THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Nghiệp Sát Hại
Trong
thế gian nầy thì
quan niệm về thưởng phạt của
thiện ác thay đổi
tùy theo địa phương,
hoàn cảnh xã hội, khoảng cách
thời gian và
giá trị đạo đức…Vì tất cả đều mang
tính cách tương đối bởi vì cùng một hành động mà có người cho là đúng còn kẻ khác nói là sai. Những người
lãnh đạo chánh quyền luôn luôn
cố gắng tìm sự
công bằng cho
xã hội, nhưng thật ra từ xưa tới nay cái công bình do
con người tạo ra bằng những khuôn mẫu
pháp luật chỉ
đạt được kết quả
giới hạn mà thôi. Chẳng hạn như có một bộ lạc
bán khai có tục lệ giết một trinh nữ mỗi năm để làm
lễ tế thần. Mặc dù cô gái được chọn cũng
cảm thấy vinh dự về sự
hy sinh của mình và đối với họ hành động nầy là thiện trong khi những dân tộc khác thì cho hành động nầy là man rợ,
độc ác. Một ví dụ khác là
chúng ta rầy la con cái để chúng siêng
năng học tập. Hành động nầy mới thấy thì có vẻ
bất thiện, nhưng về sau nếu con của
chúng ta trở thành người tốt thì
việc làm của
chúng ta ngày nay là
việc thiện.
Có một
câu chuyện thần thoại nói về sự
phân biệt giữa thiện và ác. Lúc đó có hai ông tiên, một già, một trẻ xuống trần thăm dân
cho biết sự tình: Địa điểm đầu tiên mà hai vị đi tới là một
dinh thự nguy nga lộng lẫy để xin ngủ qua đêm. Nhà thì rộng mà chủ nhà chỉ cho
tá túc ở dưới basement lạnh lẽo. Trên đường xuống nơi tạm nghỉ, vị tiên già thấy một lỗ trống trên tường nên dùng phép để lấp lại. Đêm
kế tiếp, hai vị ghé căn nhà của một cặp vợ chồng nghèo sanh sống nhờ vào một con bò và khu vườn nhỏ. Cặp vợ chồng này
tiếp đãi hai vị tiên nồng hậu. Hai vị tiên được mời
ăn uống và họ nhường cái gường của mình cho hai vị tiên ngủ. Sáng hôm sau, khi
mọi người thức giấc thì thấy con bò bị chết. Cặp vợ chồng khóc nức nở nhưng chẳng than Trời oán Phật chi cả. Thế rồi hai vị tiên ghé một sòng bài để
giải trí. Trong sòng bạc có một người đang say mê đánh bài. Lúc đó anh ta thắng
liên tục với đống tiền rất to
trước mặt. Vị tiên già
tới gần và vô tình đụng vào ly rượu trên bàn người đánh bài làm ly rượu rớt xuống đất bể tan. Người đánh bài tức giận
mắng chửi vị tiên già rồi ôm đống tiền bỏ đi và
phàn nàn rằng:”Mình đang thắng mà tới phá phách làm cho người ta xui”. Khi về đến
thiên giới, vị tiên trẻ nói với vị tiên già bằng một giọng
bực bội rằng:” Tôi chẳng hiểu đầu óc của anh dạo nầy làm sao ấy. Tưởng đi với anh để học được chuyện khôn ngoan,
đạo đức nào ngờ thấy toàn là những chuyện trái tai
gai mắt không à. Tại sao anh lại giúp tên nhà giàu bần tiện đối xử
bạc đãi với anh em mình? Hắn cho anh em mình ngủ dưới hầm lạnh lẽo mà anh lại lấp lỗ tường dùm cho hắn? Còn cặp vợ chồng kia thì họ rất tử tế với mình mà anh không dùng quyền phép cứu con bò để họ làm kế sinh nhai? Còn chuyện người đánh bài đang thắng có đụng chạm gì tới anh đâu mà anh lại hất ly rượu của ông ta xuống đất? Vậy là thế nào?
Vị tiên già từ tốn và
hiền hòa đáp:”Thấy
vậy mà không phải vậy đâu chú ạ”.
Sự thật là như thế nầy: Thứ nhất, vì ông nhà giàu mà
ích kỷ không biết thương người, không muốn tạo thêm
phước đức nên
mặc dầu có đống vàng ở trong nhà mà cũng không hưởng được. Bởi vì trong lỗ hổng có giấu vàng mà hắn không tạo phước nên ta lấp lại cho hắn không thấy thì hắn không hưởng được. Như vậy
phước đức chính là kho vàng trong nhà của mình đó mà không thấy. Chuyện thứ hai lúc ta đang ngủ trên giường của cặp vợ chồng
nghèo khổ kia, ta thấy thần chết tới lấy mạng của người vợ nên ta đã cho thần chết con bò để thế mạng cho người vợ. Còn chuyện người đánh bài, vì cờ bạc mà ông ta vay mượn nhiều người làm cho
vợ con đói khổ chẳng có tiền mua
thức ăn. Ta thấy anh ta sắp thua
trở lại nên làm cho anh ta “xui” để anh ta đem tiền về đưa cho vợ mua
thực phẩm cho
gia đình và trang trải
nợ nần.
Tuy
con người có
quan niệm khác nhau về sự thưởng phạt của
thiện ác, nhưng Luật
Nghiệp Báo thì lúc nào cũng
đại diện cho sự công bình
tuyệt đối vì đó là sự thưởng phạt công minh và không bị
biến thiên theo
hoàn cảnh. Thật vậy, những gì một người làm cho kẻ khác dựa theo luật
Nghiệp Báo thì nó sẽ
đền bù trở lại cho họ một cách công bình,
chắc chắn và
hợp lý.
Một
thí dụ là có một tay buôn bán
ma túy số lượng lớn
bị bắt và bị
kết án chung thân. Nói theo
luật pháp thì hắn ta đã nhận lấy
hậu quả của
tội lỗi mình một cách
thích đáng, nhưng còn Luật
Nghiệp Báo sẽ đối xử với hắn
ta ra sao?
Sau khi chết hắn sẽ
tái sinh vào một
gia đình mà
cha mẹ là những kẻ nghiện ngập
ma túy nằm trong đường dây buôn lậu của hắn ta từ
kiếp trước. Sau đó
cha mẹ hắn ta
phạm tội rồi bị
tống giam và hắn ta bỗng nhiên
trở thành kẻ
lêu lỏng rồi
biến thành người nghiện
ma túy. Hắn cần tiền để
thỏa mãn tính nghiện ngập nên đi
cướp bóc và bị bắn chết. Tuy vậy cái
nghiệp ma túy của hắn chưa
hoàn toàn chấm dứt, nên nhiều
đời sau hắn ta lại
tiếp tục tái sinh vào những
gia đình có người nghiện ngập. Cái sa đọa
đau thương mà hắn đã
gieo rắc cho kẻ khác đã
trở thành cái màng nhện quấn lấy hắn ta trong nhiều
kiếp luân hồi.
Thí dụ trên cho thấy cái
bản án của
luật pháp dành cho kẻ
phạm tội không
phản ảnh trung thực được cái
quả báo của Luật
Nghiệp Báo.
Rõ ràng Luật
Nghiệp Báo chứng tỏ rằng kẻ vào tù chưa phải là đã trả
xong nợ cũ bởi vì
luật pháp xã hội của
con người chỉ là một khía cạnh nhỏ mà Luật
Nghiệp Báo mới thật sự biểu hiện một cách khách quan cho
ân oán phân minh.
Chính Luật
Nghiệp Báo rất
phù hợp với
lương tâm của
con người nên không
nhất thiết chúng ta là người
Phật tử mới thấy nó
hợp lý mà ngay cả những người không có khuynh hướng
tín ngưỡng cũng
chấp nhận sự thật của
chân lý nầy. Họ tin rằng có một sự công bình
mầu nhiệm chi phối đời sống của
con người để người tốt sẽ hưởng được nhiều
may mắn và kẻ ác tất nhiên phải gánh chịu nhiều tai vạ.
Mặc dầu Phật có dạy đời là biển khổ, nhưng trong
nhân gian ai ai cũng cố bám vào sự sống. Có những người
nghèo khổ, sống
lây lất ở hè phố qua ngày không có mái nhà để che thân, còn kẻ khác thì vướng bệnh
hiểm nghèo mà họ vẫn xem sự sống là một cái gì thật
vô cùng quý giá. Thế nên
hành vi tước đoạt mạng sống của kẻ khác được xem là sa vào một
tội ác nghiêm trọng.
Nếu một kẻ giết người thì đối với
luật pháp xã hội đôi khi có thể chỉ lãnh khoảng mười năm đến hai, ba mươi năm tù, nhưng Luật
Nghiệp Báo sẽ
quyết định về tương lai của hắn ta một cách công bình và
hợp lý. Nếu trong khi
bị giết mà nạn nhân khởi niệm
căm thù và muốn trả oán thì những
tư tưởng đó sẽ
biến thành hành động cho
đời sau và do đó
chắc chắn người nạn nhân nầy sẽ
trở thành thủ phạm ở
đời sau.
Một lần nữa
Ý Nghiệp đời nầy sẽ chuyển
thành Thân Nghiệp cho đời
kế tiếp.
Tuy nhiên có những
trường hợp mà nạn
nhân không có
ý niệm trả thù bởi vì lúc đó họ chỉ
chú tâm nghĩ đến người thân, tiền tài
của cải …hoặc có thể họ
đạt được hạnh
nhẫn nhục cao độ thì
đời sau thủ phạm sẽ
bị giết bởi một người khác hoặc có thể họ bị một
tai nạn như lật xe, rớt máy bay, bị sét đánh…
Nếu có kẻ đã giết người quá nhiều thì
quả báo dành cho họ là
thường xuyên bị giết hại ở nhiều kiếp về sau. Tệ hại là có thể bị hãm hại khi còn ở trong bụng mẹ nhiều lần. Đây là
ứng dụng vào những vụ
phá thai. Thêm nữa, khi giết người chồng có nghĩa là người vợ và những đứa con sẽ bơ vơ,
côi cút và
nghèo khổ do đó cái
quả báo dành cho tên sát nhân là
đời đời sinh ra bị
bỏ rơi,
nghèo khổ, lang thang và dốt nát. Đó là chưa kể khi giết một người tức làm đổ vỡ những
sự nghiệp của người đó đang
cố gắng xây dựng thì
quả báo dành cho tên sát nhân là
thường xuyên gặp thất bại ở
đời sau. Chưa hết, một người
bị giết sẽ làm cho nhiều người thân
đau khổ thì cái
quả báo dành cho tên sát nhân là
thường xuyên rơi vào tâm trạng
tuyệt vọng đau khổ giống như những kẻ bị bệnh hoang tưởng
tâm thần.
Tuy nhiên không phải hễ giết người là phải hứng chịu lấy
quả báo như nhau. Việc thọ nhận
quả báo vẫn còn
tùy thuộc rất nhiều
tùy theo giá trị và
hoàn cảnh của người
bị giết. Chẳng hạn như người
bị giết là một công dân
lương thiện làm được rất nhiều
lợi ích cho
xã hội hay là một vĩ nhân
thánh thiện như thánh Gandhi, người đã từng đem
lợi ích lớn lao cho
nhân loại thì
quả báo mà thủ phạm phải trả là cực kỳ
đau khổ. Hắn sẽ bị
đày đọa hành hạ ở
vô số kiếp, có khi làm
súc vật bị đánh đập giết hại và có khi làm người bần tiện khốn cùng
bị giết chết.
Ngược lại nhân viên cảnh sát trong lúc đang
thi hành nhiệm vụ đã bắn chết một tên cướp nhà băng nguy hiểm đang gây án. Tên cướp nầy đã từng giết người cướp của gây
kinh hoàng cho
mọi người thì tội giết người trong
trường hợp nầy không
đáng kể. Chẳng những thế khi không còn tên cướp thì
xã hội sẽ được bình yên
hạnh phúc vì
thế anh cảnh sát sẽ hưởng thêm một số
phước đức. Đây chính là sự công bình của Luật
Nghiệp Quả.
Là người
Việt Nam thì không ai quên được cuộc chiến kéo dài bao năm trên đất nước khổ đau nầy. Nếu người chiến sĩ chiến đấu ở tuyến đầu để
bảo vệ sự
an bình cho người dân ở
hậu phương thì việc bắn giết là điều không thể tránh. Nhưng cái tội đó có thể được bù đắp bởi
công lao đã
giữ gìn cho sự
yên ổn của rất nhiều
lương dân ở sau chiến tuyến. Chỉ khi nào người chiến sĩ nằm trong quân đội đi xâm lăng nước khác thì lúc đó tội của anh ta mới lớn.
Sát hại con người thì như thế còn
sát hại thú vật thì Luật
Nghiệp Quả định đoạt như thế nào?
Khi giết một con vật thì
nghiễm nhiên chúng ta đã tước đoạt sự sống của nó, do đó chính mình đã tạo nên nghiệp rồi. Nhưng
tùy theo giá trị của con vật mà có sự
phân biệt nặng nhẹ giữa tội và phước.
Khi
con người nuôi
súc vật để lấy thịt như bò, heo, gà, vịt…thì cái phước nhỏ ở đây là
cung cấp thực phẩm cho
nhân loại, nhưng cái tội lớn là giết hại biết bao mạng sống của con vật. Thêm nữa,
con người càng
ăn thịt thì họ sẽ sinh ra nhiều bịnh tật như đau tim, ung thư, nhiễm thú tính…vì thế họ đã gây ra một số
tội nghiệp nữa rồi. Một cái phước nhỏ mà phải đổi lấy bao cái tội lớn thì
Nghiệp Báo của họ sẽ khủng khiếp về sau.Trong
xã hội hiện nay,
chúng ta đôi khi nghe có người làm nghề giết thịt như mổ bò, heo, gà, vịt…Đến khi
gần chết họ bỗng trở bệnh
kêu la rên xiết như heo và thấy
ảo ảnh có
vô số thú vật đến
cắn xé, đòi mạng. Ngay cả con cháu đứng kế bên đâu có thấy gì mà họ cứ gào thét. Thật là
bi thảm. Khi
mạng chung để chuyển qua
kiếp sau thì
chắc chắn họ phải đọa làm thú để chịu cảnh
đau đớn khi bị mổ giết. Dù chỉ
hành nghề trong
một đời, mà đã giết hại quá nhiều
thú vật nên họ phải đọa làm thú
liên tiếp nhiều kiếp về sau để trả cho hết oan trái
ngày xưa. Thân người mà phải đọa làm thú thì thật là
thê thảm.
Vậy còn có những
trường hợp nào khác mà
con người sẽ bị đọa làm
thú vật ở kiếp sau?
Thông thường những kẻ nào tạo những nghiệp
thấp hèn, đê tiện làm mất
nhân phẩm và
giá trị sẽ bị đọa làm thân
thú vật ở
đời sau để gánh chịu sự khinh rẻ,
coi thường.
Trước hết là phạm vào
tà dâm,
loạn luân và phá vỡ
luân thường đạo lý của
xã hội loài người. Nếu
con người không thể kìm
chế dục vọng của mình,
tà dâm không
tiết độ thì
rõ ràng hạnh nghiệp tương đương với
dục vọng của loài thú rồi.
Có người đời trước thọ nhận rất nhiều tài vật của người khác một cách bất chính như trộm cướp, giật nợ hoặc
tu sĩ nhận
cúng dường nhưng
không giới hạnh
cộng thêm với
tư cách ích kỷ hèn kém thì
kiếp sau họ sẽ bị đọa làm các loài lao động như trâu, bò, ngựa…để trả nợ. Còn nếu họ chỉ
mắc nợ tài vật mà có
tư cách tốt thì
đời sau vẫn được làm người nhưng phải lao động
quần quật để trả nợ. Do đó chỉ những
tài sản được tạo nên từ
công lao của mình một cách
chân chính, dù ít hay nhiều, thì mới thật là
thành quả đền bù của cuộc sống và sẽ không lo sợ trả nợ về sau. Đây mới là sự công bình thật sự trong
cuộc đời.
Có người
lòng dạ thật
ích kỷ đã
biến thành hành vi tranh giành cấu xé
đồng loại không
thương tiếc thì cũng giống như loài thú. Nhiều người vì quá
ích kỷ chỉ nghĩ đến mình, không ngại dùng mọi
thủ đoạn hiểm độc để bức hại kẻ khác để thủ lợi cho mình thì
tư cách nầy chẳng khác chi loài thú chỉ biết sống
theo bản năng ích kỷ,
tranh giành.
Hành vi giống thú thì
quả báo đọa làm thú là điều không
tránh khỏi.
Khi nóng giận, có người hay chửi mắng kẻ khác là trâu, bò, chó, heo…Lời nói
ác độc nầy được lập đi lập lại nhiều lần
trong suốt cuộc đời sẽ
đủ sức kết
thành quả báo để đọa họ làm thân
thú vật ở
đời sau. Do đó ngậm máu phun người dơ miệng mình là như vậy.
Chó thì có chó Tây, chó Mỹ và chó Việt. Trong khi phần lớn chó Mỹ được cưng chiều,
sung sướng còn chó Ta thì đói khổ mà còn bị
con người làm thịt. Tại sao có sự bất
bình đẳng nầy?
Quả báo nầy có hai
nguyên nhân, một là khi còn làm người ở đời trước thì nó có nhiều
ân nghĩa với người chủ và đã giúp đở người chủ
đắc lực mặc dầu nó đã gây ra một số nghiệp
bỉ ổi, mất
nhân phẩm. Do nghiệp kém nhân cách, nó phải đọa làm chó, nhưng do
ân nghĩa lớn lao với chủ
ngày xưa nên nó được cưng chiều như vậy.
Có người nói rằng cây cỏ, rau quả cũng có sự sống thì người
ăn chay có mang tội
sát sanh hay không?
Khi cắt một ngon rau tức là
chúng ta đã
xâm phạm đến
đời sống của sinh vật thì việc tạo nghiệp là
hiển nhiên có nhưng rất nhỏ. Khoa học ngày nay
chứng minh rằng
thực vật cũng có
phản ứng tâm linh, nhưng những
phản ứng về khả năng
sinh tồn nầy quá
thô thiển và
đơn giản cho nên nói chung cây cỏ không có những dấu hiệu
đau đớn khi
chúng ta cắt cây, tỉa cành hay
hái quả. Nếu một người
suốt đời ăn chay,
tiêu thụ rất nhiều rau quả thì cái cộng nghiệp nầy cũng không phải nhỏ, nhưng việc
tu hành khiến họ làm rất nhiều điều
phước thiện,
giáo hóa để
tăng trưởng đạo đức cho kẻ khác thì những cái phước nầy sẽ
quá dư để
bù lại cái tội kia.
Vào năm 1966, ông Backster, nhà
bác học đã chế ra bộ máy điện tử để đo lường
nói dối, đã làm một cuộc thí nghiệm
chứng minh rằng khi sống cạnh nhau, cây cối
để ý canh chừng nhau. Khi có một
động vật chẳng hạn như con nhện
tới gần tạo mối nguy hiểm thì cây cỏ quay sang canh chừng con nhện.
Ngoài ra, cây cỏ còn có
trí nhớ để
nhận biết những chuyện
phá hoại chúng và chúng còn biết
thương yêu người chăm sóc và biết
sung sướng khi người đó
trở về.
Cây càng lớn và lâu năm thì
năng lực tâm linh càng mạnh. Ở
Việt Nam có những cây
đại thọ mọc ở sau đình. Khi có người muốn đốn nó thì
phản ứng tâm linh của cây
đủ sức làm cho người kia mang bệnh mà chết, nhưng người dân không hiểu thì cho rằng động đến
thần linh ở trên cây là
tuyệt mạng. Như vậy đốn cây là tạo nghiệp còn việc trồng cây,
bảo vệ rừng là một phước lớn.