THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Tôn Giả Đại Ca Diếp, Đệ Nhất Tu Khổ Hạnh(Mahakàsyapa)
Khi
Đức Phật giáng sinh tại vườn
Lâm Tỳ Ni gần kinh
thành Ca Tỳ La Vệ thì tại làng
Ma Ha Sa La Đà cách thủ đô
Vương Xá của nước
Ma Kiệt Đà không xa có một nhà hào phú
trưởng giả dòng
Bà La Môn tên Ni
Câu Lư Đà Kiệt Ba.
Gia đình nầy rất giàu đến nỗi
tài sản của họ có thể tương đương với vua Tân
Bà Sa La lúc bấy giờ và
tôn giả Đại Ca Diếp đã sinh ra trong
gia đình phú hộ nầy. Lúc đản sanh
tôn giả thì có những
điềm lành cũng giống như
điềm lành lúc đản
sanh Phật Đà vậy. Lúc
mẫu thân tôn giả đang dạo chơi trong vườn hoa sau nhà, thì bà
cảm thấy trong người
mệt mỏi nên đến ngồi dưới bóng cây
đại thọ Tát Bạt La (sau nầy gọi là
cây Bồ Đề, có nghĩa là cây
giác ngộ). Và sau đó
tôn giả cất tiếng chào đời. Vì sanh
dưới gốc cây nên
cha mẹ đặt tên cho Ngài là Tát Bạt
La Đà Na.
Đại Ca Diếp tướng mạo xuất phàm không
thua kém 32 tướng tốt của
Đức Phật.
Gia đình đại phú hào mà chỉ có một
quý tử nên sự
nuôi dưỡng thương yêu của
cha mẹ đối với Ngài còn hơn cả những vương tôn công tử thời bấy giờ.
Khi
Đại Ca Diếp lên 8 tuổi thì đã làu thông các giới điều của
Bà La Môn. Sau đó Ngài lại học đến pháp tế lễ,
thi họa, toán thuật,
văn học,
thông suốt bốn kinh
Vệ đà.
Cho đến xem
thiên văn, đoán
âm dương vận số và
âm nhạc ca vũ…Do sức
thông minh, không có môn nào Ngài không
thấu triệt. Nhưng có một điều lạ là ngay từ lúc nhỏ Ngài đã không giống như những trẻ em khác. Đối với
dục lạc thế gian thì Ngài không ưa không thích và
đặc biệt là chuyện
yêu thương trai gái thì Ngài chẳng màng đến, tránh thật xa. Vì thế Ngài thường tìm những nơi
thanh vắng, xa lánh đám đông
ồn ào náo nhiệt, để ở. Ngay cả
cha mẹ khi
xa cách Ngài cũng không nhớ đến. Đây
quả thật là
con người phi thường hiếm có trong
cuộc đời bởi vì sống trong
giàu sang phú quý, kẻ hầu người hạ mà cũng không màng đến. Đây chính là điểm tương đồng giữa Ngài và
Đức Phật.
Người Vợ Không Chung Chăn Gối
Ngày tháng thoi đưa, chẳng mấy lúc mà giờ đây
Đại Ca Diếp đã
trở thành một thanh niên
anh tuấn, phong lưu. Thấy tướng diện khôi ngô của con mình,
cha mẹ Ngài định sẽ tìm một tiểu thư
xinh đẹp để cưới cho Ngài. Khi nghe
ý định đó thì Ngài vội vã từ chối:
- Đó là điều không nên vì con chỉ mong muốn
duy nhất là
tu đạo. Có
vợ con thì sẽ trở ngại cho việc
tu hành.
Từ trong
gia đình phú hộ mà lại là con một thì không khi nào
cha mẹ Ngài
chấp thuận lời nguyện đi tu của Ngài được. Biết là không còn cách nào để
chối từ, Ngài bỗng nghĩ ra một
biện pháp. Số là Ngài mời được một nhà
điêu khắc đến và lấy vàng để đúc thành một pho tượng mỹ nữ,
tuyệt đẹp và
rực rỡ. Khi
hoàn tất thì Ngài đem trình pho tượng cho
cha mẹ mà nói:
-
Cha mẹ nhất định bảo con cưới vợ thì xin chọn cô ấy phải giống
y như tượng vàng nầy bằng không con sẽ
suốt đời không cưới vợ.
Thấy
điều kiện con mình thật khó khăn,
cha mẹ Ngài bèn theo lời của các thầy
Bà La Môn thiết lập một nhà dù thật lớn và để pho tượng vàng trong đó,
thờ cúng như là một
nữ thần. Sau đó cho người đi rao giảng khắp
thiên hạ rằng:
- Các
thiếu nữ có cầu
mong ước nguyện gì hãy đến
cúng dường nữ thần! Các cô sẽ được
toại nguyện như ý.
Cứ như thế các thầy
Bà La Môn đi từ thành
Vương Xá , qua
sông Hằng, lần lần đến
Tỳ Xá Ly. Cách thành nầy không xa có một làng nhỏ tên là
Ca La Tỳ Ca. Trong làng nầy có một
gia đình cũng
nổi danh đại phú. Họ có một cô con gái tên
Diệu Hiền,
thiên tư quốc sắc,
nổi tiếng mỹ nhân, nhưng thường khuê môn bất xuất.Hôm ấy nhằm hội hoa đăng,
nam thanh nữ tú vui chơi dập dìu.
Diệu Hiền được bạn bè rủ đến
chiêm bái pho tượng vàng
thần nữ.
Diệu Hiền có
nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn nên khi đến lễ
nữ thần khiến
lu mờ cả tượng vàng. Các thầy
Bà La Môn thấy vẻ đẹp
kiều diễm của nàng thì rất đổi mừng nên
hỏi thăm về
gia đình nàng và sau đó đến nhà
song thân Diệu Hiền để trình bày
ý muốn kết thân. Bên
song thân của
Diệu Hiền vì từng nghe
danh tiếng giàu có của nhà
Ca Diếp nên rất
hoan hỷ hứa gã con gái.
Thủ tục đính hôn
hoàn thành và chỉ còn chọn
ngày lành tháng tốt để rước dâu. Ngày
hôn lễ,
Diệu Hiền mặc áo gấm, đeo chuổi ngọc trông đẹp như một nàng tiên. Nhưng có điều rất lạ là tân nương tuy có sắc đẹp nghiêng thành nghiêng nước mà gương mặt rất buồn như nặng mang một tâm sự u buồn.
Lễ bái trời đất xong và tiệc vừa tàn thì
Ca Diếp và
Diệu Hiền được đưa vào động phòng. Tuy là đôi vợ chồng mới cưới, nhưng cả hai không có một nụ cười và chẳng ai ngó tới ai. Họ chỉ ngồi nhắm mắt làm thinh, mỗi người một tâm sự
triền miên. Canh một rồi đến canh hai, canh ba, canh tư, canh năm đã qua và trời gần sáng
mà cả hai không
nói một lời nào. Lúc
ánh nắng bình minh xuyên vào phòng thì
Ca Diếp mới mở lời:
- Ta xin hỏi nàng có tâm sự gì chăng?
Diệu Hiền cau mày, ngồi làm thinh.
Ca Diếp than thở:
- Có điều gì xin nàng cứ nói,
chúng ta cùng
thương lượng.
Diệu Hiền lại
ứa nước mắt mà chẳng
trả lời.
Đại Ca Diếp hỏi với vẻ giận:
- Thế này là thế nào? Tại sao nàng khóc?
Ca Diếp hỏi hai ba phen,
Diệu Hiền mới
thở dài đáp nhỏ:
- Chàng
phá hoại chí nguyện của tôi. Tôi
xưa nay rất ghét
ngũ dục nên muốn tu
phạm hạnh thanh tịnh. Chính
cha mẹ tôi bị
mê hoặc bởi sự
giàu sang của chàng khiến nguyện vọng của tôi bị lỡ dở.
Ca Diếp nghe nói rất mừng liền cho
Diệu Hiền biết chính mình cũng rất ghét
ái nhiễm và chỉ muốn tu hạnh
thanh tịnh. Đây thật là
nhân duyên tốt để
chúng ta có thể làm theo
chí nguyện của mình. Khi đã hiểu nhau rồi thì hai người cùng
ước định thi hành nguyện vọng nầy. Họ kê trong phòng hai cái giường, mặc dù trên
danh nghĩa là
phu thê nhưng đây là cặp vợ chồng không chung chăn gối.
Câu chuyện ngủ riêng giường lọt đến tai
cha mẹ Ca Diếp. Hai ông bà bèn vào phòng
xem xét thì thấy hai cái giường kê hai nơi. Ông bà không
hài lòng nên la rầy:
- Hai con là vợ chồng mới cưới mà trong phòng kê riêng hai cái giường
thật không tốt. Ta sẽ gọi người đến dẹp bớt một cái.
Ca Diếp chẳng dám cãi lời, nhưng càng giữ vững
lời hứa thì càng
kiên quyết lập chí nên
Ca Diếp mới nói với
Diệu Hiền:
- Không lo chuyện ấy, còn một cái giường thì
chúng ta thay phiên nhau ngủ. Đầu hôm đến nửa đêm thì nàng ngủ còn ta thì
đi kinh hành tu niệm trong phòng.
Đến gần sáng thì nàng thức, tôi ngủ, còn nàng thì
đi kinh hành hoặc
ngồi thiền.
Diệu Hiền rất bằng lòng với đề nghị đó, nàng nói thêm:
-
Chúng ta cần phải mau mau rời khỏi căn nhà nguy hiểm này, chớ còn
trong vòng ngũ dục thì nơi nào cũng có nguy cơ ẩn nấp,
mê hoặc người trong chốn
đọa lạc.
Ca Diếp an ủi:
- Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng
cha mẹ vẫn còn và tôi lại là con một nên không thể bỏ đi. Nàng hãy
kiên nhẫn. Tôi tin rằng
lý tưởng và
chí nguyện của
chúng ta sẽ có ngày
thực hiện được.
Hai người tuy sống trong chốn
bụi trần mà tâm vui trong
đạo nghiệp thanh tịnh. Họ không hề
xúc phạm nhau và sống
an ổn cho qua ngày tháng. Có một đêm,
Diệu Hiền ngủ trên giường,
Ca Diếp đang
đi kinh hành trong thất thì bỗng có một con
rắn độc màu đen bò ngang giường
Diệu Hiền.
Ca Diếp chú ý nhìn thấy cánh tay
Diệu Hiền buông thỏng xuống giường cách chỗ
rắn độc không xa.
Ca Diếp lo lắng rủi như nàng bị rắn cắn thì làm sao? Trong lúc mườI phần
cấp bách,
Ca Diếp liền dùng chéo áo quấn quanh cánh tay mình rồi mới nhè nhẹ đỡ cánh tay
Diệu Hiền lên trên giường. Đang
ngủ ngon bỗng
bị động,
Diệu Hiền giựt mình choàng tỉnh. Nàng kinh sợ
lật đật ngồi dậy vừa giận vừa bực mà hỏi
Ca Diếp:
- Việc gì xảy ra thế? Có chuyện gì như thế này?
Sau khi nghe
Ca Diếp giải thích, nàng mới
yên lòng và rất
cảm phục chàng. Hai người giữ mức sống
thanh tịnh như vậy
trong suốt 12 năm.
Đời Là
Khổ NãoCó hợp ắt có phân ly và có sanh ắt có tử. Thật vậy luật
vô thường của
thế gian không
bỏ sót một ai cả và
cha mẹ của
Đại Ca Diếp thì cũng không thoát ra khỏi
định luật nầy. Hai ông bà thân sinh của
Ca Diếp lần lượt qua đời.
Một hôm,
Đại Ca Diếp đi thăm ruộng, Ngài thấy đôi bò kéo
nặng nhọc và người nông phu làm việc quá
vất vả. Nhưng khi Ngài nhìn kỹ thì thấy trong ruộng có những loài côn trùng bị đường cày chặt đứt, lớp chết, lớp
bị thương quằn quại thật
thảm thương. Càng nhìn
cảnh tượng ấy thì Ngài càng
chán ngán cho sự sống trên
thế gian. Ngài thầm nghĩ: chỉ vì sự
ăn mặc của ta mà bao nhiêu người và bao nhiêu
thú vật phải chịu trăm điều khổ sở như thế sao? Không kể là người nào, không kể ăn
thức ăn gì, cũng chỉ vài chén cơm. Không kể ngủ cách nào, cũng chỉ cần cái giường 6 tấc. Còn những thứ
cần dùng khác chẳng qua là một sự
lãng phí. Chỉ vì những thứ
lãng phí xa xỉ vô dụng đó mà làm
tổn hại bao nhiêu người và vật cũng như giết hại bao nhiêu
sinh linh như thế. Thật là một điều quá ư bất công và không
hợp lý chút nào.
Còn ở nhà thì
Diệu Hiền sai
gia nhân ép dầu mè nhưng trong dầu mè có nhiều con bọ nhỏ xíu đang cựa quậy lúc nhúc làm cho
gia nhân bàn tán với nhau:
- Ép chết bao nhiêu con vật nhỏ bé thế nầy không biết sau nầy chịu
quả báo đáng sợ thế nào?
Diệu Hiền nghe xong
lập tức bảo họ ngưng ép dầu,
một mình lui vào phòng,
đóng cửa lại để tỉnh tọa
tư duy.
Khi
Đại Ca Diếp trở về nhà thấy
Diệu Hiền với những
sự tình ưu não như
vậy thì chẳng vui chút nào. Hai người ngỏ bày tâm sự và cả hai đều thấy nỗi khổ của
thế gian cũng như
nỗi buồn thảm của
kiếp người.
Đại Ca Diếp bèn nói với
Diệu Hiền:
- Nói gì thì nói, tôi sẽ bỏ ngôi nhà nầy để đi xa tìm thầy
học đạo. Ở nhà thật chẳng khác nào ở chốn lao ngục bởi bao nhiêu thứ
ràng buộc làm
khổ não đủ điều. Ở trong
gia đình tạo nghiệp không có hồi
kết thúc, tôi sẽ ra đi để tìm cho ra chơn lý của
kiếp người.
Tu hành trong chốn rừng núi như là
lui tới trong chốn
hư không, không có chút trở ngại. Tạm thời tôi
đi trước tìm thầy
học đạo, nàng ở nhà đợi khi nào tôi gặp bậc thầy hiền minh, tôi sẽ
trở về dẫn nàng cùng
xuất gia.
Chúng ta sẽ đem hết
tài sản cứu tế cho các người nghèo cùng cơ khổ và phần còn lại thì chia cho các
gia nhân. Nàng hãy đợi,
nhất định tôi sẽ mang lại tin
tốt đẹp lúc
trở về.
Diệu Hiền nghe xong rất kính phục
chí nguyện của
trượng phu cùng cảm kích mối
quan tâm của Ngài. Chuyện
xuất gia tu đạo này vốn là nguyện ước từ lâu của hai vợ chồng nhưng vì còn
cha mẹ mà họ phải
cố gắng chờ đợi qua hơn mười năm. Cung thự nguy nga, tiền bạc đầy kho đầy trắp, ruộng vườn cò bay thẳng cánh mà
Ca Diếp và
Diệu Hiền đều xem đó là
ràng buộc, là cảnh khổ đã cột chặt
con người vào biển
trầm luân. Ngài đã
buông xả hết bằng cách
bố thí toàn bộ tài sản của mình cho kẻ khác. Hôm nay,
Đại Ca Diếp có cơ hội đi
xuất gia tu hành thì tâm tư rất
hoan hỷ mà không thốt nên lời.
Xuất Gia Theo Phật
Lúc bấy giờ
Đại Ca Diếp đã ba mươi tuổi và theo
truyền thuyết thì ngày Ngài rời xa
gia đình đi tìm đạo cũng chính là ngày
Đức Phật ngồi dưới cội
Bồ Đề trên tòa
Kim Cương vào lúc sao mai mọc để thành bậc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đại Ca Diếp đi tìm sư
học đạo khắp nơi, nhưng không vị thầy nào
đáp ứng nguyện vọng của Ngài được. Mãi hai năm sau, trong lúc đang tìm đạo tại nước Uyên Già thì có người cho Ngài biết là
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc
Đại Giác của thời nay và
hiện tại Đức Phật đang thống lãnh những
đạo sĩ nổi danh như
Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên, ba anh em ông
Ma Ha Ca Diếp và cả ngàn
đồ đệ tại
tịnh xá Trúc Lâm của nước
Ma Kiệt Đà.
Đại Ca Diếp nghe tin ấy lòng rất
vui mừng nên
tìm đường đến
Trúc Lâm yết kiến Phật.
Khi đến
Trúc Lâm tịnh xá, Ngài
quyết định không trực tiếp thưa hỏi
Đức Phật mà chỉ mỗi ngày theo tín chúng trong thành đến
nghe pháp. Ngài thầm nghĩ
nếu không phải là Phật thì không tôn bái làm thầy bởi vì
nếu không gặp Phật hoặc không có
tôn sư thì chính Ngài cũng có thể
tu chứng được
quả vị Độc Giác.
Những lời
thuyết pháp vàng ngọc của Phật
cộng thêm đức huệ của
Đức Thế Tôn đã
mở rộng tâm can của Ngài. Một hôm, sau khi nghe
Phật thuyết pháp xong, Ngài
trở về thành Vưong Xá. Gần cổng thành là tháp Đa Tử và cạnh đó có một cây
đại thọ cành lá sum xuê, thì Ngài
bàng hoàng sửng sốt khi thấy
Đức Phật ngồi
tĩnh tọa dưới gốc cây. Thế nầy là thế nào? Ngài tự hỏi. Vì mới lúc nãy thì còn thấy
Đức Phật ngồi trên
bảo tòa pháp vương ở trong
tịnh xá, sao bây giờ lại gặp Ngài ở đây? Càng nhìn càng thấy
Đức Phật tướng mạo oai nghiêm thần tịnh, như một tòa
kim sơn. Ngài quá
xúc động bèn đến
đảnh lễ dưới
chân Phật và
thành khẩn thưa:
- Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc
đại sư của con, xin tiếp độ cho con.
Đại Ca Diếp thọ
quy y và từ nay Ngài là
đệ tử của Phật.
Đức Phật biết
lòng tin của
Ca Diếp đã
chắc chắn liền bảo:
- Này Đại Ca Diếp! Ông
chính thật là
đệ tử của ta. Trên
thế gian nầy như người nào chưa
chứng quả vị
chánh giác thì không dám nhận ông làm
đệ tử. Ông hãy theo ta.
Đức Phật từ từ
đứng dậy đi về
tịnh xá Trúc Lâm và
Đại Ca Diếp thì theo chân Ngài vừa
cung kính vừa
cảm động và vừa mừng đến
rơi lệ.
Đức Phật ngoái đầu lại nhìn
Đại Ca Diếp và nói:
- Ta nghe nói về ông
đã lâu, ta biết thế nào rồi ông cũng đến
cầu đạo với ta. Hôm nay là ngày ông được tiếp độ.
Phật pháp lưu truyền về sau cần ông rất nhiều, vì
chúng sanh và vì chính mình ông nên
trân trọng.
Về đến
tịnh xá Trúc Lâm,
Đức Phật làm lễ thế độ cho
Đại Ca Diếp và nói pháp
Tứ Diệu Đế, thuyết
mười hai nhân duyên. Với
oai đức của
Thế Tôn và với từ âm
thân thiết của Ngài, có thể nói rằng bầu không khí
chứng ngộ đã bao trùm
Đại Ca Diếp. Những lời dạy
quý báu của Phật chẳng khác nào như những đám mưa lớn rơi trên thửa ruộng khô khan cằn cỗi. Chỉ tám ngày sau thì
Đại Ca Diếp khai ngộ trở thành A La Hán.
Cứu Độ Cho Vợ Hiền
Đại Ca Diếp xuất gia theo Phật
mới đây mà đã được một năm và cũng là năm thứ ba kể từ ngày Phật
thành đạo. Sau chín lần
thỉnh cầu của vua
Tịnh Phạn,
Đức Phật nhận lời cùng các
tỳ kheo từ nước
Ma Kiệt Đà ở phương Nam về thăm cố hương. Cùng với các
tỳ kheo trở về kinh
thành Ca Tỳ La Vệ còn có
Đại Ca Diếp. Sau đó
Đức Phật đi lên hướng Bắc để đến
tịnh xá Kỳ Viên (
thiết lập bởi
trưởng giả Cấp Cô độc Tu Đà La) của nước
Xá Vệ. Cũng chính lần về thăm nhà nầy rất nhiều vương tôn công tử
xuất gia theo Phật. Nhờ
nhân duyên nầy sau đó bà
kế mẫu Ma-Ha-Ba-Xa-Ba của Phật
kết hợp với
công chúa Da Du Đà La và rất nhiều mệnh phụ
phu nhân khác để được
xuất gia theo Phật. Từ đó
giáo đoàn tỳ kheo ni được
Đức Phật cho phép thành lập.
Khi đó
Đại Ca Diếp nhớ đến
lời hứa với
Diệu Hiền vì trước đây người nữ không được
xuất gia nên
tôn giả không dám xin với
Đức Phật. Bây giờ đã có
giáo đoàn tỳ kheo ni và chính là lúc
thực hiện lời giao kết với
Diệu Hiền.
Thời gian thắm thoát qua nhanh,
mới đây mà
Đại Ca Diếp rời nhà đi tìm đạo đã được ba bốn năm. Trong ba bốn năm ấy chẳng biết
tình hình của
Diệu Hiền như thế nào?
Tôn giả bèn
an tĩnh nhập định quan sát mới biết
Diệu Hiền đang theo làm
đệ tử một phái
ngoại đạo bên
bờ sông Hằng.
Số là từ khi
tôn giả đi tìm đạo,
Diệu Hiền cũng ở nhà đợi
tin tức, nhưng năm tháng
trôi qua vùn vụt, một năm rồi hai năm mà chẳng thấy
tin tức của
Đại Ca Diếp ở đâu nên nàng mới
quyết định tự
xuất gia chớ không đợi nữa. Chí đã định xong, nàng cho gọi người quản gia đến, bảo đem hết trang sức và
y phục của mình đem
phân chia cho
bà con, làng xóm và
gia nhân. Sau đó nàng đi đến
bờ sông Hằng làm
lễ bái nhóm
ngoại đạo đang
tụ tập tại đây làm thầy.
Làm
đệ tử nhóm
ngoại đạo nầy, nàng phải chịu nhiều sự
lăng nhục vì
dung nhan mỹ lệ của mình.
Đại Ca Diếp biết nàng đang cần sự tiếp độ của mình để truyền lại
chân lý nhiệm mầu của
Đức Thế Tôn hầu giúp cho nàng mau
giác ngộ.
Tôn giả bèn nói chuyện ấy cho một vị
tỳ kheo và
yêu cầu đi đón
Diệu Hiền thay Ngài. Vị
tỳ kheo ấy bằng lòng và chẳng bao lâu đã đưa
Diệu Hiền về đến.
Diệu Hiền gia nhập ni viện không lâu thì
thiên hạ bàn tán xa gần cũng chỉ vì sắc đẹp của nàng. Nàng
cảm thấy rất tủi hỗ,
buồn bực cho số phận hồng nhan
bạc mệnh. Từ đó, nàng không đi ra ngoài
khất thực, cố tâm
xa lìa đại chúng để tránh tiếng
thị phi bất chánh.
Đại Ca Diếp biết chuyện nên Ngài xin phép Phật mỗi ngày chia bớt nửa phần
thức ăn cho
Diệu Hiền. Chuyện ấy lọt vào mắt cô
tỳ kheo ni Thâu Lan Na Đà. Mặc dù là kẻ
tu hành, nhưng cô
nổi tiếng là hay
thị phi bàn tán chuyện
thế gian. Cô nói như
phỉ báng:
- Hai người này nghe nói 12 năm ở nhà không ngủ chung giường mà bây giờ mỗi ngày thấy họ
thân mật chia sớt
thức ăn, tôi đoán thế nào cũng có
tình ý chi đây.
Tôn giả Đại Ca Diếp nghe nói vậy nên từ đó muốn khích lệ cho
Diệu Hiền mà không giúp cơm cho nàng nữa mặc dù trong tâm của vị thánh rỗng rang không có gì
vướng mắc. Thật vậy,
thế gian đầy
thị phi ác độc, một vị thánh
thanh tịnh như
Đại Ca Diếp mà còn người khiêu khích
đồn đãi thật ai nghe qua cũng bất bình.
Qua sự khích lệ ấy,
Diệu Hiền nhận thấy mình phải
tu hành nghiêm túc. Bà suốt đêm không ngủ,
thành tâm sám hối và sau cùng được
khai ngộ. Sau khi chứng được quả
A La hán, bà nói:
- Đoạn trừ mọi
ràng buộc,
hoàn thành tịnh hạnh, việc đáng làm ta đã làm xong.
Về sau Phật khen ngợi bà:
- Trong chúng
tỳ kheo ni, không ai có thể sánh với
tỳ kheo ni Diệu Hiền về mặt
túc mạng thông.
Tôn giả Đại Ca Diếp rất
hoan hỷ. Đối với
ân tình của
thế gian, Ngài xem nó như một
áng mây bay hay một cơn gió thoảng mà thôi.
Xá Lợi Phất Bị
Tham VấnTừ đó
Đại Ca Diếp được người tôn xưng là
thánh giả và
thân danh nổi tiếng trong
tăng đoàn.
Một hôm nọ, lúc
tôn giả và
Xá Lợi Phất đồng tu tại
núi Kỳ Xà Quật, thoạt nhiên có nhiều chúng
ngoại đạo đến
phỏng vấn tôn giả Xá Lợi Phất. Họ đưa ra nhiều câu hỏi như:
Như Lai sau khi
nhập diệt có còn
sanh tử hay không? Hoặc là sau đó không có sanh tử? Hoặc là chẳng phải
sanh tử cũng chẳng phải không sanh tử?
Ngoại đạo dùng lối
tứ cú để hỏi
vấn đề sanh tử của
Đức Phật, mà
tôn giả Xá Lợi Phất đã
trả lời cho họ, nhưng chỉ còn
vấn đề nầy là không thể nói là
Như Lai ở trong
tứ cú nầy. Chúng
ngoại đạo không
vừa lòng về lời
giải đáp của
tôn giả nên họ
mỉa mai:
- Ông không
trả lời được
vấn đề nầy sao dám tự xưng là bậc
thượng thủ của Phật? Nói là
trí tuệ số một mà
lý luận giống như trẻ con.
Ngoại đạo đàm tiếu rồi bỏ đi.
Xá Lợi Phất rời chỗ
tu tập của mình, băng qua đám lá rậm của rừng cây và đến thạch động
tham vấn tôn giả Đại Ca Diếp.
Xá Lợi Phất đem câu hỏi của
ngoại đạo thuật lại cho
Đại Ca Diếp nghe và hỏi:
- Tôn giả! tại sao
Đức Phật chưa từng
giải đáp vấn đề ấy, đối với câu hỏi của
ngoại đạo thì phải nói như thế nào?
Đại Ca Diếp liền
trả lời:
-
Đức Như Lai đã hết sạch
ái chấp,
tâm không còn
phiền não,
vĩnh viễn giải thoát, sự
chứng ngộ của Ngài rộng lớn
sâu xa, không thể dùng
tứ cú của
mê tình mà hỏi, cũng không dùng
ngôn ngữ để đáp. Chỉ vì
vấn đề ấy không nên hỏi nên Ngài
không giải đáp.
Xá Lợi Phất nghe câu
trả lời, thật là
thích thú,
cáo từ và
trở về động mình để
tu tập.
Đối với việc
tu hành của những vị
đại đệ tử của Phật, các vị
thường hay chỉ dạy nhắc nhở nhau, chia sẻ cùng nhau những
kiến thức mới lạ và vấn qua
đáp lại để trao dồi thêm
trí tuệ. Vì thế việc hai vị
tôn giả trao đổi tư tưởng với nhau chẳng có gì là lạ, nhưng đối với
vấn đề khúc mắc như
Xá Lợi Phất nêu ra mà có thể tự mình
giải đáp thì
chứng tỏ sức
tu đạo của
Đại Ca Diếp cao xa đến mức độ nào.
Bà Lão Nghèo Sanh Về
Cõi TrờiMột hôm
Đức Phật và các
đệ tử đang
thuyết pháp ở nước
Xá Vệ trong khi
Đại Ca Diếp thì
giáo hóa tại thành
Vương Xá nước
Ma Kiệt Đà.
Tôn giả thường ra vào thành để
bố thí phước điền. Một đặc thù của
tôn giả khi đi
khất thực là thường tránh đến nhà giàu mà chỉ muốn đến nhà bần cùng
nghèo khổ mà thôi. Ngài nghĩ rằng tất cả
chúng sinh đều đáng thương, nhưng những người
nghèo khổ thì họ phải lo miếng cơm manh áo
hằng ngày nên không có khả năng
bố thí để làm
phước điền cho ngày sau thâu nhận những cái
quả báo phước đức do sự
bố thí của họ. Thật vậy, nước
từ bi do Ngài tưới xuống đã rưới khắp những hạng người nghèo cùng đáng thương trong
xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ.
Trong thành
Vương Xá, có một bà lão rất
nghèo khổ. Bà chẳng những không có
bà con thân thích mà đến nhà cửa cũng không. Sáng sớm, bà đi lang thang từ ngõ đông sang ngõ tây đến khi chiều tối thì ngủ vất vưỡng ở bất cứ xó hẻm nào. Trên mình bà đeo những mảnh là khô chằm vá nhau tạm che thân. Một hôm bà đang bệnh
trầm trọng và nằm quỵ trên gò đất
chờ chết thì
lúc ấy có một
gia nhân của một nhà giàu nọ đem nước cơm đi đổ. Bà lão bị
đói khát hoành hành vội vơ lấy mảnh ngói bể mà hứng lớp nước bầy nhầy để uống cho đỡ đói.
Đại Ca Diếp biết bà lão kia bị bệnh nghèo đeo đẳng. Ngài
đặc biệt đến thăm bà. Từ trước đến giờ chưa có ai hỏi han hoặc
thăm viếng bà cả nên khi thấy
tôn giả đứng
trước mặt thì bà gượng nhỏm dậy nhìn kỹ mà nghĩ: té ra là một vị
tỳ kheo trang nghiêm đang đi
khất thực nhưng không lẽ thầy
tỳ kheo nầy lại nghèo cùng hơn ta? Bà hỏi
tôn giả:
- Thân tôi
nghèo khổ đói khát, không nhà, không cửa, lấy cát đất, gò mã, bụi bờ làm nhà. Ngài xem tôi áo mặc không kín thân. Trong đất nước nầy không ai
nghèo khổ hơn tôi. Trời ơi! Chẳng lẽ trên
thế gian nầy không có người nhơn từ
cúng dường cho
sa môn hay sao?
Ngừng giây lát, bà nói tiếp:
- Vì sao Ngài đến hỏi tôi? Xin Ngài chỉ dạy
phương pháp cứu tôi khỏi cảnh
nghèo đói.
Đại Ca Diếp đáp:
- Trên
thế gian nầy người tôn quý nhất,
nhân từ nhất không ai bằng
Đức Phật, hoặc là những ai được tắm mình trong
giáo lý Phật Đà. Hôm nay tôi muốn
cứu độ cho bà thóat khỏi sự bần cùng, nên mới
đặc biệt đến đây
khất thực. Tôi cũng nghĩ đem tài vật đến giúp bà, nhưng điều đó chỉ giúp bà khỏi khổ
nhất thời, mà sau lại tăng thêm bần cùng nữa. Chi bằng bà hãy
tùy ý đem bất cứ thứ gì bên người mà
bố thí cho tôi, bà sẽ nhờ
công đức đó,
đời sau sẽ được
sang trọng giàu có, hoặc được sanh lên trời để hưởng thọ
sung sướng lâu dài.
Bà lão nghe
tôn giả từ bi thuyết pháp như vậy rất
cảm động nhưng tìm hoài không có chút gì để
bố thí. Bà
rất đỗi bi thương, buồn khóc thưa rằng:
- Thưa thầy
sa môn vĩ đại! Lời chỉ dạy
quý báu của Ngài con
ghi khắc sâu xa trong tâm, nhưng con cũng biết, con là kẻ bần cùng hạ tiện, con chẳng có một chút vật thực nào để
cúng dường Ngài, cũng chẳng có
y phục nào để
bố thí nữa.
Đại Ca Diếp đáp lời:
- Này bà lão! Đã
khởi tâm bố thí thì không phải người nghèo. Người biết hỗ thẹn cũng biết mặc
pháp y. Bà đã có hai món bảo bối hiếm có ấy nên
chắc chắn không còn nghèo. Hãy xem những người
giàu có đầy
tiền của châu báu trên
thế gian nầy mà không biết
bố thí, không biết
hổ thẹn. Đó mới thật là người ngu, là người bần cùng vậy.
Bà lão
nghe lời chỉ dạy,
vui mừng phấn khởi, tâm đầy
hỷ lạc, đầy
hy vọng về tương lai. Bà quên thân mình ô uế bưng chút nước cơm đựng trong mẻ sành đem
cúng dường tôn giả.
Tôn giả Đại Ca Diếp cũng
cung kính tiếp nhận và để cho bà lão khỏi
nghi ngờ,
tôn giả đã uống cạn miếng nước cơm. Bà lão thấy thế
vui mừng vô hạn. Chẳng bao lâu, bà rời bỏ cõi đời và được sanh lên
cõi trời Đạo Lợi và vì do
công đức cúng dường nước cơm mà bà
trở thành một
thiên nữ xinh đẹp. Một hôm,
thiên nữ quan sát phước thiện nghiệp đời trước, nhớ đến ơn sâu của
Đại Ca Diếp nên liền bay xuống
cõi trần dùng
thiên hoa rải
cúng dường tôn giả.
Quan Sát Hoạt Động Của
Tăng đoànMột ngày nọ,
Đức Phật bảo
Đại Ca Diếp đến thành Khoáng Dã để
quan sát tình hình giáo đoàn. Sáng sớm Ngài
đắp y và mang
bình bát vào thành oai nghiêm đi
khất thực.
Đi qua một vài
con đường,
tôn giả phát hiện một chuyện lạ. Mỗi khi thấy
tôn giả đi ngang qua nhà, dân chúng
lập tức đóng cửa lại. Thấy lạ,
tôn giả ra khỏi thành mà vào trong thôn làng mà
khất thực thì cũng gặp cách đối xử như vậy. Ngài bắt đầu có khởi niệm
nghi ngờ vì từ xưa
Phật pháp ở đây rất hưng thịnh thì tại sao dân chúng lại đối với các
tỳ kheo không một chút
tôn kính như vậy?
Ngài bèn đến một nhà một
cư sĩ hiểu biết trong thành để
hỏi thăm:
-
Đức Phật rời khỏi đây không bao lâu, cũng còn các
tỳ kheo ở lại
giáo hóa vì sao
mọi người quên hẳn sự
tôn kính tam bảo? Tại sao các
tỳ kheo đi
khất thực chẳng ai
cúng dường vậy?
Cư sĩ nọ đáp:
- Tôn giả! Từ khi
Đức Thế Tôn đi rồi, mấy năm
trở lại đây, các
tỳ kheo trong thành nầy bày ra nhiều chuyện xây cất. Mỗi người đều tự cất phòng ốc riêng cho mình mà họ nói là
Đức Phật đã
cho phép.
Xưa nay nếu là
kiến tạo giảng đường hay
tịnh xá công cộng để dùng trong việc
hoằng pháp, hoặc
tu tập, thì ai cũng
ủng hộ vì đó là việc công. Nhưng mà bây giờ các
tỳ kheo đều cất nhà để
an nhàn cho thân mình. Các thầy cất cốc, cất am lu bù, đến từng nhà
thí chủ để kêu gọi
cúng dường cửa lớn, cửa nhỏ, cột kèo, gạch ngói và mọi thứ khác…Lâu ngày tín chúng đều
cảm thấy việc
cung ứng nầy không có ngày
chấm dứt, do đó
nhân dân trong thành và ngoài thôn xóm hễ thấy các
tỳ kheo đến liền
lật đật đóng cửa. Ôi! Nói đến việc nầy, chúng con thật là
hổ thẹn với
Đức Phật.
Đại Ca Diếp nghe xong, trong tâm rất khó chịu.
Tôn giả lập tức quay
trở về thành
Vương Xá và đem
câu chuyện trên bạch với
Đức Phật.
Đức Thế Tôn bèn xuống thành Khoáng Dã và
triệu tập hết các
tỳ kheo lại.
Đức Phật dạy:
- Các tỳ kheo!
Chánh pháp của ta
lưu truyền lâu dài đều nhờ sức
thanh tịnh và cao thượng của
tăng đoàn. Người đến mức vô cầu mới thanh cao. Các ông không được
yêu sách chúng sanh quá nhiều,
trái lại các ông phải là người
cống hiến cho
chúng sanh. Các ông đừng để tín chúng chê bai, xa lánh.
Nhiệm vụ quan trọng của các ông là
hoằng pháp độ sanh, chớ không phải là chuyện
lo lắng về chỗ ăn, chỗ ở. Nếu các ông xây cất
giảng đường cho tín chúng, hoặc
thiết lập tịnh xá để tu chung
với nhau chớ không phải xây cất cho riêng mình, thì ta mới
cho phép. Còn làm nhiều
tịnh thất, chùa, am
lẻ tẻ, thì chỉ có một
thiểu số người hưởng thọ
cúng dường, đó là phân tán lực lượng
tăng đoàn. Am nầy tranh với thất kia, ai cũng cho mình là
ngon lành thì sẽ sanh tâm riêng tư,
đố kỵ. Này các tỳ kheo!
Chúng ta xuất gia là phải
giải thoát mọi sự
ràng buộc của
thế gian để cho mình khỏi khổ và
đạt được tâm thanh tịnh. Nếu chính mình không lìa khỏi
phiền não, có nghĩa là
tham sân si mạn còn
dính chặt với chính mình thì làm sao mà độ cho người được.
Tăng đoàn là tấm
gương sáng cho
đại chúng noi theo vì thế nếu
chúng ta không
trong sạch thì việc tự độ và
độ sanh khó mà
thành tựu. Phải
tinh tấn lìa xa
dục vọng nhỏ nhen của mình.
Tu hành là phải
buông xả tất cả bởi vì mọi thứ trên đời nầy đều là tạm bợ,
giả trá mà thôi. Đừng vì lòng
đố kỵ mà quên đi
ý nghĩa của chữ
tu hành.
Đức Phật dạy các
tỳ kheo xong,
trở về thành
Vương Xá chỉ có
tôn giả Đại Ca Diếp ở lại gầy dựng
tín tâm cho dân chúng.
Tôn giả không tính toán cho
đời sống của riêng mình, cho nơi cư trú của mình mà chỉ lo mang niềm vui
Phật pháp cho
mọi người. Đợi cho tất cả đều
tin tưởng và
hiểu biết chơn lý của
Đức Phật xong thì
tôn giả mới rời thành Khoáng Dã để đi
nơi khác.
Lấy cái họa của
giáo đoàn làm cái họa cho mình,
hoàn thành việc đáng làm rồi lui gót, không mong cầu cho mình mà chỉ làm việc vì
Phật pháp. Chính cái
tư cách và
chí nguyện cao cả của bậc thánh thật đáng cho
mọi người khâm phục.
A Nan Tặng
Bình BátVì lòng
chân thành cho
đạo pháp, nên
Đại Ca Diếp rất được
Đức Phật yêu mến. Nhưng trong
giáo đoàn, có nhóm
Lục Quần tỳ kheo cố tình tích chứa
bình bát đủ loại.
Bình bát thời bấy giờ có hai loại là bằng sắt thép hoặc bằng sành. Tùy địa phương sản xuất cho nên chất liệu và
hình dáng mỗi thứ không giống nhau. Đại để thì có: bát thiết, bát nước
Tô Ma, bát của nước Ô Già, bát màu đen, bát nước Ưu Già, bát màu đỏ đủ loại…Nhóm
Lục Quần tỳ kheo thường sưu tầm các thứ
bình bát tốt, đem về tàng trữ trong phòng như là một cửa tiệm đồ gốm.
Mấy ông
tỳ kheo nầy từ sáng đến chiều chẳng lo
tu hành gì cả mà chỉ để hết
tinh thần vào việc chứa bát, ngắm bát. Vì theo giáo luật của
tăng đoàn là
tuyệt đối cấm tích trử
vàng bạc,
y phục, gạo thóc và
tài sản riêng tư cho nên mấy thầy dồn hết hứng thú trong việc thâu chứa đồ cổ. Người
tu hành chân chính chỉ có
tam y,
nhất bát mà thôi. Do đó,
Đức Phật lại
cấm chỉ việc chứa bát dư. Theo chế luật, nếu ai chứa bát dư thì phạm
ni tát kỳ ba dật đề.
Trong lúc Phật sắp
ban hành điều luật nầy,
đại đức A Nan được cúng một cái bát nước
Tô Ma rất quý.
A Nan định đem nó tặng cho
Đại Ca Diếp, nhưng
tôn giả còn bận
du hóa nước ngoài không có mặt trong thành
Xá Vệ. Nếu
y theo giới luật không được chứa bát dư thì
A Nan không thể để lại mà tặng cho
Đại Ca Diếp.
Cuối cùng A Nan chỉ còn cách đem ý ấy mà bạch với Phật.
Phật hỏi:
- Còn mấy ngày nữa
Ca Diếp mới về lại Xá Vệ?
A Nan thưa:
- Bạch Thế Tôn! Khoảng mười ngày
trở lại tôn giả mới về đến.
Đức Phật triệu tập đại chúng, giảng dạy pháp
đầu đà (là
tu khổ hạnh) chơn chánh và khen ngợi
Đại Ca Diếp vâng giữ
hạnh đầu đà mà không sai phạm
mảy may. Ngài dạy
Lục Quần tỳ kheo nên noi theo hạnh của
tôn giả mà
tu tập. Và sau cùng, vì
sự tình A Nan trình bày,
Đức Thế tôn cho phép được chứa bát dư trong mười ngày.
Nhìn vào
sự kiện nầy thì
địa vị của
tôn giả Đại Ca Diếp đối với
tâm tưởng của
Đức Thế Tôn và trong
giáo đoàn rất cao vậy.
Nguyện
Tu Khổ HạnhĐại Ca Diếp là
đệ tử duy nhất của Phật thích tu theo lối
khổ hạnh đầu đà. Cho dù nhiều người
ân cần khuyên Ngài nên chuyển
lối tu để thân được
thanh thản đôi chút, nhưng Ngài
cảm thấy rất
thoải mái mà
tu hành theo lối nầy từ khi còn nhỏ
cho đến lúc
già nua.
Đối với người
tu khổ hạnh đầu đà thì phải giữ đủ mười hạnh:
1)Cần chọn nơi vắng vẻ.
2)Chỉ sống bằng cách
khất thực.
3)Thường ở một chỗ.
4)Ngày ăn một bữa.
5)
Khất thực không chọn lựa.
6)Chỉ có ba y,
bình bát và
tọa cụ.
7)Thường ngồi tu duy.
8)Thường
tịnh tọa chỗ trống.
9)Mặc y
phấn tảo.
10)Thường ở nơi gò mả.
Đối với một nhân vật như
Đại Ca Diếp, không muốn đi
hóa độ chúng sanh, mà chỉ thích ở riêng
một mình và cuộc sống thì quá khắc khổ.
Tâm từ bi của
tôn giả thật
đáng kính phục, nhưng việc
hoằng pháp thì chưa đủ.
Trừ
Đức Thế Tôn, việc
biện luận với
ngoại đạo và
giáo hóa các
tỳ kheo là việc của nhị vị
tôn giả Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên, còn
Đại Ca Diếp chỉ
chuyên tâm tu đạo.
Trong khoảng thời gian đức Thế Tôn còn
tại thế,
Đại Ca Diếp chỉ
thỉnh thoảng thuyết pháp cho hàng
cư sĩ tại gia mà thôi. Nhưng sau khi Phật
nhập diệt,
tôn giả bắt đầu thay thế Phật thống lãnh
đại chúng. Sau bao năm
tu dưỡng trước đây với cuộc sống lặng thinh trầm mặc để giờ nầy phát tiếng ngân lớn
vang dội cả
không gian.
Lúc đầu, hai
tôn giả Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên thường khuyên
Đại Ca Diếp nên
quên mình để
phát tâm Bồ Đề mà ra làm việc
hoằng pháp lợi sanh,
tuyên dương chân lý.
Đại Ca Diếp nhất quyết trả lời:
- Đối với việc
hoằng dương chánh pháp,
giáo hóa chúng sanh, tôi không thể làm được bởi vì tôi không quên tự ngã nên đó không phải là chuyện dễ. Dạy dỗ những bọn người không
tín tâm,
ác độc như thế thì tôi thật chẳng có
dũng khí và
sức lực. Tôi biết chỉ có thể lo tự tu cho mình,
cố gắng bền bĩ trong
lối tu khổ hạnh để mang lại
ảnh hưởng tốt cho lớp
hậu sanh mà muốn
thực hành pháp môn nầy. Còn
nhiệm vụ hoằng pháp lợi sanh lớn lao kia thì phải
hoàn toàn trông cậy vào hai vị.
Hai vị
tôn giả nghe
Đại Ca Diếp nói thế, không hề
thất vọng,
trái lại còn
tán thán:
-
Tôn giả đủ khả năng thành lập pháp tràng, về
phương diện ấy thật cũng rất khó khăn.
Phật pháp có nhiều mặt và mỗi người có thể làm theo
lý tưởng và
chí nguyện của mình.
Đại Ca Diếp không thích
sinh hoạt trong đoàn thể ở
tịnh xá Trúc Lâm hay
tịnh xá Kỳ Viên. Thậm
chí tôn giả không thích hòa vui trong cảnh ấy mà
tôn giả chỉ thích
tịnh tọa nơi đồng trống hay nơi gò mả và vá y ở
dưới gốc cây. Đối với
tôn giả thì đống xương trắng hoặc
mùi hôi của người chết rất hợp cho việc
tu quán vô thường,
thông suốt mọi nỗi khổ, thâm
hiểu ý nghĩa chữ “không” và
đốn ngộ về thuyết
vô ngã.
Đại Ca Diếp không sợ mưa to gió lớn, không kể ngày nắng đêm sương, cho nên mặc dù tuổi đã già mà Ngài luôn luôn ở
dưới gốc cây trong rừng, hoặc nơi phần mộ xương trắng ở đồng hoang. Đối với Ngài thì
tu khổ hạnh đầu đà là sự yên vui, là niềm
hỷ lạc và là
pháp môn duy nhất để giúp Ngài
đạt đến chỗ
giác ngộ.
Đức Phật Chia Nửa Tòa
Niên kỷ của
tôn giả càng ngày càng cao mà đối với việc
tu khổ hạnh đầu đà thì càng lúc càng
tinh tấn.
Một hôm,
Đức Phật không nỡ nhìn thấy
tôn giả tuổi tác quá cao mà cứ sống dãi nắng dầm mưa, ngày đêm phong sương như vậy nên muốn khuyên
tôn giả bớt
khổ hạnh.
Khi ấy bánh xe pháp dừng lại tại
giảng đường Lộc Mẫu thì
Đức Thế Tôn cho gọi
Đại Ca Diếp.
Tôn giả mặc y rách rưới, râu tóc ra dài,
chầm chậm đi đến. Các
tỳ kheo trẻ chưa biết
tôn giả nên khi thấy
hình dáng lôi thôi của Ngài đều
tỏ ý khinh rẻ, thậm chí có người còn định
bước tới ngăn cản không
cho đến gần
Thế Tôn.
Phật biết ý
đại chúng, liền từ xa gọi
tôn giả:
- Đại Ca Diếp! Ông đến đó ư! Ta còn chừa phân nửa tòa.Ở đây, ông hãy mau mau đến ngồi.
Các
tỳ kheo trẻ tuổi nghe Phật nói, thất kinh. Họ không ngờ ông
tỳ kheo già đó là
tôn giả Đại Ca Diếp danh chấn
tông môn.
Tôn giả đảnh lễ Phật xong,
lui lại vài bước và bạch:
- Bạch Thế Tôn! Con là
đệ tử của Ngài, con thật chẳng dám ngồi tòa dành riêng cho
Thế Tôn.
Lúc bấy giờ
Đức Phật nói cho
đại chúng rõ oai lực
vô biên của
Đại Ca Diếp cũng như
công phu tu tập của
tôn giả tương đồng với
Thế Tôn. Nếu đời nay,
tôn giả không gặp Phật thì Ngài cũng có thể
tự giác ngộ và
chứng quả vị
La Hán Độc Giác.
Qua sự việc trên cho thấy
Đức Phật rất
quý trọng tôn giả đến thế nào, thậm chí
đối đãi Ngài như vị
thượng khách cũng như
biểu lộ địa vị trọng yếu của
tôn giả trong
giáo đoàn.
Đức Phật khuyên
tôn giả không nên
tiếp tục tu khổ hạnh, hãy bỏ bớt “y” thô nặng mà nên mặc ” y “ nhẹ của
thí chủ cúng dường để tịnh dưỡng
tuổi già. Cho dù
Đức Phật ủy lạo đến đâu,
tôn giả cũng chẳng thay đổi cách tu.
Tôn giả thưa với Phật:
- Bạch Thế Tôn!
Hạnh đầu đà đối với con chẳng phải là khổ nhọc mà
trái lại rất
an lạc. Con không bị
lo lắng ưu phiền về
thức ăn,
y phục và không màng sự
đắc thất trên
thế gian. Con chỉ
cảm thấy một sự
tự do thanh tịnh mà thôi. Đương nhiên số người
phê bình lối sống của con nặng về tự độ mà không
độ tha, còn như các
tôn giả Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên,
Phú Lâu Na,
Ca Chiên Diên thì thay Phật làm
nhiệm vụ tuyên dương chân lý, không sợ khó khăn, chẳng tiếc tánh mạng,
cổ động bánh xe pháp và
ủng hộ chúng sanh thấm nhuần pháp vị để cùng được
pháp lạc. Về phần con, tuy không đủ nhiệt tình vì người vì pháp, nhưng con không hề quên ơn Phật và cũng vì muốn
báo ơn Phật, con mới
tu học khổ hạnh đầu đà. Vì
chúng sinh cần
cứu độ,
hoàn toàn nương vào sự
hoằng pháp của
tăng đoàn. Các
tỳ kheo có khả năng
tuyên dương Phật pháp là những bậc
pháp sư của
tín đồ cũng
cần phải kiện toàn tự thân cho chính mình thì mới có thể
đảm đương công tác cao quý nầy. Còn bổn phận của
tăng đoàn có được kiện toàn hay không?
Dĩ nhiên là họ phải
tuân theo sinh hoạt nghiêm túc của
tăng đoàn để
bồi dưỡng đức hạnh cho chính mình. Môn
khổ hạnh đầu đà trong
Phật pháp cũng là một
phương pháp sinh hoạt nghiêm túc. Một khi đã quen được
lối sống ấy thì mới có thể
kiềm chế nổi khắc khổ, tăng thêm tính nhẫn nại và chịu sống
đạm bạc để
nhất tâm nhất đức vì pháp và vì
chúng sinh. Bạch Thế Tôn! Con vì muốn trực tiếp
củng cố tăng đoàn và
gián tiếp làm
lợi ích cho
chúng sinh nên luôn luôn nguyện không xả bỏ
khổ hạnh, xin
Thế Tôn lượng thứ cho
tính cách chấp trước của
đệ tử.
Phật nghe xong, rất
hoan hỷ. Ngài nhìn
Đại Ca Diếp rồi lại nhìn các
đệ tử rồi nói:
- Rất tốt!
Tỳ kheo các ông có
nghe lời trưởng lão Đại Ca Diếp vừa nói không? Tương lai
chánh pháp của ta
bị hủy diệt, không phải do
thiên ma ngoại đạo phá hoại, mà vì sự hủy hoại tan nát của
tăng đoàn.
Đại Ca Diếp nói rất đúng, muốn
hoằng dương Phật pháp để ánh sáng
chân lý mãi mãi chiếu sáng trên
thế gian, điều
trước tiên là phải
củng cố tăng đoàn. Mà muốn
củng cố tăng đoàn thì tất cả
tăng chúng phải
sinh hoạt nghiêm túc. Chỉ có người như
Đại Ca Diếp mới có thể
phụ trách chủ trì
chánh pháp của ta.
Phật lại tiếp:
- Này Đại Ca Diếp! Ông cứ
tiến tu đạo nghiệp, ta không ép ông. Ông cứ tu theo
ý nguyện của mình. Khi nào muốn gặp ta thì cứ
tùy thời mà đến.
Đức Phật và
Đại Ca Diếp tuy hai mà tâm là một,
vì vậy thầy trò rất
thông cảm nhau.
Đức Phật tiếp đãi Đại Ca Diếp như
thượng khách và như bằng hữu. Nhưng
tôn giả không hề quên
lễ nghĩa mà dùng
tư cách thầy trò để
đáp lại khiến cho mối tương giao
sư đệ càng thêm
thâm sâu và nồng hậu.
Mỗi khi nghe đến
Đức Phật,
Bồ Tát hay các vị
A La Hán thì
chúng ta đều tưởng tượng rằng các vị ấy
lạnh lùng nghiêm nghị như cây khô, đá lạnh và đối với
thế gian chẳng chút tình cảm nào. Nhưng thật ra các vị ấy đã
biến đổi nhân tình
tạp nhiễm thành một thứ tình cảm
tự nhiên cao thượng mà
chúng ta gọi là
từ bi.
Hạt giống từ bi nẩy mầm từ cây
trí tuệ có sức hút mãnh liệt khiến
chúng sanh có cơ hội
gần gủi tiếp nhận được nhân cách cao thượng ấm áp ấy để
sửa đổi tập khí của mình.
Nơi chốn rừng sâu xanh thẳm của
Ấn Độ có
cây Sa La trổ hoa bát ngát vào những ngày
nóng bức của
mùa hạ và với những đêm trăng sáng trải vàng trên vòm lá xanh,
Đại Ca Diếp đã
tu tập năm nầy qua tháng nọ ở nơi
thanh tịnh vắng vẻ mà cái phong tư cao cả của bậc thánh vẫn còn
phảng phất đâu đây.
Nhận “Y” “Bát” Của Phật
Thời gian thắm thoát qua nhanh và
sắc thân tứ đại của
Đức Phật cũng theo luật
vô thường mà
biến đổi. Vào năm 80 tuổi và sau 49 năm
truyền đạo Ngài báo tin sẽ
nhập diệt trong vòng ba tháng.
Cùng năm đó,
trước tiên là
Mục Kiền Liên tuẫn nạn, sau đến là
Xá Lợi Phất về quê mà
nhập diệt do đó khắp
mọi nơi trong
tăng đoàn phảng phất vẻ
đau thương sầu thảm.
Hiện tại trong
tăng đoàn mà những người có thể
thừa kế Đức Thế Tôn thì không còn là bao nhiêu.
Đại Ca Diếp thì
già nua còn lớp trẻ thì không ai sánh kịp với
A Nan mặc dù ông chưa chứng được
thánh quả. Vì sự
lưu truyền chánh pháp và
lãnh đạo tăng đoàn,
Đức Thế Tôn đã sớm chú ý chọn người
tiếp nối. Riêng
tôn giả Đại Ca Diếp, khi ở trên
hội Linh Sơn đã được
Đức Thế Tôn ngầm trao
chánh pháp nhãn tạng:”
Niêm hoa vi tiếu” là điểm tích tối sơ của
Thiền Tông. Số là ở trong
hội Linh Sơn, Phật cầm cành
hoa sen đưa lên mà tất cả
đại chúng đều ngơ ngác không biết
ý nghĩa là gì, duy chỉ có Ngài
Đại Ca Diếp thì
đắc ý chúm chím cười. Vì thế mới có câu:”Niêm hoa vi tiếu”.
Phật sau đó nhìn
Đại Ca Diếp dạy rằng:
- Ta có
chánh Pháp nhãn tạng,
Niết Bàn diệu tâm,
pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập
văn tự,
ngoại giáo lý truyền riêng. Nay ta
giao phó cho ông. Ông khéo
giữ gìn chánh Pháp nầy để truyền lại
mãi mãi cho những
đời sau.
Đây chính là
di huấn của
Đức Thế Tôn cho vị tổ
thiền tông đầu tiên của
Phật giáo và sau đó
tôn giả A Nan là vị Tổ
thiền tông thứ hai. Còn Tổ
Bồ Đề Đạt Ma, người mà đã đem
thiền tông đến
Trung quốc vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch là Tổ thứ 28.
Khi
Đức Phật nhập diệt ở thành
Câu Thi Na,
tôn giả Đại Ca Diếp còn đang hướng dẫn 500
tỳ kheo du hóa ở nước Đặc Xoa Na Xòa ở phương Bắc. Sau khi
nghe tin,
tôn giả rất
cảm thương và dắt
toàn bộ tỳ kheo đi suốt ngày đêm về lại thành
Câu Thi Na.
Trên đường đi, có người nước mắt đầm đìa, có người nằm lăn ra đất khóc than
thảm thiết. Nhưng trong chúng
tỳ kheo có ông Bạt
Nan Đà thuộc nhóm
Lục Quần tỳ kheo thì rất
vui vẻ nói rằng:
- Mấy thầy cần gì phải thương cảm như vậy? Phật có
nhập diệt thì
chúng ta mới được
tự do. Lão nhân ấy khi còn sống đã
trói buộc chúng ta,
quản lý chúng ta. Ông thường
phàn nàn chúng ta điều nầy không tốt, điều kia không được. Ổng lải nhải đến
bực mình. Bây giờ ổng
nhập diệt rồi,
chúng ta càng nhẹ nhỏm và
thong thả chứ sao?
Không đợi
Đại Ca Diếp quở trách, một
tỳ kheo bước đến định đánh Bạt
Nan Đà,
Đại Ca Diếp vội ngăn lại và dạy rằng:
-
Đức Thế Tôn vừa
nhập diệt,
mọi người mất
nơi nương tựa nên đều buồn thương. Tại sao ông
ngu si cho điều đó là việc mừng? Kỳ thật,
tôn giả phải đập cho y một trận mới được.
Tuy là bậc
đại thánh, nhưng giây phút bấy giờ
tôn giả cũng một phen
vọng tưởng cũng chỉ vì quá kính nhớ đến Đức
từ phụ mà thôi. Càng kính nhớ
đức Phật thì
tôn giả càng đem tấm lòng sắc son của một
trưởng lão mà
lo lắng cho
tiền đồ Phật pháp.
Lúc bấy giờ kim quan của
Đức Thế Tôn an trí tại chùa Thiện Quang. Bao nhiêu
đệ tử vây quanh buồn bã khóc than và chuẩn bị tưới dầu thơm và sắp củi lửa để làm lễ
trà tỳ, nhưng đốt hoài mà không cháy. Mãi đến bảy ngày sau
Đại Ca Diếp mới về đến thì từ trong kim quan
Đức Phật ló hai chân ra.
Tôn giả Đại Ca Diếp trông thấy không cầm được nước mắt, liền
chắp tay đảnh lễ và thưa rằng:
-
Đức Thế Tôn từ bi! Bậc
cứu khổ vĩ đại. Xin Ngài
an tâm chúng con xin
đi theo bước chân của Ngài.
Đại Ca Diếp nói xong,
Đức Phật thâu hai chân vào và
lúc ấy giữa những tiếng khóc than kinh động của chúng
đệ tử,
Đức Phật dùng “
tam muội chân hỏa” tự
trà tỳ kim thân.
Từ đây
trách nhiệm lưu truyền đại pháp sẽ do
tôn giả Đại Ca Diếp đảm đương.
Tam Tạng KinhBốn tháng sau khi
Đức Phật nhập diệt,
Đại Ca Diếp, thay Phật, thống xuất
tăng chúng mở
hội nghị để
kết tập kinh điển.
Ban đầu,
Đại Ca Diếp rất băn khoăn khi phải chọn nơi tốt để
kết hợp đại hội. Nếu tổ chức tại
tịnh xá Trúc Lâm thì không được bởi vì
tịnh xá nầy thì quá lớn nên sau cùng Ngài chọn một thạch động trong rừng nơi phía Đông Nam thành
Vương Xá tên gọi là động
Tất Ba La Diên.
Trong rừng núi tịch mịch và hang động
rộng rãi chính là một cảnh
thoát trần rất xứng đáng để quy tụ
đại hội. Tất cả 500 vị
A La Hán đều suy tôn các vị
Đại Ca Diếp,
A Nan,
A Na Luật,
Ưu Bà Ly và
Phú Lâu Na làm bậc
thượng thủ và
dĩ nhiên tôn giả Đại Ca Diếp được tôn lên làm
chủ tọa. Với
tư cách chủ tọa, Ngài đã luận tội
A Nan trước
đại chúng. Oai nghiêm như
Đức Phật, Ngài
quở trách A Nan không chịu
tu hành nên chưa chứng
thánh quả. Cho dù
A Nan kiêu khí ngất trời, nhưng
trước mặt tôn giả cũng không dám phản kháng mà chỉ một bề
nhận lỗi.
Khi Phật còn
tại thế thì
Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên đã
hoạt động trong và ngoài
giáo đoàn và hai Ngài là hàng
đệ tử thân tín của
Đức Phật trong khi
Đại Ca Diếp thì trầm mặc
tu đạo và những
hoạt động của
tôn giả đều có
giới hạn. Nhưng đến khi
Đức Phật và hai vị
đại đệ tử nhập diệt rồi thì Ngài mới đứng ra đảm nhiệm việc
lãnh đạo giáo đoàn. Điều nầy đủ
chứng tỏ công đức tu dưỡng cao sâu và lòng
độ lượng rộng lớn của Ngài.
Tôn giả Đại Ca Diếp không có
thần thông quảng đại, nhưng với lòng
kiên nhẫn tột bực thì không có
vấn đề khó khăn nào mà Ngài chẳng
giải quyết một cách hài hòa. Ngài đã noi theo gương
Đức Phật mà đem ánh sáng của
chân lý chiếu khắp
mọi nơi cũng như dùng đèn
trí tuệ để
quét sạch mọi
u minh,
phiền não và đưa
chúng sinh cùng đến chỗ
giác ngộ như Ngài.
Sang ngày
kết tập thứ nhì,
A Nan là vị
đệ tử có thể nhớ đến 84,000
bài kinh nên được đề cử
đọc Kinh tạng và
Ưu Bà Ly là vị
đệ tử thông suốt và nghiêm
trì giới luật nên được đọc
Luật tạng. Còn Ngài
Phú Lâu Na là vị
đệ tử giỏi về
thuyết pháp nên được đề cử đọc
Luận tạng. Ba vị thì đọc còn tất cả các vị
A La Hán thì nghe và nếu câu nào không đúng với lời
Đức Thế Tôn dạy thì phải sửa lại cho đúng.
Đại hội kết hợp lần thứ nhất nầy cũng được
xem như là
đại hội kết tập pháp thân Xá Lợi của Phật.
Ngày nay
chúng ta được
thừa hưởng cam lộ pháp thủy của
Đức Phật và
chúng ta có cả một kho tàng
kinh điển rộng lớn
mênh mông là do
lòng từ bi vô lượng và
trí tuệ vô song của
tôn giả Đại Ca Diếp mà ra.
Long Hoa Tam HộiMới ngày nào mà
Đức Phật nhập diệt đã trên hai mươi năm. Càng nghĩ,
Đại Ca Diếp càng nhớ lại ân sâu như trời biển của
Đức Thế Tôn đã vì
đời sau mà
lưu truyền đại pháp. Lúc bấy giờ
Đại Ca Diếp đã ngoài trăm tuổi, tuy
trí tuệ sáng suốt nhưng
sắc thân tứ đại thì mỏi mòn theo năm tháng. Ngài biết không còn bao lâu nữa thì sẽ
nhập diệt nên
cố gắng củng cố tăng đoàn và phú chúc cho người
thừa kế để khỏi phụ lòng của
Đức Phật.
Ngài liền đến nơi
A Nan đang
hoằng pháp,
phó chúc pháp tạng và
yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng lãnh đạo tăng đoàn. Đây là một
trách nhiệm rất quan trọng cho sự hưng thịnh của
Phật giáo ngày sau nên ngoài
A Nan ra không ai có thể
đảm đương nổi.Sau đó Ngài bay lên
hư không đến tám nơi có
tháp thờ Xá Lợi của Phật để
cúng dường lễ bái.
Tôn giả trở về thành
Vương Xá, định đến
cáo từ vua A Xà Thế, nhưng quân hầu bảo nhà vua còn ngủ nên Ngài bèn rời thành đến núi Kê Túc (Kukkut Apada) phía Tây Nam cách thành
Vương Xá độ 8 dặm. Ngọn núi nầy có ba đỉnh cao chót vót có
hình dáng như chân con gà. Phân nửa của ngọn núi trở lên là rừng cây rậm rạp, còn phân nửa của núi trở xuống có thảm cỏ trải dài.
Tôn giả đến núi Kê Túc lên trên triền phía Bắc, theo lối mòn khúc khuỷu
quanh co, rồi đi dần về sườn núi Tây Nam. Ở đây cảnh núi
hiểm trở, có một tảng đá to choán ngay nơi lối mòn.
Tôn giả bèn gõ một
tích trượng,
tự nhiên tảng đá mở ra như bị chém bằng đao. Lối đi được khai thông,
Đại Ca Diếp tiếp tục đi tới, lại lối mòn khúc khuỷu
quanh co dẫn tới đỉnh núi, day mặt về phía Đông Bắc mà
đi vào chỗ ba ngọn núi. Khi đó ba đỉnh núi từ từ tách ra,
mở rộng bên trong thành một nơi
tọa thiền rất đẹp.
Tôn giả liền đưa
áo cà sa của
Phật Đà cất vô đó, lấy cỏ trải tòa mà ngồi và tự nói: “ Hôm nay ta sẽ
dùng sức thần để
giữ gìn nhục thân nầy, dùng y
phấn tảo che phủ lên mình, để đến 67 ức năm sau khi
Đức Di Lặc ra đời sẽ
bái kiến Ngài và trao lại “ y” “bát” của
Đức Phật Thích Ca và giúp Ngài
giáo hóa chúng sanh.” Nói xong, ba ngọn núi từ từ khép lại như cũ để
giữ gìn và giấu kín
tung tích của vị
đại thánh cho đến ngàn đời. Về sau khi
Đức Di Lặc
xuất thế, sau
tam hội Long Hoa thuyết pháp sẽ tìm đến núi Kê Túc và Ngài lấy ngón tay búng vào núi,
tự nhiên ngọn núi tách ra. Bấy giờ
Đại Ca Diếp lấy áo trao cho
Di Lặc và
Phật Di Lặc cung kính xin nhận. Xong việc,
thân thể Đại Ca Diếp bay lên không trung,
hiển thị các loại phép lạ thần biến, rồi
hóa thành ngọn lửa thiêu thân, tiến
nhập Niết Bàn. Ngày nay trên đỉnh núi có một
Phật tháp, chờ đến đêm tối yên tĩnh thì từ xa nhìn thấy
ánh lửa bốc cao, nhưng lên
tới nơi lại chẳng có gì.
Vua A Xà Thế nghe tin tôn giả nhập diệt,
rất đỗi bi thương liến
lập tức đến gặp
tôn giả A Nan để
yêu cầu cùng đi với vua đến núi Kê Túc. Khi hai người vừa đến nơi, ba ngọn núi lại tách ra và cả hai cùng thấy
tôn giả Đại Ca Diếp đang tọa
nhập định trong núi mà trên thân phủ đầy
hoa Mạn Đà La. Nhà vua cùng
A Nan cúng dường lễ bái rồi lui ra. Ba ngọn núi
tự nhiên khép lại.
Hai người ngoảnh nhìn lại ngọn núi Kê Túc xanh tươi
tịch tịnh mà 67 ức năm sau,
tôn giả Đại Ca Diếp đã
trường kỳ giữ gìn Y, Bát của Phật
Thích Ca cho đến lúc
Di Lặc tôn Phật đến thăm để trao lại
y bát đó cho Ngài.
Chính vì
hiện tượng nầy mà
cổ nhân có câu: “Tinh thần của các bậc vĩ nhân đã hòa cùng tạo hóa và
thâm nhập vào chỗ chí ảo của trời đất mà sinh mạng vẫn
trường tồn với
thời gian vô tận. Từ đó,
chúng ta có thể thấy sinh mạng của
tôn giả đã
vô cùng vô tận và như thế,
giáo pháp của
Đức Thế Tôn nói ra cũng sẽ được
lưu truyền vô cùng vô tận vậy”.
Một đời của
tôn giả xuất thân là con nhà
giàu có mà
kham nhẫn tu khổ hạnh đầu đà, được
niêm hoa vi tiếu trên
hội Linh Sơn để nối tiếp
chánh pháp và nhiếp giữ
đại pháp của Phật đến hơn trăm tuổi. Đây
chính thật là một vĩ nhân và rất xứng đáng cho
chúng ta noi theo mà
tu tập.