bát Nhã Ba La Mật. Tu Bồ Đề! Bồ-tát
tu học Bát Nhã Ba La Mật, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thường và
vô thường, vui và khổ, ngã cùng
vô ngã, không với
bất không,
hữu tướng và
vô tướng,
hữu vi với
vô vi, cấu với tịnh, sanh với diệt, thiện với ác,
hữu lậu với
vô lậu,
thế gian với
xuất thế gian,
luân hồi với
Niết Bàn là để
loại bỏ cái chấp của sự
phân biệt, đối đải. Này Tu Bồ Đề! Vì sao nói như thế? Khi Bồ-tát
tu học Bát Nhã Ba La Mật thì không nên đối với các pháp mà
phát khởi tâm
phân biệt. Vì thế khi Bồ-tát tu sáu
pháp Ba La Mật và những hạnh khác, cũng không thấy có tên gọi Bồ-tát, không có tên gọi
Bát Nhã Ba La Mật. Bồ-tát chỉ nên cầu
nhứt thiết trí để thấu hiểu
thật tướng của
vạn pháp mà
thật tướng chính là
vô tướng. Tu Bồ Đề! Tu
Bát Nhã Ba La Mật như vậy, đối với tất cả pháp mà
không chấp trước, mới hỗ trợ
hoàn thành công tu
Bát Nhã, mới tấn nhập
hành giả vào chánh vị, mới có thể trụ ở
địa vị bất thối, đầy đủ
thần thông, dạo chơi các
cõi Phật,
hóa độ lợi lạc chúng sanh,
trang nghiêm Phật độ, tự mình an trụ nơi
cảnh giới tự tại.
Tu Bồ Đề! Sắc, có phải là Bồ-tát không? Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Bồ-tát ư? Địa, thủy, hỏa, phong, không, thức là Bồ-tát ư? Người ta lìa hết sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý, địa, thủy, hỏa, phong, thức là Bồ-tát ư?
Tu Bồ Đề thưa:
- Bạch Thế Tôn! Tất cả những thứ kể trên đều chẳng thể gọi là Bồ-tát.
Phật hỏi lại:
- Tu Bồ Đề! Ông nói những thứ ấy không phải là Bồ-tát, vì cớ gì? Có thể nói rõ được chăng?
- Bạch Thế Tôn!
Chúng sanh xưa nay là chẳng thể biết, chẳng thể được, không thể là thứ pháp gì,
cho đến Bồ-tát cũng là như thế. Nếu còn
chấp có chấp không và không lìa xa được
vọng chấp thì không thể gọi là Bồ-tát được.
- Phật dạy:
- Này Tu Bồ Đề! Ông nói ông không thấy có pháp gọi là Bồ-tát và tên Bồ-tát. Bồ-tát
tu tập Bát Nhã thì không thấy một pháp nào mới có
thể không còn
sợ hãi và
tâm không trụ nơi pháp mới không
hối hận về sau. Như lời ông nói, Bồ-tát mà
tu tập Bát Nhã cũng không được gọi Bồ-tát , đó mới thật là Bồ-tát và mới thật là
Bát Nhã Ba La Mật.
Trong số ngàn vạn
thính chúng tại hội
Bát Nhã, vì các
đại Bồ tát mà thuyết giáo,
Đức Phật và
tôn giả Tu Bồ Đề kẻ vấn người đáp để
thuyết minh cái
sâu xa vi diệu của
chân lý “Không”.
Đại đệ tử của Phật thì rất nhiều, nhưng chỉ có
tôn giả Tu Bồ Đề là người
duy nhất có khả năng
thông hiểu và thể chứng nền tảng
triết học “không” một cách tường tận.
Thật vậy,
tôn giả Tu Bồ Đề được
tôn kính trong khắp
tăng chúng không những về
Phật pháp cao sâu,
u huyền và rộng lớn mà Ngài còn là một tấm
gương sáng chói về
đức hạnh của một vị
thánh tăng đã quên cả thân mình ngỏ hầu giúp
chánh pháp được hưng thịnh
mãi mãi ngàn đời về sau.