THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Luật Nghiệp Quả, Biệt Nghiệp và Cộng Nghiệp
Tháng 12 năm 2004, một cơn động đất
dữ dội kéo theo những ngọn sóng thần khủng khiếp đã tàn phá không biết bao nhà cửa và giết chết trên trăm ngàn người dọc theo bờ biển các nước Thái Lan, Nam Dương và
Tích Lan. Ngoài số người chết nằm la liệt, các bệnh viện không còn một chỗ trống vì số người
bị thương mỗi ngày mỗi tăng. Chưa hết,
mùa thu năm 2005, cơn bão Katrina đã tàn phá nhiều thành phố dọc theo vịnh Mễ Tây Cơ của Hoa Kỳ và chính cơn bão nầy cũng giết chết và làm
bị thương rất nhiều người mà
cho đến ngày nay chính phủ Hoa Kỳ vẫn chưa thể tái thiết
trở lại. Trước những
tai họa chung đó, nhà Phật gọi chúng là cộng nghiệp.
Như thường lệ, cứ mỗi sáng ông B đi tản bộ chung quanh khu phố nhà ông. Nhưng sáng nay vì sương mù dày đặc nên một chiếc xe không thấy ông băng qua đường nên đụng làm ông chết tại chỗ.
Trường hợp cái chết của ông B là
biệt nghiệp. Đối với
biệt nghiệp thì
vấn đề trở nên
đơn giản vì nghiệp ai đã gieo thì chỉ người ấy chịu, nhưng trước một
tai họa chung thì sự việc
phức tạp hơn nhiều. Thế thì Luật
Nghiệp Quả giải thích cách nào? Không lẽ tất cả những người
bất hạnh kia trong
quá khứ đã xúm nhau làm chung một điều ác?
Thật ra thì không
nhất thiết là một
nghiệp ác đời nầy sẽ sinh ra
quả báo ở
đời sau mà Luật
Nghiệp Báo đã xắp xếp
quả báo của
mọi người một cách
rõ ràng từ nhiều trăm năm về trước để khiến họ sống quay quần
với nhau dọc theo bờ biển, hoặc có những người ở nước khác thì
nhân duyên cũng khiến họ đi du lịch đến những nơi nầy. Thật vậy,
chính nghiệp đã
thúc đẩy những người có
quả báo giống nhau đã tìm về
ở chung một môi trường
với nhau. Ví dụ có khoảng vài ngàn người trong
quá khứ tạo
nghiệp ác ở rải rác khắp nơi trên
thế giới mà
quả báo của họ khá giống nhau là phải chịu chôn vùi theo dòng nước bùn dưới chân một ngọn núi. Nhưng
nhân duyên để họ quay quần về sống gần nhau dưới chân núi
cần phải một
thời gian là vài trăm năm sau, do đó khi
mới đây chúng ta thấy trận nước bùn chôn người tại một hòn đảo ở Phi Luật Tân là có sự chuẩn bị nhiều trăm năm của Luật
Nghiệp Báo mà thôi. Chưa chắc là những nạn nhân nầy đã từng tạo chung một
nghiệp ác trong
quá khứ. Có thể mỗi người tạo riêng cho mình mỗi
nghiệp ác nặng nhẹ khác nhau, nhưng tất cả đều chiêu thành một
quả báo giống nhau nên
nghiệp duyên đã
thúc đẩy họ cùng định cư chung quanh bờ biển hay ngọn núi. Vì thế người
nghiệp nặng thì chết, người nghiệp nhẹ hơn thì bị gãy chân, gãy tay, hay chỉ bị xây xát mà thôi.
Cũng có
trường hợp nhiều người
cùng chung tạo nghiệp, nhưng vì thiếu
nhân duyên để gặp gỡ nên họ chia ra nhận
quả báo riêng rẻ mỗi
nơi khác nhau mặc dù
quả báo khá giống nhau. Ví dụ, hai người bạn cùng
phát tâm xây một cây cầu nhỏ cho dân làng đi lại dễ dàng trong mùa mưa. Vì đây là nghiệp thiện, nhưng do
tư tưởng và một số nghiệp khác không giống nhau nên
đời sau một người sinh ra ở
Việt Nam còn người kia sinh ra ở Mỹ. Mặc dù sanh ra trong hai
hoàn cảnh khác nhau, nhưng hai người đều thích học ngành
xây dựng cầu cống và
thành công giàu có gần như nhau.
Một hôm,
Đức Phật đang ngồi trên núi Linh Thứu thì có nhiều đoàn
tỳ kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất gồm một số
tỳ kheo đi theo tôn giả Xá Lợi Phất, đoàn thứ hai
đi theo tôn giả Mục Kiền Kiên, đoàn thứ ba
đi theo tôn giả Đại Ca Diếp, đoàn thứ tư
đi theo tôn giả A Na Luật, đoàn thứ năm
đi theo tôn giả Ưu Bà Ly và đoàn thứ sáu
đi theo sau
Đề Bà Đạt Đa. Khi đó
Đức Phật mới nói với các
tỳ kheo đang ở bên cạnh rằng:
- Những
tỳ kheo cùng
đi theo Xá Lợi Phất là những
tỳ kheo có
trí tuệ lớn. Những
tỳ kheo cùng đi với
Mục Kiền Liên là những
tỳ kheo có đại
thần thông. Những
tỳ kheo đi theo Đại Ca Diếp là những
tỳ kheo thích
tu khổ hạnh đầu đà…Còn những
tỳ kheo mà
đi theo Đề Bà Đạt Đa là những
tỳ kheo có tâm
ác dục.
Và
Đức Phật đã
kết luận rằng:
- Ai cùng
đi theo người nào là đã có cái
nghiệp chung với người đó. Những
tỳ kheo đi theo tôn giả Xá Lợi Phất có cái
nghiệp chung, tức là cộng nghiệp, với Ngài về
trí tuệ. Những
tỳ kheo đi theo tôn giả Mục Kiền Liên là có
nghiệp chung với Ngài về thần thông… Cho tới các
tỳ kheo đi theo Đề Bà Đạt Đa cùng có
nghiệp chung về
ác dục. Cái
nghiệp chung đó có từ
quá khứ,
hiện tại và
vị lai.
Ngày nay,
chúng ta thấy cộng nghiệp
hiển hiện rất
thực tế và
cụ thể. Người thích cờ bạc thì chỉ muốn
giao du với người chơi cờ bạc, còn kẻ ham rượu chè thì
lân cận ăn chơi với người uống rượu. Người thích
đi chùa tụng kinh niệm Phật thì
kết bạn với người
đi chùa tụng kinh niệm Phật. Như vậy, cộng nghiệp đưa đẩy
con người thân cận,
kết bạn với nhau và
biệt nghiệp khiến
chúng ta có dáng mạo, tánh tình, năng khiếu và
trí tuệ khác nhau.
Trong số những nhà
tiên tri lừng danh trên
thế giới,
chúng ta thấy ở Pháp
vào khoảng thế kỹ thứ 16 có Nostradamus (1503-1566), còn ở
Việt Nam có trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Những vị
tiên tri nầy có khả năng tiên đoán những sự việc sẽ xảy ra rất lâu
chứng tỏ rằng Luật
Nghiệp Báo đã sắp xếp
quả báo của
mọi người khá
rõ ràng từ nhiều trăm năm, có khi từ nhiều ngàn năm, về trước. Chính Nostradamus có một sự
nhạy cảm tâm linh cao độ khiến ông đã đọc được nhiều tiên đoán cho dù nó chưa có dấu hiệu nào nơi
không gian hiện hữu cả.
Đất nước
Việt Nam chúng ta là nơi đầy long mạch và tụ khí nên
ngày xưa Cao Biền cởi hạc đi đến đâu là ếm long huyệt đến đó. Năm 785,
Thiền Sư Định Không (730-808) nhân cho đào đất để đắp nền dựng chùa Dịch Bảng,
Thiền Sư tìm thấy 10 chiếc khánh và một chiếc
lư hương. Nhưng khi đem xuống sông để rửa thì một chiếc khánh chìm xuống nước.
Cảm ứng việc nầy,
Thiền Sư thánh nhập xuất khẩu nói rằng: mười chiếc là thập khẩu, viết chung lại là chữ Cổ, một chiếc rơi xuống chìm đi là thủy khử viết chung lại là chữ Pháp, cho nên
Thiền Sư đặt tên cho mảnh đất
thiêng liêng nầy là Cổ Pháp.
Thiền Sư làm một bài thơ
tiên tri 200 năm sau, nhà Lý sẽ làm vua,
xuất thân từ làng Cổ Pháp:
Đất trình
pháp khíPhẩm chất tinh đồng
Đưa
Phật giáo đến chổ
hưng longĐặt tên là làng Cổ Pháp
Pháp khí xuất hiệnMười chiếc chuông đồng
Nhà Lý hưng vương
Tám phẩm
thành côngTrước khi
viên tịch,
Thiền Sư Định Không dặn
đệ tử là
Thiền Sư Thông Biện rằng:” Đất Cổ Pháp nầy rất quan trọng, sau nầy có
dị nhân đến
phá hoại thì bậc vĩ
nhân không thể
xuất thế để cứu nước và làm cho
Phật pháp hưng thịnh”.
Thiền Sư Thông Biện ghi lời thầy dạy trong một ngôi tháp được dựng lên để thờ
Thiền Sư Định Không ở phía Tây chùa
Lục Tổ. Trước khi qua đời,
Thiền Sư Thông Biện lại dặn cho
đệ tử là
Thiền Sư La Quý An (852-936). Quả nhiên năm 865, tức là khoảng 100 năm sau
lời tiên tri của
Thiền Sư Định Không,
Cao Biền qua Giao Châu và sai đắp thành ở sông Tô Lịch mới biết là đất làng Cổ Pháp có khí đế vương nên đã cho đào 19 địa điểm để yểm phá.
Thiền Sư La Quý An biết được và
y theo lời Tổ dạy đã cho lấp lại 19 cái huyệt mà
Cao Biền đã đào để yểm.
Y như lời tiên tri Thiền Sư Định Không trên 200 năm trước, năm 1010, Lý Công Uẩn
lên ngôi vua dựng lên nhà Lý và truyền được 8 đời (8 phẩm
thành công).
Xin nói thêm, vua Lý
Thái Tổ tức Lý Công Uẩn, người
sáng lập ra
triều đại thịnh vượng và huy hoàng nhất
trong lịch sử Việt Nam, người làng Cổ Pháp, huyện
Từ Sơn, Bắc Ninh lại là con không có cha.
Tục truyền rằng, mẹ là Phạm Thị một hôm đi chơi chùa
Tiêu Sơn nằm mộng đi lại với
thần nhân rồi về có thai và sinh ra được đứa con trai. Khi đứa bé lên ba tuổi thì đem cho
nhà sư ở chùa Cổ Pháp tên là Lý Khánh Vân làm con nuôi và đặt tên là Lý Công Uẩn.
Nhà sư Lý Khánh Vân sau nầy là Sư
Vạn Hạnh. Công Uẩn lớn lên vào Hoa Lư làm quan nhà tiền Lê đến chức Tả Thân Điện Tiền
Chỉ Huy Sứ. Khi Lê Long Đỉnh mất thì Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Lúc bấy giờ lòng người đã
oán hận nhà tiền Lê nên ở trong triều có bọn Đào Cam Mộc cùng với Sư
Vạn Hạnh mưu tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Vua Lý
Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp bèn định đời đô về La Thành. Tháng 7 năm 1010 thì khởi sự dời đô, nhưng khi ra đến La Thành,
Thái Tổ nằm mộng thấy rồng vàng
hiện ra bèn đổi tên là thành Thăng Long, tức là Hà Nội ngày nay. Sau đó nhà vua cũng
nằm mộng thấy Phật Bà
hiện ra nên xuống chỉ làm ra
chùa một cột mà vẫn còn là một kỳ quan tại Hà Nội bây giờ.
Triều đại nhà Lý kéo dài đến đời thứ bảy là vua Lý
Huệ Tông thì ông vua nầy không có con trai mà
thường hay bịnh hoạn và
thỉnh thoảng lại nổi
cơn điên nên cứ uống rượu say ngủ cả ngày. Nhà vua chỉ có hai
công chúa, người chị thì gã cho Trần Liêu còn người em là Chiêu Thánh
công chúa tên là Phật Kim thì mới lên 7 tuổi được lập làm
Thái tử. Tháng 10 năm 1224, vua
Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh
công chúa rồi vào ở chùa
Chân Giáo để đi tu. Chiêu Thánh
công chúa lên ngôi tức là vua Lý Chiêu Hoàng và là vị vua
cuối cùng của triều Lý. Bấy giờ
mọi việc triều chính đều nằm trong tay Trần Thủ Độ mà Thủ Độ lại
tư thông với Trần
Thái Hậu và cho cháu là
Trần Cảnh vào làm chức Chính Thủ. Đến tháng chạp thì Chiêu Hoàng lấy
Trần Cảnh và truyền ngôi cho chồng. Nhà Lý đến đây là hết, làm vua được 216 năm và truyền ngôi được 8 đời. Một hôm
Huệ Tông đang nhổ cỏ ở sân chùa
Chân Giáo, Trần Thủ Độ đi qua trông thấy, mới nói rằng:”Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rể cái nó đi”.
Huệ Tông nghe thế, phủi tay
đứng dậy nói rằng:”nhà ngươi nói ta hiểu rồi”. Được vài ngày, Thủ Độ cho người mời
Huệ Tông,
Huệ Tông biết ý, vào nhà sau thắt
cổ tự vận. Năm Ất Dậu, 1225
Trần Cảnh lên ngôi lúc mới 8 tuổi lấy hiệu là
Trần Thái Tông để khai nguyên cho cơ nghiệp của nhàTrần.
Trở lại vần đề
Nghiệp Quả thì hiện nay có một
tai họa chung mà
toàn thể nhân loại phải gánh chịu đó là ngày tận thế. Vào năm 1988 có một vẫn thạch lớn cắt ngang quỹ đạo của địa cầu tại một nơi mà địa cầu vừa mới đi qua, Các nhà
thiên văn còn e ngại một sự gặp gỡ
tương tự như thế xảy ra vào lúc khác. Nếu có sự
va chạm lớn như vậy,
chắc chắn đó là ngày tận thế của
nhân loại cũng như trên 65 triệu năm về trước, những vẫn thạch đã
tiêu diệt tất cả mọi loài khủng long. Thêm nữa với những kho nguyên tử mà
con người tồn trữ ngày nay
đủ sức tàn phá và
tiêu diệt toàn thể nhân sinh trong trái đất nầy nếu
con người cứ mãi
điên cuồng chạy theo để
thỏa mãn lòng tham vô đáy của họ. Thật ra tận thế là một
quả báo chung của
toàn thể nhân loại vì sự sống của mình mà
con người thường xuyên tạo các nghiệp
phá hoại sự sống lẫn nhau. Những con vật lớn
ăn thịt các loài vật nhỏ bé hơn, con cọp mạnh đi bắt con dê
yếu đuối. Cá lớn nuốt cá con và
con người thì mưu toan giết hại lẫn nhau, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu…Quốc gia lớn đè ép
quốc gia nhỏ, ngay cả
tôn giáo nầy cũng muốn
thanh toán tôn giáo kia. Nếu
nhân loại cứ bạo tàn hủy diệt sự sống lẫn nhau thì ngày tận thế sẽ
đến gần hơn. Còn như
nhân loại biết bồi đắp
giữ gìn sự sống cho nhau thì chính họ tự tay đẩy ngày tận thế xa ra
mãi mãi. Nhưng đối với dòng
luân hồi sinh tử,
tử sinh vô tận tiếp nối mãi mãi thì cái chết lúc tận thế có gì quan trọng để
chúng ta sợ hãi đâu? Nếu
chúng ta cố gắng tu tâm dưỡng tánh để
tích lũy phước đức và công đức cho được
viên mãn thì tận thế hay không đối với người
tu Phật chẳng qua chỉ là một sự chuyển tiếp từ cuộc sống ở
một thế giới nầy sang
một thế giới khác mà thôi. Chẳng hạn như cõi
Tây phương Cực Lạc để có cuộc sống an vui
tự tại hơn.
Sắc thân của
con người ví như một quán trọ và
tâm thức ví như người khách trọ. Nếu quán trọ nầy không ở được thì người khách trọ vào quán trọ khác. Không có gì là quan trọng cả.