THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Tôn Giả A Nan, Đệ Nhất Đa Văn (Ananda)
Trong số các
đại đệ tử của Phật thì
A Nan là người có
tướng mạo trang nghiêm và
trí nhớ mạnh mẽ nhất. Ngay cả
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi còn phải khen ngợi Ngài như sau:
Tướng như trăng thu đầy
Mắt biếc tợ sen xanh
Phật pháp rộng như bể
Đều rót vào tâm
A Nan.
Phụ thân của
A Nan là
Bạch Phạn Vương, còn
Đề Bà Đạt Đa chính là anh ruột của Ngài. Khi
Đức Phật trở về cung
thành Ca Tỳ La Vệ để thăm lại phụ vương và
gia đình, thì
Bạch Phạn Vương lo sợ
A Nan bị
ảnh hưởng về
tư tưởng xuất thế của Phật cho nên gặp Phật không lâu thì
Bạch Phạn Vương bèn đưa
A Nan sang nước
Tỳ Xá Ly để cho Ngài không có cơ hội thường
tiếp xúc với Phật. Khi
Đức Phật đi
hoằng pháp tại
Tỳ Xá Ly thì nhà vua lại đưa
A Nan trở về thành Ca Tỳ La Vệ.
Buổi gặp gở đầu tiên khi vừa mới thấy
A Nan thì
Đức Phật đã thầm nghĩ:” Nếu như
A Nan xuất gia thì tương lai có thể là một
nhân tài phi phàm xuất chúng làm cho
Phật pháp được
lưu truyền mãi mãi ở
hậu thế.” Một nhân vật vĩ đại thì điều quan trọng là phải chọn người có thể nối tiếp
sự nghiệp của mình.
Quả thật là
nhân duyên bất khả tư nghị, bởi vì trong số rất đông các vương tôn công tử thì
Đức Phật lại đặt niềm
hy vọng nhiều nhất ở
A Nan.
Lúc biết
A Nan đã
trở về Ca Tỳ La Vệ thì Phật bèn
lập tức quay về, đến ngay cung điện của
Bạch Phạn Vương và ngự tại phòng kế bên phòng của
A Nan.
A Nan mở cửa ngó qua, thấy
Đức Phật bèn
cung kính đảnh lễ và lấy quạt quạt cho
Đức Phật.
Thái độ của
A Nan đã cho thấy rằng
tâm hồn thơ bé của Ngài đã sớm khởi
lòng tin tưởng
cung kính đối với
Đức Phật. Khi
nhân duyên đã đến,
A Nan cùng với sáu vương tử khác là
A Na Luật,
Đề Bà Đạt Đa,
Kiếp Tân Na,
Bà Sa,
Bạt Đề và
Nan Đề đồng lén
bỏ nhà tìm đến với Phật. Trong số bảy vương tử nầy thì
A Nan là người nhỏ tuổi nhất. Khi đến mé rừng
Ni Câu Đà thuộc làng Di Na thì họ cởi bỏ
y phục, cạo râu tóc, khoác lên mình những chiếc
cà sa và đến
yết kiến Phật.
Đức Phật chưa cho họ nhập
tăng đoàn ngay mà bảo họ đến ở trong một
tịnh thất để
tịnh tọa một
tuần lễ cho quên hết thân thế cao sang của mình, rồi sau đó mới chánh thức cho
xuất gia và ra mắt
đại chúng.
Giúp
Thành Lập Ni Đoàn
Vì
xuất gia từ lúc nhỏ nên
A Nan lớn lên trong
tăng đoàn. Với thiên tánh
ôn hòa từ bi,
dung mạo truyền cảm cho nên
tôn giả là một nhân vật được phái nữ cả bên trong và bên ngoài
tăng đoàn tôn kính.
Khi nói về
duyên khởi để cho
phụ nữ được
Đức Phật cho phép xuất gia thì
hoàn toàn là do
công lao của
tôn giả.
Số là bà
dưỡng mẫu Ma ha Ba xa ba của Phật
nhận thấy rằng
Đức Phật sau khi
thành đạo trong vòng năm năm mà tất cả các vương tử như
Bạt Đề,
A Nan …đều
quy y theo Phật, ngay cả vương tôn
La Hầu La cũng đã là
Sa Di. Rồi vua
Tịnh Phạn cũng băng hà do đó trong
hoàng cung bây giờ thật là yên lặng và
cô đơn. Do
thiện căn bắt đầu nẩy mầm, bà bèn đến xin Phật
cho phép được
xuất gia để ở trong
tăng đoàn mà
tu học chánh pháp.
Bà
yêu cầu lần thứ nhất, Phật liền từ chối. Không nản chí bà lại
tiếp tục yêu cầu đôi ba phen, nhưng lần nào cũng không được Phật
chấp nhận. Về sau
Đức Phật sợ bị bà
dưỡng mẫu kèo nài
phiền phức bèn dẫn tất cả
đệ tử sang
thuyết pháp tại
tịnh xá Na Ma Đề Ni thuộc nước
Tỳ Xá Ly.
Dưỡng mẫu nhất định không nản lòng, bà bèn tập họp những mệnh phụ
phu nhân của
dòng họ Thích mà trong đó có cả
công chúa Da Du Đà La. Họ đồng nguyện cắt bỏ tóc,
đi chân đất và thay thế áo quần cao sang lòe loẹt bằng những bộ
cà sa đơn giản. Họ bắt đầu rời
thành Ca Tỳ La Vệ để đến
tịnh xá Na Ma Đề Ni. Các vị
phu nhân tiểu thư nầy từ trước tới giờ quen ở thâm cung, lên xe xuống lầu và không hề động đến đến móng tay mà bây giờ thì đầu trần, chân đất lội bộ suốt mười mấy ngày trường với
thiện tâm được Phật thu nhập vào
tăng đoàn và sau cùng họ cũng đến được
Tỳ Xá Ly.
Khi đến
Tỳ Xá Ly thì trời đã về chiều. Vì không quen
cực nhọc đường xa nên
ai nấy hình dung tiều tụy, thở chẳng ra hơi và cả đoàn cứ
loanh quanh lẩn quẩn trước
tịnh xá mà không dám vô. Thời may
A Nan trong
tịnh xá đi ra và Ngài không khỏi
bàng hoàng kinh ngạc khi thấy
Dưỡng Mẫu,
công chúa Da Du Đà La và bao nhiêu người nữ
dòng họ Thích khác đều mặc
cà sa mà bụi bặm đen đúa và nước mắt đầm đìa. Còn chân của họ thì sưng lên và chảy máu trông rất
thảm thiết.
A Nan vốn giàu tình cảm, cố gạt nước mắt mà hỏi:
- Các bà làm gì ở đây?
Dưỡng mẫu đáp:
-
Chúng tôi vì muốn
cầu đạo, cắt ái từ thân,
bỏ nhà đến đây
cầu xin được thế độ. Nếu như lần nầy Phật không
cho phép thì
chúng tôi nguyện
liều chết tại đây chớ không về.
A Nan nghe
Dưỡng Mẫu vừa nói vừa rơi nước mắt, bèn
an ủi:
- Các vị hãy yên tâm! Tôi chỉ thấy
tình cảnh các vị như thế này trong lòng
hết sức áy náy. Các vị hãy chờ ở đây một lát, tôi sẽ vào xin
Đức Thế Tôn dùm cho.
A Nan vội trở vào
tịnh xá, đem hết nguyện vọng của
Dưỡng Mẫu thưa lên
Đức Phật để khẩn cầu Phật
thương xót cho họ được
xuất gia.
Nghe xong, Phật từ chối và dạy rằng:
- Ta cũng thương cho bọn họ đấy, nhưng vì sự
truyền thừa chánh pháp nên không thể
chấp nhận được.Ông ra bảo họ rằng ta không bằng lòng.
A Nan không chịu đi ra mà cố
nài nỉ với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu là ai khác thì con có thể từ chối được, nhưng đàng nầy là
Dưỡng Mẫu, nếu
nói thẳng chắc là sẽ có chuyện không hay. Họ đã nói, chẳng thà chết chứ không chịu về.
Phật dạy:
- Này A Nan!
Chấp nhận cho người nữ
xuất gia trong
tăng đoàn thật chẳng tiện chút nào.
A Nan cố xin dùm cho phái nữ nên ra sức
vận động:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ
Phật pháp lại
phân biệt nam và nữ hay sao?
Phật dạy tiếp:
- Này A Nan! Pháp của ta thì dù ở
cõi người,
cõi trời đều là một. Ta không lựa riêng nam hay nữ vì tất cả đều là
chúng sanh đáng thương nên ta đều đối xử với
mọi người bình đẳng. Người nữ có thể
tin theo pháp của ta như bên nam giới. Họ
tu hành như nhau và
chứng quả như nhau,
chỉ không nhất định là họ phải
xuất gia. Đây là
vấn đề pháp chế, không phải
vấn đề nam nữ bình đẳng. Người nữ
xuất gia thì cũng như đám ruộng tốt sanh sản nhiều cỏ dại, không gặt hái được bao nhiêu.
Đức Thế Tôn nhìn xa thấy rộng nên
lời nói của Ngài hàm chứa
ý nghĩa sâu xa. Nếu dựa
theo quan niệm tình người thì việc
nữ giới được
xuất gia là
thích đáng, nhưng nếu đứng về
phương diện lý pháp thì việc
nam nữ cùng
tu học chung một
tịnh xá là một việc khó
giải quyết. Bởi vì
trí tuệ và tình cảm là hai đường đối nghịch nhau và đây là
lý do tại sao Phật không
cho phép người nữ
xuất gia. Người nữ thì rất nặng tình cảm vì thế họ có thể vì tình mà
bỏ đạo và đây là điều mà Phật không thể
chấp thuận.
Hoặc giả là
nữ nhân cao tâm
ngã mạn,
ham danh nặng hơn nam giới nên Phật mới làm khó để dạy cho họ một bài học chăng?
Thấy Phật cứng rắn,
A Nan bản tính vốn
ôn hòa chưa từng cãi
Đức Phật một câu nên chỉ còn
rơi lệ sụt sùi
đảnh lễ mà
bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Ngài
nhẫn tâm để họ chết mà không đưa tay
từ bi cứu độ?
Phật thấy rằng trên đời nầy, lý pháp và tình cảm cũng có khi không thể vẹn toàn. Ngài cũng biết rõ mối quan hệ
nhân duyên, không thể có một pháp nào trên đời nầy mà
thanh tịnh, thường trú
bất biến mãi mãi được nên Ngài bất đắc dĩ bảo
A Nan:
- A Nan! Ta chẳng còn cách nào hơn. Thôi, hãy ra kêu họ vào đây.
A Nan vui mừng vội vàng chạy ra báo tin vui,
Dưỡng Mẫu và đoàn người
nghe tin đều mừng rỡ đến rơi nước mắt.
Họ theo nhau vào
diện kiến Đức Phật. Ngài
thản nhiên và
ôn hòa cho phép họ được
xuất gia làm
tỳ kheo ni, nhưng bắt họ phải giữ đúng tám giới. Đây chính là những
ni cô đầu tiên trong
tăng đoàn của
Đức Phật.
Với sự trợ giúp của
A Nan mà sau cùng một ni đoàn được
thành lập, bà
Dưỡng Mẫu rất cảm kích đối với ơn của
A Nan mà
thành khẩn nói lên sự
vui mừng của mình:
- A Nan!
Chúng tôi vâng giữ tám
giới luật (bát
kinh pháp) cũng như người đẹp mà được mặc
y phục mỹ lệ vậy.
Do
nhân duyên ấy mà phái nữ đối với
tôn giả rất mực kính ngưỡng dù ở trong hay ngoài
tăng đoàn.
Nàng
Ma Đăng GiàVẻ đẹp và
tuổi trẻ của
A Nan đã gây ra nhiều chuyện
phiền phức rối ren và
câu chuyện về nàng
Ma Đăng Già đã là đề tài mà
Đức Phật thuyết
bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm để giúp
A Nan và
tứ chúng tìm lại cái
chơn tâm của mình.
Một hôm sau
mùa an cư kiết hạ,
A Nan bưng
bình bát vào thành
Xá Vệ để
khất thực. Trên đường đi ngang qua một giếng nước, thấy có một cô gái dòng
Thủ Đà La đang lui cui xách nước thì Ngài
cảm thấy khát bèn đến bên giếng và nói:
- Cô nương! Xin
bố thí cho tôi miếng nước.
Cô gái
ngẩng đầu lên thì thấy một vị
tỳ kheo trẻ tuổi
trang nghiêm và nhận đó là
tôn giả A Nan. Cô vội nhìn xuống
phục sức của mình và thẹn thùng nói nhỏ:
- Thưa tôn giả! Tôi không tiếc chi với Ngài, nhưng tôi thuộc dòng hạ tiện thì làm sao có thể
cúng dường cho Ngài?
A Nan an ủi:
- Này cô nương! Tôi là
tỳ kheo nên không có tâm
phân biệt cao thấp sang hèn đâu.
Cô gái bèn
vui vẻ đem gàu nước
trong trẻo đưa cho
A Nan.
Tôn giả uống xong, thốt lời cám ơn và
lặng lẽ tiếp tục đi.
Mối tình đầu chớm nở trong lòng cô
thiếu nữ làm cô không ngăn nỗi tia nước mắt
lưu luyến đưa theo
hình ảnh A Nan. Dáng dấp
quý phái cao sang của vương tôn công tử ngày nào vẫn
phảng phất đâu đây và với lời lẽ
ôn hòa ấy như một nét mực đậm in trên
tâm hồn trong trắng của cô
vĩnh viễn không thể
xóa nhòa. Tệ hại hơn nữa là cô
ước mơ nếu được kết hôn với
A Nan thì
hạnh phúc biết bao nhiêu.
Cô
Ma Đăng Già về nhà mà bơ phờ như người
mất hồn. Cô không còn thiết tha gì đến việc
ăn uống, làm việc cũng như mọi thứ trên đời nầy. Bà mẹ thấy
vậy thì cố gạn hỏi
nguyên do.
Ban đầu thì cô không chịu nói, nhưng rồi sau cùng cô
thú thật đã yêu và muốn lấy
A Nan làm chồng. Bà mẹ
rất đỗi ngạc nhiên vì chẳng những
A Nan đã đi tu làm
tỳ kheo mà ông ta lại thuộc dòng
hoàng tộc thì làm sao mà cưới cho được. Nhưng vì quá thương con, bà đi thỉnh một đạo bùa chú của
ngoại đạo và đợi lúc
A Nan đi
khất thực ngang nhà sẽ dùng tà thuật để
mê hoặc Ngài.
Khi
A Nan đi ngang qua nhà thì cô đứng trước cửa cười chúm chím và đưa tay vẫy.
A Nan mê mẫn bước vào trong nhà. Ma chú có
linh nghiệm hay không thì điều đó không thể biết được mà chỉ biết là
A Nan cũng còn nhớ cô gái bên giếng nước. Cô gái vừa mừng vừa thẹn lính quýnh cả lên thì ngay
lúc ấy A Nan sực nhớ ra mình là một
tỳ kheo.
A Nan liên tưởng đến
Đức Phật và
đồng thời Đức Phật dùng
thần thông mà nói chú Lăng Nghiêm để
gia hộ cho
tôn giả trí tuệ được
sáng suốt trở lại. Đây chính là
Phật lực đã đưa
A Nan trở về tịnh xá Kỳ Viên.
Ngày hôm sau,
A Nan bình tĩnh đi vào thành để
khất thực như mọi ngày, nhưng cô
Ma Đăng Già thì áo quần lộng lẫy, người đeo
tràng hoa, đứng bên đường như chờ đợi
A Nan. Vừa thấy
tôn giả, cô bèn
lẽo đẽo theo sau một bên. Trước
tình cảnh tấn thối
lưỡng nan nầy,
A Nan chỉ còn một cách là
quay về tịnh xá mà bạch với
Đức Thế Tôn mà thôi.
Đức Phật bảo
A Nan gọi cô ta đến và Ngài sẽ đích thân nói chuyện với cô ta.
A Nan vừa ra tới cổng đã thấy cô ta còn đứng chờ ở đó,
A Nan bèn nói:
- Tại sao cô
cứ theo tôi mãi như vậy?
Ma Đăng Già đáp:
- Thầy thiệt là ngốc mới đi hỏi một câu lẩn thẩn đến thế.
A Nan nói tiếp:
-
Đức Thế Tôn muốn gặp cô, mời cô theo tôi vào
tịnh xá.
Nghe nói đến
Đức Thế Tôn thì cô gái có vẻ lo sợ nhưng vì muốn đoạt cho được
A Nan nên cô lấy hết
can đảm đến gặp Phật. Phật thấy cô bèn nói:
-
A Nan là người tu, nếu muốn làm vợ
A Nan thì
điều kiện cần yếu trước tiên là phải
xuất gia tu đạo một năm. Cô có chịu không?
Ma đăng Già đáp mà không cần
suy nghĩ:
- Phật Đà! Con bằng lòng.
Cô gái không ngờ
Đức Phật từ bi quá đỗi nên đưa
điều kiện hết sức dễ dàng để
tác thành cho cô vì
thế cô chấp nhận một cách rất mau lẹ.
Thấy cô gái
hoan hỷ, Phật dạy tiếp:
- Theo phép
xuất gia của ta là phải có
cha mẹ bằng lòng. Cô có thể mời
cha mẹ đến
chứng minh được không?
Đức Phật thật ra không muốn làm khó dễ cô bởi vì
điều kiện của Ngài cũng dễ thôi. Cô liền về nhà và dắt mẹ đến. Chính bà mẹ cô cũng
vui mừng trước
Đức Phật để cô gái
xuất gia tu hành rồi sau sẽ kết hôn với
A Nan.
Nàng
Ma Đăng Già vì muốn làm vợ
A Nan nên rất cao hứng mà
cạo tóc, mặc
áo cà sa và
trở thành tỳ kheo ni. Cô đem hết nhiệt tâm nghe
Phật thuyết pháp và cũng rất
tinh tấn y theo lời chỉ dạy của Phật mà
tu tập. Ở trong Ni đoàn, cô
hòa hợp với các sư tỷ, sư muội và các
sinh hoạt theo
Phật pháp.
Biển ái, tình si của cô
dần dần lắng dịu.
Xuất gia chưa được nửa năm mà cô đã
thức tỉnh rằng
thái độ của mình trước đây thật là
hổ thẹn.
Đức Phật thường
thuyết giảng rằng
ngũ dục là pháp
bất tịnh và chính là nguồn gốc của mọi khổ đau. Loài thiêu thân
ngu si tự ném mình vào lửa để bị thiêu rụi. Con tằm
vô tri làm kén để tự trói mình. Nếu
chúng sinh trừ bỏ được
ngũ dục thì
nội tâm mới
thanh tịnh và nhờ đó cuộc sống mới
an ổn được.
Giờ đây, cô tự
biết mình mê đắm
A Nan là một
lý tưởng bất thiện và
bất định nên cô
hối hận vô cùng. Một hôm, cô quỳ dưới
chân Phật, khóc
sám hối:
- Bạch Thế Tôn! Con đã
tỉnh mộng. Con không dè lúc trước con
ngu si đến mức như vậy. Hôm nay con chứng được
thánh quả, được
xem như qua mặt
A Nan nên con rất cảm kích ân của
Thế Tôn. Ngài vì
hóa độ bọn
chúng sanh ngu muội như con đã dùng
hết phương tiện và nhọc lòng dạy dỗ. Từ nay về sau, con nguyện
suốt đời làm
tỳ kheo ni, theo chân
Đức Thế Tôn làm một
sứ giả cho
chân lý.
Sự giáo hóa khẩn thiết của
Đức Phật,
cuối cùng đã thấm nhập vào
tâm hồn của
thiếu nữ. Cô đã
giác ngộ mà thấy đời rất
thanh lương và sau đó
trở thành một
tỳ kheo ni mẫu mực.
Nàng
Ma Đăng Già đã
nổi danh và cũng là một
chứng tích trong lịch sử của
Phật giáo.
Đức Phật vì
lòng từ bi đã giúp cho một cô gái dòng hạ tiện được
xuất gia. Chính điều nầy đã làm cho nhiều người
phê bình, chống đối, nhưng đối với bậc
đại thánh Phật Đà thì Ngài đã nêu lên chủ trương
bình đẳng như trăm sông đều chảy về biển cũng như bốn
chủng tộc mà
xuất gia đều là
Thích tử.
Nàng
Ma Đăng Già vì yêu mến
dung mạo của
A Nan mà sau cùng đã chuyển họa thành phước và đây là một tấm
gương sáng cho tất cả
chúng sinh còn đắm chìm trong
ngũ dục.
Đạo Pháp Và Tình Cảm
Vì có dáng mạo thanh cao
đẹp đẽ và
con người rất giàu tình cảm nên
tôn giả A Nan chẳng những đã bị các cô gái
thế tục theo đuổi mà
cho đến các
tỳ kheo ni cũng thầm thương trộm nhớ Ngài.
A Nan đối với
ni giới lúc nào cũng giúp đỡ tận tình nên các
tỳ kheo ni đối với
tôn giả luôn luôn một mực
cung kính. Đôi khi
A Nan cùng
Đại Ca Diếp trên đường đi
hoằng pháp, ghé ngang
tịnh xá của các
tỳ kheo ni thì các cô đồng thỉnh
A Nan khai thị trước rồi sau mới mời
Đại Ca Diếp. Nếu nói về
phương diện tôn ti trong
tăng đoàn thì
Đại Ca Diếp đã
chứng quả A La Hán còn
A Nan thì chưa, còn luận về tuổi tác thì
A Nan còn rất trẻ đáng hàng con cháu của
Đại Ca Diếp, nhưng đối với các vị
tỳ kheo ni thì không
để ý đến chuyện nầy.
Đứng về
phương diện tâm lý thì cuộc sống của người
xuất gia như một bãi chiến trường.
Lý trí và tình cảm giao tranh
với nhau trong tâm tư của họ. Nếu
lý trí thắng thì họ tu
đắc đạo còn
đi theo tình cảm thì
dĩ nhiên vẫn là
phàm phu tục tử mà thôi. Nhưng không thể nào
lý luận rằng mỗi vị
xuất gia đều
lạnh lùng như cây khô, như
xác chết và không còn một chút
ái tình đối với
thế gian.
Cũng vì cái phong tư
thanh nhã mà trong lúc ở tại
tịnh xá Kỳ Viên có một
tỳ kheo ni trẻ tuổi đã đem dạ mến thương
A Nan nên cô ngày đêm ôm ấp hình bóng của Ngài. Tuy cô thầm thương trộm nhớ
A Nan, nhưng vì
giới cấm quá khắc khe nên cô không thể làm gì hơn là chỉ nhìn lén
tôn giả mà thôi.
Một hôm, vị
tỳ kheo ni nầy có bệnh nên cô nhờ người thưa lại với
A Nan rằng:
- Thưa tôn giả!
hiện giờ con đang bệnh nặng biết không còn
hy vọng bao nhiêu, xin
tôn giả từ bi đến thăm
một lần.
Lời
yêu cầu đáng thương như vậy làm cho
tôn giả động tâm nên sáng hôm sau
tôn giả đắp y mang bát đi
khất thực và
thuận tiện ghé thăm. Vị
ni cô nầy bị bệnh nên
y phục không được
chỉnh tề, không ngồi dậy mà nằm trên giường nhìn
A Nan trân trối bằng cặp mắt
đa tình lẳng lơ.
A Nan thấy
thái độ lãng mạn của cô, không
vừa ý, liền quay lưng bỏ đi mà không hỏi han gì cả. Vị
ni cô nầy thấy
hành vi bất mãn của
tôn giả đối với mình nên sanh lòng
hổ thẹn do đó cô
vội vàng ngồi dậy,
đắp y và trải
tọa cụ để thỉnh
A Nan trở lại.
A Nan liền khai thị:
- Này cô! Không nên dùng vật
bất tịnh nuôi thân, không nên dùng
kiêu mạn nuôi tâm, không nên chứa chấp
tư tưởng tham ái và
ý niệm tham dục. Này cô, khi đau bệnh nên để
thân tâm an trụ nơi
cảnh giới vô sở cầu thì mới mau
lành mạnh.
Cô
tỳ kheo trẻ tuổi bây giờ hình như quên đi
thân phận xuất gia của mình mà
đưa mắt nhìn A Nan một cách tình tứ và nói:
- Chẳng phải tôi không biết
đạo lý mà
tôn giả vừa nói, nhưng đối với tôi, không được
ăn ngon hay mặc đẹp thì tôi cũng chịu nổi, chỉ vì tình cảm của tôi với
tôn giả là khó xử mà thôi. Tôi đã
hết sức chế ngự mà không được. Người ta ai cũng muốn yên thân, yên tâm và
dĩ nhiên là ai ai cũng có một điều
mong ước chứ.
A Nan thuyết giảng tiếp:
- Này cô! Không nên nghĩ như vậy.
Chúng ta đi xin
thức ăn áo mặc là để
giữ gìn cái
thân mạng mà
tu đạo. Có
tu đạo mới có thể
an tâm.
Bỏ quên đạo lý chạy theo tìm cầu những
dục lạc giả dối cho thân mình là một điều
lầm lẫn. Người thợ thoa dầu vào bánh xe là để cho xe dễ chạy, còn người có bệnh ghẻ xức dầu trên mình không phải là để trang điểm mà cũng không phải là vì
dục lạc mà chỉ có
mục đích trị bịnh mà thôi. Nếu
chúng ta muốn
thân tâm thanh tịnh thì
cần yếu là phải đoạn trừ
ý niệm ái dục, lìa tâm
ham vui và xa rời tâm
hữu lậu để mong
đạt được chân lý vĩnh hằng. Kẻ
tu hành thì đừng để cho các pháp
vô thường hư huyển làm
mê hoặc mà hỏng đường tu thì phí
cả đời mình.
Tỳ kheo ni nghe rồi quá
xúc động vì
nhận biết hành động
sai lầm ngu muội có thể giết chết
cuộc đời tu hành của mình vì
thế cô ta liền dứt sạch
tâm niệm ái dục và chứng được pháp nhân.
A Nan vì những chuyện của
nữ nhân mà thường chuốc vào thân những điều
phiền phức.
Tôn giả bị người
ganh ghét,
phê bình và
đố kỵ nhiều khi cũng làm cho
Đức Thế Tôn quan tâm không ít.
Tôn giả thì
hoàn toàn không giống như
Ca Lưu Đà Di vì Ngài không đeo đuổi các cô mà ngược lại thì các cô cứ nhắm mắt
chạy theo Ngài. Dù cho
tôn giả đối với
nữ giới có
chân chính cách mấy mà trong
Phật giáo bất cứ việc gì
dính dáng đến phái nữ thì chẳng lấy làm
vinh dự lắm vì
nam nữ luyến ái nhau tuy chẳng phải là
tội ác lớn nhưng vốn là
hành vi bất tịnh.
Một hôm, Phật đang
hoằng pháp tại nước
Xá Vệ thì có nhóm
Phật tử làm rất nhiều bánh in đem đến
cúng dường. Phật dạy
A Nan đem bánh
phân chia cho các
tỳ kheo.
A Nan chia xong, còn dư bánh khá nhiều nên Phật lại bảo đem chia cho những người nghèo trong vùng.
A Nan vâng lời liền nhóm hợp hết những người bần khổ đến lãnh bánh. Có đến ngàn người kéo đến, nhưng
A Nan tính số bánh với số người thì
vừa đủ mỗi người một cái.
Khi
A Nan đang chia bánh thì trong số lãnh phần có một
thiếu nữ xinh đẹp thuộc nhóm
ngoại đạo. Khi chia đến cô thì oái oăm thay phần bánh lại có hai cái dính chung gỡ không ra.
A Nan không biết tính sao bèn đưa hết cho cô ấy. Đối với
A Nan thì Ngài không có ý
bất chánh hay hành động
tà dâm, nhưng vì tính
hiếu kỳ mà người đời xì xầm
với nhau rằng:
- Thầy
A Nan đẹp trai nên đem cho cô gái kia hai phần bánh in nồng nàn thì chắc hai đàng đã
quen biết với nhau. Chắc họ có
tình ý gì rồi chăng?
A Nan nghe mấy lời
bàn tán thì trong lòng
không vui. Nhưng thật ra miệng người
thị phi độc ác cho dù kẻ
tu hành có tâm
nhẫn nhục cách mấy đi chăng nữa cũng khó mà giữ cho tâm mình được
thanh tịnh.
Đức Phật thường dạy các
đệ tử nên tránh mọi cơ hiềm của
thiên hạ. Nhất là
vấn đề nam nữ. Chẳng cần biết ông
tu hành chín chắn ra sao, nếu để bị
tai tiếng dính dáng tới
nữ nhân thì
chắc chắn là sẽ gặp trăm
tai họa gởi. Phật lại dạy thêm: Thật ra đối với người chưa chứng
thánh quả mà nói
hoàn toàn không mê sắc đẹp là chuyện không thể có. Nhưng bậc
tu hành đối với
ái dục nên phòng thủ
chắc chắn và lúc nào cũng đề cao
cảnh giác.
A Nan thường nghĩ đến việc khổ phiền cũng vì chuyện đàn
bà con gái nên một hôm
tôn giả ngồi
tư duy nơi chỗ vắng và
nghĩ thầm:
- Người đời đều do
ái dục mà sanh,
sinh hoạt hàng ngày bị
nhận chìm trong
ái dục mà không biết chán. Họ vừa thích tìm cầu
ái dục cho
bản thân mà lại thích
đàm tiếu chuyện
ái dục của người khác.
Ái dục đem lại nhiều
khổ não và
tranh chấp cho
thiên hạ.
Đức Thế Tôn thường
quở trách ái dục là quá
chánh đáng.
A Nan thấm thía cho tiếng
thị phi, nên khi chiều xuống Ngài bèn đến trước Phật, đem hết những
cảm tưởng của mình mà bạch với Phật. Phật nghe xong bèn kể cho
A Nan nghe về một đoạn
nhân duyên của Ngài trong thời
quá khứ:
- A Nan! Ông
nói đúng. Người đời bị
chìm đắm trong biển dục không biết
nhàm chán. Thời
quá khứ, có một ông vua tên là Đảnh Sanh, dùng
chánh pháp ôn hòa trị dân mà không cần dao gậy mà người hung ác đều phục tùng. Nhưng nhà vua là một người
tham dục đắm sắc, khi cai trị thì đi đến đâu cũng nghe
nhân dân ca tụng đức độ, nhưng về phần
dục lạc lại quá
đam mê. Bao nhiêu
cung phi mỹ nữ trong nước còn chưa đủ nên nhà vua lại tuyển chọn thêm giai nhân của các nước khác. Nhà vua bị bao quanh trong
nữ sắc, cung tần
ái phi hầu hạ ngày đêm mà nhà vua vẫn không
vừa ý nên tính chuyện giết luôn
quốc vương nước bạn để
đoạt lấy hoàng hậu.
Rốt cuộc vì
tham dục quá độ và
chìm đắm trong bể sắc nên việc triều chính càng ngày càng bê trễ.
Cuối cùng nhân dân nổi dậy đánh đổ vương quyền và nhà vua phải chịu những ngày tàn
thê thảm.
Phật dạy tiếp:
- A Nan!
Tham dục đưa đến
tai hại như thế và vua Đảnh Sanh đó là
tiền thân của ta.
A Nan nghe Phật khai thị xong thì tự nghĩ một người rất giàu tình cảm như mình cũng giống như vua Đảnh Sanh nên càng phải
cấp tốc lìa xa
ái dục.
Trở Thành Thị Giả Của Phật
Trong khoảng thời gian Đức Thế Tôn vừa trên 50 tuổi thì Phật nghĩ đến việc chọn
A Nan làm thị giả. Phật thấy
A Nan bị nhiều nữ nạn nên Ngài muốn
tôn giả được cận kề Ngài để giữ được
bản thân mà
chuyên tâm tu đạo. Trước đó khi Phật
thành đạo không lâu thì hầu cận Ngài có hai
tôn giả Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên. Sau lại đến
tỳ kheo Na Ca
Ba La (Nigajàla) cũng từng
làm thị giả. Do đó
trong khoảng 20 năm đầu sau khi
thành đạo,
Đức Thế Tôn không có
thị giả thường trực cố định. Việc hầu cận đều do các
tỳ kheo thay phiên nhau mà thôi.
Khi
Đức Phật trụ tại
tịnh xá Trúc Lâm thì Ngài đã ngoài 50 tuổi. Các
đệ tử tỳ kheo thấy Ngài ngày càng yếu bèn
triệu tập một buổi hợp để đề cử một vị
thị giả túc trực lo cho
Đức Phật. Các
đệ tử thượng thủ hiện diện trong phiên họp nầy rất đông và người đầu tiên
đứng dậy xin
làm thị giả là
Kiều Trần Như.
Tôn giả là một trong số năm người
tu khổ hạnh với
Đức Phật khi Ngài còn đang trên đường tìm đạo. Tuổi tác của
tôn giả thì lớn hơn Phật, nhưng nguyện đem tấm
lòng thành xin
suốt đời hầu hạ Phật. Phật cảm kích nhưng
không chấp thuận vì Phật cho rằng
tôn giả già nua chỉ cần tự lo cho mình cũng đủ rồi. Kế đó cũng có nhiều vị xin
làm thị giả Phật, nhưng Ngài đều từ chối vì các vị đó
cần phải đi
hoằng pháp lợi sanh.
Lúc ấy tôn giả Mục Kiền Liên biết ý Phật bèn rủ
Xá Lợi Phất đến khuyên
A Nan:
-
Tỳ kheo A Nan! Ý
đức Thế Tôn muốn chọn ông
làm thị giả. Giống như tòa lâu đài mở cửa về phía Đông thì
ánh nắng sẽ chiếu thẳng đến vách phía Tây. Ông còn trẻ, mau mắn,
thông minh nhu hòa,
chúng tôi mong rằng ông sẽ bằng lòng.
A Nan nghe nói liền nghĩ đến
trách nhiệm quan trọng bèn từ chối.
Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên cứ khuyên mãi, lúc đó
tôn giả mới đưa ra ba
điều kiện:
- Một,
A Nan không mặc
y phục thừa của
Đức Phật, dù cũ hay mới.
- Hai, nếu có
Phật tử thỉnh Phật cúng dường,
A Nan không
đi trước.
- Ba, không phải lúc đến gặp Phật,
A Nan không đến.
Mục Kiền Liên và
Xá Lợi Phất đem ý
A Nan bạch lại với Phật về việc ra
điều kiện.
Đức Phật chẳng những không giận mà còn rất
hoan hỷ khen
A Nan:
-
A Nan thật là vị
tỳ kheo có phẩm cách. Ông ấy đưa ra các
điều kiện trên là để tránh sự tị hiềm và đó là sự
đề phòng chánh đáng.
Tỳ kheo A Nan sợ các thầy
phê bình là: Thầy
A Nan vì muốn mặc áo đẹp,
ăn ngon mới
làm thị giả. Hoặc là
A Nan vì
vật chất mới theo hầu Phật. Ông ấy biết
lo xa nên mới
yêu cầu như vậy.
Từ khi
A Nan làm thị giả Phật,
lúc ấy tôn giả khoảng 20 tuổi, thì
trong suốt 27 năm theo bên cạnh
Đức Thế Tôn,
tôn giả luôn luôn
vâng theo ý Phật, hành động theo
lời Phật dạy,
thường xuyên theo
túc trực bên Ngài để đi
giáo hóa khắp nơi. Cũng vì
nhân duyên ấy mà tất cả
biển Phật pháp đều rót vào tâm của
A Nan.
Vì mỗi ngày ở cạnh
Đức Phật nên bao nhiêu
phiền não về nữ phái cũng
thuyên giảm dần dần và
dĩ nhiên tôn giả là người
trung gian giữa Phật và các
tỳ kheo. Mặc dù vậy,
A Nan thường giữ tánh khiêm tốn và kính nhường. Rất nhiều tín chúng nhờ
quen biết với
A Nan mà đến
quy y với Phật. Tuy trước đây,
A Nan bị những
rắc rối với phái nữ khiến người đời có tiếng
thị phi vậy mà khi có cơ hội
học hỏi trực tiếp từ
Đức Thế Tôn,
tôn giả đã
tinh tấn tu dưỡng rất thuần thực.
Phật Pháp Và
Tri KỷMặc dù là
thị giả của Phật, nhưng
tôn giả A Nan thì chưa
khai ngộ. Ngài là người
thân thiết nhất của Phật mà lại chưa chứng được quả thánh
A La Hán như
Xá Lợi Phất hay
Mục Kiền Liên, nhưng trong
tăng đoàn vẫn xem Ngài
ngang hàng với các bậc
thượng thủ đó. Thật ra thì
tâm tính ôn hòa của
tôn giả khiến cho ai khi
tiếp xúc qua đều
cảm thấy thoải mái dễ chịu. Ngài đối với người không hề khoe điều tốt của mình ra, hoặc nói cái dở của người. Luôn luôn khuyến khích làm
việc thiện, tránh xa việc ác và Ngài lúc nào cũng
tận tâm giúp đỡ
mọi người coi việc của kẻ khác là việc của chính mình. Ngay cả khi cùng
ngoại đạo luận bàn Phật pháp, thì Ngài chỉ phát huy
chánh pháp mà không phá tà.
Tôn giả chưa từng có ý hại người để lợi mình vì
thế tôn giả chính là tia nắng xuân ấm áp từ từ làm tan băng giá.
A Nan có duyên với
chúng sanh nên
tôn giả đã
kết giao với rất nhiều bạn bè
cư sĩ tại gia và các
tỳ kheo trong
tăng đoàn. Vì
bản chất hiền hòa nên
tôn giả thích nghe người
thuyết pháp và cũng rất thích
thuyết pháp cho người nghe.
A Nan đối với
cư sĩ như mẹ hiền thương con, còn đối với bậc
trưởng lão thượng túc thì
ôn hòa như em út.
A Nan có một người bạn
cư sĩ tên là Lư Gi ở tại thành Ba Sa. Một hôm
Đức Thế Tôn dẫn các
đệ tử quang lâm đến đây và bộ tộc
Ma La trong thành rất
vui mừng cung nghinh. Họ cùng
ước định là người nào không đi đón Phật sẽ
bị phạt 200 đồng. Trong khi đó, ông Lư Gi lại là người không tin vào
Phật pháp. Trong
tăng đoàn Phật giáo, trừ
A Nan thì ông không hề
tôn kính một người
xuất gia nào dù đó là
Đức Phật.
Nhưng hôm đó thì Lư Gi cũng có mặt trong đoàn người cung đón Phật.
A Nan thấy bạn
rất đỗi ngạc nhiên mà hỏi tự sự thì ông ta nói rằng vì sợ phạt 200 đồng vàng nên phải ra đón Phật.
A Nan không vui bèn đem chuyện nầy bạch với Phật.
Đức Thế Tôn rất
thông cảm và muốn gặp ông ta.
Phật thuyết pháp khai thị những khúc mắc về
giáo pháp làm cho ông ta được cởi mở tâm tình. Ông
phát tâm quy y tam bảo và
trở thành Phật tử tại gia.
Về sau Lư Gi thường mang các thứ
y phục,
thức ăn, thuốc men,
ngọa cụ đến
cúng dường Phật và
cảm tình của
A Nan với bạn càng thêm thâm thiết.
Ngày xưa là bạn, bây giờ lại cùng thầy nên
A Nan xem
gia đình bạn như
gia đình mình.
Một hôm,
A Nan cần ít thước vải bèn đến nhà Lư Gi xin. Nhưng hôm ấy Lư Gi đi vắng,
A Nan bèn thật tình nói với
vợ con Lư Gi. Khi
vợ con Lư Gi đem vải ra thì
A Nan tự chọn lấy một tấm mang về. Lư Gi lúc sau nghe
vợ con nói lại vội đến
tịnh xá hỏi
A Nan:
- Sao
tôn giả không chọn thứ vải tốt, lấy làm gì thứ vải thô ấy?
A Nan cảm động đáp lại:
- Tôi không cần vải tốt. Tôi chỉ chọn khăn thô để làm khăn tắm và xin thay thế bạn
cúng dường cho các vị
cao tăng mà thôi.
Cảm tình giữa hai người
thân thiết như vậy làm cho một số người trong
tăng đoàn phản đối thái độ tự nhiên nầy, nhưng
Đức Phật không hề ngăn cấm
việc làm của
tôn giả.
Tuy
A Nan làm thị giả, nhưng
tinh thần hoạt động lại không giống đường lối tân tiến của
Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên và lại càng không giống sự
bảo thủ của
Đại Ca Diếp mà Ngài chủ trương theo đường lối
ôn hòa cho nên tánh tình Ngài rất mực
trung dung.
Có lần
A Nan tiếp tay với Phật khuyên bảo
tỳ kheo Quật Đà Nhã
cố gắng tinh tấn tu hành để chứng cho được
chánh quả vì vị nầy còn ham mê
ái dục nên muốn ra đời
bỏ đạo. Trong
tăng đoàn không khỏi có sự
tranh chấp nên sự
hòa giải của
tôn giả đã khiến cho kẻ thích gây gổ quay lại
con đường thiện.
Trong và ngoài
giáo đoàn,
tôn giả đối với
mọi người đầy pháp
tình hữu nghị và Ngài luôn luôn
biểu lộ tư cách và
nhiệm vụ của một
đại đệ tử.
Đề Bà Đạt ĐaĐề Bà Đạt Đa là anh ruột của
A Nan và là một trong bảy vị vương tử đầu tiên
xuất gia theo Phật. Đi tu nhưng ông ta không
phát tâm chân chánh mà chỉ vì
ham vui nên sau khi
xuất gia ông không
an tâm tu hành mà chỉ muốn học được
thần thông và thích khoe những điều kỳ lạ để lòe người. Tuy là
anh em ruột, nhưng tánh tình mỗi người mỗi khác.
A Nan thì
hiền hòa nhân hậu còn
Đề Bà Đạt Đa thì
nham hiểm, tính toán và không
an phận thủ thường. Chính
Đức phật đã nhiều lần khuyên ông ta nên
hoàn tục làm
cư sĩ chớ không nên ở trong
tăng đoàn để gây thêm
nghiệp chướng, nhưng ông không nghe.
Vì
ham thích sự kỳ bí nên ông ta
yêu cầu Phật dạy về
pháp môn thần thông, nhưng
Phật bảo ông trước hết phải lo
tu tập cho
thân tâm thanh tịnh mà đừng tham cầu
phép lạ.
Lý do là
thần thông và
phép lạ không đủ
tiêu biểu cho
đức hạnh. Sau khi nghe Phật từ chối, ông rất tức giận bèn đến
nài nỉ hai Ngài
Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên. Các vị nầy thứa biết tánh hung ác của ông nên cũng đều từ chối. Ngược lại các vị chỉ dạy cho ông
tu quán đạo lý khổ,
ý nghĩa chữ không, pháp
vô thường và
vô ngã mà thôi.
Do đó,
Đề Bà Đạt Đa ôm lòng phản nghịch. Ông nghĩ rằng
nếu không tiêu diệt Đức Phật thì ông ta không thể
tự do tung hoành và thề rằng
Đức Phật là
kẻ thù không đội trời chung.
Một hôm,
A Nan cùng
Đức Phật đi ngang qua núi Linh Thứu gặp lúc
Đề Bà Đạt Đa đang đi dạo trên đỉnh núi. Vừa thấy Phật, ông
mừng thầm vì đây là cơ hội ngàn năm một thưở nên
lập tức đẩy một tảng đá to nhắm ngay
Đức Thế Tôn lăn xuống. Mặc dù thấy
A Nan là em mình đang đi với Phật,
Đề Bà Đạt Đa cũng chẳng kể tình ruột thịt. Bên dưới
Đức Thế Tôn vẫn
đứng yên còn
A Nan thì nhảy tránh ra xa. Tảng đá rớt bên
chân Phật nhưng chỉ làm sơ xát chút đỉnh bàn chân của Ngài mà thôi. Một lát sau,
A Nan mới
hoàn hồn hỏi thăm Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ngài không việc gì chớ? Chuyện nầy chắc lại do
Đề Bà Đạt Đa gây ra, con
thật không giữ nổi
bình tĩnh.
Thế Tôn gặp cảnh nguy hiểm quá.
Phật
an nhiên đáp:
-
A Nan ! Dùng bạo lực hoặc
âm mưu để hại Phật đều không thể được. Trước kia
Đề Bà Đạt Đa sai người giết lén ta, rồi thả voi say, bây giờ thì xô đá đè. Nhưng ông đừng lo, người nào tạo nghiệp ấy sẽ chịu
hậu quả. Ta không thấy ta gặp nguy hiểm mà thấy ông bị một phen hoảng sợ, ông xem ông vừa làm gì đấy?
Đạo lực của
A Nan làm sao
sánh bằng Phật nên
tôn giả hổ thẹn vừa cười vừa thưa:
- Con vừa mới hoảng kinh nhảy lên đã bị
Thế Tôn bắt gặp.
Phật cũng cười, vỗ nhẹ
A Nan rồi hai thầy trò
tiếp tục đi.
Một hôm khác,
A Nan theo Phật trên đường đi
hoằng pháp bỗng gặp
Đề Bà Đạt Đa dẫn nhiều người đi ngược chiều sắp đến.
Đức Phật vội tránh sang đường khác và đi một bên đường mòn. Tuy
bản tánh ôn hòa,
A Nan cũng không dằn được
bực tức, bèn thưa:
- Bạch Thế Tôn! Sao
Thế Tôn đi né tránh
Đề Bà Đạt Đa? Ông ấy là
đệ tử Phật, chẳng lẽ Ngài lại sợ ông ấy sao?
Phật biết
A Nan bất bình, bèn
an ủi:
- A Nan! Ta chẳng phải sợ ông ấy, nhưng ta không muốn gặp mặt. Cần gì phải
tiếp xúc với người ngu? Như đánh nhằm chó điên, ắt là bị cắn bậy. Với người
ác tâm như ông ấy, không gặp mặt thì không phải
tốt hơn sao?
A Nan nghe lời Phật dạy, tuy vẫn còn
bực mình nhưng không nói thêm nữa.
Một lần khác,
Đề Bà Đạt Đa đến
quấy rối đạo tràng của
Đức Phật.
Lúc ấy Phật đang
tĩnh tọa trong thất nên ông ta đứng ở giữa
giảng đường la lối:
- Các thầy! Ai
tin theo ta thì đến đây. Mặc cho ông ta nói gì thì nói, các
tỳ kheo chẳng thèm
đếm xỉa đến làm cho
Đề Bà Đạt Đa tức giận quay sang
A Nan nói:
- A Nan! mầy là em ta, mầy dám không
nghe lời nói của ta chứ?
Một người
ôn hòa nhã nhặn như
A Nan mà lúc đó cũng không nhịn được nên cứng rắn
đáp lại:
- Hôm nay may cho anh lắm đó. Nếu có mặt hai
tôn giả Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên ở đây thì
chắc chắn không để cho anh
thao túng như vậy.
Đức Thế Tôn đang
tĩnh tọa, xin anh đừng làm ồn. Anh hung ác quá đỗi mà không nghĩ sau nầy anh sẽ gặp
quả báo và bị đọa vào
tam ác đạo. Tôi thật buồn cho anh.
Đề Bà Đạt Đa nổi giận, muốn động thủ đánh
A Nan, nhưng chưa thấy
A Nan nổi nóng như vậy bèn không dám ra tay, chỉ làm thinh bỏ đi.
Ít lâu sau,
ác báo của
Đề Bà Đạt Đa hiện tiền nên ông phải chết một cách
thê thảm. Trong lòng
A Nan thật
ngậm ngùi khi nghĩ đến ông anh vì ham mê
lợi dưỡng mà phí cả
một đời.
Phật Đoán Bảy Điềm Mộng Của
A NanTrong suốt 27 năm
làm thị giả cho
Đức Phật,
tôn giả A Nan lúc nào cũng tận tụy lo tròn
trách nhiệm của mình. Mỗi khi có
tỳ kheo,
tỳ kheo ni hay
tín đồ tại gia đến tham
bái Phật,
tôn giả đều
sắp đặt thời gian rất
thích hợp. Các
tỳ kheo ở xa đến viếng Phật, trong khi chờ đợi thì rất thích nói chuyện với
A Nan. Tất cả
mọi người đều
tin tưởng và
thân thiết với
tôn giả. Tuy
tôn giả chưa
khai ngộ, nhưng ai ai cũng thích nghe Ngài
thuyết pháp.
Họ thích A Nan giảng dạy chớ không thích
A Nan làm thinh.
Thời gian thắm thoát qua nhanh, mới ngày nào mà nay
tôn giả đã ngoài 50 tuổi. Một hôm, Phật đang ở tại
giảng đường nơi kinh thành
Xá Vệ của
vua Ba Tư Nặc.
A Nan đứng hầu mà trên mặt lộ vẻ lo buồn. Phật hỏi vì sao thì
tôn giả thưa:
- Bạch Thế Tôn! Trong một đêm, con
nằm mộng thấy bảy việc kỳ lạ cổ quái khiến lòng hoang mang lo sợ.
Phật ôn tồn hỏi tiếp:
- Ông
nằm mộng thấy bảy việc gì?
A Nan thưa:
- Bạch Thế Tôn!
Giấc mộng thứ nhất, con thấy nước ở sông to biển cả đều bị lửa đốt cháy và
ánh lửa cao ngút thấu trời xanh.
Đức Phật nghe nói xong thì đổi sắc mặt vì
xúc động và Ngài
giải thích rằng:
- Này A Nan! Bậc thánh không nói chuyện mộng mị. Nhưng mộng của ông
quả thật kỳ quái. Nước sông ngòi biển cả bị lửa thiêu trọn, đó là
tượng trưng cho các
tỳ kheo trong
tăng đoàn tương lai sẽ có ác nghịch mạnh, tâm lành ít oi, chấp giữ vào sự
cúng dường rồi sanh ra gây gổ tạo cảnh
huynh đệ tương tàn. Như nước trong lặng
mát mẻ lại
biến thành biển lửa.
Giấc mộng thứ hai của ông ra sao?
- Bạch Thế Tôn! Con thấy
mặt trời sắp lặn,
thế giới Ta Bà tối đen và trên bầu trời không có lấy một ngôi sao.
Đây không phải là
điềm lành, nhưng
Đức Phật vẫn ôn tồn
giải thích:
- Này
A Nan ! Không bao lâu nữa ta sẽ
nhập diệt và các
đệ tử cũng vậy. Điều ấy
biểu thị rằng con mắt của nhơn thiên sắp
tiêu diệt. Còn
giấc mộng thứ ba?
- Bạch Thế Tôn! Con thấy các vị
tỳ kheo không theo
lời Phật dạy mà cũng đắp
cà sa,
chúng xuất gia rớt dưới hầm, còn hàng
tại gia thì đi trên cầu.
Phật
đột nhiên thở dài nói:
- A Nan! Điều ấy
ám chỉ tỳ kheo đời sau, mở
đại hội giảng kinh thì chỉ nói ngoài miệng, mà thật tâm y giáo chẳng
phụng hành. Họ lại tật đố để hại nhau. Họ dạy lý
nhân quả mà chính mình không sợ. Họ còn xâm chiếm chùa chiền,
phỉ báng tỳ kheo, hủy hoại
tháp miếu. Còn điềm thứ tư thì sao?
- Bạch Thế Tôn! Con thấy
tỳ kheo pháp y không đủ, bị mắt kẹt trong đám gai.
Phật lại
cảm xúc nói:
- A Nan! Điều ấy nói rằng các
tỳ kheo sau nầy bỏ
pháp y không mặc, xả
giới luật và
ưa thích thế tục, nuôi nấng
vợ con. Đó thật là
bất hạnh cho
Phật pháp. Còn mộng thứ năm?
- Bạch Thế Tôn! Con thấy trong rừng rậm um tùm có rất nhiều heo rừng đào bới gốc rễ các
đại thọ chiên đàn.
Phật lộ vẻ lo buồn mà nói:
- Ôi! Điều ấy nói lên các
tỳ kheo sau nầy chỉ tính toán sinh kế, buôn bán
Như Lai,
tụng kinh làm nghề nuôi thân. Mộng thứ sáu?
- Bạch Thế Tôn! Con thấy voi lớn
bỏ rơi voi con.
Sư tử là chúa của loài thú bị chết,
hoa thơm rơi trên đầu,
cầm thú kinh sợ bỏ chạy, chẳng bao lâu trong thân
sư tử sanh trùng bọ rồi
trở lại cắn rỉa thịt
sư tử.
Phật chỉ còn biết lắc đầu, nói:
- Voi lớn bỏ voi con, đó là
báo hiệu các vị
trưởng lão đời sau, tự lo lợi riêng, không
nâng đỡ lớp thanh niên
hậu bối. Trùng trong thân
sư tử lại
ăn thịt sư tử, đó là
ám chỉ không phải
ngoại đạo phá hoại Phật pháp, mà chính là hàng
đệ tử xuất gia và
tại gia tự
phá hoại giáo pháp của ta. Còn
giấc mộng thứ bảy của ông ra sao?
- Bạch Thế Tôn! Con thấy đầu con cao ngang đỉnh
núi Tu Di.
Phật
trầm ngâm hồi lâu mới nói:
- A Nan! Sau ba tháng nữa ta sẽ
nhập diệt, các
tỳ kheo,
tỳ kheo ni,
thiện nam cũng
như tín nữ khắp nơi đều nhờ ông
kết tập kinh điển để truyền lại cho
đời sau.
Bảy điều mộng của
A Nan, qua sự
giải thích của Phật, đã
dự đoán sự
suy đồi của
Phật giáo về sau.
Lời
Di Giáo Sau Cùng
Sắc thân tứ đại của
Đức Phật cũng theo luật
vô thường mà
biến đổi. Sau 49 năm
hành đạo thì Ngài sẽ
nhập diệt ở rừng
Long Thọ, thành
Câu Thi Na cách kinh
thành Ca tỳ La Vệ khoảng 30 dặm.
Giống như
mặt trời sắp lặn lóe lên
tia sáng cuối cùng. Trước khi
nhập diệt,
kim thân của
Đức Phật phóng ra ánh
hào quang đặc biệt khác thường.
Đức Thế Tôn nằm
kiết tường trên sàng tòa do
A Nan trải sẵn, đầu Ngài
quay về hướng Bắc và lúc đó
mặt trời đã chìm ở phương Tây đưa bóng tối mông lung phủ đầy. Rừng cây
Long Thọ không phải kỳ trổ hoa mà tuôn hoa đỏ thắm phủ khắp thân
Đức Thế Tôn.
A Nan quỳ bên Phật, nhẹ nhàng thưa hỏi:
- Bạch Thế Tôn! Về sau đối với
phụ nữ, chúng con phải có
thái độ như thế nào? Xin
Thế Tôn nói lại
một lần nữa cho con rõ.
Phật từ tốn dạy rằng:
- A Nan! Ngươi muốn lìa xa
phiền não,
đạt đến chứng ngộ không thể bận tâm vì
nữ nhân.
Đặc biệt là ông, tuy bây giờ đã lớn tuổi, nhưng ông không
tiếp xúc với họ vẫn
tốt hơn. Nếu bắt buộc phải
tiếp xúc nên xem người già như mẹ, người lớn như chị, người nhỏ như em. Này A Nan! Ông phải nhớ kỹ lời ta đấy.
Đức Thế Tôn trả lời vấn đề ấy xong, lại dạy rõ cách thức
trà tỳ, xây tháp.
A Nan vốn tình cảm
yếu đuối nên vừa nghe xong những
lời Phật dạy liền
liên tưởng đây là lời
dạy bảo sau cùng của Đấng
Đạo Sư nên mủi lòng
rơi lệ.
Tôn giả không dám quỳ bên Phật, vội lùi ra sau rừng cây khóc
một mình.
A Nan nghĩ đến lúc
Thế Tôn nhập diệt, các
đại đệ tử khác đều
khai ngộ, chỉ còn Ngài thì sau nầy sẽ nương tựa vào ai để đạt đạo? Nghĩ đến từ nay về sau không còn ân sư để hầu hạ,
tôn giả lại càng buồn ray rứt.
Đức Phật không thấy
A Nan đứng bên cạnh nên sai người ra kêu
tôn giả vào. Ngài lại dạy tiếp:
- A Nan! Ông không nên buồn rầu! Có
sum họp phải có
biệt ly, có hưng thạnh thì có lúc suy diệt, ta chẳng từng nói với ông điều đó hay sao?
Thế gian là
vô thường, có sanh ắt có tử, cỗ xe đã hư nát rồi mà còn
tìm cách sửa chữa lại để xài, đó không phải là kế
lâu dài.
Sắc thân hữu vi phải
bại hoại. Đứng về
pháp tánh thì ta luôn luôn chiếu cố đến các ông. Ông theo ta
làm thị giả rất lâu,
ân cần nhẫn nại, ông đối với ta không hề
thiếu sót, ta đem
công đức ấy đền đáp cho ông. Ông nên
dụng tâm tinh tấn tu tập chẳng bao lâu sẽ đoạn dứt
phiền não và chứng
thánh quả.
Đức Thế Tôn nói đến đó
A Nan lại
cảm xúc khóc không ra tiếng.
Đức Thế Tôn nhìn quanh
đại chúng nói tiếp:
- Này các tỳ kheo!
A Nan làm thị giả ta rất
trung thành, theo bên cạnh ta bao nhiêu năm. Một mực
ôn hòa tử tế, nghe
kinh pháp không quên sót. Tương lai sau nầy
công đức của ông sẽ
rạng rỡ trên
thế gian.
A Nan tay bưng mặt, đi ra chỗ khác.
Lúc ấy nhằm ngày rằm tháng hai, ánh trăng
trong suốt trải khắp rừng
Long Thọ. Nét mặt lúc đó ai cũng khóc lóc
bi thương cho dù bậc Thánh đi nữa cũng không
thoát khỏi tình người.
Đại chúng cứ khóc hoài không chịu nín, họ quên rằng làm cách nào để cho
Phật pháp tồn tại lâu dài.
Mọi người bàn tính
với nhau và đề cử
tôn giả đến hỏi Phật mấy
vấn đề.
Thứ nhất, Khi
Thế Tôn nhập diệt rồi thì ai làm thầy?
Thứ hai, sau khi Phật
nhập diệt, an trụ như thế nào?
Thứ ba, làm sao
hàng phục kẻ ác?
Thứ tư, khi
kết tập kinh điển làm sao cho
mọi người có thể tin?
Đức Thế Tôn an nhiên như thường lệ,
từ bi vui vẻ trả lời:
- Này
A Nan ! Các ông nên nhớ kỹ. Các ông nên
y theo giới luật làm thầy. An trụ trong
Tứ Niệm Xứ. Gặp người hung ác thì nên lánh đi. Đầu đề kinh thì nên để:”Tôi nghe như thế nầy…” khiến người tin được. Các ông nên làm đúng
như pháp vì pháp là nơi
thường trụ của
pháp thân ta.
Thế Tôn nói xong,
mọi người nghe rồi lại
cảm động,
thương tâm. Tiếng nói của Ngài thật là
uy nghiêm và
từ ái.
Ngài
lặng lẽ nhập định tuần tự trải qua các cấp thiền từ thấp tới cao rồi từ cao tới thấp và
cuối cùng chủ động mà
nhập diệt.
Đệ tử các nơi
nghe tin đều tập hợp kéo về.
A Nan nghĩ đến lúc
Thế Tôn còn
tại thế thì hàng
nữ nhân ít có người được thấy Phật để tham bái cho nên lúc nầy
tôn giả bèn
ưu tiên cho các
tỳ kheo ni và các
tín nữ đến
đảnh lễ di hài Thế Tôn trước.
Đại Hội Kết Tập Kinh ĐiểnSau khi
Đức Thế Tôn nhập diệt,
A Nan như con thơ mất mẹ vì thế mà sau khi dự lễ
trà tỳ viên mãn thì
tôn giả một mình trở về tịnh xá để tưởng niệm ân sư.
Trải qua bao ngày tận tụy cho ân sư thì
tôn giả từ
thể chất đến
tinh thần vô cùng mệt mỏi nên Ngài
đóng cửa thất
tịnh tọa và mỗi ngày chỉ uống ít sữa mà không tha thiết nói chuyện với ai cả.
Ba ngày sau,
tôn giả lên đường về thành
Vương Xá ở phương Nam vì đã gần ngày
kết tập kinh điển. Tuy
A Nan chưa
khai ngộ, nhưng
tôn giả không
thể không vì pháp mà
quên mình để
báo đền pháp thân huệ mạng cho
Đức Thế Tôn.
Trên đường
đi vào khoảng một tháng sau ngày
Đức Phật nhập diệt,
tôn giả phải đi ngang qua nước
Tỳ Xá Ly. Ngày nay không còn
Đức Thế Tôn nữa, nhưng vì
tôn giả là cao đệ
thường trực bên cạnh
Đức Phật nên tín chúng mỗi ngày kéo đến
tụ tập ở
tịnh xá để
yêu cầu tôn giả thuyết pháp. Họ càng
nghe pháp thì kéo đến càng nhiều bất luận là ngày hay đêm. Dầu
cực khổ, nhưng
tôn giả luôn chìu ý
mọi người vì đây là
phương tiện tốt để khai thị cho họ.
Trong
tịnh xá, có vị
tỳ kheo tên
Bạt Xà Phất đã
chứng quả. Vì tín chúng
tụ tập nói năng
ồn ào làm cho thầy không thể
ngồi yên tham thiền nên thầy thầm trách
A Nan tự thân không chịu cầu
khai ngộ mà cứ
thuyết pháp cho
thiên hạ.
A Nan bị
đả kích nhưng không dám cãi lại vì
tôn giả biết chính mình là hàng
hữu học mà chưa chứng được quả
A La Hán. Vì kỳ
đại hội đã gần kề nên
tôn giả dừng
thuyết pháp cho tín chúng để về Nam. Trên đường đi,
tôn giả suy nghĩ về
bạn đạo chê cười châm biến, chẳng phải
tôn giả không biết
trình độ tu chứng của mình mà chính
bản tính ôn hòa nhường nhịn khiến
tôn giả hay chìu theo ý của
mọi người mà làm cho
bạn đạo không
vừa lòng. Lời trách cứ của
Bạt Xà Phất như mũi tên nhọn đâm ngay tim
A Nan, từ đó
tôn giả phát nguyện đem tâm hướng ngoại quay
trở về bên trong để tu cho sớm được
khai ngộ.
Khi
A Nan về đến thành
Vương Xá thì chỉ còn một ngày nữa là đến kỳ
đại hội.
Lúc ấy tôn giả Đại Ca Diếp được cử làm
chủ tọa có
nhiệm vụ tuyển chọn 500 vị
tỳ kheo để
tham dự đại hội. Các vị ấy đều là bậc
A La Hán, cho nên
tôn giả A Nan không
đủ tư cách để
tham dự.
Đại Ca Diếp thừa biết khả năng
thâm nhập giáo pháp của
A Nan vì
tôn giả là người
duy nhất được nghe tất cả 84,000
bài kinh của
Đức Thế Tôn. Nhưng nếu cho một người chưa dứt hết
phiền não, có nghĩa là chưa chứng
thánh quả,
tham dự đại hội thì họ sợ sẽ có những
lỗi lầm trước nhất là đối với
Đức Phật và
chúng sanh đời sau.
Mặc dầu A Nan tuy chưa
khai ngộ, nhưng lại được
cảm tình của
mọi người nên ai ai cũng
ủng hộ tôn giả. Do đó khi nghe
mọi người đề cử
A Nan,
Đại Ca Diếp bèn nói:
-
A Nan chưa chứng
thánh quả, tôi cũng biết ông ấy là
sư tử, nhưng
hiện tại chỉ là
sư tử trong bầy nai tơ mà thôi.
A Na Luật cũng
đồng ý với
nhận xét đó và điều nầy thật là một sự bất ngờ cho
A Nan. Nhưng
A Nan có
bản tính quật cường, càng bị ném xuống đất thì càng vọt lên cao. Những lời
đả kích là duyên tốt cho
tôn giả.
A Nan chẳng hề nản lòng mà tự nhủ tự thân mình cũng như hoa mai
mùa đông phải chịu một cơn gió tuyết
lạnh lùng mới tỏa mùi hương
đặc biệt. Ngay chiều hôm ấy,
tôn giả nỗ lực tu tập,
trầm tư mặc tưởng,
buông bỏ tận cùng và đến nửa đêm thì Ngài
khai ngộ chứng quả. Ngày hôm sau,
A Nan hiện đại thần thông, không đợi cửa động mở mà bay thẳng vào
đại hội.
Lúc ấy phong tư của
tôn giả như
mặt trăng tỏ rạng vừa ra khỏi
đám mây và như ánh
thái dương chiếu trên những cánh
hoa sen tươi đẹp. Các vị
đại tỳ kheo đều
kinh ngạc nhìn
tôn giả biểu lộ sự
tán thán. Dưới sự
chỉ đạo của
Đại Ca Diếp và sự đề cử của
toàn thể đại hội,
tôn giả lên tòa
sư tử và bắt đầu tụng:
- Tôi nghe như thế nầy, một thuở…,
Đức Phật ở tại nơi nọ…Tôn giả đem
trí nhớ của mình tụng lại những lời
thuyết pháp của
Đức Thế Tôn thật là lưu loát như mây bay nước chảy. Các
đại tỳ kheo trong hội
một lần nữa được tiếp thọ lời dạy của
Đức Phật.
Mọi người đều
cảm động ngay cả
tôn giả Kiều Trần Như, lúc đó đã
già nua,
rất đỗi xúc động đến nỗi xỉu tại tòa.
Những
kinh điển đầu tiên như
Trường A Hàm,
Trung A Hàm,
Tạp A hàm,
Tăng Nhứt A Hàm và
kinh Pháp Cú được
kết tập trong kỳ
đại hội thứ nhất nầy đều do chính
tôn giả A Nan tụng lại.
Tôn Giả Nhập DiệtKhi
Đức Phật nhập diệt thì Ngài
truyền thừa “y” “bát” lại cho
tôn giả Đại Ca Diếp. Rồi 20 năm thắm thoát
trôi qua, bây giờ
Đại Ca Diếp đã hơn 100 tuổi.
Biết mình sắp ra đi,
tôn giả bèn đem
gia nghiệp Phật pháp dặn dò trao lại cho
A Nan,
lúc ấy cũng gần 80 tuổi.
Đại Ca Diếp sau khi phú chúc cho
A Nan thì ôm “bát” vào núi Kê Túc mà
nhập diệt.
Tôn giả kế thừa dòng pháp cũng là điều
tự nhiên như hoa đến kỳ nở nhụy và đó cũng chính là niềm
hy vọng của
Đức Thế Tôn.
Nếu nhìn lại thì
Phật pháp được phát triển rất
rộng rãi từ thời
Đức Phật thành đạo cho đến thời
vua A Xà Thế. Nhưng sau khi
Đại Ca Diếp nhập diệt thì về sau hàng
đệ tử thân cận với
Đức Thế Tôn chỉ còn lại
A Nan mà thôi.
Tôn giả tuy
lãnh đạo tăng đoàn nhưng tuổi tác mỗi năm mỗi cao. Một hôm nọ trên đường đi, lúc đó
tôn giả đã 120 tuổi, Ngài nghe một thầy
tỳ kheo trẻ tụng
bài kệ rằng:
Nếu người sống trăm tuổi,
Không thấy
thủy lão hạc.
Chẳng bằng sống một ngày,
Mà được thấy hạc ấy.
A Nan nghe qua, thấy
bài kệ bị tụng
sai lầm một cách tệ hại như râu ông nọ cắm cằm bà kia, nên
tôn giả bèn
lập tức cải chánh.
Bài kệ phải tụng như thế này:
Nếu người sống trăm tuổi,
Không hiểu pháp
sanh diệt.
Chẳng bằng sống một ngày,
Mà được
hiểu rõ ràng.
Thầy
tỳ kheo kia nghe
A Nan dạy xong liền
trở về thưa lại với
sư phụ, chẳng dè
sư phụ của thầy nổi sùng nói rằng:
- Ông đừng nghe
A Nan nói bậy, năm nay
A Nan đã quá già thành ra lú lẩn. Ta dạy ông không sai đâu.
Thầy
tỳ kheo trở lại đem lời
sư phụ nói lại với
A Nan.
Tôn giả định đi tìm ông ta để hỏi tại sao lại nói những lời
ngu si như vậy? Nhưng suy đi
nghĩ lại thì
con người đã thốt ra lời ấy có nói chưa chắc đã chịu nghe, nên thôi. Một vị
trưởng lão ôn hòa như
A Nan, một vị thống
lãnh giáo đoàn đương thời và nắm trong tay giáo quyền
tối thượng mà vẫn
áp dụng lối
xử sự nhún nhường.
Tuy vậy, một bậc
trưởng lão thánh tăng đã 120 tuổi thì
việc đời không còn chút
lưu luyến, nhưng sau khi gặp chuyện trên lại càng
chán ngán cho
thế gian.
Đức Thế Tôn nhập diệt chưa bao lâu mà có người đã hiểu sai
Phật pháp cho nên sau nầy trong
giáo đoàn sẽ có những điều
tà kiến thì làm sao
tránh khỏi. Ta vì Phật tụng lại
giáo pháp mà
mọi người lại
chấp chặt vào
kiến chấp của họ chứ không chịu theo đúng pháp mà làm. Vậy ta còn ở lại nơi đây để làm gì?
Nghĩ ngợi như vậy khiến
tôn giả tự nhiên nhớ đến
Đức Phật, rồi
liên tưởng đến các vị
đại đệ tử Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên…Càng nhớ lại
ngày xưa làm
tôn giả càng suy tư
triền miên:” Ôi! Những vị ấy, như chim bay theo gió, một lúc mà tất cả đã vào cõi thánh. Trong bao nhiêu vị thánh bây giờ chỉ còn mình ta, như rừng cây bị đốn sạch chỉ còn sót lại một cây
cổ thụ không đủ
che mưa đỡ gió. Cõi
nhân gian nầy thật trống rỗng, đã đến lúc ta
nhập diệt mà thôi.
Suy nghĩ xong,
tôn giả quyết định đem
Phật pháp trao phó lại cho
Thương Na Hòa Tu rồi ôm bát hương về hướng
sông Hằng mà đi. Lúc bấy giờ
vua A Xà Thế của nước
Ma Kiệt Đà đang khai chiến với
Tỳ Xá Ly.
Tôn giả nghĩ rằng:” nếu
nhập diệt ở nước
Ma Kiệt Đà thì di
thể không được chia cho nước
Tỳ Xá Ly còn như
tôn giả đến
Tỳ Xá Ly nhập diệt thì họ cũng không chia phần cho
Ma Kiệt Đà, cho nên
tôn giả quyết định chọn
sông Hằng là
biên giới của hai nước và ở trên không mà
nhập diệt.
Vua A Xà Thế nghe tin A Nan sắp
nhập diệt thì choáng váng muốn xỉu liền tức tốc mang binh mã đuổi theo. Khi chạy đến
sông Hằng thì thấy
tôn giả đã lên thuyền ra giữa sông. Nhà vua bèn quỳ mọp
sát đất mà lớn tiếng kêu:
Đức Phật tối thắng tự tại! Xin Ngài
từ bi.
Tôn giả đã ban
an lành cho chúng con!
Tôn giả là đèn sáng của ba cõi! Xin Ngài hãy
quay trở lại.
Còn sông bên kia thì dân chúng Tỳ Xa Ly cũng
tụ tập bên bờ và kêu réo như
A Xà Thế.
A Nan ở trong thuyền bèn nói lớn:
- Ta đã
suy xét, chính vì sự
oán hận giữa hai nước các ông ta mới
đặc biệt đến giữa
sông Hằng mà
nhập diệt. Cầu mong cho các ông được hòa bình
thân thiện.
Tôn giả nói xong, bèn ngồi giữa
hư không nhập
hỏa quang tam muội khiến di thể rơi xuống hai bên cho hai nước xây tháp
cúng dường. Một tháp được xây ở
giảng đường Đại Lâm phía Bắc nước Tý
Xá Ly và một tháp được xây ở cạnh
tịnh xá Trúc Lâm ở thành
Vương Xá. Do
nhân duyên nhập diệt của
tôn giả khiến hai nước cởi mở oán thù, không còn gây chiến
với nhau cứu được biết bao mạng sống của
nhân dân. Sự
hy sinh của
tôn giả thật cao quý lớn lao
vô cùng.
Tôn giả A Nan nhập diệt rồi thì
công lao của Ngài đối với
Đức Phật cũng như sự
cống hiến cho
Phật pháp thật là
bao la vô tận. Khi biết
giáo pháp thì phải nghĩ đến
A Nan. Một
A Nan ôn hòa từ mẫn, khiêm tốn
nhân nhượng như là một ngọn đuốc
soi sáng vào trong tâm của tất cả
Phật tử ngàn đời về sau.