THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
LUÂN HỒI
Khi
Đức Phật chứng được
thiên nhãn minh thì Ngài thấy sự
sinh tử của
chúng sinh xoay vần trong
lục đạo là do chính cái nghiệp của họ dẫn dắt.
Chúng ta là
phàm phu thì không thấy cái nghiệp của mình được, nhưng đối với mắt Thánh thì họ thấy rất
rõ ràng. Trong
lục đạo có ba đường lành là
cõi người,
cõi A tu la và
cõi trời còn
ba đường dữ là
súc sanh,
địa ngục và
ngạ quỷ. Thân, khẩu, ý của
chúng ta đã tạo ra mười cái nghiệp, đó là
sát sanh, trộm cướp,
dâm dục,
nói dối, nói
thêu dệt, nói lưỡi hai chiều,
nói lời hung ác, tham, sân, si.
Tùy theo khả năng
tu hành mà
chúng sanh sẽ thọ sanh vào
cảnh giới thích hợp với
nghiệp căn của họ. Do đó nếu
chúng sinh muốn
trở lại làm người thì chỉ cần thọ
tam quy và trì
ngũ giới là đủ. Còn nếu
chúng sinh siêng năng
bố thí nhưng chưa diệt nổi lòng sân thì sẽ sanh lên cõi thần, tức là
A tu la. Sau cùng nếu
chúng sinh tu đủ
thập thiện nghiệp thì
chắc chắn sẽ sinh lên
cõi trời để hưởng phước lạc. Ngược lại nếu
chúng sinh phạm
mười điều ác thì phải đọa thẳng vào
địa ngục, còn nếu ai nặng về
tham lam,
bỏn xẻn thì sẽ sinh vào loài quỷ đói. Loài
ngạ quỷ nầy sống lang thang trong cõi
thế gian với
chúng ta, tuy tuổi thọ rất lâu nhưng phải chịu
đói khát nên kiếp
ngạ quỷ thật là khổ sở. Về phần
súc sanh thì nặng về
si mê, quên mất
nhân tính nên phải chịu làm thân
súc vật để trả nợ.
* Còn
địa ngục ở đâu?
Theo kinh Phật thì địa là chỗ còn ngục là hình phạt
đau khổ. Do đó
chúng sanh nào khi
sanh tiền tạo quá nhiều
nghiệp ác thì
sau khi chết phải thọ sanh vào chỗ chịu những hình phạt
đau khổ thì đó gọi là
địa ngục. Không có chuyện quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa tới dẫn
thần thức đi mà chính là
nghiệp lực sẽ dẫn dắt
thần thức vào chỗ dữ. Chẳng hạn
ngày xưa lúc
chúng ta có
quyền thế thường hay đánh đập
hành hạ kẻ khác thì khi sắp chết
chúng ta nhớ lại những người đó, thấy họ đánh đập mình, rượt đuổi mình nên ta cố chạy và
dĩ nhiên là
chúng ta chạy vào đường dữ để thọ cảnh khổ. Đó chính là gây nhân nào thì gặt quả nấy mà thôi.
Có người oán trách
cha mẹ không có phước nên sanh mình ra cho khổ, hoặc
cha mẹ không ra gì để mình bây giờ phải thua sút với bạn bè. Nhưng họ
đau khổ là vì chính họ phải thọ nhận
quả báo đời trước vì đã tạo ra nghiệp xấu cho nên
nghiệp lực mới dẫn họ
tái sinh vào
gia đình tương ứng như thế mà thôi. Có người lại oán trời trách đất là anh thì làm cái gì cũng thành còn tôi đụng tới cái gì thì hư cái đó. Thật ra chẳng có gì khó hiểu cả bởi vì trong
thế gian nầy nếu có kẻ
giàu sang phú quý
hiện tại là vì
kiếp trước họ biết tu
bố thí nên kiếp nầy họ tính toán việc gì cũng thành do đó họ phát giàu còn anh không chịu
bố thí mà còn
tham lam bỏn xẻn thì kiếp nầy tính đâu trật đó
vì vậy anh phải nghèo chớ không phải trời thương hay Phật đọa gì cả.
Luật nhân quả công bằng là nếu anh muốn người ta thương mình thì đừng
hất hủi ai cả. Thêm nữa, nếu
chúng ta sinh ra trong
gia đình giàu sang,
quyền thế thì đó là
quả báo để hưởng phước, còn khi
chúng ta sinh ra mà cha mất, mẹ nghèo thì đây chính là
quả báo để trả nợ. Phật dạy
tu là chuyển nghiệp vì thế nếu trong cuộc sống nầy mình được hưởng phước lợi thì phải ráng tu đừng cho tuột xuống, còn nếu cuộc sống nầy gặp nhiều khó khăn,
bất lợi thì phải tu nhiều hơn để chuyển những nghiệp xấu thành
thiện nghiệp thì cuộc sống sẽ khá hơn cho kiếp nầy và
kiếp sau. Tại sao?
Giáo lý nhà Phật có ba loại
nghiệp báo là:
1)
Hiện báo nghiệp:
chúng ta tạo nghiệp tốt hay xấu
trong đời nầy thì phải chịu
quả báo lành hay dữ ngay
trong đời nầy. Vì thế
cổ nhân có câu:
Quả báo nhãn tiền là đây vậy.
2)
Sanh báo nghiệp:
chúng ta tạo nghiệp
trong kiếp nầy thì đến
kiếp sau quả báo mới đến. Chẳng hạn như
chúng ta rộng tâm
bố thí thì
kiếp sau sẽ được
giàu sang.
3)
Hậu báo nghiệp: nếu nghiệp chưa được trả xong ở kiếp
hiện tại hay kiếp
kế tiếp thì sẽ được
phát khởi ở bất cứ một kiếp nào về sau khi hội đủ
nhân duyên.
* Có người thắc mắc là làm sao biết được có luân hồi?
Nên nhớ rằng
thuyết luân hồi do Phật tu mà chứng để dạy cho
chúng sinh. Không thấy được
luân hồi không phải là nó không có mà vì
chúng ta chưa đủ
trí tuệ như Phật để
thông hiểu. Chẳng hạn như
ngày xưa,
tôn giả Mục Kiền Kiên sau khi
chứng quả A La Hán và đang
kinh hành bên
bờ sông Hằng thì thấy rất nhiều loài
ngạ quỷ đầu rất to, bụng lại nhỏ xíu và
thân thể ghê gớm lắm. Ngài về thuật lại cho Phật nghe thì Phật nói rằng:” Ta cũng thường thấy chúng, nhưng nói ra mà không ai biết nên ta không nói”.
Vì vậy nếu
tu chứng như Phật thì
chúng ta sẽ thấy như Phật chớ không chỉ riêng có Phật mới thấy được
Luân hồi mà thôi.
Trên
thế giới trong vòng mấy mươi năm qua,
vấn đề trẻ em nhớ lại
tiền kiếp của chúng đã được
xem như là
vấn đề của khoa học
cận đại chớ không còn là chuyện
mê tín huyền hoặc hay là chỉ dành riêng cho
Phật giáo mà thôi.
Bác sĩ Ian Stevenson thuộc
đại học Virginia, Hoa Kỳ là
tác giả cuốn “Hai mươi
trường hợp về luân hồi” đã
bỏ ra một
thời gian rất dài để
nghiên cứu về các
trường hợp thuộc
hiện tượng luân hồi tái sanh từ các trẻ em.
Bác sĩ Stevenson
lưu ý một
sự kiện thật quan trọng là những dấu vết bẩm sinh trên cơ thể của các cháu bé đó vì khi nhớ lại
tiền kiếp của chúng thì
thường thường có sự
liên hệ lạ lùng giữa
sự kiện xảy ra với dấu bẩm sinh hay dị tật mà chúng đã mang trên cơ thể. Sau nhiều năm
nghiên cứu, ông đã tin rằng “Có sự sống
sau khi chết “ và chính ông cũng
tuyên bố thêm “
Không có lý do để coi
thuyết Luân hồi là
mê tín, ngược lại nó đáng được
nghiên cứu một cách nghiêm túc”.
Một
trường hợp điển hình đã xảy ra tại Miến Điện. Một em bé đã kể lại
tiền kiếp của mình như sau: Lúc đó em là một quân nhân
Nhật bản và đã
bị giết chết trong một trận đánh vào thời đệ
nhị thế chiến năm 1944. Điều kỳ lạ là em bé nầy rất thích uống trà đậm và ăn
thức ăn có nhiều cá, rau và rong biển. Đây là
thức ăn và
thức uống thường ngày của người Nhật
mặc dầu hiện giờ em là người Miến Điện mà người Miến lại không thích uống trà đậm.
Thông thường, những vị
Lạt Ma Tây Tạng khi còn bé thường kể về
tiền kiếp của mình. Chẳng hạn như vị
Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay có tên là Tenzin Gyatso sinh năm 1935 là
tái sinh của vị
Lạt Ma thứ 13 có tên là Thubten Gyatso sinh năm 1876 và qua đời năm 1933. Mấy lúc
gần đây báo chí thế giới có loan tin về em bé Tenzin Osel Rinpoche sanh năm 1985 trong một
gia đình nghèo ở ngoại ô Madrid, nước Tây Ban Nha. Tuy em mới lên 6 tuổi nhưng đã có
đạo hạnh và
trí tuệ như những vị
đại sư Tây Tạng. Lúc lên 5 tuổi, em có thể
ngồi thiền suốt hai giờ mà không nhúc nhích. Khi em kể qua về
tiền kiếp của mình thì được kiểm chứng và
xác nhận đúng với
tiểu sử của
Lạt Ma Tây Tạng Thubten Yeshe.
Lạt Ma Yeshe di cư đến Mỹ từ năm 1959 và chết ở Los Angeles năm 1984 vì chứng suy tim
trầm trọng đã
đe dọa mạng sống ngài trên mười hai năm trời. Ngài chết ngày 3 tháng 3 năm 1984 và ngày 12 tháng 2 năm 1985 thì một bé trai được sinh ra vào một
gia đình người Tây Ban Nha. Lúc sinh tiền thầy Yeshe đã từng nói ngài có nhiều
nhân duyên với cặp vợ chồng nầy vì họ sống và làm việc tại
trung tâm nhập thất Osel Ling do chính ngài
thành lập ở Tây Ban Nha. Khi được bốn tháng thì em bé đã được thầy Zopa Rinpoche,
đệ tử thầy Yeshe,
công nhận em chính là
tái sinh của thầy mình. Em bé nầy được một
nhà sư Tây Ban Nha
bảo trợ nuôi dạy và cho
xuất gia. Tuy tuổi rất trẻ, nhưng em thuộc rất nhiều kinh Phật, có khả
năng thuyết pháp lưu loát và
cầu nguyện cho những vị
cao tăng. Nhiều người
hy vọng em sẽ
trở thành một
Lạt Ma uyên bác kỳ tuyệt của thế kỷ 21 nầy.
Lạt Ma Yeshe là
tác giả cuốn:”Introduction to Tantra” (Đưa vào
Mật Tông) rất
nổi tiếng.
Câu chuyện khác xảy ra tại hai ngôi làng ở miền nam
Ấn Độ.
Gia đình nọ vừa mới sinh một đứa bé và họ đặt tên là Sanjay. Đứa bé nầy mới lọt lòng mẹ mà đã có dị tật đó là các ngón ở bàn tay mặt bị cụt. Theo sự
chẩn đoán của các y sĩ tại nhà hộ sinh thì đó là dấu vết bẩm sinh. Nhưng đối với
bác sĩ Stevenson thì đây là
trường hợp đáng
lưu ý vì trong
trường hợp của đứa bé nầy thì các ngón ở bàn tay mặt không phải ngắn mà có
hình tướng như bị cắt ngang nên đầu các ngón tay cụt
rút lại giống như vết sẹo. Sau đó đứa bé đã nói với người mẹ một câu làm cho
mọi người vô cùng ngạc nhiên: “bàn tay mặt của con ngày trước đã bị cái máy quay nghiền nát các ngón tay. Lúc đó con ở tại ngôi làng cách xa làng nầy khoảng 8 cây số.
Cha mẹ và anh con lúc đó hiện nay vẫn còn sống.” Thế rồi, đứa bé đòi mẹ dẫn mình tới căn nhà ở ngôi làng đó. Đến nơi họ mới biết
ngày xưa nơi
gia đình nầy có một đứa con trai chết vì bị máy cắt đứt các ngón tay. Về sau, Sanjay kể lại như sau:
Lúc tôi đến thì đang có đám cưới trong làng, anh tôi cũng tới dự. Tôi biết ba má và anh tôi, nhưng họ không biết tôi. Khi họ nghe chuyện tôi nói rằng tôi là con và em trong
gia đình họ thì nhiều người vừa cười vừa nói như đùa:”Này, cháu bé hãy nói đi, tại sao mấy ngón tay cháu lại bị đứt vậy?”. Còn người mẹ
tiền kiếp của tôi thì nói:” Nếu là con của mẹ thì hãy chỉ cho
mọi người cái máy ở đâu? Cái máy đã cắt mấy ngón tay con đó.” Sau đó tôi dẫn
mọi người đi chỉ chỗ cái máy và lúc đó trong khi
mọi người còn
ngạc nhiên thì tôi vẫn
quả quyết tôi chính là con của người mẹ
kiếp trước của tôi đây. Tôi kể tiếp, người cha
tiền kiếp thường uống rượu. Một buổi chiều, ba tôi về nhà và quay máy,
lúc ấy tôi đang loay hoay bên cái máy và rồi bàn tay mặt bị cuốn vào bánh xe. Tôi thét lớn và ba tôi
cố gắng kéo tay tôi ra. Thế rồi các ngón tay đứt lìa. Nghe tôi hét
mọi người chạy lại và họ mang tôi đến bệnh viện. Mẹ tôi vừa khóc vừa bế tôi lên chiếc xe bò…và sau đó tôi thiếp đi…vì đường đến bệnh viện quá xa nên tôi đã chết sau đó.
Cuộc hội ngộ thật là lạ lùng, đứa bé đã thốt lên một câu như người lớn:” Tôi đã chết
một lần và tôi lại sinh ra lần nữa và ở đây”.
Bác sĩ hỏi bà mẹ
tiền kiếp: “Nếu
quả thật cháu bé nầy là con của bà, cho dù là
kiếp trước thì bà tính sao?. Người đàn bà
trả lời:”Dĩ nhiên là tôi
vui vẻ chấp nhận cháu là con tôi. Cháu đã muốn tôi làm mẹ thì tôi
quyết định cháu là con tôi”. Riêng đối với người mẹ mới sinh ra cháu bé thì
tình cảnh thật
vô cùng nan giải. Bà vừa khóc vừa nắm tay đứa bé mà nói:” Con là con của mẹ, Sanjay à”. Thế là sau cùng đứa bé là con chung của hai
gia đình.
Hiện tại đứa bé đã là một thanh niên
mạnh khỏe vui vẻ hòa đồng giữa hai nhà.
Một
trường hợp khác là một cô gái Miến Điện ( nay đã có
gia đình), lúc sinh ra bàn tay mặt có các ngón bị cụt gần sát bàn tay. Đây cũng là một
trường hợp có dấu vết bẩm sinh. Cô ta nhớ lại
tiền kiếp của mình và đây là một
câu chuyện thật lạ lùng.
Tiền kiếp của cô là người đàn ông và người đàn ông nầy đã tạo nhiều
đau khổ cho người vợ khiến người vợ phải tự vận. Vì
quá sức căm hận, bà mẹ vợ đã thuê một tay giết mướn. Tên nầy dùng một thanh kiếm để chém người đàn ông nầy khi ông ta đang đi xe đạp. Lúc đó vì quá sợ, anh vừa đưa tay ra đỡ vừa
kêu cứu: “Trời ơi, đừng giết tôi”. Nhưng tên giêt mướn đã đưa một đường kiếm cắt đứt các ngón tay người đàn ông và đâm chết ông ta.
Bác sĩ Stevenson đã đưa ra bức ảnh trong một buổi
thuyết trình tại
đại học Virginia, Hoa Kỳ cho thấy rõ bàn tay cô gái với các ngón tay bị cụt. Đó chính là
dấu tích còn lại của
kiếp trước của cô,
lúc ấy cô là người đàn ông.
Trong những
trường hợp khác, nếu một người bắt gặp
hình ảnh hay
lời nói ở một giai đoạn
quá khứ mà
chúng ta gọi là
kiếp trước thì nó có
tác dụng mạnh để giúp cho họ đó có khả năng lớn lao mà biết được về
tiền kiếp của mình. Một
trường hợp có thật khác khi một người kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M. Balk đã
nằm mộng và nghe một câu nói văng vẳng bên tai rằng ông ta có một người cha
tiền kiếp hiện đang sống tại
Việt Nam, hãy mau đi tìm gặp cha.
Cuối cùng, viên kỹ sư này đã đến
Việt Nam và đã gặp người cha
tiền kiếp của mình tại ngôi chùa
Hải Đức ở Nha Trang.
Diễn tiến của
câu chuyện có thật này như sau: Nguyên viên kỹ sư Mỹ này
nằm mộng 3 đêm
liên tiếp thấy một người đàn bà mặc áo trắng
đến gần bảo rằng:” Ông có người cha
tiền kiếp hiện đang là một
nhà sư,
trụ trì tại một ngôi chùa ở
Việt Nam. Vậy hãy
tìm cách để gặp cha”. Hai lần
nằm mộng trước, viên kỹ sư Mỹ này không tin vì cứ nghĩ đó chỉ là mộng mị mà thôi. Nhưng lần thứ ba vẫn nằm mơ như thế nên ông ta bắt đầu
ngạc nhiên,
nghi ngờ và
suy nghĩ không hiểu
nguyên nhân nào đã tạo nên
giấc mộng lạ lùng vậy.
Cuối cùng, viên kỹ sư Mỹ
quyết định đi
Việt Nam để
tìm hiểu sự thật về
giấc mộng kỳ quái của mình. Lúc bấy giờ là năm 1958, viên kỹ sư có tên là Frank M. Balk từ Mỹ xin
tham gia vào đoàn
Chí Nguyện của Hoa Kỳ qua giúp đỡ
Việt Nam. Mỗi lần
hoàn tất công tác, được nghỉ ngơi là ông ta tìm đến những ngôi chùa ở
Việt Nam để
tìm hiểu và xem thử có được gặp người cha
tiền kiếp của mình đúng như
giấc mộng đã báo
cho biết không? Một hôm,
tình cờ ông đến một ngôi chùa ở Nha Trang có tên là
Hải Đức vì ngôi chùa này nằm trên một ngọn đồi lớn, rất dễ thấy. Vào chùa và đến trước điện
thờ Phật, ông ta thấy một vị Sư già đang ngồi
tụng kinh trước
bàn thờ Phật. Điểm
đặc biệt là gương mặt của vị sư này lại giống mặt mình như đúc.
Bất giác, viên kỹ sư Mỹ nhẹ nhàng
bước tới bên cạnh
nhà sư và quỳ xuống chờ đợi.
Sau buổi kinh, viên kỹ sư này đã kể lại
giấc mộng kỳ lạ và
ý định muốn đi tìm
sự thật của mình cho vị sư nghe, qua sự thông dịch của nhiều sư trẻ của
Phật học viện. Vị sư già, tức sư
Phước Huệ, nghe xong rất lấy làm
cảm động, vội nắm tay viên kỹ sư Mỹ như đang nắm tay một đứa con
lưu lạc từ
kiếp trước trở về. Cuộc
hội diện ly kỳ nầy đã xảy ra vào đúng 4giờ 30 chiều ngày 27 tháng 4 năm 1958. Sau đó, viên kỹ sư này đã nhận cái
áo tràng tự tay sư
Phước Huệ trao và đứng bên người cha
tiền kiếp để chụp một tấm ảnh kỷ niệm. Điều kỳ lạ mà ai cũng thấy là tuy một trẻ một già, nhưng nét mặt hai người lại giống nhau như hai giọt nước. Bức hình nầy hiện còn được treo thờ tại chùa Bảo Đức, Nha Trang.
Sau cùng, có
câu chuyện sau đây
chứng minh cho
sự kiện đôi khi mỗi người trong
chúng ta lại có
cảm tình với một nơi mà ta
chưa bao giờ tới.
Câu chuyện thật do chính Derek Klinger, một giáo viên người Anh dạy học tại trường trung học ở Waterford kể lại. Lúc ông còn bé thì ông đã có
cảm tình với nước Đức, nhưng ông cũng không hiểu tại sao. Khi lớn lên thì
ý nghĩ ấy càng tăng trong
tâm trí của ông. Thế rồi, nhân
một lần nghỉ hè, ông
quyết định du lịch sang nước Đức,
lúc ấy ông vừa 32 tuổi. Tại Đức, ông đã đi nhiều nơi và điều kỳ lạ là có nơi khi ông đến thì ông có
cảm tưởng như là đã đến đó từ trước. Khi nhìn
cảnh trí nơi ấy thì đối với ông có vẻ rất
quen thuộc. Hôm gần
quay về Anh quốc, ông tìm tới một tiệm đồ cổ với
hy vọng sẽ tìm được vài món quà làm kỷ niệm. Tiệm đồ cổ nầy rất
nổi tiếng ở Munich vì có đủ thứ. Tại đây ông đã
trầm ngâm trước một tấm ảnh chụp rất xưa mà nước thuốc đã ngã sang màu nâu vàng. Tấm ảnh chụp 14 người lính hải quân Đức. Nhưng đối với ông lại
vô cùng kỳ lạ vì làm ông nhớ lại
quá khứ xa xôi
vào khoảng thời gian mà ông là một trong 14 người lính đó.
Dần dần ông nhớ lại tên từng người trong tấm ảnh. Ông đứng ngẩn ngơ nhìn chăm chăm bức hình và ông nhớ lại đó là năm 1942. Ông cùng 13 đồng đội đang ở trong một chiếc tàu ngầm và lúc bấy giờ có một cuộc hải chiến
dữ dội trong vùng. Một chiến hạm Anh đã phóng ngư lôi trúng ngay vào bụng chiếc tàu ngầm làm cho nổ tung khiến ông cùng với 13 đồng đội bị tử thương. Ông Derek vội vã mua ngay tấm hình và tức tốc hỏi nhân viên cảnh sát Đức địa điểm của
văn khố chiến tranh, rồi tìm đến để hỏi về
trường hợp chiếc tàu ngầm. Chuyên
viên văn khố
xác nhận rằng:”Chiếc tàu ngầm này có 14 người. Đó là tàu ngầm chữ U của Đức bị hải quân Anh đánh chìm ở
Bắc Hải và trước khi tàu chìm
trung tâm hành quân thuộc Bộ Hải Quân có nhận điện kêu cứu”. Sau cùng ông nói:” Tôi thấy rõ
hình ảnh lúc đó trong hình. Đó là
hình ảnh của tôi ở
tiền kiếp. Khi đó tôi là quân
nhân Đức, giờ đây tôi là một giáo viên người Anh. Có điều
dễ hiểu là từ nhỏ tôi đã có
cảm tình với nước Đức và trong lần du lịch sang Đức có rất nhiều nơi
tự nhiên tôi thấy rất
quen thuộc. Khi xưa thì tôi có phần
ngạc nhiên, nhưng nay thì tôi đã biết rõ vì sao”.
Vậy
luân hồi tái sinh chính là một kết quả
rõ ràng chứng minh sự
hiện hữu vĩnh hằng của Luật
Nghiệp Báo trên
thế gian nầy.
Hiện nay
vấn đề luân hồi tái sanh không còn
giới hạn trong
lãnh vực tôn giáo mà đang bành trướng dần vào
lãnh vực khoa học. Nhà
bác học Albert Einstein khi được hỏi về
vấn đề nầy đã
trả lời như sau:” Càng ngày
con người càng tin vào
luật nhân quả luân hồi và ngay cả khoa học cũng đang tiến dần vào việc
xác nhận sự kiện nầy là có cơ sở. Riêng tôi, tôi tin vào luật
luân hồi nhân quả.”
Mặc dầu chúng ta thấy khoa học ngày nay tiến rất xa so với
quá khứ, nhưng sự thấu hiểu của khoa học về các nguyên lý
sinh tồn của
vũ trụ vẫn còn quá
giới hạn do đó tất cả sự
khám phá của khoa học vẫn chưa
đủ khả năng để
chứng minh về sự hình thành của luật
Nghiệp Báo, cái mà đã
chi phối tất cả mọi khía cạnh của
đời sống con người cũng như
vũ trụ. Thật vậy, khoa học ngày nay có thể
lần mò quan sát các
hiện tượng hình thức hữu hình của
Nhân quả trong khi
Nhân quả của nghiệp thì vô hình và
ảnh hưởng qua nhiều
kiếp luân hồi nên không thể
quan sát bằng
mắt thường được. Nếu
mọi người đều tin vào
Luật Nhân quả Nghiệp Báo thì
thế giới nầy sẽ
biến thành thiên đàng rực rỡ vì
con người sẽ biết
thương yêu nhau hơn. Cái ác sẽ bị
đẩy lui vì
con người sẽ không bao giờ đi tìm
hạnh phúc cho chính mình một cách
ích kỷ, hẹp hòi và
độc ác mà họ sẽ đi tìm
hạnh phúc bằng cách đem niềm vui và
hạnh phúc đến cho người khác trước.
Luật
Nghiệp Báo sẽ đem lại sự công bình và
tâm bình yên cho tất cả
chúng sinh bởi vì trong
thâm tâm của mỗi người ai cũng
cảm thấy kẻ ác đáng bị
trừng phạt còn người thiện sẽ được tưởng thưởng cho dù
cuộc đời có bất công và
con người luôn
thiên vị.